Bước đầu đánh giá mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng - Tỉnh Hải Dương

Tài liệu Bước đầu đánh giá mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng - Tỉnh Hải Dương: ... Ebook Bước đầu đánh giá mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng - Tỉnh Hải Dương

doc125 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Bước đầu đánh giá mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng - Tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o tr­êng ®¹i häc n«ng nghiÖp hµ néi ------------------ nguyÔn v¨n ®Þnh b­íc ®Çu ®¸nh gi¸ møc ®é ¶nh h­ëng cña ®« thÞ ho¸ ®Õn khu vùc n«ng nghiÖp, n«ng th«n huyÖn CÈm giµng – tØnh h¶i d­¬ng LuËn v¨n th¹c sÜ n«ng nghiÖp Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ n«ng nghiÖp M· sè: 60.31.10 Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: pgs.ts. lª h÷u ¶nh Hµ Néi - 2008 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, kÕt qu¶ trong luËn v¨n lµ trung thùc vµ ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt k× c«ng tr×nh nµo kh¸c. T«i xin cam ®oan mäi sù gióp ®ì cho viÖc thùc hiÖn luËn v¨n ®· ®­îc c¶m ¬n vµ c¸c th«ng tin trÝch dÉn ®Òu ®· ®­îc chØ râ nguån gèc. T¸c gi¶ NguyÔn V¨n §Þnh Lêi c¶m ¬n §Ó hoµn thµnh ®­îc luËn v¨n, ngoµi sù cè g¾ng cña b¶n th©n t«i cßn nhËn ®­îc rÊt nhiÒu sù gióp ®ì cña c¸c thÇy, c«, ®ång nghiÖp, b¹n bÌ vµ gia ®×nh. Tr­íc tiªn t«i xin bµy tá lßng c¶m ¬n s©u s¾c tíi c¸c thÇy c« trong Khoa KÕ to¸n vµ Qu¶n trÞ kinh doanh, Khoa Kinh tÕ vµ ph¸t triÓn n«ng th«n, Khoa sau ®¹i häc tr­êng §¹i häc N«ng nghiÖp Hµ Néi, ®Æc biÖt lµ PGS.TS. Lª H÷u ¶nh, ng­êi ®· tËn t×nh h­íng dÉn vµ dµnh nhiÒu thêi gian quý b¸u gióp t«i hoµn thµnh luËn v¨n. Qua ®©y t«i còng xin bµy tá lßng biÕt ¬n tíi c¸c b¹n häc viªn líp cao häc KT15B, huyÖn CÈm Giµng - tØnh H¶i D­¬ng ®· t¹o mäi ®iÒu kiÖn gióp ®ì t«i trong thêi gian häc vµ lµm luËn v¨n. Qu¸ tr×nh thùc hiÖn ®Ò tµi kh«ng tr¸nh khái thiÕu sãt, rÊt mong tiÕp tôc nhËn ®­îc sù gãp ý cña thÇy c« gi¸o vµ c¸c b¹n ®ång nghiÖp ®Ó ®Ò tµi hoµn thiÖn h¬n. T¸c gi¶ NguyÔn V¨n §Þnh Môc lôc Lêi cam ®oan i Lêi c¶m ¬n ii Môc lôc iii Danh môc ch÷ viÕt t¾t v Danh môc c¸c b¶ng vi Danh môc h×nh viii Danh môc c¸c ch÷ viÕt t¾t vµ kÝ hiÖu BQ : Bình quân CC : Cơ cấu CNH - HĐH : Công nghiệp hoá - hiện đại hoá CN : Công nghiệp CN - TTCN : Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp DT : Diện tích DV : Dịch vụ ĐVT : Đơn vị tính GDP : Tổng sản phẩm quốc dân GTSXBQ : Giá trị sản xuất bình quân HĐBT : Hội đồng Bộ trưởng HTX : Hợp tác xã KCN : Khu công nghiệp KD - DV : Kinh doanh - dịch vụ KHHGĐ : Kế hoạch hoá gia đình NĐ - CP : Nghị định - Chính phủ LĐ : Lao động NQ/BCT : Nghị quyết / Bộ chính trị NQ/TW : Nghị quyết /Trung ương NTTS : Nuôi trồng thuỷ sản N - L - TS : Nông - Lâm - Thuỷ sản NN : Nông nghiệp QĐ : Quyết định QĐ - TTg : Quyết định - Thủ tướng SL : Số lượng SXKD & DV : Sản xuất kinh doanh và dịch vụ SXNN : Sản xuất nông nghiệp THĐ : Thu hồi đất TN : Thu nhập UBND : Uỷ ban nhân dân VH : Văn hóa V/V : Về việc XD : Xây dựng XĐGN : Xoá đói giảm nghèo XHCN : Xã hội chủ nghĩa SX : Sản xuất Danh môc c¸c b¶ng STT Tªn b¶ng Trang 3.1. Hiện trạng sử dụng đất của huyện Cẩm Giàng 39 3.2. Tình hình dân số và lao động của huyện Cẩm Giàng 2000-2007 41 3.3. Kết quả sản xuất kinh doanh của huyện Cẩm Giàng qua các năm 2005-2007 46 3.4. Tổng hợp số mẫu điều tra đại diện cho huyện 48 4.1. Khung giá đền bù các loại đất ở huyện Cẩm Giàng 52 4.2. Cơ cấu giá trị sản xuất các ngành huyện Cẩm Giàng 2000 - 2007 54 4.3. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo khu vực 55 4.4. Dân số trung bình của huyện Cẩm Giàng giai đoạn 1997- 2007 56 4.5. Cơ cấu dân số thành thị, nông thôn 56 4.6. Cơ cấu nguồn lao động của huyện Cẩm Giàng giai đoạn 1997- 2007 57 4.7. Khó khăn tìm việc làm của người lao động ở vùng đô thị hoá huyện Cẩm Giàng 60 4.8. Biến động diện tích đất nông nghiệp các xã và thị trấn huyện Cẩm Giàng 68 4.9. Biến động đất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản ở huyện Cẩm Giàng 69 4.10. Giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản huyện Cẩm Giàng 71 4.11. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp huyện Cẩm Giàng 71 4.12. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp của 3 khu vực 73 4.13. Tình hình cơ bản của các hộ điều tra năm 2008 76 4.14. Tình hình đất nông nghiệp của các nhóm hộ điều tra 78 4.15. Kết quả sản xuất kinh doanh của hộ điều tra 80 4.16. Thời gian làm việc của lao động trong các nhóm điều tra trước và sau khi thu hồi đất 82 4.17. Tình hình sử dụng vốn đền bù của Nhà nước của các hộ điều tra 85 4.18. Dự kiến đất đai, dân số của huyện Cẩm Giàng đến năm 2010 88 4.19. Dự kiến cơ cấu kinh tế huyện Cẩm Giàng đến năm 2010 90 Danh môc c¸c hép, biÓu ®å STT Tªn hép Trang 4.1. Chuyện làng không ruộng 59 4.2 Sử dụng tiền đền bù đất canh tác 62 4.3 Bỏ hoang bao "Tấc vàng" 63 4.4 Phát triển mạnh công nghiệp, còn sản xuất nông nghiệp sẽ phát triển theo hướng nào? 72 1. MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đô thị hoá đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh ở Việt Nam. Có thể nói đô thị hoá là quá trình tất yếu trong phát triển kinh tế - xã hội, và đó là xu thế tích cực tạo nên động lực mới cho nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, quá trình đô thị hoá đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Vấn đề tạo việc làm cho nông dân bị mất đất, phương thức đền bù khi giải phóng mặt bằng, cách thức di dân, dãn dân... đang phát sinh ngày càng phức tạp. Nếu không có một chiến lược cụ thể, chúng ta sẽ gặp nhiều vướng mắc và sẽ lúng túng trong quá trình giải quyết những vướng mắc đó. Huyện Cẩm Giàng nằm ở phía Tây của thành phố Hải Dương, trên trục đường Quốc lộ 5 là đường giao thông huyết mạch nối với các thành phố lớn là thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Quảng Ninh - vùng có tốc độ đô thị hoá mạnh. Trong những năm gần đây, theo quy hoạch của tỉnh rất nhiều xã thuộc huyện Cẩm Giàng nằm trong diện phải chuyển đổi diện tích đất nông nghiệp thành các khu công nghiệp. Chỉ trong 5 năm (2001-2006) huyện Cẩm Giàng đã xây dựng mới 3 khu công nghiệp lớn là khu công nghiệp Đại An với diện tích 640,82 ha; khu công nghiệp Tân Trường với diện tích 200 ha và khu công nghiệp Phúc Điền với diện tích 87 ha, ngoài khu công nghiệp ra còn khoảng gần 500 ha đất dành cho các khu, cụm công nghiệp của các doanh nghiệp đầu tư trong nước và của nước ngoài [14]. Vì nhường đất cho đô thị hoá mà huyện Cẩm Giàng đã bị thu hẹp đất nông nghiệp. Quá trình đô thị hoá tạo nhiều cơ hội việc làm mới, phát triển nhiều loại hình dịch vụ nhờ đó nâng cao thu nhập cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và nước ngoài đầu tư, đồng thời nó là sức bật cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, đô thị hoá đã gây ra không ít khó khăn và áp lực lớn cho việc giải quyết các mâu thuẫn trên địa bàn như việc làm của những hộ nông dân bị mất đất; vấn đề đào tạo nghề; việc thay đổi suy nghĩ và cách làm kinh tế mới; việc đền bù đất cho người nông dân và vấn đề xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn trên địa bàn huyện Cẩm Giàng do đô thị hoá mang lại, trước hết phải xác định được mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến huyện đặc biệt là khu vực nông nghiệp nông thôn huyện. Với mục đích đó chúng tôi nghiên cứu đề tài “Bước đầu đánh giá mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng - tỉnh Hải Dương”. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Bước đầu đánh giá mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn nhằm đề xuất một số giải pháp giải quyết những ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể: - Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn cơ bản về đô thị, đô thị hoá và các nhân tố ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá. - Phát hiện các vấn đề phát sinh, những tác động tích cực, vướng mắc để đánh giá trong quá trình đô thị hoá ở khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng. - Đề xuất các giải pháp chủ yếu và kiến nghị một số vấn đề nhằm giải quyết những ảnh hưởng của đô thị hoá đến nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn của đô thị hoá và mức độ ảnh hưởng tới khu vực nông nghiệp, nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng đô thị hoá. Đối tượng nghiên cứu là các hộ nông dân chịu sự tác động của quá trình đô thị hoá huyện Cẩm Giàng. Khu vực I - khu vực đô thị, đại diện cho khu vực này là thị trấn Lai Cách. Khu vực II - khu vực ven hay cận đô thị, đại diện cho khu vực này chọn xã Cẩm Điền. Khu vực III - khu vực nông nghiệp nông thôn (thuần nông), đại diện cho khu vực này chọn xã Tân Trường. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tập trung vào 02 xã và 01 thị trấn là xã Tân Trường, xã Cẩm Điền, và thị trấn Lai Cách là các xã và thị trấn bị thu hồi đất nhiều nhất trong huyện cho quá trình đô thị hoá. - Về thời gian: những số liệu thứ cấp được thu thập từ năm 2000-2007. Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra, phỏng vấn hộ nông dân năm 2008. - Về nội dung nghiên cứu: nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng mà đối tượng nghiên cứu là các hộ nông dân. 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 2.1 Cơ sở lí luận 2.1.1 Các khái niệm cơ bản a. Khái niệm về đô thị Khái niệm về đô thị có thể được nhìn nhận từ nhiều giác độ khác nhau như chức năng kinh tế, quy mô dân số, cơ cấu quy hoạch, quản lý... Nhìn chung các quan điểm đều cho rằng, đô thị có những đặc điểm sau: - Đô thị là nơi tập trung đông dân cư, mật độ dân số đô thị cao hơn bất kỳ một vùng nông thôn nào khác, lao động là phi nông nghiệp sống và làm việc theo kiểu thành thị [3]. - Đô thị là nơi tập trung của các hoạt động kinh tế không trực tiếp coi đất đai là đối tượng lao động; Dân đô thị chủ yếu là lao động phi nông nghiệp bao gồm lao động công nghiệp và thủ công nghiệp; lao động xây dựng cơ bản; lao động trong lĩnh vực giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, tín dụng ngân hàng; lao động trong các ngành thương mại, dịch vụ công, du lịch; lao động trong các cơ quan hành chính, văn hoá xã hội, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và các loại lao động khác ngoài lao động trực tiếp về nông nghiệp [6]. - Đô thị có kiểu kiến trúc quy hoạch hoàn toàn khác với nông thôn. Tại các đô thị, các khu nhà ở và các cơ sở sản xuất nông nghiệp, các công trình văn hoá, khoa học, thương mại... thường được phân bổ theo từng khu, từng dãy theo các trục đường giao thông (được coi là đường phố), có liên kết với nhau chứ không phân tán như ở các vùng nông thôn [6]. - Kết cấu hạ tầng đô thị là yếu tố phản ánh mức độ phát triển và tiện nghi sinh hoạt của người dân đô thị theo lối sống đô thị. Kết cấu hạ tầng đô thị gồm hạ tầng kỹ thuật (như giao thông, điện nước, hệ thống cấp thoát nước, năng lượng, thông tin, xử lý chất thải, vệ sinh môi trường...) và hạ tầng xã hội (như nhà ở, công trình dịch vụ công cộng, y tế, văn hoá, xã hội, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao, công viên cây xanh, giải trí. Ngoài ra, các nước trên thế giới cũng có những quy định riêng để phân biệt đô thị và nông thôn mà chủ yếu là các quy định theo quy mô dân số và các loại hình đô thị. Quan niệm chung ở Việt Nam hiện nay và nhiều quốc gia đều cho rằng đô thị là những điểm dân cư tập trung phần lớn những người dân phi nông nghiệp, sống và làm việc theo kiểu thành thị. Việc xác định quy mô dân cư tối thiểu phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế - xã hội của từng quốc gia và tỷ lệ phần trăm lao động phi nông nghiệp của một đô thị. Tại Việt Nam, theo phân cấp quản lý, đô thị là các thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập. Quyết định số 132/QĐ - HĐBT ngày 5 tháng 5 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cũng đã quy định đô thị là các điểm dân cư có các yếu tố cơ bản sau: - Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ nhất định. - Quy mô dân số nhỏ nhất là 4000 người (vùng núi có thể thấp hơn). - Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp ≥ 60% tổng số lao động, là nơi có sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hoá phát triển. - Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật các các công trình công cộng phục vụ dân cư thành thị. - Mật độ dân cư được xác định tuỳ theo từng loại đô thị và phù hợp với đặc điểm từng vùng. Ngoài ra, Thông tư liên tịch số 02/2002/TTLT-BXD-BTC- BCP ngày 8 tháng 3 năm 2002 của Liên bộ Xây dựng và Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ cũng quy định: đối với khu vực nội thị (nội thành phố, nội thị xã, thị trấn), tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; kết cấu hạ tầng phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế quy hoạch, xây dựng quy định cho từng loại đô thị; quy mô dân số ít nhất là 4.000 người và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km2. Như vậy, đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của vùng lãnh thổ gồm nhiều tỉnh, một tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong huyện. Các đô thị được coi là trung tâm tổng hợp khi chúng có vai trò chức năng nhiều mặt về hành chính, kinh tế, chính trị, an ninh – quốc phòng, văn hoá, xã hội; các đô thị được coi là trung tâm chuyên ngành nếu có một chức năng nào đó nổi trội hơn so với các chức năng khác và giữ vai trò quyết định tính chất của đô thị đó như đô thị công nghiệp, đô thị cảng, đô thị du lịch, đô thị đầu mối giao thông... Việc xác định một đô thị là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành phải căn cứ vào vị trí của đô thị đó trong một vùng lãnh thổ nhất định. b. Khái niệm về đô thị hoá Có nhiều quan điểm về khái niệm đô thị hoá: Trên quan điểm một vùng, đô thị hoá là một quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị. Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hoá là một quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các đô thị hiện có theo chiều sâu. Đô thị hoá là sự quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô thị của các nhóm dân cư. Khi kết thúc thời kỳ quá độ thì các điều kiện tác động đến đô thị hoá cũng thay đổi và xã hội sẽ phát triển trong các điều kiện mới mà biểu hiện tập trung là sự thay đổi cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động. * Đô thị hoá nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật. Là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho nông thôn (cách sống, hình thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt...), thực chất đó là tăng trưởng đô thị theo xu hướng bền vững. *Đô thị hoá ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của thành phố do kết quả phát triển công nghiệp, và kết cấu hạ tầng... tạo ra các cụm đô thị, liên đô thị... góp phần đẩy nhanh đô thị hoá nông thôn. *Đô thị hoá giả tạo là sự phát triển thành phố do tăng quá mức dân cư đô thị và do dân cư từ các vùng khác đến, đặc biệt là từ nông thôn... dẫn đến tình trạng thất nghiệp, thiếu nhà ở, ô nhiễm môi trường, giảm chất lượng cuộc sống... Đô thị hoá gắn liền với sự biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của đô thị và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ... do vậy đô thị hoá gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tóm lại, theo chúng tôi đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số[1]. 2.1.2 Vai trò của đô thị và đô thị hoá trong qúa trình phát triển kinh tế - xã hội a. Tác động tích cực của đô thị và quá trình đô thị hoá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Sự phát triển đô thị kích thích tăng trưởng và phát triển của các lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế thông qua quá trình phân bố lại các cơ sở kinh tế, lan truyền tiến bộ công nghệ, văn hoá, xã hội. Với sự phát triển của hệ thống các đô thị, ở nhiều nước đã từng bước hình thành được những vùng lãnh thổ phát triển không chỉ đảm nhận chức năng động lực thúc đẩy sự phát triển toàn bộ kinh tế - xã hội mà còn đảm nhận chức năng hợp tác và hội nhập quốc tế, vừa đảm nhận vai trò tiếp nhận thông tin, các thành tựu về phát triển khoa học, kinh tế, văn hoá của thế giới rồi lan rộng ra các vùng xung quanh. Vai trò và tác động tích cực của phát triển đô thị được thể hiện trong Hình 2.1. Phát triển đô thị Phát triển và phân bố các ngành công nghiệp mới Cung cấp kết cấu hạ tầng tốt hơn cho sản xuất và đời sống Tạo ra các ngoại ứng tới các hoạt động kinh tế Tăng việc làm và dân số trong vùng Phát triển các ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu đầu đầu vào của công nghiệp Nâng cao trình độ của lao động công nghiệp Tăng nguồn thu cho ngân sách Thu hút thêm vốn đầu tư và sự phân bổ các DN mới Nâng cao phúc lợi xã hội cho các vùng Mở rộng quy mô phát triển các ngành dịch vụ đáp ứng nhu cầu SX và đời sống Hình 2.1 Vai trò và tác động tích cực của phát triển đô thị - Các đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ của nền kinh tế và nguồn thu cho ngân sách quốc gia. - Với quy mô sản xuất, diện tích, dân số lớn và không ngừng gia tăng, sự tập trung lớn các năng lực sản xuất, các đô thị cũng có khả năng cung cấp một khối lượng đáng kể các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ với chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. - Các đô thị lớn thực sự là các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, thương mại của các vùng và cả nước, là những “đầu tàu” trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là hợp tác và giao lưu Quốc tế. - Các đô thị có ưu thế về nhân lực được đào tạo chất lượng cao, có khả năng nhanh chóng tiếp cận trình độ công nghệ tiên tiến, luôn đi đầu trong việc triển khai; trên cơ sở đó tạo ra các công nghệ và trang thiết bị hiện đại không chỉ phục vụ cho sự phát triển của bản thân đô thị mà còn đáp ứng cho nhu cầu của các vùng lãnh thổ khác trên toàn quốc. - Với những ưu thế và hệ thống kết cấu hạ tầng so với các lãnh thổ khác, các đô thị từng bước đảm bảo sự tiếp cận nhanh chóng, kịp thời các nguồn thông tin, đặc biệt là thông tin kinh tế, thông tin về thị trường... - Sự phát triển của các đô thị góp phần nâng cao năng suất và chất lượng lao động cho toàn bộ nền kinh tế. - Với lợi thế về lực lượng và tiềm lực khoa học kỹ thuật góp phần từng bước nâng cao chất lượng nguồn lao động cho nền kinh tế. - Sự phát triển của các đô thị cũng được đánh giá là tạo điều kiện để bổ sung nguồn vốn đầu tư cho sự phát triển của các vùng nông thôn, vùng kém phát triển thông qua việc cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức từ các thành phố lớn chuyển vốn đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp, du lịch, văn hoá... tại các vùng kém phát triển [6]. b. Những mặt hạn chế của quá trình đô thị hoá Bên cạnh những mặt tích cực, tạo điều kiện thuận lợi đối với sản xuất và đời sống con người, quá trình đô thị hoá cũng có những mặt hạn chế đó là: - Mở rộng diện tích đất đô thị và thu hẹp diện tích đất nông nghiệp. Một bộ phận nông dân bị mất đất canh tác, mất tư liệu sản xuất chủ yếu, thiếu 3hoặc mất việc làm, đời sống gặp nhiều khó khăn. - Hình thành nhanh chóng các điểm dân cư đô thị lớn, thậm chí cực lớn, gây mất cân đối trong sự phát triển hệ thống dân cư. Những hộ nông dân bị thu hồi đất do phát triển công nghiệp và xây dựng các công trình công cộng di cư từ nông thôn ra thành thị tìm việc làm. - Gia tăng các tệ nạn xã hội và làm tăng ô nhiễm môi trường mất cân bằng sinh thái. Tài nguyên đất bị khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, làm giảm diện tích cây xanh và mặt nước, gây ra ngập úng; Tăng cường khai thác nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất, dịch vụ v.v…làm suy thoái tài nguyên nước; gia tăng các chất thải rắn, lỏng, khí từ sinh hoạt và sản xuất, dịch vụ; nhiều nhà máy, xí nghiệp gây ô nhiễm mô trường lớn v.v… - Thay đổi các tập quán, lối sống, phương thức kiếm sống là kết quả tất yếu của quá trình đô thị hoá. Sự thay đổi đó cùng với sự gia tăng số lượng dân cư và các hình thức quần cư, gia tăng các nhu cầu y tế, giáo dục, giải trí... góp phần làm cho phân hoá giàu nghèo diễn ra nhanh chóng; tỷ lệ thất nghiệp và các vấn đề xã hội khác (trộm cắp, nghiện hút, mại dâm...) cũng gia tăng. - Thay đổi hình thái kiến trúc. Tại các vùng nông thôn các nhà mái ngói truyền thống đang được thay dần bằng các nhà kiểu thành thị. 2.1.3 Hình thái biểu hiện mức độ đô thị hoá Theo các nhà kinh tế học đô thị, địa lý học và xã hội học đô thị thì có hai hình thức biểu hiện của đô thị hoá. Một là, đô thị hoá theo chiều rộng. Là hình thức đô thị hoá trong đó quá trình đô thị hoá diễn ra tại các khu vực trước đây không phải là đô thị. Đó cũng chính là quá trình mở rộng quy mô diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô thị mới, các quận, phường mới. Với hình thức này, dân số và diện tích đô thị không ngừng gia tăng, các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp và các hoạt động của kinh tế đô thị không ngừng mở rộng; các hoạt động sản xuất kinh doanh và điểm dân cư ngày càng tập trung. Sự hình thành các khu đô thị mới được tạo ra trên cơ sở phát triển các khu công nghiệp và trung tâm công nghiệp thương mại, dịch vụ ở vùng nông thôn và ngoại ô là xu hướng tất yếu của sự phát triển, là nhân tố mở đường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đô thị hoá theo chiều rộng là hình thức phổ biến hiện nay ở các nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp hoá. Hai là, đô thị hoá theo chiều sâu. Là quá trình hiện đại hoá và nâng cao trình độ của các đô thị hiện có. Mật độ dân số có thể tiếp tục tăng cao, phương thức các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, thực lực khoa học kỹ thuật, công nghệ ngày càng tăng cường; hiệu quả kinh tế ngày càng được cải thiện và nâng cao. Đô thị hoá theo chiều sâu là quá trình thường xuyên và là yêu cầu tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển. Quá trình đó đòi hỏi các nhà quản lý đô thị và các thành phần kinh tế trên địa bàn đô thị thường xuyên vận động và phải biết điều tiết, tận dụng tối đa những tiềm năng sẵn có và hoạt động có hiệu quả trên cơ sở hiện đại hoá trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội đô thị [6]. 2.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá - Nhân tố tự nhiên: trong thời kỳ kinh tế chưa phát triển mạnh mẽ thì đô thị hoá phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Những vùng có khí hậu thời tiết tốt, có nhiều khoáng sản, giao thông thuận lợi và những lợi thế khác sẽ thu hút dân cư mạnh hơn và do đó sẽ được đô thị hoá sớm hơn, quy mô lớn hơn. Ngược lại những vùng khác sẽ đô thị hoá chậm hơn, quy mô nhỏ hơn. Từ đó dẫn đến sự phát triển không đồng đều hệ thống đô thị giữa các vùng. - Nhân tố kinh tế - xã hội: mỗi phương thức sản xuất sẽ có một hình thái đô thị tương ứng và do đó quá trình đô thị hoá cũng có đặc trưng riêng của nó. Kinh tế thị trường đã mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là điều kiện để công nghiệp hoá và hiện đại hoá, là tiền đề cho đô thị hoá. Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra với tốc độ cao, biểu hiện cụ thể là mở rộng quy mô đô thị theo mô hình phát triển từng phần theo một quy hoạch thống nhất; việc làm ở đô thị được tăng thêm đáng kể, tuy nhiên tốc độ tăng việc làm còn chưa phù hợp với tốc độ tăng dân số đô thị, chất lượng sống của người dân đô thị chưa cao, rất nhiều vấn đề của đô thị được đặt ra và chưa có giải pháp hữu hiệu... các nhà quản lý đô thị đang phải đối đầu với vấn đề quản lý kinh tế - xã hội ở đô thị. - Văn hoá dân tộc: mỗi dân tộc có một nền văn hoá riêng của mình và nền văn hoá đó có ảnh hưởng đến tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội... nói chung và hình thái đô thị nói riêng. - Trình độ phát triển kinh tế: phát triển kinh tế là yếu tố có tính quyết định trong quá trình đô thị hoá. Bởi vì nói đến kinh tế là nói đến vấn đề tài chính. Để xây dựng, nâng cấp hay cải tạo đô thị đòi hỏi nguồn tài chính lớn. Nguồn đó có thể từ trong nước hay từ nước ngoài. Trình độ phát triển kinh tế thể hiện trên nhiều phương diện: quy mô, tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu ngành của nền kinh tế, sự phát triển các thành phần kinh tế, luật pháp kinh tế, trình độ hoàn thiện của cơ sở hạ tầng, trình độ văn hoá giáo dục của dân cư, mức sống dân cư. - Tình hình chính trị: ở Việt Nam từ sau 1975, tốc độ đô thị hoá ngày càng cao, các khu đô thị mới mọc lên nhanh chóng. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, với các chính sách mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì đô thị hoá đã tạo ra sự phát triển kinh tế vượt bậc [1]. 2.1.5 Một số chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ liên quan đến quá trình đô thị hoá Ngày 23 tháng 1 năm 1998 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 10/1998/QĐ - TTg về việc phê duyệt định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020. Xây dựng các khu đô thị mới thực chất là quá trình đô thị hoá và là từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị cả nước, có cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và kỹ thuật hiện đại, môi trường đô thị trong sạch, được phân bố và phát triển hợp lý trên địa bàn cả nước, đảm bảo cho mỗi đô thị, theo vị trí và chức năng của mình, phát huy được đầy đủ các thế mạnh góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc. Đô thị hoá liên quan trực tiếp đến nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, văn hoá, phong tục tập quán, lối sống của toàn xã hội, từng cộng đồng và cá nhân. Nhận thức vấn đề này, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách giải quyết những vấn đề cơ bản khu vực nông thôn trong quá trình đô thị hoá. Hội nghị Ban chấp hành TW 5 (khoá IX) ngày 18/3/2002 đã đưa ra Nghị quyết về nông nghiệp, nông thôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và vấn đề việc làm cho nông dân. Đó là Nghị quyết số 13 NQ/ TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Nghị quyết số 14 NQ/TW về đẩy mạnh CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010. Chính phủ đã ban hành một số chính sách hỗ trợ người lao động như Nghị định số 22/1998/NĐ – CP ngày 24/4/1998 quy định nông dân khi thu hồi đất nông nghiệp được hỗ trợ trực tiếp kinh phí dạy nghề để chuyển nghề; Chính phủ đã có Nghị quyết số 09/2000/NQ – CP về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 126/1998/QĐ - TTg ngày 11/7/1998 về phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia về việc làm đến năm 2000; Quyết định số 032/2000/QĐ - TTg ngày 24/11/2000 về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn; Quyết định số 143/2001/QĐ - TTg ngày 27/9/2001 về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (thay thế Nghị định 22/1998/NĐ – CP). Mới đây là Quyết định số 81/2005/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn. Nội dung cơ bản của chính sách trên là: - Hướng vào tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động, đất đai khu vực nông nghiệp, nông thôn, tạo động lực mới cho nông dân phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm, nhất là trong kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, làng nghề, doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn; - Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại kinh tế theo hướng CNH – HĐH và hội nhập; - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, sức cạnh tranh của lao động nông thôn; - Tạo việc làm đầy đủ cho lao động nông thôn, nông dân, nhất là vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nâng cao giá trị việc làm cho lao động nông thôn. Các chính sách này đã góp phần quan trọng, tạo thế chủ động, tích cực để giải quyết vấn đề thu nhập, đời sống và việc làm cho lao động nông thôn nói chung, cho lao động khi bị thu hồi đất nói riêng. 2.2 Thực tiễn đô thị hoá trên thế giới và ở Việt Nam 2.2.1 Kinh nghiệm đô thị hoá ở một số nước trên thế giới * Đô thị hoá ở Hồng Kông [6]. Ở Hồng Kông, từ đầu thế kỷ XX, quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ, chính quyền ở vùng lãnh thổ này đã thực hiện một số chính sách quản lý đất đai như sau: - Bán “Những thay đổi về hồ sơ” (tức là bán quyền phát triển thêm) cho tư nhân. Điều này giống như điều khoản về thay đổi hồ sơ để bán quyền phát triển thêm cho chủ đất hiện hành, như đã mô tả trong tài liệu của Hồng Kông và Cửu Long. - Đất tự nguyện bán cho Chính phủ để sử dụng cho công trình công cộng: Ngay trước năm 1900, Chính quyền Hồng Kông đã rất cần mua đất tư để phục vụ cho các nhu cầu công cộng, bao gồm cả việc xây dựng đường sá, cấp thoát nước, trường học, bệnh viện... Chính sách quản lý đất đai ở vùng đất mới nghiêng về cách mua bằng thương lượng và trả tiền mặt. - Mua bán đất tự nguyện chủ yếu dựa trên cơ sở thương lượng nhưng cũng có cách khác được cộng đồng chấp nhận: a) Đổi đất lấy đất là biện pháp thông dụng: đây là cách lấy đất trống của Chính phủ đền bù cho những phần đất tư nhân bị Chính phủ lấy đi và b) Đổi đất lấy quyền phát triển: trong những trường hợp Chính phủ chỉ lấy một phần tài sản của chủ đất, phần còn lại phải trả lại cho họ kèm theo hồ sơ mới. Trong hồ sơ này có ghi thêm cả quyền xây dựng thêm để đền bù phần đất đã lấy đi. - Bắt buộc bán: vào năm 1900, luật chiếm lại sở hữu đất đai được thiết lập và thực hiện trên toàn lãnh thổ Hồng Kông. Lệnh này cho phép Chính phủ lấy đất theo phương thức “trưng mua” (bắt buộc), và được bồi thường bằng tiền mặt. Trong những năm đầu ở vùng đất mới, phương pháp này ít khi được sử dụng vì người dân chưa quen với cách này. Việc “trưng mua” thường là vấn đề tế nhị vì nếu sử dụng biện pháp này quá rộng rãi thì có thể dẫn đến sự chống đối của dân chúng và có thể gây ra sự trì trệ về tiến độ của công trình. - Quyền trao đổi đất đai: do tốc độ đô thị hoá nhanh dẫn đến sự đòi hỏi phải có những vùng đất rộng lớn để phát triển đô thị, nhu cầu mua đất tư ngày càng trở nên cấp thiết nên quyền này được đưa ra là cần thiết, theo đó: nếu người chủ đất không muốn lấy tiền mặt khi phải bán đất cho Chính phủ thì có thể nhận giấy “Chứng chỉ về quyền trao đổi đất đai”. Giấy này đảm bảo rằng trong tương lai khi có đất đô thị được đưa ra bán cho tư nhân thì người đó sẽ được mua theo cách đấu thầu ưu đãi chứ không phải mua theo cách đấu giá. Giấy chứng nhận đó cũng được quyền bán lại cho người khác theo giá trị thị trường nếu người có giấy không mua đất theo hệ thống đấu thầu. - Thực hiện chính sách kiểm soát thực hiện quy hoạch và phát triển. Ngoài ra còn có 2 công cụ để kiểm soát quy hoạch đó là: “Quy hoạch vùng sử dụng đất” và “Bộ luật xây dựng”. - Đánh giá giá trị đất đai hợp lý: ở Hồng Kông, những mảnh đất mới bán lần đầu s._.ẽ được định giá bằng cách bán đấu giá. Như vậy giá đất là do thị trường quy định. Đối với những người có nhu cầu xây cao thêm hoặc mở rộng những ngôi nhà sẵn có vượt quá hợp đồng đất đai cho phép thì phải đóng thêm một khoản tiền nhất định do Hội đồng các viên chức định giá của Chính phủ quyết định dựa trên những công thức có sẵn đã được phê chuẩn. Người chủ đất có thể đưa ra sự đánh giá của mình để Hội đồng đó tham khảo. * Đô thị hoá ở Ấn Độ [6]. Là một nước đông dân cư đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Trung Quốc, năm 2000 dân số của Ấn Độ đã vượt qua ngưỡng 1 tỷ người và kéo theo nó là nhu cầu nhà ở cũng rất cao. Ở một số thành phố lớn, vấn đề nhà ở càng trở nên nổi cộm. Do vậy, việc phát triển nhà để đáp ứng nhu cầu nhà ở Ấn Độ nói chung và nhà ở các đô thị nói riêng trong quá trình đô thị hoá đã được Chính phủ Ấn Độ rất quan tâm. Chương trình phát triển nhà ở để đáp ứng cho nhu cầu đô thị hoá của Ấn Độ được chia theo các kế hoạch 5 năm: - Kế hoạch lần thứ nhất (1951 - 1956), Ấn Độ chủ trương xây dựng các văn phòng, nhà ở cho các nhân viên Chính phủ và các công chức Nhà nước. - Kế hoạch lần thứ hai (1956 - 1961), Phạm vi của chương trình nhà ở cho người nghèo được mở rộng trong phạm vi cho tất cả công nhân. - Kế hoạch lần thứ ba (1961 - 1966) vạch ra định hướng chung cho chương trình nhà ở cho nhóm dân cư có thu nhập thấp. - Kế hoạch lần thứ tư, Sự phát triển đô thị cân đối được coi là ưu tiên hàng đầu trong (1969 - 1974). - Kế hoạch lần thứ năm (1974 - 1979), kế hoạch trước về phát triển các đô thị nhỏ ở các trung tâm đô thị mới để giảm sức ép dân số lên các thành phố lớn trong quá trình đô thị hoá. - Kế hoạch lần thứ sáu (1980 - 1985) là những chính sách kết hợp giữa dịch vụ với nhà ở, đặc biệt nhà cho người nghèo. - Kế hoạch lần thứ bảy (1985 - 1990) giao trách nhiệm về xây dựng nhà cho khu vực tư nhân. Chính phủ có vai trò hỗ trợ cho những người nghèo giúp họ tăng thêm thu nhập; giải phóng mặt bằng và tăng cường đất đai và dịch vụ cho nhân dân. * Đô thị hoá ở Seoul – Hàn Quốc [6]. Trong vòng hơn 40 năm qua (1953 - 2001), Hàn Quốc thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá, làm nên "Sự thần kỳ kinh tế trên sông Hàn". Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đã tạo điều kiện cho sự hình thành các khu đô thị, thành phố mới. Tốc độ đô thị hoá tại các thành phố lớn ở Hàn Quốc rất cao, là kết quả của việc phát triển nhanh chóng các khu công nghiệp, các tổ hợp nhà máy lớn ở Seoul và các thành phố lớn khác. Seoul, thủ đô Hàn Quốc là thành phố đông dân cư thứ tư trên thế giới, với 10,97 triệu dân. Dân số riêng Seoul chiếm 1/4 dân số Hàn Quốc, trong khi đó diện tích Seoul là 605,3 km2, chỉ chiếm 0,6% diện tích Hàn Quốc. Mật độ dân số cao (trên 18.000 người/ km2) là vấn đề xã hội nhức nhối của Seoul, đòi hỏi phải có chính sách phát triển và quy hoạch phù hợp. Hiện tại, do sản xuất phát triển nên vẫn tồn tại khuynh hướng nông thôn di cư mạnh ra các khu vực đô thị thuộc Seoul để kiếm việc làm và có cuộc sống đô thị, làm mật độ dân số tại thủ đô Seoul ngày càng cao. Để đối phó với việc gia tăng dân số gây nên sự mất cân đối và gia tăng áp lực cung ứng các nhu cầu xã hội, từ đầu những năm 1970, Chính phủ Hàn Quốc và chính quyền thành phố Seoul đã thực hiện với một số biện pháp như: lập kế hoạch phát triển nhân lực dài hạn nhằm phân tán dân đến các tỉnh; lập vành đai xanh (Green Belt) để ngăn chặn quá trình phát triển tự nhiên các khu đô thị và dân cư; thành lập Uỷ ban Quy hoạch và phát triển đô thị (trực thuộc chính quyền thành phố) nhằm lập quy hoạch và chỉ đạo xây dựng các khu công nghiệp tập trung và khu dân cư (các thành phố vệ tinh) xung quanh Seoul để đưa người lao động cùng gia đình họ đến nhằm giảm mật độ tập trung dân số trong nội thành; vận động và thực hiện kế hoạch hoá gia đình nhằm giảm tỷ lệ tăng dân số hàng năm... Từ năm 1971, Chính phủ Hàn Quốc đặt trọng tâm quản lý đô thị ở Seoul vào việc ngăn không để dân số và diện tích đô thị tăng một cách tự nhiên và đã quyết định thành lập một vành đai xanh bao quanh thủ đô, có diện tích khoảng 160 km2. Trong phạm vi vành đai xanh, Chính phủ không cho phép xây dựng các cơ sở công nghiệp và các khu đô thị. Thực tế ở khu vực vành đai xanh, chỉ có các hoạt động dịch vụ và sản xuất nông nghiệp. Từ đó cho đến nay, diện tích của Seoul cơ bản không tăng, giữ ở mức 605,3 km2. Đồng thời với việc lập vành đai xanh, Chính phủ Hàn Quốc đã quy hoạch và xây dựng tổng cộng 16 khu công nghiệp và dân cư mới (các thành phố vệ tinh) xung quanh thủ đô. Mỗi thành phố vệ tinh có khoảng cách tới trung tâm Seoul khoảng 10 - 45 km. Mục đích xây dựng các thành phố vệ tinh là nhằm thực hiện công nghiệp hoá, giảm các áp lực tăng dân số ở khu Seoul cũ. Mỗi thành phố vệ tinh được xây dựng đều là khu đô thị mới, cung cấp chỗ ở và các tiện nghi sinh hoạt có liên quan cho khoảng 350 nghìn đến 460 nghìn dân; hoặc là khu công nghiệp tập trung với các nhà máy lọc dầu, hoá chất... Là các nhà máy có thể gây ô nhiễm môi trường trong quá trình xây dựng và hình thành các thành phố vệ tinh, Chính phủ Hàn Quốc luôn đóng vai trò chủ đạo, làm chủ đầu tư. Hai thành phố vệ tinh đầu tiên được xây dựng năm 1960 là khu công nghiệp hoá dầu Ulsan và khu dân cư Seong Nam. Tiếp theo, vào đầu năm 1970, với chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và hoá chất, Chính phủ Hàn Quốc đã cho xây dựng một số tổ hợp công nghiệp lớn, có các khu dân đi theo như Chang won, Yeocheon và Kumi, đến cuối năm 1970 là thành phố vệ tinh Ascal. Cùng với việc xây dựng các thành phố vệ tinh này, Chính phủ Hàn Quốc đã dời các nhà máy thuộc hai lĩnh vực kể trên cùng toàn bộ lao động và gia đình của họ ra khỏi nội thành, giảm được mật độ dân số và giải quyết được nạn ô nhiễm môi trường có thể có bên trong thủ đô. Cùng với nỗ lực di chuyển các xí nghiệp công nghiệp ra khỏi thủ đô, Chính phủ Hàn Quốc cũng thực hiện việc di chuyển trụ sở một số cơ quan chính phủ, trường đại học và các viện nghiên cứu ra khỏi thủ đô Seoul, thành phố khoa học Kwacheon đã được đưa vào sử dụng năm 1978 với mục đích như vậy. Trong thời kỳ 1970 - 1980, dân số tại các thành phố lớn ở Hàn Quốc, đặc biệt là Seoul tăng rất nhanh do làn sóng người từ các vùng nông thôn nhập cư vào thành phố. Hiện tượng thiếu nhà ở trở nên nghiêm trọng tại các đô thị, đặc biệt là thủ đô Seoul. Chính phủ Hàn Quốc khi đó đã xây dựng hai khu dân cư lớn - hai thành phố vệ tinh: Sanguedong và Mokdong ở ngoại ô Seoul để giải quyết tình hình trên. Mỗi khu dân cư này có thể cung cấp chỗ ở và các dịch vụ liên quan cho khoảng 250.000 dân. Vào cuối những năm 1980, do hiện tượng giá đất tăng vọt và thiếu đất để xây dựng và phát triển, Chính phủ Hàn Quốc đã quyết định xây dựng các thành phố vệ tinh mới ở xa trung tâm thủ đô Seoul, bên ngoài vành đai xanh. Tháng 4/ 1989, Chính phủ Hàn Quốc công bố kế hoạch xây dựng 5 thành phố vệ tinh: Bundang ở phía nam Seoul, Hasan ở phía tây bắc và 3 thành phố vệ tinh khác là: Pyung Chon, San Bon và Joong Dong ở phía nam Seoul. Năm thành phố vệ tinh này được xây dựng, cung cấp nơi ở và các dịch vụ cần thiết khác cho cuộc sống của khoảng 2 triệu dân, làm giảm các áp lực kinh tế và xã hội do dân số tăng ở thủ đô Seoul một cách đáng kể. Nhờ nỗ lực xây dựng các khu dân cư, khu công nghiệp tập trung, các thành phố vệ tinh ở ngoại ô Seoul, Hàn Quốc đã giữ được thủ đô của mình là một trong các thủ đô đẹp và hiện đại nhất thế giới. * Đô thị hoá ở Nhật Bản [10]. Nhật Bản là một trong những nước có nền kinh tế phát triển nhất thế giới, cũng đã gặt hái được nhiều thành công trong quá trình đô thị hoá, song đồng thời cũng phải đương đầu với rất nhiều vấn đề do quá trính này nảy sinh ra. Vào năm 1945, sau chiến tranh thế kết thúc, dân cư thành thị ở Nhật Bản mới chiếm khoảng 30% dân số, thì vào năm 1985, chỉ riêng ba khu thành phố lớn: Tokyo, Keihshin và Chuyoky với khoảng cách giữa chúng chưa tới 400 km mà chiếm tới gần 50% dân số toàn quốc. Còn hiện nay số cư dân sống ở đô thị của Nhật Bản đã chiếm tới khoảng 80% dân số. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về quy mô, thì số lượng các thành phố cũng tăng. Năm 1957, Nhật Bản mới có 501, thì năm 1987 con số này lên tới 625 thành phố. Về tổng thể, sự phát triển nhanh chóng của các thành phố Nhật Bản theo mô hình gia tăng dân số, hoàn bị và phát triển lại các khu vực đô thị vốn có. Nhưng nhìn chung, sự phát triển này nghiêng về phái thành phố ra đời từ những khu vực trước kia là nông thôn - ở đó sự thâm nhập đô thị vào nông thôn diễn ra một cách nhanh chóng. * Đô thị hoá ở Trung Quốc [10]. Quá trình đô thị hoá ở Trung Quốc chỉ thực sự diễn ra từ khi thành lập Nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa trải qua nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, quá trình đô thị hoá ở đất nước khổng lồ này đang có xu hướng phát triển nhanh chóng và những nét đặc trưng riêng. Quá trình đô thị hoá ở Trung Quốc được chia qua các thời kỳ sau: + Thời kỳ 1949 - 1957: đây là thời kỳ Trung Quốc khôi phục kinh tế và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nền kinh tế Trung Quốc đạt được những thành tựu huy hoàng. Từ năm 1953 đến 1957, nhịp độ tăng trưởng công nghiệp bình quân 18%/năm, giá trị sản lượng công nghiệp chiếm 56,7% trong giá trị sản lượng công - nông nghiệp. Thời kỳ này, việc đô thị hoá sản phẩm song sinh của quá trình công nghiệp hoá cũng có những thành tựu nổi bật. Cuối năm 1957 so với năm 1949, số dân thành phố tăng 84%, đạt 99,49 triệu người, tỷ lệ trong tổng số dân cả nước tăng từ 10,6% lên 15,4%. Đó là kết quả của việc kinh tế phát triển, đời sống nâng nhanh, tỷ lệ sinh đẻ rất cao, tỷ lệ tử vong thấp, lại thêm sự di chuyển lớn dân nông thôn vào thành phố. Đã diễn ra một trào lưu đô thị hoá: số thành phố tăng từ 135 lên 178, trong đó số thành phố lớn tăng từ 13 lên 24, số thành phố cực lớn tăng từ 5 lên 11. + Thời kỳ 1958 - 1965: đây là thời kỳ quá trình công nghiệp hoá của Trung Quốc lên xuống thất thường, dẫn đến sự trồi sụt rõ rệt của quá trình đô thị hoá. Từ năm 1958, Trung Quốc mở chiến dịch “đại nhảy vọt”, chạy theo tốc độ, đổ đầu tư vào xây dựng cơ bản và phát triển công nghiệp nặng ở khắp các địa phương. Theo đó, số lượng đô thị và nhân khẩu đô thị tăng vọt lên. Trong 3 năm 1958-1960, số người mới từ nông thôn đổ vào thành phố lên đến 30 triệu người. Năm 1961, số dân đô thị lên đến 123,71 triệu, chiếm 18,14% số dân cả nước. Đã có đến 339 thành phố, trong đó có 39 thành phố lớn. Đây là thời kỳ các thành phố lớn phát triển nhanh nhất, vượt quá khả năng kinh tế. Do chính sách phiêu lưu duy ý chí, khiến cơ cấu kinh tế mất cân đối sâu sắc. Không bao lâu, sau khi mở hết tốc lực, nền kinh tế Trung Quốc suy sụp nặng nề. Nhà nước buộc phải điều chỉnh, thực hiện chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, giảm quy mô xây dựng, giảm bớt công nhân viên chức, giảm nhân khẩu thành thị. Nhiều công trình bị đình hoãn, hàng loạt người được trả lại nông thôn. Từ năm 1961 đến năm 1964 đã giảm bớt 28,87 triệu công nhân viên chức, đưa trở về quê 26 triệu người. Nhân khẩu thành phố có mức tăng trưởng âm, đến năm 1964 chỉ còn 98,85 triệu người, chiếm 14% tổng số dân cả nước. Lúc này Trung Quốc chủ trương kéo chậm quá trình đô thị hoá, đề ra phương châm phát triển đô thị là “Xây dựng thành phố lớn hiện có, thu hẹp và điều chỉnh các thành phố cực lớn”. Năm 1965 so với năm 1960, số thành phố lớn từ 39 giảm xuống 29, trong đó số thành phố cực lớn giảm từ 15 xuống 13, tỷ lệ dân thành phố lớn trong tổng số dân thành phố trong thời gian đó giảm từ 66,2% xuống còn 58,7%. + Thời kỳ 1966 - 1976: đó là thời kỳ “Cách mạng văn hoá”, có nhiều chính sách sai lầm, kinh tế ốm yếu, trình độ công nghiệp hoá, đô thị hoá kém phát triển, thậm chí bị tổn hại nặng nề. Trong 10 năm đó, theo công bố, sản lượng công nghiệp tăng với nhịp độ hàng năm 6,9%, còn mức dân thành phố hàng năm chỉ tăng 1,3%, tỷ lệ so với dân số cả nước từ 14,6% xuống còn 12,2%. Cơ sở vật chất và điều kiện sống của thành phố mới vô cùng lạc hậu, chất lượng đô thị hoá thấp. Cũng trong 10 năm này, Trung Quốc đưa ra khẩu hiệu “Tích lương thảo, phòng chiến tranh”, đã chuyển một lượng lớn các công nghiệp vùng ven biển vào sâu trong nội địa, làm kinh tế các thành phố lớn ven biển bị tổn thất nặng nề, mà các thành phố nội địa mọc lên đột ngột và gượng ép cũng không được hiệu quả cao trong xây dựng và phát triển. Số thành phố lớn tăng từ 29 lên 40, chủ yếu là thành phố cấp tỉnh và cơ sở công nghiệp sâu trong nội địa, với số dân tăng từ 58,7% lên 63% tổng nhân khẩu thành phố. Riêng số thành phố cực lớn không tăng. + Thời kỳ 1978 đến nay: đây là thời kỳ Trung Quốc đoạn tuyệt với các chính sách quá tải, thực hiện chủ trương cải cách thể chế kinh tế, phát triển kinh tế hàng hoá có kế hoạch và sau đó là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, mở rộng cửa với thế giới bên ngoài. Các thành phần kinh tế đều phát triển với tốc độ cao liên tục. Quá trình đô thị hoá theo đó cũng phát triển với quy mô chưa từng thấy. Đến năm 1995, Trung Quốc đã có 640 thành phố, trong đó có 32 thành phố cực lớn, 43 thành phố lớn, 192 thành phố loại vừa (có số dân trên 20 vạn), 373 thành phố nhỏ (số dân dưới 20 vạn) và 16.992 thị trấn. 2.2.2 Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam được chia ra thành các giai đoạn phát triển như sau: - Trước năm 1954: đô thị Việt Nam đóng vai trò trung tâm hành chính, giao lưu thương mại phục vụ cho sự cai trị của bọn thực dân; sản xuất công nghiệp nhỏ bé. Những thành phố nổi tiếng thời phong kiến: Hà Nội, Phố cổ Hội An, Thành Gia Định. - Thời kỳ 1955 – 1965, quá trình đô thị hoá đã diễn ra hai xu hướng khác nhau: xu hướng đô thị hoá nhằm nâng cao đời sống nông thôn và thành thị kết hợp với công nghiệp hoá và phát triển giáo dục và y tế toàn dân. Đó là thời kỳ 10 năm đô thị hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (1955 – 1965). Ngược lại ở miền Nam Việt Nam đã diễn ra xu hướng đô thị hoá nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của quân đội Mỹ và tầng lớp thị dân trong vùng Mỹ chiếm đóng, lấy mục tiêu quân sự để thiết lập hệ thống phường, xã nội đô, vùng ven và ngoại ô, thi hành chính sách di dân ép buộc trong quá trình đô thị hoá, dùng bom đạn tàn phá nhiều vùng nông thôn để tạo ra áp lực di dân cơ học vào đô thị. Đó là thời kỳ 10 năm đô thị hoá cưỡng bức ở miền Nam Việt Nam. - Từ năm 1965 đến khi đất nước hoàn toàn được giải phóng vào ngày 30/4/1975, chiến tranh đã tàn phá nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, nhiều vùng dân cư... nên trong thời gian đó quá trình đô thị hoá hoàn toàn bị ngừng lại. - Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1985, để phù hợp với tiến trình chung của cả nước, chúng ta đã tiến hành điều chỉnh sự phân bố các khu công nghiệp và dân cư nhằm tạo ra phân bố lại lực lượng sản xuất. Chức năng từng đô thị được xác định nhằm khai thác tiềm năng của từng đô thị. Hệ thống đô thị được hình thành trên khắp cả nước với đủ các loại hình: đô thị công nghiệp, đô thị cảng, đô thị hành chính, đô thị du lịch, đô thị tổng hợp, song quy mô các đô thị còn bé. Trong điều kiện của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, qúa trình đô thị hoá diễn ra chậm chạp, đời sống dân cư đô thị gặp nhiều khó khăn: thiếu điện, thiếu nước, thiếu lương thực. - Giai đoạn 1986 đến nay, Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) đánh dấu một bước khởi đầu phát triển quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từng bước được xác lập thay thế cho mô hình kế hoạch hoá tập trung. Chính sách đổi mới đã tạo điều kiện nhanh chóng giải phóng lực lượng sản xuất; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được thúc đẩy mạnh mẽ nhằm nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng, chậm phát triển. Quá trình đô thị hoá bắt đầu khởi sắc và diễn ra với tốc độ nhanh. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và đô thị hoá không còn là mối quan hệ một chiều như trước (sự phát triển kinh tế dẫn đến đô thị hoá) mà đô thị hoá đã có tác động trở lại quá trình phát triển kinh tế. Ảnh hưởng tích cực của đô thị hoá đến phát triển kinh tế đã được thể hiện rất rõ nét. Năm 1990, cả nước có 461 đô thị, 3 thành phố trực thuộc Trung ương. Đến năm 2002 cả nước đã có 651 đô thị, trong đó có 4 thành phố trực thuộc Trung ương, 82 thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh và 565 thị trấn. Dân số đô thị năm 1990 chỉ khoảng 13 triệu người, chiếm chưa đến 20% tổng dân số thì năm 2002 đạt khoảng 20,2 triệu người, chiếm 25,4% tổng dân số. Tăng dân số đô thị 0,5 triệu người/năm (4,2%/năm). Ở đồng bằng ven biển, năm 1990 bình quân khoảng 900 km2 diện tích tự nhiên có 1 đô thị, đến năm 1998 đạt khoảng 700 km2 có một đô thị. Ở Trung du và miền núi năm 1990 cứ 1200 km2 có 1 đô thị, đến năm 1999 là 1000km2 có 1 đô thị [5]. Đặc biệt từ năm 2000 đến nay, đô thị hoá ở nước ta đã diễn ra với tốc độ nhanh. Tính đến 31/12/2004, cả nước có 25 thành phố trực thuộc tỉnh, 42 quận, 59 thị xã, 536 huyện, 1.181 phường, 583 thị trấn, 9.012 xã. Đến cuối năm 2005, cả nước có 679 đô thị, tăng gấp 1,4 lần so với năm 1990, trong đó có 5 thành phố trực thuộc Trung ương, 87 thành phố trực thuộc tỉnh, 587 thị trấn. Hệ thống đô thị của ta rải đều trên khắp lãnh thổ với đủ các loại hình: đô thị công nghiệp, đô thị cảng, đô thị hành chính, đô thị du lịch, đô thị tổng hợp. Tuy nhiên, nhìn chung quy mô các đô thị còn nhỏ bé, cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập. Theo dự tính của Chính phủ trong Quyết định phê duyệt định hướng quy hoạch đô thị Việt Nam đến năm 2020 (Quyết định số 10 ngày 23/1/1998), dân số đô thị năm 2010 là 30,4 triệu người (chiếm 33% dân số cả nước) và năm 2020 dân số đô thị là 46 triệu người (chiếm 45% dân số chung). Diện tích đô thị từ 0,2% trong tổng diện tích cả nước năm 1998 sẽ tăng lên 0,35% năm 2000, dự tính năm 2010 sẽ là 0,74% và năm 2020 diện tích đô thị cả nước sẽ là 460.000 ha, chiếm 1/4 diện tích tự nhiên cả nước. Dân số chung Việt Nam năm 2020 sẽ là 103 triệu người, dân số đô thị là 46 triệu người (chiếm 45% dân số cả nước), bình quân hàng năm tăng 1,56 triệu người dân cư đô thị [5]. Trên thực tế, hệ thống đô thị Việt Nam vào thời điểm năm 1998 mới có trên 630 đô thị, nhưng đến nay đã có trên 730 đô thị. Như vậy, sau 10 năm tăng thêm 100 đô thị, tức là trung bình 1 năm tăng thêm 10 đô thị, một tháng có một đô thị ra đời. Đây là một sự phát triển vào loại nhanh nhất khu vực và thế giới [8]. Trong quá trình đô thị hoá, xã hội các đô thị luôn luôn chuyển dịch và biến đổi. Từ nay đến năm 2020 có nghĩa là trong vòng 20 năm tới, Việt Nam phải chung sống với các quốc gia trong một môi trường cạnh tranh ác liệt vì sự tiến bộ của xã hội loài người do các mặt phát triển nhanh và tác hại lớn của quá trình toàn cầu hoá tác động. Mục tiêu của Nhà nước ta cho đến năm 2010 hướng tới là sẽ đạt hạ mức giảm lao động nông nghiệp chỉ còn 50% và đến 2020 phấn đấu hạ mức lao động nông nghiệp thấp hơn nữa (các nước công nghiệp phát triển hiện nay có tỷ lệ lao động nông nghiệp từ 2% đến 6% so với dân số chung). Đồng thời Nhà nước ta còn đề ra mục tiêu cho năm 2010 là công nghiệp đạt tới 40 – 41%, dịch vụ 42 – 43% và nông nghiệp khoảng 16 – 17% của tỷ trọng GDP trong toàn quốc [5]. 2.2.3 Những bài học kinh nghiệm ở một số địa phương trong việc giải quyết những ảnh hưởng của đô thị hoá đối với nông nghiệp, nông thôn 2.2.3.1 Kinh nghiệm của thành phố Hồ Chí Minh Trong những năm gần đây, quá trình đô thị hoá theo chiều rộng cũng như theo chiều sâu ở thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra với tốc độ ngày càng cao. Những biến động đột biến về quy mô dân số, về số lượng các Quận nội thành, về diện tích đất đô thị đều diễn ra vào những năm cuối của thập niên 90. Đó là kết quả của sự vận động lâu dài của quá trình đô thị hoá từ những năm trước đó. Đến thời điểm năm 2000, diện tích khu vực nội thành đã tăng thêm 30.000 ha. Số quận nội thành tăng từ 12 lên 17 quận. Dân số nội thành tăng từ 2,918 triệu người lên 4,247 triệu người, tức là đã tăng thêm 1,329 triệu người, hay 45,51%. Trong đó, số người tăng thêm của chính 12 quận cũ là 0,567 triệu người, hay 19,43%; số người tăng thêm của việc chuyển các huyện thành quận là 0,761 triệu người, hay 26,07%. Điều này tạo ra một sức ép rất lớn đối với việc giải quyết việc làm cho người lao động khu vực ngoại thành. Tuy nhiên với sự nỗ lực lớn của thành phố, bằng nhiều chính sách khá đồng bộ đã đạt được những kết quả rất khả quan trong lĩnh vực giải quyết việc làm, cụ thể là: trong năm 2003, thành phố đã giải quyết việc làm cho 213.000 người lao động, riêng các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp tạo ra chỗ làm mới cho 73.600 lao động [7]. Năm 2004, có 222.437 lao động được giải quyết việc làm, trong đó có trên 9.000 doanh nghiệp trong và ngoài nước mới thành lập đã tạo gần 83.000 chỗ việc làm mới cho người lao động. Hiện nay trên địa bàn toàn thành phố có 345 trung tâm dạy nghề, trong đó có 45 trường dạy nghề công lập; 14 trường dạy nghề ngoài công lập và 474 cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ tổ chức các lớp dạy nghề ngắn hạn với năng lực đào tạo mỗi năm 30.000 học sinh công nhân kỹ thuật và trên 200.000 học viên hệ ngắn hạn. Với sự quan tâm đặc biệt của thành phố, số lượng người được dạy nghề đã tăng lên nhanh chóng. Cụ thể: số tuyển mới hệ dài hạn năm 2002 là 23.203 học sinh, năm 2004 là 27.000 học sinh và đến năm 2005 là 29.000 lượt học sinh; số tuyển ngắn hạn năm 2002, 2004 lần lượt là 198.162, 211.295 học sinh, năm 2005 là 290.000 người. Với kết quả trên, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của thành phố tăng nhanh [4]. Cùng với việc mở rộng mạng lưới đào tạo nghề và tăng quy mô tuyển sinh, những năm gần đây hệ thống dạy nghề của thành phố còn có sự chuyển biến mạnh về chất lượng đào tạo thông qua việc nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên và tăng cường các trang thiết bị cho đào tạo Về công tác xuất khẩu lao động: thành phố đã quan tâm đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động thông qua việc khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư về nhân lực, cơ sở vật chất, tập trung quản lý và khai thác thị trường, đặc biệt là thị trường Đài Loan, Malaysia, Hàn quốc, Nhật Bản v.v… Ngoài ra thành phố còn mở ra một số thị trường mới nhiều tiềm năng ở Châu Á, Bắc Mỹ, Liên bang Nga. Về công tác giải quyết đất đai trong quá trình trình đô thị hoá: theo tinh thần Nghị định 22/NĐ - CP, thành phố Hồ Chí Minh không ban hành các văn bản triển khai Nghị định 22, mà tuân thủ theo đúng những gì Nghị định đã quy định. Giá đền bù đất đai mà Nhà nước thu hồi được quy định bằng giá chuyển nhượng đất nông nghiệp thực tế tại thời điểm trên khi dự án được phê duyệt. Tuy nhiên, đa phần các dự án đều được thẩm định giá đền bù thấp hơn giá thị trường 10 - 15%. Mặc dù vậy, các hộ có đất bị thu hồi vẫn tự giác chấp hành, vì bên cạnh mức đền bù thiệt hại về đất, người có đất bị thu hồi còn người được đền bù thiệt hại về tài sản trên đất, trợ cấp đời sống và xã hội cho sự di chuyển chỗ ở và địa điểm kinh doanh, chi phí chuyển đổi nghề nghiệp... Tóm lại, là họ nhận được tổng số tiền cao hơn giá chuyển nhượng thực tế tại địa điểm và thời điểm có đất bị thu hồi. Đây là lý do chính làm cho vấn đề giải phóng mặt bằng ở thành phố Hồ Chí Minh không trở thành vấn đề bức xúc như ở một số địa phương khác. Trong quá trình đô thị hoá, với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai, Sở Tài nguyên - Môi trường và nhà đất thường theo dõi sát sao diễn biến thực tế để chủ động đề xuất với UBND thành phố điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hợp lý ở một số địa điểm. Sự điều chỉnh đó là cần thiết trong công tác quản lý thực hiện quy hoạch. Song điều cần đánh giá cao ở đây là sự chủ động và tính kịp thời trong việc làm của Sở Tài nguyên - Môi trường và nhà đất thành phố Hồ Chí Minh. Điều đó tạo sự thống nhất giữa quy hoạch và thực tiến. Đó là cơ sở để thực hiện quản lý và các biến động về quyền sử dụng, về mục đích sử dụng đất ở các khu vực đô thị hoá, tránh tình trạng để những biến động đó, nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Bên cạnh việc chủ động điều chỉnh một cách hợp lý quy hoạch sử dụng đất, Sở Tài nguyên - Môi trường và nhà đất thành phố Hồ Chí Minh cũng chủ động kiến nghị với UBND thành phố về trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất đồng thời với chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp thành đất phi nông nghiệp. Cách làm này vừa góp phần quan trọng trong việc đưa các sự thay đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp vào trật tự, vừa góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước qua thu thuế chuyển quyền sử dụng đất, qua lệ phí trước bạ theo giá đất phi nông nghiệp. Từ thực tiễn giải quyết vấn đề đất đai của thành phố Hồ Chí Minh, có thể rút ra một số bài học sau đây: Thứ nhất, việc đặt ra các mốc thời gian cho việc xác định khung giá đất nhảy vọt là kẽ hở cho nạn tham nhũng. Do vậy, cần tạo ra một khuôn khổ pháp lý để điều chỉnh giá đất dần dần bám sát sự biến động của giá thị trường. Thứ hai, việc phân biệt đất đô thị, đất nông thôn theo ranh giới hành chính là không hợp lý. Trên thực tế tại một khu vực, với 2 lô đất thuộc 2 đơn vị hành chính khác nhau sẽ khác nhau về thẩm quyền giao đất, khác nhau về quy định giá đất. Thực tế là hai lô này có cùng mặt bằng giá. Do đó, cần có một khuôn khổ pháp lý để định giá đất và quản lý đất cho khu vực đô thị hoá, mà không phụ thuộc vào ranh giới đơn vị hành chính. Thứ ba, về quan điểm của chính sách đền bù khi thu hồi đất, trong đó có hai quan điểm trái ngược nhau: quan điểm thứ nhất cho rằng nên đền bù theo giá thị trường, mua bán sòng phẳng giữa nhà nước và nông dân. Theo đó nông dân cảm thấy thoả đáng và Nhà nước không cần tốn nhiều công sức để lo cho dân về công ăn việc làm, mà tự dân lo liệu. Quan điểm khác cho rằng, có thể đền bù theo giá thấp hơn giá thị trường, và nhà nước sẽ hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho nông dân. Đương nhiên, khi đó, ngoài cơ quan thẩm định giá đất, nhà nước còn cần có cơ quan lo chuyển đổi nghề cho nông dân. Chúng tôi cho rằng quan điểm thứ nhất là hợp lý hơn. Vì rằng, thực tế nhà nước cũng không thể lo chuyển đổi nghề nghiệp cho từng người nông dân. Trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ nên là người tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tự tìm kiếm công ăn việc làm, chứ không thể là người trực tiếp bố trí công ăn việc làm cho từng người lao động cụ thể. Hơn nữa, chính sách dền bù theo quan điểm thứ hai thường làm phức tạp thêm, làm khó khăn cho công tác tính toán về các khoản đền bù. Đa phần nông dân chỉ thắc mắc từng khoản đền bù là thấp, mà không so sánh tổng số tiền họ nhận được với mức giá chuyển nhượng trên thị trường. Một số giải pháp khác: trong những năm qua thành phố đã có nhiều hoạt động thiết thực như tổ chức Hội chợ việc làm, ngày hội nghề nghiệp và việc làm cấp quận, huyện nhằm tạo điều kiện cho người lao động và người sử dụng lao động có cơ hội gặp gỡ trao đổi và tìm kiếm việc làm phù hợp với khả năng của mình. Để phát huy hiệu quả của các nguồn Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm, thành phố đã duy trì và mở rộng các làng nghề truyền thống ở các huyện Củ Chi, Hóc Môn và quân 12; ngoài ra cũng góp phần tạo thêm nhiều khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp trong quá trình đô thị hoá. Các chương trình tín dụng đã ưu đãi, tạo việc làm tại chỗ cho người lao động, nhất là lao động nghèo trên địa bàn thành phố, đã đầu tư 549 dự án với số tiền 76.904 triệu đồng, tạo việc làm mới cho 15.470 lao động; quỹ XĐGN đã đầu tư trực tiếp cho 46.590 hộ nghèo, với số vốn 98.531 triệu đồng. Nguồn vốn này được triển khai tại 599 tổ giảm nghèo, giải quyết việc làm cho 4.119 lao động, đầu tư cho 243 dự án, thu hút 1.742 lao động nghèo có việc làm. Mặc dù còn nhiều hạn chế, tuy nhiên những kết quả trong công tác giải quyết việc làm trong quá trình đô thị hoá của thành phố Hồ Chí Minh là rất đáng khích lệ và học tập. 2.2.3.2 Kinh nghiệm của thành phố Đà Nẵng Năm 1997, Đà Nẵng chính thức trở thành thành phố trực thuộc Trung ương; đến cuối năm 2003 được Chính phủ xếp hạng là đô thị loại 1 cấp Quốc gia. Bên cạnh những kết quả to lớn do quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các khu công nghiệp tập trung, chỉnh trang đô thị đem lại, là tình trạng hàng chục nghìn người thiếu việc làm, một bộ phận lớn lao động nông nghiệp phải chuyển sang ngành nghề khác. Riêng năm 2004, quận Hải Châu huyện Hoà Vang với tổng diện tích đất sản xuất bị thu hồi chuyển mục đích sử dụng là gần 1000 ha. Tổng số hộ phải di dời, giải toả ở các địa phương nói trên là 12.694 hộ, gần 60.000 khẩu, lao động bị mất việc làm là 4.893 người. Qua khảo sát của Sở Lao động – Thương binh xã hội thành phố Đà Nẵng về tình hình việc làm và đời sống của 5.753 hộ với 15.804 lao động (trong đó có 3.537 lao động nông – ngư nghiệp) nằm trong diện tích bị thu hồi đất sản xuất, di dời giải toả giai đoạn 2000 – 2003 có khó khăn về việc làm cho thấy tình trạng việc làm của lao động có các dạng: đã ổn định việc làm chiếm 52,22%, có việc làm không ổn định chiếm 17,07%, không có nhu cầu việc làm 7,03% và chưa có việc làm 23,68%. Trong số lao động chưa có việc làm thì tỷ lệ có nhu cầu học nghề là 45,46%. Về tình trạng việc làm của số lao động nông, lâm, ngư nghiệp có sự thay đổi như sau: giữ nguyên nghề cũ 30,05%, chuyển sang nghề khác 18,94%, có việc làm không ổn định 16,17%, không có việc làm 34,84%. Trong số lao động không có việc làm làm này có 874 người có nhu cầu học nghề chiếm 71%, 358 người không đủ điều kiện học nghề chiếm 29% [6]. Trên cơ sở kết quả điều tra ở trên, ngoài chính sách đền bù, bố trí tái định cư, trong thời gian qua UBND thành phố Đà Nẵng đã chỉ đạo các ngành, địa phương tổ chức các lớp học nghề miễn phí, cho vay vốn để sản xuất kinh doanh từ nguồn vốn vay của Ngân hàng Chính sách xã hội, nguồn quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Tuy nhiên, số lao động không chuyển đổi được ngành nghề còn lớn do văn hoá thấp, không có đất canh tác, không có nghề nghiệp nên rất khó khăn. Để góp phần tháo gỡ vấn đề bức xúc này, thành phố đã chỉ đạo địa phương chủ động nằm danh sách các hộ bị giải toả, di dời cũng như tình trạng việc làm và thu nhập của họ. Qua đó vận động nhân dân vùng nông thôn mua đất lập trang trại, thuê mặt nước để nuôi trồng thuỷ hải sản, hướng dẫn thủ tục vay vốn từ các nguồn quỹ quốc gia giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo; vận động các doanh nghiệp trên địa bàn tiếp nhận lao động trong diện trên vào làm việc, hoặc nhận hàng về gia công tại nhà. Kết quả là phần lớn nông dân bị thu hồi đất đã chuyển hẳn sang các hoạt động ._.ăm 1994). - 100% dân số được dùng nước hợp vệ sinh, trong đó 100% dân số thị trấn được dùng nước máy... - Số hộ dùng điện 100% điện có chất lượng đảm bảo. 4.5.2 Dự báo tình hình phát triển nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng 4.5.2.1 Dự báo về diện tích đất nông nghiệp, dân số và lao động của huyện Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của huyện đến năm 2010 vừa đảm bảo an ninh về lương thực, vừa đáp ứng nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích khác. Trong những năm điều chỉnh quy hoạch, diện tích đất nông nghiệp sẽ bị giảm đi là điều không thể tránh khỏi. Cho nên cần định hướng cho nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp với phương châm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả quỹ đất nông nghiệp, đặc biệt là xây dựng vùng sản xuất cho năng suất cao, chất lượng cao, xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha, cải tạo đất có mặt nước chuyên dùng để chuyển sang mục đích nông nghiệp. Bảng 4.18. Dự kiến đất đai, dân số của huyện Cẩm Giàng đến năm 2010 Chỉ tiêu ĐVT 2008 2010 1. Diện tích đất tự nhiên ha 10.934 10.934 - Trong đó DT đất NN ha 5.992 5.840 2. Dân số trung bình Người 132.059 139.850 - Dân số đô thị Người 20.469 27.271 - Dân số nông thôn Người 111.590 112.580 3. Tổng số lao động Người 85.839 95.098 * LĐ đang làm việc Người 80.156 87.707 - Lao động N - L - TS Người 40.313 31.218 - Lao động CN - TTCN Người 23.453 29.370 - Lao động KD - DV Người 16.391 27.119 * LĐ được giải quyết việc làm Người 3.520 4.800 * LĐ chưa có việc làm Người 2.163 2.591 Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2005 – 2010 Bảng 4.18 cho thấy dự báo về mất đất nông nghiệp cho quá trình đô thị hoá phát triển các khu công nghiệp của huyện Cẩm Giàng. Theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hôi huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2005 - 2010 thì diện tích đất nông nghiệp đến năm 2010 diện tích đất nông nghiệp của huyện tiếp tục giảm xuống còn 5.840 ha. Như vậy, trong những năm tới quá trình đô thị hoá sẽ tiếp tục làm giảm quỹ đất sản xuất nông nghiệp và nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp và việc làm của lao động nông thôn. Cùng với quá trình đô thị hoá của huyện phát triển kéo theo diện tích đất nông nghiệp giảm thì dân số đô thị ngày một tăng lên. Dự kiến năm 2010, dân số toàn huyện là 139.850 người, trong đó dân số đô thị là 27.271 người chiếm 19,50% tổng số dân toàn huyện. Do tốc độ tăng dân số của huyện qua các năm kéo theo tổng số lao động cũng tăng qua các năm. Năm 2008, tổng số lao động 85.839 người, trong đó lao động trong ngành nông nghiệp là 40.313 người, lao động ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là 23.453 người còn lại là lao động ngành dịch vụ. Đến năm 2010 theo dự kiến tổng số lao động trong huyện là 95.098 người, trong đó lao động ngành nông nghiệp là 31.218 người, lao động ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là 29.370 người và ngành dịch vụ là 27.119 người. Như vậy là số lao động trong ngành nông nghiệp có xu hướng giảm dần ngược lại lao động trong các ngành nghề phi nông nghiệp ngày một tăng cao phù hợp với xu thế đô thị hoá trong cả nước. Ngoài ra hàng năm, phòng Lao động thương binh và xã hội huyện tích cực phối hợp với các Trung tâm dạy nghề, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên v.v… tổ chức dạy nghề, truyền nghề cho người lao động. Ngoài ra còn phối hợp với các Ngân hàng chính sách – xã hội huyện tạo điều kiện cho người dân sau khi học nghề được vay vốn phát triển sản xuất. Đồng thời huyện còn tạo điều kiện cho người dân đi xuất khẩu lao động. Do vậy năm 2007 huyện đã giải quyết việc làm cho 2.500 lao động, kế hoạch năm 2008 giải quyết việc làm cho 3.520 lao động và năm 2010 là 4.800 lao động. Do tốc độ đô thị hoá ngày càng phát triển dẫn đến nhiều hộ nông dân bị mất đất, không có việc làm và những người mất việc làm trong các năm trước vẫn còn rất lớn cần được giải quyết. Chính vì vậy mà số lao động chưa có việc làm trong huyện dự báo có xu hướng tăng lên qua các năm, dự kiến năm 2010 lên tới 2.591 người. Đây là vấn đề cần giải quyết của huyện, bởi vì tạo điều kiện giúp người lao động có việc làm và thu nhập ổn định sẽ thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. 4.5.2.2 Dự báo về cơ cấu kinh tế của huyện Theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương giai đoạn 2005 – 2010 (bảng 4.19) thì cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện sẽ chuyển dịch theo xu hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng các ngành sản xuất nông nghiệp. Cụ thể, năm 2008 tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống còn 23,4%, trong đó ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ tăng lần lượt là 45,5%; 31,1%. Đến năm 2010, dự kiến tỷ trọng ngành nông nghiệp chỉ còn 13%, ngành công nghiệp – xây dựng tăng là 54% và ngành dịch vụ tăng lên là 33%. Bảng 4.19. Dự kiến cơ cấu kinh tế huyện Cẩm Giàng đến năm 2010 ĐVT: % Năm Ngành 2008 2010 Tổng số 100,0 100,0 Công nghiệp - xây dựng 45,5 54,0 Nông nghiệp 23,4 13,0 Dịch vụ 31,1 33,0 Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2005 – 2010 Như vậy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ tiếp tục diễn ra khi tốc độ đô thị hoá phát triển mạnh. Nhưng đến một lúc nào đó sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện theo hướng cân đối hơn giữa các ngành công nghiệp – xây dựng, dịch vụ và nông nghiệp. Hay nói cách khác, tốc độ đô thị hoá phát triển mạnh đến một lúc nào đó tốc độ đô thị hoá sẽ chậm dần và đạt tới độ bão hoà và lúc đó sự tương đồng về cơ cấu kinh tế sẽ xảy ra. 4.5.3 Những giải pháp chủ yếu giải quyết những ảnh hưởng của đô thị hoá đến nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng 4.5.3.1 Đẩy mạnh công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển nông nghiệp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng nông nghiệp hàng hoá thực phẩm cao cấp, sinh thái, cảnh quan mang ý nghĩa kinh tế - xã hội và nhân văn Trong những năm tới, trong khi duy trì cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ, phải coi trọng sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành và cơ cấu sản phẩm, thực hiện tốt mối liên kết giữa nội bộ ngành, giữa các ngành kinh tế, thành phần kinh tế, vùng kinh tế với nhau, tạo tiền đề chuyển dịch từng bước cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Chính vì vậy, cần đẩy mạnh công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển nông nghiệp để hình thành các vùng sản xuất hàng hoá, trong đó xác định vùng kinh tế trọng điểm và vùng chuyên canh. Quy hoạch một số vùng sản xuất hàng hoá chuyên doanh quy mô lớn như vùng sản xuất rau sạch, vùng nuôi cá và các cây con đặc sản đạt hiệu quả kinh tế cao. 4.5.3.2 Cần sớm có quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp Tỉnh Hải Dương nói chung, huyện Cẩm Giàng nói riêng cần có chủ trương và các hướng dẫn cụ thể cho hộ nông dân được chuyển đổi phương hướng sử dụng đất theo mục tiêu thu hiệu quả kinh tế cao trên đơn vị diện tích, tránh tình trạng tự phát. Cụ thể: - Chuyển diện tích đất trồng cây lương thực kém hiệu quả và một phần đất lúa sang trồng cây ăn quả hàng hoá, rau cao cấp với công nghệ sạch hoặc trồng cây công nghiệp ngắn ngày cho xuất khẩu. - Chuyển toàn bộ vùng trũng sang cấy một vụ lúa, một vụ thả cá, hoặc chuyên cá kết hợp với chăn nuôi vịt trên mặt nước, trên bờ trồng cây ăn quả. - Khuyến khích cải tạo vườn tạp thành vườn chuyên canh sản xuất cây ăn quả hàng hoá… Đồng thời cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chính sách thuế sử dụng đất cho phù hợp để đảm bảo chính sách thu thuế sử dụng đất phù hợp với chính sách đền bù thiệt hại khi dành đất nông nghiệp cho quá trình đô thị hoá. Đối với trường hợp chuyển đất nông nghiệp sang mục đích sử dụng khác như nhà ở hoặc sản xuất kinh doanh không phục vụ phát triển nông nghiệp, cần có chế độ thuế đặc biệt nhằm hạn chế sử dụng đất nông nghiệp vào các mục đích tuỳ tiện ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của nông dân trong huyện. 4.5.3.3 Đưa khoa học công nghệ mới áp dụng vào sản xuất nông nghiệp Cần ứng dụng các yếu tố khoa học công nghệ vào sản xuất nông sản hàng hoá để tăng năng suất cây trồng, tăng năng suất lao động, giảm chi phí lao động và chi phí sản xuất. Cụ thể là đẩy mạnh tốc độ tốc độ và nâng cao mức độ cơ giới hoá sản xuất và chế biến nông, lâm thuỷ sản, ứng dụng các thiết bị công nghệ tiên tiến, tạo điều kiện nâng cao chất lượng nông sản chế biến. 4.5.3.4 Giải pháp về dân số, lao động và việc làm Dân số của huyện năm 2007 là 127.942 người, dự báo đến năm 2010 là 129.887 người. Về lao động việc làm, vấn đề quan tâm lo lắng nhất hiện nay và trong giai đoạn tới đối với người lao động nông nghiệp của huyện chính là sự giảm sút đất canh tác ảnh hưởng đến việc làm và đời sống của họ. Đô thị hoá đã đẩy nông dân đến mất đất hoặc giảm đất sản xuất nông nghiệp, trong khi đó lực lượng lao động không thay đổi khiến cho nhiều người dân không có việc làm, do không thể tìm được việc làm thích hợp. Để có thể thu hút lao động chưa có việc làm do mất đất, trước hết cần phải chú ý thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất: đối với các hộ nông dân còn diện tích đất nông nghiệp cần giải quyết việc làm trong thời gian nông nhàn trong năm thông qua đa dạng hoá sản xuất Nông – Lâm – Ngư nghiệp bằng việc phát triển ngành nghề như: phát triển cơ sở sản xuất rau sạch, trồng các loại rau màu có hiệu quá kinh tế cao kết hợp nuôi trồng thuỷ sản để nâng cao thu nhập. Đối với lao động bị mất đất sản xuất nông nghiệp cần có các giải pháp tạo việc làm thông qua đa dạng hoá sản xuất Nông - Lâm - Ngư nghiệp bằng việc phát triển những ngành nghề mới và các dịch vụ sản xuất. Thứ hai: đối với đào tạo nghề cho lao động nông thôn Trong thời gian qua việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Hải Dương nói chung, huyện Cẩm Giàng nói riêng còn hạn chế nên khi các công trình công nghiệp được xây dựng ở địa bàn huyện không thể thu hút được lao động trong khu vực nông thôn mất đất sản xuất mà phải thu hút lao động ở các vùng lân cận. Để đảm bảo chuyển đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, giảm bớt thất nghiệp ở nông thôn do người dân bị mất đất, huyện Cẩm Giàng cần quan tâm đến công tác đào tạo nghề và phát triển nghề một cách tốt hơn. Trong cơ cấu đào tạo nghề, cần chú ý hai loại: loại đáp ứng nhu cầu trước mắt và loại phục vụ nhu cầu lâu dài gắn liền với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nhu cầu trước mắt không chỉ liên quan đến công nghiệp dịch vụ mà còn gắn liền với nông nghiệp như kỹ thuât chăn nuôi, gieo trồng theo hướng hiện đại phù hợp với đất đai, khí hậu, thời tiết, điều kiện canh tác và khả năng phát triển của khu vực. Qua kinh nghiệm của nhiều điạ phương, để giải quyết việc làm và tạo thu nhập lâu dài, ổn định cho người lao động có đất bị thu hồi, chúng tôi khuyến nghị một hệ thống các giải pháp sau đây. Một là, cần bổ sung vào Luật đất đai và các Nghị định của Chính phủ về trách nhiệm của Nhà nước các cấp có liên quan đến vấn dề chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo đối với người dân có đất bị thu hồi. Trong Luật và các Nghị định của Chính phủ cần đặt vấn đề đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm mới đối với người có đất bị thu hồi là vấn đề kinh tế, chính trị xã hội hàng đầu mà chính quyền các cấp phải có trách nhiệm giải quyết. Trên cơ sở đó, quy hoạch đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho dân cư phải được tiến hành đồng thời với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất để xây dựng khu công nghiệp và vấn đề đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho dân cư phải được giải quyết trước khi thu hồi đất của dân cư. Cơ quan quản lý Nhà nước các cấp phải có trách nhiệm cung cấp thông tin, tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho người bị thu hồi đất có khả năng học tập chuyển đổi theo hình thức phù hợp. Cần quy định rõ trách nhiệm của các bên Nhà nước, chủ dự án, các tổ chức đào tạo trong việc tổ chức, bộ máy quản lý, kiểm tra đánh giá nhằm triển khai đào tạo và đảm bảo nguồn lực cho công tác đào tạo. Hai là, đối với người lao động độ tuổi từ 35 trở lên, khó có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi đất. Nhà nước cần dành một phần đất trong hoặc sát với khu công nghiệp cấp cho nông dân để tổ chức các hoạt động dịch vụ như xây nhà cho thuê, bán hàng tạp hoá, quán ăn, sửa chữa xe máy phục vụ sinh hoạt cho các khu công nghiệp. Ba là, chính quyền địa phương cần chủ động hướng dẫn người dân sử dụng tiền đền bù một cách có hiệu quả. Từ kinh nghiệm của nhiều địa phương, số tiền đền bù do thu hồi đất chia thành hai phần. Một phần giao cho người dân xây dựng nhà cửa và chi dùng vào những việc thật cần thiết. Phần còn lại lớn hơn có thể được góp vốn với doanh nghiệp dưới hình thức mua cổ phần, hoặc gửi vào Ngân hàng hoặc mua bảo hiểm. Với cách làm này, người dân sau khi bị thu hồi đất, vẫn được chia lợi nhuận từ kết quả sản xuất công nghiệp, kể cả có việc làm ngay trên mảnh đất của mình hoặc nhận được lãi suất tiền gửi để có thu nhập ổn định. Điều này đòi hỏi một là phải lựa chọn nhà đầu tư phải kỹ càng để phần vốn của người dân góp vào các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, nguồn vốn không những được bảo đảm mà còn phát triển đem lại nguồn thu bền vững, việc làm ổn định lâu dài cho người dân có đất bị thu hồi. Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn lao động từ người có đất bị thu hồi phù hợp với yêu cầu phát triển mới của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập. Lao động nông nghiệp nước ta nói chung, người nông dân có đất bị thu hồi nói riêng có trình độ văn hoá kém, trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý kém, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp rất hạn chế. Do đó, khi được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu, dẫn đến tình trạng hoặc không được thu nhận, hoặc tự bỏ doanh nghiệp, hoặc bị thải hồi sau một thời gian làm việc. Thêm nữa, trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, xuất khẩu lao động đang trở thành một nhu cầu bức xúc cả về nước xuất khẩu và cả về phía các nước nhập khẩu lao động. Đối với nước ta, xuất khẩu lao động là vấn đề chiến lược quan trọng mang tính Quốc gia đem lại hiệu quả kép, “vừa ích nước vừa lợi nhà”. Do đó, xuất khẩu lao động là một biện pháp quan trọng đối với lực lượng lao động nước ta nói chung, với lao động ở các vùng có đất bị thu hồi nói riêng. Tuy nhiên, như đã nói, chất lượng lực lượng lao động nước ta nói chung, các vùng có đất bị thu hồi nói riêng hiện nay còn rất thấp. Vì thế để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và xuất khẩu lao động, cần thiết phải có sự lựa chọn và đào tạo nghề nghiệp, rèn luyện kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp cho người lao động. Muốn vậy, cần khảo sát nắm nhu cầu nguồn lao động của các thị trường. Trên cơ sở đó, cần nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục và đào tạo, kể từ giáo dục phổ thông đến đào tạo nghề, thực hiện đổi mới nội dung, chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và nhu cầu xuất khẩu lao động. Thứ ba: khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống và nghề mới ở nông thôn Cần phát huy thế mạnh của các ngành nghề, làng nghề, cụm làng nghề truyền thống trong nông thôn sử dụng nhiều lao động, ít vốn để giải quyết lao động nông nghiệp dôi dư do ảnh hưởng của đô thị hoá. Để thực hiện được mục tiêu này cần có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất như ưu đãi trong vay vốn, miễn giảm thuế, hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm; tạo điều kiện thuê mặt bằng để hình thành các khu làng nghề sản xuất tập trung, tổ chức các cơ sở làm nghề truyền truyền thống trên cơ sở lấy hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời phát triển mạnh mẽ các hình thức hiệp hội, liên kết giữa các gia đình tiến tới thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ tư: về vốn Phần lớn các hộ nông dân sau khi nhận được tiền đền bù tương đối lớn họ dùng để sắm sửa tài sản gia đình và chi tiêu hàng ngày nên chỉ trong thời gian ngắn là không còn. Khi tiêu hết số tiền đó họ lại rơi vào tình trạng túng thiếu, lúc đó mới nghĩ đến chuyện làm kinh tế nhưng thiếu vốn sản xuất, thiếu kinh nghiệm và kiến thức kinh doanh. Vì vậy để giải quyết vấn đề về vốn sản xuất cho các hộ nông dân cần tạo điều kiện ưu tiên cho những hộ nông dân bị thu hồi đất có nhu cầu vay vốn với lãi suất ưu đãi, giảm các thụ tục rườm ra để người dân tiếp cận được với nguồn vốn nhanh. 4.5.3.5 Giải pháp về môi trường sinh thái * Đối với ô nhiễm môi trường Đối với việc xử lý nước thải và nước mặt. Giải pháp lâu dài và đảm bảo chất lượng nguồn nước và môi trường sinh thái của các con sông và ao hồ trên địa bàn là làm sạch các nguồn nước đổ ra sông hồ. Muốn vậy cần thực hiện các biện pháp như: đối với các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất cần có biện pháp bắt buộc về xử lý nước thải trước khi đổ ra các con sông nhằm đảm bảo chất lượng nước sông khỏi các chất thải, hoá chất độc hại. Đối với các khu công nghiệp mới xây dựng, hệ thống xử lý nước thải công nghiệp phải được xây dựng đồng thời cùng với việc phát triển các dự án khu công nghiệp. Với các xí nghiệp công nghiệp nằm riêng lẻ, phải xây dựng các trạm xử lý nước thải cục bộ. Đối với các khu dân cư, hệ thống thoát nước của các khu vực này cần thiết kế tách riêng với hệ thống nước mưa. * Đối với nguồn nước ngầm: giải pháp lâu dài để đảm bảo chất lượng nguồn nước ngầm là giảm tối đa lượng nước thải ô nhiễm ngầm xuống lòng đất. Muốn vậy cần xây dựng hệ thống cống rãnh thoát nước tốt, xử lý nghiêm những trường hợp đổ chất thải, rác thải ô nhiễm xuống lòng đất. Việc khai thác nguồn nước ngầm cũng phải từng bước đưa vào quản lý và thực hiện theo quy hoạch tránh tình trạng khai thác nước ngầm tràn lan, gây cạn kiệt nguồn nước. * Đối với vấn đề ô nhiễm rác thải Đối với các loại rác thải công nghiệp độc hại cần phải tách khỏi các rác thải công nghiệp thông thường và được xử lý theo các yêu cầu riêng phù hợp với từng loại rác thải. Ở khu vực nông thôn rác thải cần được xử lý theo hai hình thức: - Xử lý tại chỗ: đối với các hộ gia đình nông nghiệp, rác thải sinh hoạt và rác thải chăn nuôi cần được khuyến khích xử lý theo dạng bể bioga tại các gia đình, qua đó vừa giải quyết được vấn đề rác thải, vừa có thể thoả mãn nhu cầu về năng lượng. - Xử lý tập trung: đối với các khu vực làng nghề hoặc các khu công nghiệp, cụm công nghiệp nông thôn và các khu vực tập trung dân cư như các trung tâm dịch vụ nông thôn (các thị tứ), rác thải sẽ được xử lý tại nhà máy xử lý rác thải hoặc chôn lấp tại các bãi rác của huyện. 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 Kết luận 1. Quá trình đô thị hoá diễn ra ở huyện Cẩm Giàng là quá trình đô thị hoá vừa theo chiều rộng và chiều sâu. Sự hình thành các khu đô thị mới được tạo ra trên cơ sở phát triển các khu công nghiệp và trung tâm công nghiệp thương mại, dịch vụ ở vùng nông thôn. Đô thị hoá theo chiều sâu đó là sự mở rộng các khu công nghiệp ngay trên địa bàn đã là đô thị như Thị trấn Lai Cách. Đô thị hoá theo chiều rộng đó là sự hình thành các khu công nghiệp tại địa bàn mà trước đây không phải là đô thị như xã Tân Trường (trước kia là xã thuần nông). Đô thị hoá còn mang lại những ảnh hưởng tích cực cho vùng ven đô thị, dịch vụ phát triển vừa tạo việc làm cho người lao động vừa tăng thu nhập cho họ. Đại diện cho khu vực này là xã Cẩm Điền. 2. Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và trung tâm thương mại dịch vụ được xây dựng trên địa bàn đã làm giảm diện tích đất nông nghiệp của huyện. Cụ thể diện tích đất nông nghiệp của huyện năm 1997 là 7.490 ha, đến năm 2000 còn 7.416 ha và đến năm 2007 chỉ còn 6.204 ha đất nông nghiệp. 3. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng dần qua các năm cả về giá trị và tỷ trọng. Năm 2000 tỷ trọng ngành chăn nuôi là 20,9% đến năm 2007 tăng lên với tỷ trọng là 29,1%. Tỷ trọng ngành trồng trọt giảm dần qua các năm, từ 76,7% năm 2000 xuống còn 61,6% năm 2007. Mặc dù tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng trọt giảm nhưng giá trị sản xuất ngành trồng trọt vẫn tăng. Nguyên nhân là do ngành trồng trọt đã có sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng từ sản xuất lúa là chủ yếu sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao. 4. Cơ cấu kinh tế của huyện: cơ cấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ có xu hướng tăng qua các năm, còn ngành nông nghiệp thì giảm qua các năm. Từ năm 2000 – 2007, cơ cấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp – xây dựng tăng là 3,3%; dịch vụ tăng 2,9%; ngành trồng trọt giảm 5,5%. 5. Do đô thị hoá, dân số thành thị tăng 0,7 lần, dân số nông thôn chỉ tăng 0,08 lần; Lao động ngành trồng trọt giảm, lao động trong các ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ có sự gia tăng; Số người không có việc làm chủ yếu là ở độ tuổi trên 35 tuổi và khó khăn khi tìm việc làm đó là việc làm không phù hợp (66,8% ý kiến cho là như vậy); đô thị hoá đã làm tăng thu nhập của người dân và đời sống của họ được cải thiện. Thu nhập bình quân/đầu người năm 1997 là 224 ngàn đồng/người, năm 2000 là 270 ngàn đồng/người đến năm 2007 đã là 410 ngàn đồng/người. 6. Thu nhập của các nhóm hộ tăng lên qua các năm. Thu nhập của nhóm hộ 3 chủ yếu là thu từ lao động làm thuê và sản xuất kinh doanh dịch vụ. Thu nhập của nhóm hộ 1 chủ yếu thu từ sản xuất nông nghiệp và thu nhập của nhóm 2 chủ yếu từ đi làm thuê và sản xuất nông nghiệp. - Cách sử dụng vốn đền bù của các hộ nhìn chung là tương đối hợp lý. Nhưng điều đáng lo ngại là số tiền dùng cho học nghề còn quá ít. Nhóm 2 dành cho học nghề là 8,5%, nhóm 3 là 8,1%. Như vậy, có thể nói rằng quá trình đô thị hoá đã mang lại cho người dân chất lượng cuộc sống tốt hơn, đời sống được cải thiện. Xong bên cạnh đó, nó cũng mang lại nhiều vấn đề còn tồn tại, nhất là đối với vấn đề việc làm của những lao động mất đất và vấn đề ô nhiễm môi trường. Chính vì vậy cần có những biện pháp để tác động thế nào nhằm hạn chế những mặt trái của quá trình đô thị hoá. 5.2 Kiến nghị 5.2.1 Đối với Nhà nước Cần có chiến lược, quy hoạch kế hoạch sử dụng nguồn lực đất đai và chiến lược đào tạo lao động cho các vùng quy hoạch trước khi thu hồi đất từ nay cho đến năm 2010, 2020 tương đối rõ ràng và có cơ sở khoa học. Chấm dứt tình trạng sử dụng tuỳ tiện và thiếu kế hoạch cũng như một số địa phương rơi vào tình trạng quy hoạch treo. Nhà nước có thể xây dựng quỹ đào tạo nghề cho những người có đất bị thu hồi. có thể trích một phần từ thuê đất để hình thành quỹ này và nó chỉ dùng vào việc hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất trong việc đào tạo nghề. Nhà nước cần có những cam kết cụ thể đối với các doanh nghiệp nằm trên địa bàn được giao đất về vấn đề nhận người lao động ở khu vực đó vào làm việc cho doanh nghiệp mình. Nhà nước cần rà soát lại toàn bộ các chính sách có liên quan đến việc thu hồi đất, đền bù, tái định cư, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi, chính sách nào phù hợp thì gữi, còn không phù hợp thì kiên quyết lạo bỏ, đưa ra các chính sách mới phù hợp với thực tế hơn. Cụ thể như sau: một là sửa lại giá đền bù cho sát thực với thực tế hơn; hai là về cơ bản chuyển số lao động bị thu đất sang hoạt động lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ; ba là nghiên cứu cách trả tiền đền bù cho dân sao cho hợp lý, để số tiền đó không bị sử dụng một cách lãng phí, tạo ra cuộc sống ổn định lâu dài cho người dân. 5.2.2 Đối với chính quyền địa phương Căn cứ vào quyết định thu hồi đất cuả cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, căn cứ vào quy mô đặc điểm, tính chất của dự án để xây dựng cho mình một quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hợp lý với tình hình cụ thể của địa phương, bảo đảm cho việc sử dụng đất của địa phương có hiệu quả. Mặt khác cần tích cực tuyên truyền cho người dân hiểu được ý nghĩa thiết thực đối với cộng đồng và Quốc gia khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng khu công. Đồng thời có trách nhiệm hướng dẫn người dân hiểu rõ về Luật đất đai và đền bù đất nông nghiệp. Phát huy, tìm tòi những ngành nghề phù hợp với địa phương mình, giúp cho người dân có được việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. 5.2.3 Đối với các hộ nông dân mất đất Trước hết phải tìm cho mình một hướng đi mới, tranh thủ được đồng vốn đền bù chuyển hướng sản xuất kinh doanh mới hoặc tham gia học nghề đảm bảo thu nhập cho gia đình, vươn lên làm giàu một cách chính đáng. Mạnh dạn đầu tư cho sản xuất, sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Tích cực học hỏi kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ từ các địa phương khác áp dụng cho gia đình tạo việc làm cho lao động gia đình. Luôn luôn bổ trợ kiến thức, học hỏi cái mới nâng cao trình độ chuyên môn, phong cách làm việc công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn lực khi nhà máy cần tuyển dụng./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ảnh hưởng của đô thị hoá đến nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội, Thực trạng và giải pháp(2002), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ban Thường vụ huyện uỷ Cẩm Giàng (2004), Cẩm Giàng Văn Hiến. Trần Văn Chử, Trần Ngọc Hiên (1998), Đô thị hoá và các chính sách phát triển đô thị trong CNH – HĐH ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Trung Dũng (2005), "Công tác dạy nghề tại thành phố Hồ Chí Minh - Kết quả và tồn tại", Tạp chí Lao động xã hội số 261 tháng 4/2005. Mạc Đường (2002), Dân tộc học – đô thị và vấn đề đô thị hoá, Nhà xuất bản trẻ. Hoàng Văn Hoa (2005), Tác động của quá trình đô thị hoá đối với lao động, việc làm ở Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Minh Hùng (2005), "Đà Nẵng nỗ lực chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm cho lao động diện giao đất", Tạp chí Lao động xã hội số 261 tháng 4/2005. Vương Hoàng Nam (2003), "Giải quyết việc làm cho trên 21 vạn lao động – do đâu", Tạp chí Lao động xã hội số 261 tháng 4/2005. Từ Nguyên (2008), Đô thị Việt Nam – Phát triển hàng đầu nhưng chưa có hạng. (29/4/2008) Nguyễn Duy Quý (1998), Đô thị hoá trong quá trình công nghiệp hoá, kinh nghiệm của Nhật Bản và một số nước khác, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Niên giám thống kê (2002 – 2007) huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương Uỷ ban nhân dân huyện Cẩm Giàng (2007), báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội của huyện năm 2007. 13. Uỷ ban nhân dân huyện Cẩm Giàng (2005), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương giai đoạn 2005 - 2010. 14. Uỷ ban nhân dân huyện Cẩm Giàng (2007), báo cáo thành tích nổi bật của huyện giai đoạn 2000 – 2007. 15. Luật đất đai năm 2003 ¶nh khu c«ng nghiÖp §¹i An huyÖn CÈm Giµng ¶nh khu c«ng nghiÖp Phóc §iÒn huyÖn CÈm Giµng ¶nh khu c«ng nghiÖp T©n Tr­êng huyÖn CÈm Giµng ¶nh nhµ m¸y ®iÖn Th­îng §×nh x· CÈm §iÒn huyÖn CÈm Giµng PHIẾU ĐIỀU TRA CÁC NHÓM HỘ NÔNG DÂN HUYỆN CẨM GIÀNG TỈNH HẢI DƯƠNG I. Tình hình chung của hộ 1. Người trả lời:............................. Tuổi:....................... Trình độ:..................... Nhóm hộ: 1.Hộ còn nguyên đất NN 2. Hộ còn một phần đất NN 3. Hộ hoàn toàn mất đất NN 2. Địa chỉ:............................................................................................................ 3. Số nhân khẩu hiện nay trong gia đình: Nam: Nữ: 4.Số LĐ làm nông nghiệp: Nam: Nữ: 5. Số lao động phi nông nghiệp Nam: Nữ: 6. Số trẻ em sống trong hộ: Nam: Nữ: II. Tình hình đất của các hộ ĐVT: ha Chỉ tiêu Diện tích trước thu hồi Diện tích sau khi bị thu hồi Diên tích còn lại Tổng diện tích a. Đất nông nghiệp - Đất canh tác + Đầt màu + Đất lúa - Đất ao hồ b. Đất ở III. Tình hình sản xuất ngành trồng trọt Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng chi 1000đ 1. Chi phí vật chất 1000đ Đạm 1000đ Lân 1000đ Kali 1000đ Phân hữu cơ 1000đ BVTV 1000đ Tưới tiêu 1000đ Chi khác 1000đ 2. Chi phí lao động 1000đ LĐgia đình 1000đ LĐ đi thuê 1000đ Tổng thu 1000đ IV. Tình hình sản xuất chăn nuôi và kinh doanh dịch vụ ĐVT: 1000đ Chỉ tiêu 2005 2006 2007 I. Sản xuất chăn nuôi * Tổng chi - Giống - Thức ăn - Lao động + LĐ đi thuê + LĐ gia đình - Khấu hao - Chi khác * Tổng thu II. Thu từ SXKD – DV III. Thu từ LĐ làm thuê TỔNG THU (I+II+III) V. Thời gian làm việc của lao động trong hộ điều tra Chỉ tiêu ĐVT Trước thu hồi đất Sau thu hồi đất Tổng số lao động Người 1. Lao động có việc làm Người - 12 tháng Người - 11 tháng Người - 10 tháng Người - 9 tháng Người - 8 tháng Người - 7 tháng Người - 6 tháng Người 2. Lao động không có việc làm Người - 12 tháng Người - 11 tháng Người - 10 tháng Người - 9 tháng Người - 8 tháng Người - 7 tháng Người - 6 tháng Người VI. Một số câu hỏi liên quan đến vấn đề đô thị hoá 1. Gia đình thấy chính sách đền bù đất nông nghiệp của NN có thoả đáng không? Có  Không  - Nếu không, lý do tại sao?.................................................................................. 2. Số tiền đền bù khi mất đất nông nghiệp, gia đình sử dụng như thế nào? Chỉ tiêu ĐVT Số tiền sử dụng Tổng số vốn do đền bù tr.đ - Sử dụng vào KDDV % - SX chăn nuôi % - Cho lao động học nghề % - Gửi ngân hàng % - Cho vay hình thức khác % - Mua sắm tài sản % - Xây, sửa nhà % - Tiêu dùng hàng ngày % 3. Khi mất đất nông nghiệp, khả năng tìm việc làm của lao động trong gia đình có khó khăn không? Có  Không  - Nếu khó khăn là do nguyên nhân nào dưới đây Việc làm không phù hợp  Việc làm không ổn định  Việc làm có thu nhập thấp  Chi phí tìm việc lớn  4. Quá trình đô thị hoá diễn ra, gia đình thấy: - Điều kiện giao thông Tiện hơn  Không tiện hơn  - Mua bán vật tư nông nghiệp Tiện hơn  Không tiện hơn  - Điện cung cấp Ổn định  Không ổn định  5. Từ khi có chính sách đô thị hoá ở địa phương, thu nhập gia đình có cao hơn khi chưa có chính sách không? Có  Không  - Lý do tại sao?.................................................................................................... 6. Lao động trong gia đình có ai bị thất nghiệp không? Có  Không  - Lý do tại sao?.................................................................................................... 7. Việc làm của các lao động trong gia đình bạn có được các Công ty đào tạo không? Có  Không  8. Theo bạn, vấn đề đô thị hoá có ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và các vấn đề xã hội khác ở địa phương bạn không? Có  Không  Vì sao?................................................................................................................. Xin chân thành cảm ơn ông (bà) đã trả lời phỏng vấn Người phỏng vấn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN DINH 30.10.doc
Tài liệu liên quan