LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài tốt nghiệp của mình, bên cạnh sự cố gắng nỗ lực của bản thân tôi còn nhận được sự quan tâm chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ của gia đình và bạn bè.
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Th.S Ngô Thanh Mai – Giáo viên bộ môn Kinh tế quản lý Đô thị_ Trường ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành chú Nguyễn
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1569 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Bước đầu đánh giá công tác giải phóng mặt bằng phục vụ cho dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây - Tây Hồ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Văn Mạnh_ cán bộ Địa chính phường Khương Thượng đã tận tình chỉ bảo và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực tập. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban quản lý dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây _ quận Tây Hồ đã cung cấp tài liệu và tạo điều kiện cho tôi thực hiện chuyên đề tốt nghiệp đúng thời hạn.
Qua đây tôi cũng xin tỏ lòng biết ơn tới những người thân trong gia đình tôi, những bạn bè đã giúp đỡ động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực tập tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2006
Sinh viên
Đoàn Thu Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đô thị với tốc độ đô thị hoá ngày càng cao hiện đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Đối với mỗi quốc gia, đô thị luôn đóng vai trò là trung tâm văn hoá_kinh tế_ xã hội quan trọng, thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt. Trong công cuộc đổi mới để xây dựng đất nước trở nên phồn vinh, Nhà nước ta luôn quan tâm chú trọng đặc biệt vào công tác phát triển đô thị. Sự ra đời ngày càng nhiều của các công trình cơ sở hạ tầng đã làm cho bộ mặt của cả nước nói chung, của thủ đô Hà nội nói riêng ngày càng văn minh, hiện đại. Tuy nhiên, để có thể triển khai được những dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội đó đòi hỏi phải có một quỹ đất rất lớn để tạo mặt bằng thi công. Điều này liên quan đến công tác GPMB, một bước tất yếu và là điều kiện tiên quyết với mỗi dự án đầu tư xây dựng.
Trong giai đoạn hiện nay, GPMB là một yêu cầu khách quan của quá trình đổi mới, góp phần thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và là yêu cầu tất yếu của các dự án đầu tư xây dựng. Trong điều kiện đất đai ngày càng khan hiếm hiện nay, thì GPMB càng khẳng định vai trò quan trọng, là điều kiện cần để mọi dự án đầu tư xây dựng có thể bắt đầu. Trong quá trình thực hiện, nhiều dự án xây dựng đã bị kéo dài, không thực hiện được đúng tiến độ chỉ vì vướng mắc do khâu GPMB chưa thực hiện được. Như chúng ta đã biết, GPMB là một công tác vô cùng phức tạp, gây nhiều khó khăn cho các đơn vị thực hiện. Khó khăn do chi phí cho công tác GPMB rất lớn, tiến độ của công tác lại phụ thuộc vào quá nhiều yếu tố khách quan như tốc độ giải ngân, quỹ đất ,quỹ nhà dành cho tái định cư, sự hợp tác của những người dân, những tổ chức có liên quan trực tiếp đến khu vực giải phóng…
Tây Hồ là một Quận mới được thành lập của Thành phố Hà Nội. Không nằm ngoài xu thế phát triển của toàn Thành phố, trong những năm gần đây, để bắt nhịp với tốc độ đô thị hoá ngày càng nhanh trên địa bàn Quận đang thực hiện rất nhiều dự án xây dựng mà đặc biệt là dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây. Cũng như mọi dự án đầu tư xây dựng khác, với dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây thì GPMB cũng thực sự là một công tác khó khăn, phức tạp. Đây là một vấn đề mà nhiều cấp lãnh đạo Thành phố quan tâm, chú trọng giải quyết. Bởi vì việc thu hồi đất đai để tạo mặt bằng xây dựng liên quan đến việc đền bù đất, tài sản trên đất, liên quan trực tiếp đến quyền lợi, lợi ích cá nhân của các hộ gia đình, tổ chức có liên quan đến khu vực giải phóng. Hàng loạt những chính sách, quyết định, hướng dẫn của các cơ quan Nhà nước đã ban hành để giải quyết tốt công tác đền bù thiệt hại, nhằm cân bằng lợi ích cho các cá nhân, tổ chức trong diện giải toả, đền bù nhưng trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của người dân gây ra nhiều bức xúc trong dân cư làm giảm tiến độ của dự án. Tuy quá trình thực hiện có nhiều khó khăn và bất cập như vậy nhưng công tác GPMB vẫn là một giai đoạn không thể thiếu và đóng vai trò quyết định đến tiến độ của dự án.
Nhận thức rõ được vai trò và tầm quan trọng của công tác GPMB đối với mỗi dự án đầu tư xây dựng, đồng thời sau khi xem xét và tìm hiểu về tình hình thực hiện cũng như những khó khăn trong quá trình thực hiện công tác GPMB phục vụ cho dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây em đã quyết định lựa chọn đề tài "Bước đầu đánh giá công tác giải phóng mặt bằng (GPMB) phục vụ cho dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật(CSHTKT) khu vực Hồ Tây_ Quận Tây Hồ" làm chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng công tác GPMB của dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây trong 5 năm (2001_2005) để tìm hiểu, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế ấy. Từ đó chuyên đề sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến độ của công tác GPMB.
3. Câu hỏi nghiên cứu.
Với mục đích nghiên cứu như vậy chuyên đề sẽ trả lời cho các câu hỏi sau:
Thực trạng công tác GPMB trong 5 năm (2001_2005) của dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây diễn ra như thế nào?
Trong quá trình thực hiện đã gặp những khó khăn, hạn chế gì?
Nguyên nhân chính dẫn đến những khó khăn, hạn chế đó là gì?
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến độ GPMB trong thời gian sắp tới.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu về vấn đề GPMB của dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây_Quận Tây Hồ trong thời gian từ năm 2001-2005.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp thu thập, phân tích và xử lý số liệu thứ cấp.
- Phương pháp so sánh.
6. Kết cấu của chuyên đề.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề bao gồm các phần sau:
Chương I: Tổng quan lý thuyết về công tác GPMB.
Chương II: Thực trạng công tác GPMB của dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây.
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ GPMB của dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG.
1.1. Khái niệm giải phóng mặt bằng và một số đặc điểm của công tác giải phóng mặt bằng .
1.1.1. Khái niệm công tác giải phóng mặt bằng .
Hiện nay, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cả nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng thì một vấn đề có vị trí đặc biệt quan trọng là công tác GPMB phục vụ cho việc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng.Thực tế từ các dự án đầu tư xây dựng có GPMB đã chứng minh rằng GPMB có ý nghĩa và vai trò lớn trong việc quyết định đến tiến độ thực hiện dự án. Thực tiễn công tác GPMB ở nước ta có thể nêu ra một khái niệm về công tác GPMB như sau: “ GPMB là quá trình Nhà nước thu hồi đất của các đối tượng sử dụng đất( tổ chức, cá nhân, hộ gia đình) chuyển giao cho chủ dự án tổ chức di dời các đối tượng như nhà ở, cây cối hoa màu, các công trình xây dựng khác trả lại mặt bằng để thi công công trình trên cơ sở bồi thường thiệt hại, ổn định lại cuộc sống cho các đối tượng phải di dời.”
( Nguồn:Kỷ yếu hội thảo đền bù và giải phóng mặt bằng các dự án xây dựng ở Việt Nam)
Như vậy, GPMB thực chất là việc Nhà nước thu hồi lại đất đã giao cho các cá nhân, tổ chức sử dụng vào các mục đích khác nhau để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Theo khoản 1 điều 5 luật đất đai 2003 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu.” Chính vì vậy mà ta nói Nhà nước thu hồi đất chứ không phải là bất kì một cá nhân , tổ chức nào, vì chỉ có Nhà nước mới có quyền thu hồi đất của người dân đang sử dụng và giao đất cho các chủ dự án để tiến hành thực hiện dự án đầu tư xây dựng.
Trong khái niệm này có liên quan đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất và tài sản trên đất. Bồi thường thiệt hại GPMB là việc chi trả cho những tổn thất về đất đai và tài sản trên đất, chi phí tháo dỡ, di chuyển nhà ở…và chi phí để ổn định đời sống, chuyển đổi nghề nghiệp cho những người liên quan đến khu vực bị giải phóng.
1.1.2. Đặc điểm của công tác giải phóng mặt bằng .
Để hiểu rõ hơn về công tác GPMB trước hết, chúng ta sẽ xem xét những đặc điểm nổi bật của công tác GPMB, những đặc điểm ảnh hưởng trực tiếp đến công tác GPMB.
1.1.2.1.Đối tượng của GPMB rất đa dạng và phức tạp.
Công tác GPMB liên quan đến rất nhiều đối tượng có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác GPMB. Cụ thể như:
- Vị trí của dự án là nơi trực tiếp xây dựng dự án, là khu vực mà công tác GPMB sẽ được thực hiện.
- Mục đích sử dụng đất của khu vực được giải phóng. Yếu tố này quyết định đến giá trị đền bù khi đất bị thu hồi. Đối với mỗi loại đất có mục đích sử dụng khác nhau sẽ có một giá đền bù khác nhau.
- Kiến trúc các công trình xây dựng trên bất động sản, các loại cây cối, hoa màu vốn có trên bất động sản…Đây là yếu tố liên quan đến công tác định giá và đền bù tài sản trên đất.
- Đối tượng xã hội: đó là các bên có liên quan đến công tác GPMB như các hộ dân cư, các tổ chức đang sinh sống và hoạt động trên địa bàn bị giải phóng, hay chủ dự án đầu tư xây dựng…
1.1.2.2Quá trình GPMB phần lớn diễn ra trong một thời gian dài, đòi hỏi lượng vốn lớn.
GPMB của phần lớn các dự án đầu tư xây dựng đều diễn ra trong khoảng thời gian dài do phải trải qua rất nhiều giai đoạn. Từ việc kiểm kê về đất và tài sản trên đất, việc định giá đất đền bù, việc vận động, tuyên truyền tinh thần tự nguyện tự giác của các hộ dân cư…. đến việc chi trả tiền đền bù, GPMB trao trả mặt bằng cho chủ đầu tư…. Chính vì chiếm một quỹ thời gian khá dài như vậy và ảnh hưởng đến rất nhiều yếu tố nên lượng vốn đầu tư dành cho công tác GPMB luôn chiếm một phần khá lớn trong tổng số vốn đầu tư cho cả dự án.
Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng thường được xây dựng tại các khu dân cư đông đúc. Mặt bằng cần giải toả không phải là đất trống mà phải lấy vào đất đang sử dụng của các cá nhân, tổ chức, do vậy phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại về đất và tài sản trên đất. Trong điều kiện hiện nay, giá đất, giá bất động sản đang ngày một tăng cao, mặt khác mặt bằng dành cho các dự án xây dựng luôn đòi hỏi một quỹ đất rộng lớn nên dù giá tiền đền bù đã được tính theo khung giá Nhà nước thì lượng vốn cần cho mỗi công tác GPMB vẫn luôn là một thách thức đối với các nhà đầu tư.
1.1.2.3.Công tác GPMB bị ảnh hưởng, chi phối bởi nhiều yếu tố.
GPMB một công tác phức tạp và đa dạng do bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Cụ thể là:
Các chính sách pháp luật của Nhà nước: đây chính là cơ sở pháp lý xuyên suốt chỉ đạo quá trình thực hiện công tác GPMB.
Các mối quan hệ lợi ích trong xã hội: GPMB phục vụ cho lợi ích an ninh quốc phòng, quốc gia, lợi ích công cộng… như vậy, lợi ích là lý do thực hiện GPMB. Tuy nhiên, khi lợi ích chung được thực hiện lại ảnh hưởng đến lợi ích riêng của một số cá nhân, tập thể nằm trong diện giải toả. Do vậy việc cân bằng hài hoà các mối quan hệ lợi ích là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến công tác GPMB.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: đây là cơ sở thực hiện công tác GPMB là căn cứ ở tầm vĩ mô của công tác.
Công tác định giá đất và thị trường bất động sản: Giá đất đền bù từ trước tới nay vẫn luôn là vấn đề nhức nhối nhất của công tác GPMB. Hiện nay chưa có cơ quan nào thực hiện định giá đất, chỉ dựa vào NĐ 87 CP/NĐ-CP và hệ số K đã trở nên lạc hậu, kém thực tiễn. Bên cạnh đó, thị trường bất động sản luôn luôn biến động cũng là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến công tác GPMB.
1.1.2.4 GPMB làm tăng mức sinh lời cho khu đất và các khu lân cận.
Việc GPMB để lấy mặt bằng xây dựng đã đem lại những mức sinh lời đáng kể cho chính khu đất và các khu lân cận. Đặc biệt là các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông đô thị thường làm cho giá đất các khu vực xung quanh tăng lên rất cao.
1.1.3. Vai trò của công tác GPMB.
Trong mọi dự án đầu tư xây dựng, mặt bằng luôn là một điều kiện tiên quyết để các dự án được bắt đầu. Chính vì vây, công tác GPMB luôn đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong các dự án.Tầm quan trọng của công tác GPMB thể hiện ở một số điểm sau
Thứ nhất, GPMB luôn là vấn đề của sự phát triển. Trong mọi quá trình phát triển, GPMB để xây dựng các công trình là không thể tránh khỏi, nhịp độ phát triển ngày càng cao thì nhu cầu GPMB ngày càng lớn và là một thách thức không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn cả trong lĩnh vực xã hội và chính trị.
Thứ hai, như trên đã nói GPMB là một yêu cầu tất yếu của mọi dự án đầu tư xây dựng. Trong thời điểm hiện nay, đất đai đang ngày một khan hiếm, mặt khác các dự án đầu tư xây dựng đặc biệt là các dự án xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng lại luôn nằm trong các khu dân cư đông đúc, để có thể triển khai một dự án xây dựng, thì việc đầu tiên là phải GPMB để có một quỹ đất nhất định phục vụ cho việc xây dựng. Không có mặt bằng thì không thể tiến hành các công trình xây dựng.
Thứ ba, GPMB còn góp phần thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đảm bảo đất đai được sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Để thực hiện được quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hợp lý phải chuyển đổi đất có mục đích sử dụng kém hiệu quả sang đất có mục đích sử dụng có hiệu quả kinh tế cao hơn. Do đó. GPMB là một yếu tố cần thiết không thể thiếu trong việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai.
1.2. Các bước thực hiện công tác giải phóng mặt bằng.
1.2.1. Lập hồ sơ, kế hoạch thực hiện công tác giải phóng mặt bằng.
Sau khi nhận được Quyết định về thu hồi đất, cho thuê đất, hoặc quyết định giao nhiệm vụ chuẩn bị mặt bằng để xây dựng công trình của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, chủ đầu tư có trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị tổ chức thực hiện công tác GPMB đến Uỷ ban nhân dânQuận, Huyện, Phường nơi có đất bị thu hồi; đồng thời báo cáo thường trực Ban chỉ đạo GPMB Thành phố để tổng hợp, theo dõi.
Hồ sơ gồm có:
Văn bản đề nghị thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, danh sách người đại diện tham gia hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; yêu cầu về tiến độ thực hiện.
Quyết định giao đất, cho thuê đất hoặc quyết định giao nhiệm vụ chuẩn bị mặt bằng để thực hiện dự án đầu tư.
Dự án đầu tư được phê duyệt (nếu có).
Phương án tổng thể về GPMB ( bao gồm cả việc xác định vị trí, mặt bằng, diện tích nhà, đất tái định cư - nếu phải tái định cư).
Bản đồ hiện trạng tỷ lệ 1/500, có xác định diện tích, chỉ giới khu đất thu hồi được Sở tài nguyên môi trường và Nhà đất xác nhận.
Kế hoạch vốn hoặc cam kết về vốn theo tiến độ GPMB.
Bản dự toán chi phí phục vụ công tác GPMB.
1.2.2. Tổ chức thực hiện công tác giải phóng mặt bằng.
1.2.2.1. Điều tra xác lập số liệu về đất đai, tài sản để làm cơ sở lập phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư.
Căn cứ vào kế hoạch GPMB, Hội đồng GPMB phối hợp với Uỷ ban nhân dânPhường, xã, thị trấn… tổ chức họp với các tổ chức, cá nhân sử dụng đất nằm trong phạm vi dự án để phổ biến các văn bản, chính sách liên quan đến bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Hướng dẫn và phát tờ kê khai đến từng hộ.
Sau không quá 5 ngày kể từ khi nhận được tờ khai, các hộ gia đình phải nộp lại tờ khai cho Hội đồng GPMB. Hội đồng GPMB có nhiệm vụ tổ chức điều tra, xác định nhà, đất, tài sản trên đất. Trong trường hợp chủ sử dụng đất cản trở không cho điều tra thì Hội đồng GPMB báo cáo Uỷ ban nhân dânQuận, Huyện quyết định biện pháp cưỡng chế.
1.2.2.2. Lập, thẩm định và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Căn cứ vào kết quả của công tác điều tra, kê khai về đất và tài sản trên đất, Hội đồng GPMB dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Hội đồng GPMB công khai công khai dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại nơi có các hộ dân thuộc diện giải toả; đồng thời gửi tới người sử dụng nhà, đất bị thu hồi để người bị thu hồi kiểm tra, góp ý kiến trong thời hạn là 3 ngày.
Sau khi xem xét và hoàn thiện chi tiết dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Hội đồng GPMB trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dânQuận, Huyện quyết định phê duyệt.
1.2.2.3. Tổ chức thực hiện phương án bồi thường thiệt hại, tái định cư đã được phê duyệt.
Hội đồng GPMB có trách nhiệm công bố công khai trên hệ thống truyền thanh cũng như niêm yết tại nơi công cộng phương án bồi thường thiệt hại, tái định cư đã được phê duyệt và thời gian, địa điểm nhận tiền bồi thường.
Tổ chức chi trả tiền bồi thường đến từng đối tượng. Sau khi đã nhận tiền bồi thường, các chủ sử dụng đất có trách nhiệm bàn giao mặt bằng đúng thời gian quy định cho Hội đồng GPMB và chủ dự án.
1.2.2.4. Bàn giao đất cho chủ đầu tư hoặc đơn vị được giao đất.
Sau khi hoàn thành công tác GPMB , Hội đồng GPMB tổ chức việc bàn giao mặt bằng trên thực địa cho chủ đầu tư. Đối với những dự án lớn có phân kỳ đầu tư hoặc dự án có yêu cầu thi công gấp cần bàn giao trước một phần đất đai, chủ dự án lập hồ sơ để nhận bàn giao mốc giới phần diện tích đất đã hoàn thành GPMB.
1.2.3. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Trong thời gian tiến hành công tác GPMB, nếu các chủ sử dụng đất có khiếu nại về công tác bồi thường thiệt hại, hỗ trợ và tái định cư thì Hội đồng GPMB có trách nhiệm xem xét và giải quyết theo từng cấp có thẩm quyền.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác giải phóng mặt bằng.
Công tác GPMB khá phức tạp và khó thực hiện do bị ảnh hưởng và chi phối bởi nhiều yếu tố.
1.3.1.Các cơ chế, chính sách pháp lý của Nhà nước.
Chính sách pháp lý về GPMB qui định nội dung từ công tác chuẩn bị đến tổ chức thực hiện. Các chính sách này quy định quyền và nghĩa vụ của các bên bồi thường cũng như bên được bồi thường. Đó cũng là cơ sở pháp lý xuyên suốt quá trình định mức đền bù thiệt hại, hỗ trợ đền bù…
Đất đai là đối tượng quản lý phức tạp, luôn biến động theo sự phát triển của nền kinh tế_ xã hội. Trong những năm gần đây, hệ thống pháp lý đất đai nói chung, cơ sở đền bù GPMB nói riêng đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chú trọng nhưng việc ban hành các văn bản cụ thể hoá quy định của pháp luật đất đai vẫn chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ, tính pháp lý không cao.
1.3.2.Công tác định giá đất, định giá đền bù cho đất và các tài sản trên đất
Đây là một nhân tố quyết định đến một nhân tố khác cũng ảnh hưởng lớn tới công tác GPMB đó là sự hợp tác của người dân, những hộ dân cư và các tổ chức hoạt động trên địa bàn giải phóng. Việc định giá đất và giá đền bù phải cố gắng sao cho hợp lý và được người dân chấp thuận. Tuy nhiên đây là một vấn đề vô cùng khó khăn vì trên thực tế giá đất đền bù theo quy định không thể phù hợp với giá thực tế nên luôn là vấn đề gây tranh cãi cho người dân và là nhân tố gây cản trở tiến độ của công tác GPMB.
1.3.3.Quy mô của dự án và lượng vốn dành cho dự án.
GPMB vốn là công tác tạo mặt bằng xây dựng cho các dự án. Quy mô của dự án lớn hay nhỏ quyết định trực tiếp đến phạm vi của khu vực GPMB. Bên cạnh đó, lượng vốn dự kiến cho GPMB là một yếu tố quyết định đến tiến độ thực hiện của dự án. Một dự án đầu tư xây dựng thường được diễn ra trong một khoảng thời gian dài và phạm vi rộng lớn. Dự kiến ban đầu về lượng vốn cho GPMB là rất quan trọng. Do trong thời gian dài thực hiện dự án ấy, có rất nhiều sự thay đổi về giá đất, giá bất động sản… nên nếu không dự kiến một lượng vốn hợp lý thì rất có thể sẽ bị vướng mắc trong quá trình thực hiện do lượng vốn ban đầu không đủ để chi trả cho công tác GPMB. Để có thể đưa ra một lượng vốn dự kiến phù hợp đòi hỏi các nhà quản lý phải có một tầm nhìn xa, bao quát và định hướng được sự thay đổi về giá đất trên thị trường bất động sản.
1.3.4.Công tác giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là căn cứ pháp lý quan trọng trong việc xác định điều kiện được đền bù thiệt hại. Tuy nhiên thực tế công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nhiều địa phương còn chậm trễ. Việc xác định giá trị pháp lý của các loại đất chưa có giấy chứng nhận là rất khó khăn, cản trở công tác thu hồi đất, GPMB.
1.4. Cơ sở pháp lý của công tác giải phóng mặt bằng.
1.4.1. Cơ sở pháp lý để xây dựng quy định pháp luật về đền bù giải phóng mặt bằng.
Hiến pháp năm 1992 đã đặt nền móng cho việc xây dựng chính sách đền bù GPMB qua những điều khoản quy định cụ thể sau:
Điều 17 quy định :” Đất đai thuộc sở hữu toàn dân”.
Điều 18 quy định :” Nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài… tổ chức, cá nhân được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật.”
Điều 23 quy đinh :” Trường hợp thật cần thiết vì lí do quốc phòng, an ninh, vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường.”
Điều 58 quy định :” Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác, đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại điều 17 và điều 18. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.”
Luật đất đai ban hành ngày 17/4/1993 quy định:
Điều 12: “ Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi đất.”
Điều 17: “ Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng… thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệthại.”
Điều 28: “ Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất nào thì có quyền thu hồi đất đó. Trước khi thu hồi đất phải thông báo cho người đang sử dụng biết về lý do thu hồi, thời gian, kế hoạch di chuyển, phương án đền bù thiệt hại.”
Điều 73 :” Người sử dụng đất có quyền sau:
6- Được Nhà nước bảo vệ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình, được bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi.”
Điều 79 :” Người sử dụng đất có nghĩa vụ sau:
6- Đền bù cho người có đất bị thu hồi để giao cho mình.”
1.4.2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đất đai 2001.
Tuy nhiên sau một thời gian vận dụng thực tế cho thấy có rất nhiều bất cập và khó khăn khi thực hiện áp dụng các luật đất đai đó do vậy, luật đất đai năm 2001 đã được sửa đổi ở một số chương, điều như sau:
Điều 12 được sửa đổi, bổ sung là: “ Chính phủ quy định khung giá các loại đất cho từng vùng, theo từng thời gian và nguyên tắc, phương pháp xác định giá của các loại đất. Căn cứ vào quyết định của Chính phủ về khung giá và nguyên tắc, phương pháp xác định giá các loại đất, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương quy định giá các loại đất phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất, tiền thuê đất, lệ phí trước bạ, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.”
Điều 17: “ 1- Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người dân để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi được bồi thường, hỗ trợ, việc bồi thường hoặc hỗ trợ được thực hiện theo quy định của Nhà nước.
2- Nhà nước có chính sách để ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi. Trong trường hợp người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở thì được mua nhà ở của Nhà nước hoặc được giao đất có thu tiền sử dụng đất để làm nhà ở.”
1.4.3. Các quyết định về đền bù giải phóng mặt bằng theo Nghị định số 90/CP .
Điều 1: “ Quy định này chỉ áp dụng để đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng cho các mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.”
Về khung giá các loại đất để áp dụng khi đền bù thiệt hại về đất, GPMB khi Nhà nước thu hồi đất, Chính phủ quy định tại Nghị định số 87/CP, điều 4 của Nghị định này quy định:
“ 1- Trong trường hợp cùng một loại đô thị mà đất có khả năng sinh lợi khác nhau, mức độ hoàn thiện cơ sở hạ tầng khác nhau thì địa phương được phép vận dụng hệ số K điều chỉnh khung giá từ 0.8 đến 1.2 lần mức giá của cùng loại đô thị, cùng loại đường phố và vị trí đất quy định trong khung giá đất đô thị. Giá các loại đất do địa phương quy định không được thấp hơn giá tối thiểu và không được cao hơn giá tối đa của khung giá và hệ số điều chỉnh.”
Do không hợp lý, thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 302/TTg về việc điều chỉnh hệ số K trong khung giá đất với khoảng cách dãn rộng hơn từ 0.5 đến 1.8 lần.
Nghị định số 17/98/NĐ_ CP lại sửa đổi, bổ sung khoản 2, điều 4 của Nghị định 22/98/NĐ_ CP : Giá đất các loại đất do địa phương quy định có thể thấp hơn giá tối thiểu hoặc cao hơn giá tối đa của khung giá các loại đất ban hành kèm theo Nghị định số 87/CP của Chính phủ và hệ số K đã được điều chỉnh tại quyết định số 302/TTg của Chính phủ, nhưng cao hơn hay thấp hơn không quá 50%.
1.4.4. Các vấn đề liên quan đến công tác thu hồi đất và bồi thường thiệt hại.
1.4.4.1. Căn cứ để xác định giá đất bồi thường thiệt hại.
Nghị định 22/1998/NĐ_CP quy định giá đất để tính bồi thường thiệt hại do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương quyết định cho từng dự án. Giá đất bồi thường thiệt hại được xác định trên cơ sở giá đất của địa phương ban hành theo quy định của Chính phủ nhân với hệ số K để đảm bảo khả năng sinh lời và giá chuyển nhượng ở địa phương. Hệ số K được xác định theo quan hệ tỷ lệ giữa giá đất tính theo khả năng sinh lời hoặc giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế với giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định nêu trên.Những quy định này dẫn đến tình trạng so sánh giữa dự án thực hiện trước, dự án thực hiện sau, về giá bồi thường và dẫn đến tình trạng tuỳ tiện ban hành hệ số K. Mặt khác, khung giá đất trong Nghị định 87/1994/NĐ_CP đã ban hành quá lâu, quy định là rất thấp không còn phù hợp với giá đất thực tế hiện nay.
Để khắc phục tình trạng ấy, Nghị định 188/2004/NĐ_CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất ra đời đã khắc phục được những bất cập trong Nghị định 87/1994/NĐ_CP.
Theo Nghị định mới này, có nhiều điều được bổ xung. Khung giá đất đã được nâng lên rất nhiều và sát với thực tế hơn. Giá đất khu vực giáp ranh cũng đã được quy định rõ hơn. Khi định giá đất tại khu vực giáp ranh giữa các tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương, Uỷ ban nhân dân tỉnh có đất giáp ranh phải căn cứ vào quy định tại khoản 1 điều 12 Nghị định 188/2004/NĐ_CP thoả thuận với nhau về giá đất. Đất giáp ranh thuộc loại đất nào thì áp dụng khung giá do Chính phủ quy định đối với loại đất đó.
Đối với tại khu vực giáp ranh giữa các tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương như quy định tại khoản 1 điều 12 Nghị định 188/2004/NĐ_CP nếu có điều kiện tự nhiên, kết cấu hạ tầng như nhau, có cùng mục đích sử dụng theo quy hoạch thì mức giá như nhau. Trường hợp đặc biệt mức giá có thể chênh lệch nhau, nhưng tỷ lệ chênh lệch không quá 20%.
1.4.4.2. Bồi thường các loại đất bị thu hồi.
Đối với đất nông nghiệp: Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng. Nếu không có đất để bồi thường thì bồi thường bằng tiền tính theo giá dất cùng mục đích sử dụng.
Đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư, đất ao, vườn liền kề với đất ở ngoài việc bồi thường theo giá đất nông nghiệp còn được hỗ trợ bằng tiền, giá tính hỗ trợ từ 20_50% giá đất liền kề.
Hộ gia đình sử dụng đất do nhận giao khoán đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp… của các nông, lâm trường quốc doanh khi Nhà nước thu hồi không được đền bù về đất, nhưng được bồi thường về chi phí đầu tư vào đất còn lại và được hỗ trợ.
Đối với đất phi nông nghiệp ( không là đất ở): Đất là mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân có nguồn gốc là đất ở đã được giao sử dụng lâu dài hoặc có đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi được bồi thường theo đất ở.
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất phi nông nghiệp có thời hạn do nhận chuyển nhượng, thừa kế, hoặc do Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất được bồi thường theo giá đất phi nông nghiệp, trường hợp sử dụng đất do Nhà nước hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã cho thuê theo thẩm quyền thì khi Nhà nước thu hồi chỉ được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại.
Đối với đất ở: Người sử dụng đất ở khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở được bồi thường bằng giao đất ở mới tại khu tái định cư hoặc bồi thường bằng tiền theo đề nghị của người có đất bị thu hồi. Diện tích đất bồi thường bằng giao đất ở mới tại khu tái định cư cho người bị thu hồi cao nhất bằng hạn mức giao đất ở tại địa phương
1.4.4.3 Các đối tượng được đền bù.
Tổ chức,cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, hộ gia đình cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức cá nhân nước ngoài đang sử dụng đất mà đất đai bị thu hồi có đủ điều kiện về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản hợp pháp.
Người bị thu hồi đất, bị thiệt hại tài sản gắn liên với đất bị thu hồi được bồi thường đất, tài sản hoặc hỗ trợ và bố trí tái định cư theo quy định tại Nghị định 197/2004/NĐ_CP.
Nhà nước khuyến khích người có đất, tài sản thuộc phạm vi thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích tại khoản 1 điều 1 Nghị định 181/2004/NĐ_CP tự nguyện hiến tặng một phần hoặc toàn bộ tài sản, đất cho Nhà nước.
1.4.4.4. Các đối tượng phải đền bù.
- Tổ chức cá nhân trong nước, nước ngoài được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế.
1.5. Một số nghiên cứu về công tác giải phóng mặt bằng.
1.5.1. Một số nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả có nghiên cứu một số bài viết liên quan đến công tác GPMB. Với mỗi một đề tài, các tác giả lại có một cách nhìn một cách phân tích khác nhau về công tác GPMB.
Đề tài nghiên cứu của Đào Thị Tuyên “ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác GPMB phục vụ cho dự án xây dựng trung tâm giới thiệu mặt hàng Hà Trung_ Huyện Thanh Trì”. Đề tài này tập trung vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác GPMB, nghiên cứu thực trạng công tác bồi thường thiệt hại GPMB của dự án trong quá trình thực hiện. Với mục đích nghiên cứu như vậy, tác giả đã phân tích khá sâu những vấn đề lý thuyết liên quan đến công tác GPMB, từ khái niệm, tầm quan trọng của công tác đến các cơ sở pháp lý để thực hiện công tác GPMB. Trong phần thực trạng, đề tài đi sâu vào việc nghiên cứu quá trình thực hiện công tác GPMB của dự án cụ thể là công tác đền bù GPMB. Tác giả đã phân tích rất chi tiết các bước thực hiện từ công tác xác lập số liệu về đất và tài sản trên đất, quá trình định giá tài sản đến công tác thực hiện chi trả tiền đền bù. Qua thực trạng tìm hiểu được, tá._.c giả đã đưa ra một số khó khăn gặp phải trong quá trình thực hiện, nguyên nhân của những khó khăn ấy. Phần giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác GPMB cũng đi sâu vào những giải pháp cho công tác đền bù GPMB.
Đề tài nghiên cứu “ Thực trạng và giải pháp cho công tác tái định cư khi GPMB trên địa bàn Thành phố Hà Nội” của Doãn Hồ Lan thì lại nghiên cứu vấn đề tái định cư trong công tác GPMB trên địa bàn cả Thành phố Hà Nội. Mục đích nghiên cứu của đề tà là nghiên cứu đề xuất một số chính sách về tái định cư trong công tác GPMB tại Thành phố Hà Nội đối với các dự án có tái định cư nhằm đảm bảo ổn định điều kiện sống và làm việc cho những người bị ảnh hưởng bởi các dự án phát triển.
Tác giả đã hệ thống hoá cơ sở lý luận về công tác tái định cư trong GPMB và tổng kết, đánh giá thực trạng của công tác tái định cư, tình hình đầu tư xây dựng khu tái định cư và sự bố trí tái định cư trên địa bàn Thành phố Hà Nội . Phân tích được các nguyên nhân thành công và không thành công về công tác tái định cư trên địa bàn Thành phố. Tuy nhiên đây là một vấn đề rất rộng do trên địa bàn Thành phố có rất nhiều công trình xây dựng khi GPMB cần tái định cư. Có lẽ vì thế nên đề tài này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích rất tổng quát với các số liệu chung chung chưa đi sâu vào những dự án cụ thể.
1.5.2. Bài học kinh nghiệm.
Từ thực tế công tác GPMB ở nước ta và thông qua tìm hiểu một số nghiên cứu về vấn đề này, tác giả đưa ra một số bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho công tác GPMB ở Việt Nam.
Một là cần đổi mới công tác GPMB theo hướng tích cực chủ động, tăng cường trách nhiệm của chính quyền cơ sở đồng thời đổi mới phương pháp chỉ đạo, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực của cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai và phát triển đô thị. Tập trung cao cho công tác GPMB với phương châm kiên quyết, hiệu quả.
Hai là đảm bảo lợi ích của các bên liên quan: Nhà nước, chủ đầu tư, người bị thu hồi đất thông qua việc áp dụng các chính sách của Nhà nước một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình, không cứng nhắc.
Ba là hình thành các tổ chức chuyên trách làm công tác GPMB tạo hiệu quả thiết thực trong công tác điều hành, chỉ đạo nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác GPMB trong hiện tại và lâu dài.
Bốn là quan tâm đúng mức đến công tác tuyên truyền vận động. Công tác này cần được làm thường xuyên và tích cực tránh tình trạng chỉ làm khi có vướng mắc trong GPMB.
1.6. Kết luận chương I
Trong chương một chúng ta đã có một cái nhìn tổng quan nhất về các vấn đề lien quan đến công tác GPMB. GPMB là một công tác quan trọng không thể thiếu trong mỗi dự án đầu tư xây dựng. Tuy nhiên trong thực tế thực hiện công tác GPMB đã có rất nhiều khó khăn , vướng mắc xảy ra cho các cán bộ thực hiện. Những phân tích về thực trạng công tác GPMB của dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây ở chương II sẽ cho chúng ta một cái nhìn cụ thể, thực tế hơn về những vấn đề này.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG PHỤC VỤ CHO DỰ ÁN XÂY DỰNG CÁC CÔNG TRÌNH CS HTKT KHU VỰC HỒ TÂY QUẬN TÂY HỒ.
2.1. Vài nét về Quận Tây Hồ .
2.1.1. Điều kiện tự nhiên của Quận Tây Hồ .
2.1.1.1. Vị trí địa lý của Quận Tây Hồ.
Quận Tây Hồ là đơn vị hành chính cấp Quận được thành lập theo Nghị định số 69/CP ngày 28/11/1995 của Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1996 trên cơ sở sáp nhập 3 Phường của Quận Ba Đình và 5 xã thuộc Huyện Từ Liêm.
Quận Tây Hồ nằm ở phía Tây Bắc Thành phố Hà Nội, phía Nam giáp Quận Ba Đình, phía Đông Bắc giáp Huyện Gia Lâm, phía Tây giáp Huyện Từ Liêm và Quận Cầu Giấy, phía Tây Bắc giáp Huyện Đông Anh. Phía Đông Bắc của Quận có sông Hồng nằm dọc theo ranh giới giữa Quận Tây Hồ với Huyện Đông Anh và Gia Lâm chạy theo hướng từ Đông Bắc xuống Đông Nam, tạo ra một vùng đất ven sông trù phú từ chân cầu Thăng Long xuống tới khu bãi An Dương thuộc các Phường Phú Thượng, Nhật Tân, Tứ Liên, Quảng An, Yên Phụ với diện tích hơn 200 ha. Diện tích sông Hồng nằm trong địa giới hành chính Quận Tây Hồ khoảng 464 ha.
Hồ Tây là một hồ tự nhiên nằm gọn trong địa giới hành chính của Quận Tây Hồ với diện tích khoảng 526 ha.
2.1.1.2. Quỹ đất tự nhiên của Quận Tây Hồ.
Tổng diện tích đất tự nhiên theo địa giới hành chính Quận là 2.404,8096 ha. Diện tích này chiếm khoảng 2% tổng diện tích Thành phố Hà Nội. Để xem xét cụ thể tỷ lệ các loại đất trên địa bàn Quận, ta có bảng sau:
Bảng 2.1. Cơ cấu diện tích đất đai Quận Tây Hồ năm 2005
Loại đất
Diện tích (ha)
Đất nông nghiệp
Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
Đất trồng cây hằng năm
Đất vườn tạp
1.104,9699
592,585
484,2791
28,2623
Đất chuyên dung
Đất xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng
Đất giao thông
Đất dành cho các di tích lịch sử, văn hoá
392,3875
1505131
112,9734
10,4187
Đất ở đô thị
299,7279
Đất chưa sử dụng và sông suối
- Đất có thể khai thác được
603,2725
110,5806
Tổng
2.404,8096
(Nguồn: Báo cáo kết quả kiểm kê đất đai Quận Tây Hồ năm 2005)
Đất nông nghiệp chiếm 50% tổng diện tích toàn Quận. Đặc điểm này có được là do Quận Tây Hồ là Quận được thành lập bởi sự sáp nhập của 5 Huyện ngoại thành. Phần lớn các hộ dân ở đây đều làm nông nghiệp, trồng hoa màu. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng ảnh hưởng đến công tác GPMB đặc biệt là công tác định giá đền bù về đất và tài sản trên đất.
Đất chuyên dùng của Quận chiếm 16.34% . Trong đó chủ yếu là đất xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng và đất giao thông. Đất giao thông là 112,9734 ha chiếm 28,7% tổng diện tích đất chuyên dùng. Tuy nhiên so với tính chất của đô thị loại một thì tỷ lệ này quá thấp do phần lớn đường thuộc địa bàn Quận là đường giao thông nhỏ, ngõ, xóm… Chỉ có rất it các trục đường lớn như Lạc Long Quân, đường Bưởi… Vì vậy trong giai đoạn sắp tới, để phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn Quận, sẽ có rất nhiều trục đường giao thông mới được mở và có liên quan đến công tác GPMB.
Đất ở đô thị chiếm 12,48% tổng diện tích toàn Quận Tây Hồ. Đây là một tỷ lệ rất thấp so với các Quận trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Tính đến ngày 1/4/2005, bình quân diện tích đất ở trên hộ gia đình của Quận là 125,78m2/hộ (trong khi đó của Thành phố là 78,65m2/hộ). Bình quân diện tích đất ở tính theo nhân khẩu là 29,83m2/người( trong khi đó của Thành phố là 83,46m2/người).
Quận có 603,2725 ha đất chưa được sử dụng và sông suối trong đó, đặc biệt có 110,5806 ha đất bằng có thể khai thác. Đây là một điều kiện rất thuận lợi để Quận Tây Hồ phát triển xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng.
2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội của Quận Tây Hồ.
2.1.2.1.Điều kiện kinh tế.
Do đặc thù Quận mới thành lập với 5 xã vùng ngoại thành, sản xuất nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất quan trọng thu hút hơn 30% lực lượng lao động.
Kinh tế nông nghiệp của 5 Phường vốn là 5 xã ven đô khá đa dạng, sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là cây lúa và hoa màu.
Hoa cây cảnh là sản phẩm chính cho hiệu quả kinh tế cao của Quận Tây Hồ. Nhưng kinh tế nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 9% thu ngân sách của toàn Quận.
Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn Quận chưa phát triển, toàn Quận có 60 đơn vị, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, và hơn 90 doanh nghiệp Nhà nước trong đó có những doanh nghiệp lớn như: công ty khách sạn du lịch công đoàn, khách sạn Thắng Lợi, công ty đầu tư xây dựng Hà Nội…
Nguồn thu có tỷ trọng lớn cho ngân sách của Quận là thu thuế ngoài quốc doanh chiếm 55% _ 60% nguồn thu ngân sách của Quận.
Trong những năm gần đây, diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn Quận đã dần bị thu hẹp lại. Nguyên nhân là do sự ra đời của hang loạt các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đã lấy dần vào đất nông nghiệp. Một số ngành nghề truyền thống của các khu vực làng cổ đã không còn khả năng phát triển. Phần lớn các hộ dân cư chuyển sang kinh doanh nhỏ, làm các nghề tiểu thủ công nghiệp hoặc làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp và các hợp tác xã ngoài quốc doanh.
Trong những năm qua, để bắt nhịp với tốc độ phát triển chung của toàn Thành phố, Uỷ ban nhân dân Quận đã chỉ đạo ra nghị quyết tạo điều kiện thuận lợi và cơ chế mở cửa cho các thành phần phát triển sản xuất kinh doanh, các công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân… Việc tạo điều kiện cấp phép hoạt động cho các thành phần kinh tế đã góp phần tích cực giải quyết việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu ngân sách của toàn Quận.
Theo kế hoạch năm 2005_2010 Quận Tây Hồ phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm là 15%_20%, trong đó, dịch vụ thương mại tăng 20%_25%/ năm, công nghiệp tăng 15%_20%/năm, không xác định cơ cấu kinh tế nông nghiệp vì trong thời gian 5 năm tới trên địa bàn Quận sẽ không còn tồn tại nền kinh tế nông nghiệp.
2.1.2.2.Hạ tầng kỹ thuật đô thị.
Do là Quận mới thành lập, 3 Phường Yên Phụ, Thuỵ Khê, Bưởi thuộc Quận Đống Đa trước vốn là 3 Phường nghèo, các Phường Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng có cơ sở hạ tầng còn thấp kém. Hiện trên địa bàn Quận còn khoảng 25% số hộ gia đình phải sử dụng nước giếng khoan. Điện thắp sáng con do 2 chi nhánh điện quản lý là chi nhánh của Quận Ba Đình và Huyện Từ Liêm. Điện chiếu sáng mới chỉ có trên các trục đường phố chính. Chưa có tuyến giao thông trục chính lớn phần lớn các tuyến đường trong khu đô thị còn mang tính chất đường làng, hệ thống thoát nước vẫn chưa được xử lý hoàn thiện ở phần lớn địa bàn Quận.
2.2. Thực trạng công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn Quận Tây Hồ.
2.2.1. Kết quả đạt được
Là một Quận mới thành lập dựa trên sự xáp nhập của 3 Phường nội thành và 5 Huyện ngoại thành nên Tây Hồ vẫn là một Quận còn thiếu nhiều các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Trong những năm qua, Quận đã có nhiều biến chuyển lớn trong công tác xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho đời sống của nhân dân. Rất nhiều dự án lớn đã được ký quyết định thực hiện đã đem lại một bộ mặt mới cho Quận Tây Hồ. Để thực hiện những dự án đó rất cần có một mặt bằng để thi công vì vậy, công tác GPMB luôn là công tác được quan tâm hàng đầu trong mỗi dự án đầu tư xây dựng của Quận.
Trong 5 năm qua, Uỷ ban nhân dân Quận Tây Hồ đã lãnh đạo điều hành tổ chức thực hiện công tác GPMB cho hơn 100 dự án đầu tư trên địa bàn Quận với tổng diện tích đất thu hồi là trên 600 ha
Bảng 2.2. Công tác GPMB Quận Tây Hồ giai đoạn 2001_2005
Năm
Dự án GPMB
Diện tích đất phải thu hồi (ha)
Hộ tái định cư
Kế hoạch
Đã thực hiện
Kế hoạch
Đã thực hiện
Kế hoạch
Đã thực hiện
Đất NN
Đất ở
Đất NN
Đất ở
2001
15
7
44,2
15,46
22,56
7,8
80
43
2002
20
16
83,64
18,23
60,7
14
112
75
2003
31
12
126,4
23,6
25,4
9,6
372
150
2004
33
18
238,19
29,663
111,96
16,47
416
256
2005
32
11
141,13
27,437
59,72
5,89
678
123
( Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác GPMB cuối năm Quận Tây Hồ )
Từ bảng tổng kết trên ta thấy năm 2001 và 2002 là hai năm hoạt động GPMB trên địa bàn Quận Tây Hồ chưa hoạt động mạnh mẽ. Có ít các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng được thực hiện. Tuy nhiên giai đoạn 2003_2005 là những năm Quận có nhiều đổi mới. Chủ trương của Nhà nước và Thành phố đã làm cho các dự án đầu tư xây dựng lớn trên địa bàn Quận tăng lên. Công tác GPMB trong giai đoạn này cũng hoạt động mạnh mẽ và đạt kết quả cao hơn. Đặc biệt năm 2004 là năm thực hiện Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Thành uỷ về nhiệm vụ chủ yếu năm 2004 “năm giải phóng mặt bằng, giao thông, kỷ cương và văn minh đô thị”. Vì vậy, trong năm này hoạt động GPMB đã đạt những kết quả đáng khích lệ. Thực hiện GPMB 18/33 dự án đảm bảo bàn giao mặt bằng đúng tiến độ.
Năm 2005 Quận Tây Hồ thực hiện rất nhiều dự án lớn như mở rộng đường Lạc Long Quân, nâng cấp đường Xuân La và dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây là một trong 9 dự án trọng điểm chào mừng 1000 năm Thăng Long Hà Nội.
2.2.2. Những thuận lợi.
Thực tế công tác GPMB trên địa bàn Quận cho thấy một số những dự án đã triển khai xong công tác GPMB là do có nhiều thuận lợi. Trước hết là nhận được sự đồng tình và ý thức chấp hành quyết định của Nhà nước của đại bộ phân nhân dân trong diện bị thu hồi đất. Bên cạnh đó các dự án được thực hiện trước năm 2004 thường thuận lợi hơn do khi đó các chính sách về đất đai còn ổn định chưa có sự thay đổi. Mặt khác, các công tác GPMB được thực hiện trong giai đoạn đầu khi các dự án đầu tư trên địa bàn Quận còn chưa nhiều nên nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo.
2.2.3. Những khó khăn.
Tuy nhiên công tác GPMB vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần giải quyết. Phần lớn các dự án vẫn chưa thực hiện xong công tác GPMB là do vướng mắc ở khâu định giá đền bù. Các chế độ chính sách về GPMB tuy đã được điều chỉnh, bổ xung nhưng vẫn chưa phù hợp với giá thị trường, chưa đáp ứng yêu cầu của người dân gây khiếu kiện kéo dài.
Do đặc điểm địa bàn Quận Tây Hồ là có nhiều đất nông nghiệp do vậy rất nhiều người đã bị rơi vào tình trạng thất nghiệp khi bị thu hồi đất.
Công tác chuẩn bị quỹ nhà ở tái định cư vừa thiếu vừa chậm chưa đi trước một bước so với tiến độ GPMB (dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây …).
Trong năm 2004, 2005 là năm có nhiều văn bản liên quan đến đất đai đã có hiệu lực thi hành bị thay đổi. Việc không đồng bộ chênh lệch nhau về thời điểm có hiệu lực thi hành của các văn bản đã gây nhiều khó khăn cho việc tính toán, lập phương án bồi thường. Một số trường hợp đã nhận tiền bồi thường hỗ trợ theo chính sách cũ và đã bàn giao mặt bằng nhưng khi chính sách mới có hiệu lực lại bức xúc về quyền lợi ngăn cản, không cho thực hiện dự án.
Tuy còn nhiều khó khăn trong công tác thực hiện GPMB nhưng Uỷ ban nhân dân Quận cũng như Hội đồng GPMB Quận vẫn luôn cố gắng thực hiện theo đúng quy trình, áp dụng đúng chính sách, chế độ thu hồi, đền bù theo quy định của Nhà nước. Bên cạnh sự cố gắng của các cơ quan có thẩm quyền thì sự ủng hộ hỗ trợ của người dân cũng là một yếu tố quan trong giúp công tác GPMB được thực hiện đồng bộ hơn đảm bảo tiến độ thi công cho các công trình xây dựng.
2.3. Thực trạng công tác GPMB phục vụ cho dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây.
2.3.1. Vài nét khái quát về dự án.
Để giữ gìn và bảo vệ cảnh quan xung quanh Hồ Tây , Hà Nội đã trình và được Chính phủ phê duyệt dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây. Dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quyết định số 1209/QĐ – TTg ngày 4/12/2000 với tổng mức đầu tư ban đầu là 546 tỷ 930 triệu đồng. Sau đó, ngày 13/12/2002, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội( sau khi được Thủ tướng đồng ý) ra quyết định điều chỉnh hạng mục thu gom xử lý nước thải và chi phí GPMB với tổng mức đầu tư lên tới 958 tỷ 633 triệu đồng. Đây là dự án sử dụng 20% vốn ngân sách, 80% huy động từ các nguồn khác trong đó chủ yếu là nguồn thu từ đấu thầu quyền sử dụng đất. Đây là một công trình công cộng phúc lợi được thực hiện trên cơ sở góp vốn của Nhà nước và địa phương chủ yếu bằng đấu thầu những khu đất nằm trên địa bàn Quận Tây Hồ. Dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây là một dự án nhóm A và là một trong 9 cụm công trình trọng điểm của Thành phố hướng tới 1000 năm Thăng Long.
Dự án được chính thức đi vào hoạt động vào năm 2001. Theo kế hoạch ban đầu thì toàn bộ dự án sẽ hoàn thành vào quý 1 năm 2006. Riêng hạng mục “ hệ thống thu gom và xử lý nước thải” sẽ hoàn thành vào cuối năm 2006. Tuy nhiên tính cho đến thời điểm hiện tại dự án mới hoàn thành được 14300/18825 m kè( đạt 76% ) và 11650/18400 m đường ( đạt 63.3%). Căn cứ vào khối lượng công việc còn lại thì dự án khó có thể hoàn thành được đúng thời hạn. Nguyên nhân chính dẫn đến việc chậm trễ chính là do công tác GPMB chưa thực hiện đúng tiến độ.
Để thực hiện được dự án có khoảng 56ha đất phải GPMB. Trong giai đoạn 2001_2005 đã có khoảng 40 ha đất ( chiếm 70% )được thu hồi. Trong hai năm tới, để dự án sớm hoàn thành đúng tiến độ thì công tác GPMB phải đảm bảo luôn đi trước một bước.
2.3.2.Quá trình thực hiện công tác GPMB.
Các bước thực hiện công tác GPMB của dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây được thể hiện rõ qua bảng sau:
Bảng 2.3. Sơ đồ quá trình thực hiện công tác GPMB của dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây
Giải quyết khiếu nại
GPMB, giao đất cho chủ đầu tư
Lập phương án hỗ trợ, tái định cư
Chi trả tiền đền bù
Trình duyệt phương án đền bù
Định giá đền bù đất và Tài sản trên đất
Thành lập
Hội đồng GPMB
(Nguồn tác giả tự tổng hợp)
2.3.2.1.Thành lập hội đồng GPMB.
Sau quyết định số 4484/QĐ – UB của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội về việc thành lập Ban quản lý dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây, Uỷ ban nhân dân Quận Tây Hồ đã ra quyết định số 1354/QĐ – UB về việc thành lập Hội đồng GPMB thực hiện dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây.
Hội đồng GPMB được thành lập có chức năng chỉ đạo , xem xét và điều chỉnh các hoạt động trong công tác GPMB của dự án.
Nhiệm vụ cụ thể của Hội đồng GPMB:
Một là thực hiện việc điều tra, thống kê, kiểm kê, diện tích đất bị thu hồi, tài sản gắn liền trên đất để làm cơ sở cho việc lập phương án bồi thường, hỗ trợ cho người sử dụng đất bị thu hồi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định hiện hành.
Hai là thực hiện nghiêm túc quy định về trình tự tổ chức thực hiện công tác GPMB, bồi thường hỗ trợ, tái định cư .
Ba là chi trả kinh phí bồi thường, hỗ trợ và kinh phí hoạt động của hội đồng GPMB.
Các thành viên trong Hội đồng GPMB đều có trách nhiệm tham gia đóng góp ý kiến phê duyệt theo chức năng được giao và phải đảm bảo về công việc của mình thực hiện là hoàn toàn khách quan, vô tư, trung thực.
2.3.2.2. Tổ chức công tác định giá đền bù đất và tài sản trên đất.
Công tác tổ chức kê khai, điều tra xác nhận hiện trạng đất.
Căn cứ vào quyết định thành lập Hội đồng GPMB Quận, Chủ tịch Hội đồng GPMB Quận ra quyết định thành lập tổ công tác điều tra GPMB. Tổ công tác có nhiệm vụ giúp Hội đồng GPMB thực hiện điều tra, thống kê, kê khai tài sản trên diện tích đất bị thu hồi của người dân trên địa bàn Quận.
Tổ công tác đã phát tờ khai và hướng dẫn khai cho các hộ gia đình kê khai về đất đai và các loại tài sản trên đất.
Phần lớn các hộ không cho tổ công tác tiến hành kê khai đều là những hộ có công trình xây dựng trên đất và đang kinh doanh trên các mảnh đất đó. Sau nhiều lần vận động thuyết phục nhưng các hộ gia đình này vẫn không tự giác chấp hành kê khai, tổ công tác đã thực hiện các biện pháp cưỡng chế kê khai đối với những hộ ngoan cố không chấp hành.
Kết quả cụ thể công tác kê khai của từng gói thầu như sau:
Bảng 2.4. Kết quả công tác kê khai
Gói thầu
Số hộ điều tra khảo sát
Số hộ đồng ý cho điều tra
Số hộ không đồng ý
Gói 19: Tuyến Cống Đõ, Võng Thị
5
2
3
Gói 22: Tuyến Cống Đõ_làng hoa Thụy Khuê
54
53
1
Gói 18: Tuyến Cống Xuân La_cv nước Hồ Tây
137
116
21
Gói 9: Câu lạc bộ HN
251
71
80
Gói 21: Tuyến Phủ Tây Hồ _KS Tây Hồ
71
60
11
Gói 10: Làng Nghi Tàm_ Nhà nghỉ TW
99
55
35
Gói 11: KS Quảng Bá_ KS Tây Hồ
65
12
53
Đường nội bộ ao cá Nhật Tân
150
0
150
Gói 12: Đoạn Đầm bảý_KS Quảng Bá
54
54
0
Tổng
885
423
452
(Nguồn : Báo cáo tổng kết công tác GPMB của Quận Tây Hồ)
b) Tổ chức công tác định giá đền bù đất và tài sản trên đất:
Căn cứ:
Việc tiến hành đền bù về đất và tài sản trên đất của dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực hồ Tây dựa trên một số căn cứ sau:
- Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích an nhinh quốc phòng,lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng.
- Quyết định số 20/1998/QĐ-UB ngày 21/8/1998 của Uỷ ban nhân dânThành phố Hà Nội 1998 về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất.
- Quyết định 99/2003/QĐ-UB ngày 21/8/2001 của Uỷ ban nhân dânThành phố Hà Nội về việc bổ sung một số điều của quyết định số 20/1998/QĐ-UB ngày 30/6/1998 về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất.
- Quyết định số 6339/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dânThành phố Hà Nội về tăng giá bồi thường thiệt hại về đất một số khu vực xung quanh hồ Tây
Xuất phát đặc điểm của khu vực GPMB dự án rất phức tạp, liên quan đến nhiều hộ dân, nguồn gốc đất khác nhau và do quy định hạn mức 120m2/hộ ( chỉ giới hạn đền bù không quá 120m2/hộ) nên chế độ áp dụng cho đền bù GPMB của dự án không thống nhất một giá vì phải vận dụng các chính sách,chế độ đối với từng loại đất.
Đối với đất nông nghiệp:
Theo quy định của quyết định 99/2003/QĐ-UB thì hệ số K tại khu vực GPMB của dự án là K=2.6. Giá đền bù cụ thể ( chưa kể hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và hỗ trợ ổn định đời sống ) của từng khu vực trong diện GPMB được cụ thể trong bảng sau:
Bảng 2.5. Giá đất đền bù một số khu vực thuộc diện GPMB của dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây.
Phường
Khu đất tiếp giáp các đường phố đặt tên( nghìn đồng/m2)
Khu vực còn lại (nghìn đồng/m2)
Thuỵ Khê
550 _ 800
350 _ 500
Quảng An, Yên Phụ
400 _ 550
200 _ 350
Nhật Tân, Tứ Yên
250 _ 400
150 _ 200
( Nguồn: Bảng định giá đền bù _ Báo cáo tổng kết công tác GPMB của Ban quản lý dự án xây dựng công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây )
Các khu vực còn lại, từ 130.000 đ/m2 đến 159.000 đ/m2.
Đối với đất thổ cư:
Thực hiện Quyết định số 6339/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội về tăng giá bồi thường thiêt hại về đất tại một số khu vực xung quanh Hồ Tây, Ban quản lý dự án đã tiến hành tổ chức đền bù cho người dân theo khung giá đất mới. Cụ thể về giá đền bù đất thổ cư được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.6. Giá đất đền bù khi thu hồi đất tại một số tuyến đường Quận Tây Hồ
Tuyến đường
Vị trí
Đất mặt đường
Tiếp giáp ngõ rộng > 3m
Vị trí còn lại
Lạc LongQuân_Thuỵ Khê_Võng Tây Hồị
14,5 triệuđ/m2
10,2 triệu đ/m2
8,2 triệu đ/m2
Cống Đõ_ Làng văn hoá Việt Nhật
10,2 triệu đ/m2
8,2 triệu đ/m2
Nhà nghỉ trung ương_Phủ Tây Hồ
11,2 triệu đ/m2
9 triệu đ/m2
( Nguồn: Bảng định giá đền bù _ Báo cáo tổng kết công tác GPMB của Ban quản lý dự án xây dựng công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây )
Như vậy, tuy đã được định giá với mức cao hơn so với trước đây nhưng giá đền bù tại các tuyến đường nằm trong quy hoạch của dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu vực Hồ Tây vẫn còn rất thấp so với giá thị trường. Điều này tạo tâm lý lo ngại cho những người dân bị thu hồi đất. Với khoản tiền đền bù như vậy họ rất khó khăn trong việc ổn định chỗ ở mới.
Đối với tài sản trên đất:
Nhà ở, công trình xây dựng trên đất: tính bồi thường bằng giá trị xây mới của nhà,công trình có kỹ thuật tương đương. Giá trị xây mới này được tính bằng diện tích nhân với đơn giá xây dựng mới của mái nhà.
Đối với nhà và công trình xây dựng khác không thuộc đối tượng quy định trên thì mức bồi thường được tính như sau:
Mức bồi thường=giá trị hiện có của công trình + (giá trị xây mới-giá trị hiện có)*60%.
Đối với nhà,công trình bị cắt xén bị ảnh hưởng đến kết cấu và an toàn nhà, công trình mà phải dỡ toàn bộ thì được bồi thường toàn bộ nhà, công trình.
Đối với cây trồng,vật nuôi: Mức bồi thường đối với cây hàng năm được tính bằng năng suất cao nhất của vụ thu hoạch trong ba năm liền kề tại địa phương và giá trung bình tại thời điểm thu hồi đất.
Mức bồi thường đối với cây lâu năm tính bằng giá trị hiện có của vườn cây.
Cây trồng chưa thu hoạch nhưng có thể di chuyển thì bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hai thực tế do việc di chuyển, phải trồng lại.
2.3.2.3.Trình cấp trên xem xét và phê duyệt phương án đền bù.
Sau khi lập các phương án đền bù cho các hộ dân trong diện GPMB, Ban quản lý dự án trình Hội đồng GPMB Quận. Hội đồng thẩm định Thành phố tham gia thẩm định các phương án trên cơ sở hồ sơ của Hội đồng GPMB Quận trình lên. Trong quá trình xét duyệt hồ sơ, Hội đồng thẩm định Thành phố đã lập tờ trình gửi Uỷ ban nhân dânThành phố xin xét duyệt và áp dụng một số chính sách, đơn giá cụ thể cho dự án .
Ví dụ: Chính sách đặc thù đã được áp dụng cho dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây : Điều 7 Nghị định 22/1998/NĐ – Cp quy định “….người chiếm đất trái phép, thì khi Nhà nước thu hồi đất không được đền bù thiệt hại về đất…”.Ở xung quanh Hồ Tây, trong những năm gần đây, việc lấn chiếm đất công xảy ra phổ biến, cơ sở để xác định mốc giới cho việc kết luận lấn chiếm không nhiều. Do đó, Uỷ ban nhân dân Thành phố đã phê duyệt chính sách hỗ trợ bằng 15% và 25% giá đất bị thu hồi và áp dụng hệ số lợi thế nhỏ hơn 2 cho phù hợp với khả năng sinh lợi và giá chuyển nhượng sử dụng đất ở địa phương ( điều 8 Nghị định 22).
Sau khi có văn bản thoả thuận của Hội đồng Thẩm định Thành phố với Hội đồng GPMB Quận, Hội đồng GPMB Quận giao cho Ban quản lý dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây điều chỉnh các số liệu theo biên bản thoả thuận của Sở tài chính vật giá.
Ban quản lý dự án niêm yết công khai các phương án bồi thường thiệt hại và tái định cư tại trụ sở Uỷ ban nhân dân các Phường. Trong 3 ngày, các hộ dân trong diện giải toả kiểm tra và có ý kiến với các phương án đến bù đã niêm yết, sau khi thu thập và giải quyết, Ban quản lý dự án trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Quận ra quyết định phê duyệt các phương án đền bù và tái định cư.
2.3.2.4.Thực hiện công tác vận động, chi trả tiền đền bù.
Thực hiện theo trình tự thủ tục GPMB, sau khi phương án đền bù thiệt hại được phê duyệt, tổ công tác GPMB đã niêm yết công khai ( trong suốt thời gian thực hiện) danh sách các hộ phải di dời, phương án đền bù, hỗ trợ tái định cư tại Uỷ ban nhân dâncác Phường có trong quy hoạch của dự án. Đồng thời cũng có thông báo cụ thể đến từng hộ gia đình về phương án đền bù cũng như thời gian đến nhận tiền đền bù. Ban quản lý dự án đã phối hợp cùng với Hội đồng GPMB và Uỷ ban nhân dân Quận để thực hiện chi trả tiền đền bù.
Một số hộ đã tự nguyện nhận tiền và đồng ý di dời bàn giao lại đất cho Hội đồng GPMB. Bên cạnh đó có nhiều hộ không chịu đến nhận tiền mặc dù tổ công tác đã nhiều lần thông báo.
Trước thực trạng đó, Hội đồng GPMB Quận Tây Hồ đã báo cáo lên Hội đồng GPMB Thành phố, Chủ tịch uỷ ban nhân dân Thành phố đã ra quyết định cưỡng chế bằng pháp luật đối với một số hộ không chịu chấp hành.
Sau một thời gian dài vận động tinh thần tự nguyện cũng như sử dụng các biện pháp pháp luật để cưỡng chế, tính đến tháng 1/2006, theo báo cáo của Ban quản lý dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây công tác đền bù GPMB đã thu được kết quả cụ thể trong từng gói thầu như sau:
Bảng 2.7. Kết quả thực hiện công tác chi trả tiền đền bù hỗ trợ tái định cư
Gói thầu
Số hộ điều tra khảo sát
Số hộ đã nhận tiền
Số tiền chi trả
Số hộ đã bố trí tái định cư
Tổng diện tích bàn giao
Diện tích đất ở (ha)
Diện tích đất nông nghiệp
Gói 19
4
1
104970
8
0.08
0.08
Gói 22
54
53
47
0.85
0.85
Gói 18
137
113
43026
1.06
1.06
Gói 21
71
71
13608
2
2
Gói 9
251
53
20000
0.0874
0.0874
Gói 10
99
55
18900
0.62
0.62
Gói 11
65
12
1136
0.5
0.5
Đường nội bộ
150
Gói 12
54
54
7000
5.422
0.776
4.677
Tổng
885
412
104970
55
10.619
5.3934
5.257
(Nguồn : Báo cáo tổng kết công tác GPMB Quận Tây Hồ)
Theo số liệu thống kê trong bảng mới chỉ có 412/885 hộ dân cư đến nhận tiền. Trong 9 gói thầu này phần lớn các hộ dân bị lấy vào đất ở do vậy, công tác chi trả tiền đền bù gặp nhiều khó khăn hơn. Các hộ dân thường kinh doanh trên chính mảnh đất ấy nên khi bị thu hồi, họ thường cố tình kéo dài thời gian một phần vì không đồng tình với phương án đền bù , một phần để trục lợi cá nhân. Hầu hết các hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp đều tự nguyện chấp hành.
Việc chỉ có 46,55% số hộ dân đến nhận tiền và chấp nhận cho giải toả làm cho tiến độ công tác GPMB bị chậm đi rất nhiều và gây tốn kém.
2.3.2.5.Thành lập các phương án hỗ trợ việc làm, hỗ trợ di dân, tái định cư cho các hộ dân trongkhu vực giải tỏa
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của công tác GPMB, nếu giải quyết tốt sẽ đẩy nhanh tiến độ GPMB giúp cho chủ đầu tư sớm thực hiện dự án đồng thời tọa điều kiện cho người dân sớm ổn định cuộc sống mới.
Công tác hỗ trợ việc làm:
Việc hỗ trợ chuyển đổi việc làm đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân trong và sau khi GPMB, nhất là đối với lao động nông nghiệp. Hầu hết bộ phận laođộng này đều là những người có học vấn thấp, không có trình độ tay nghề khác ngoài làm nông, nên khi đất canh tác bị thu hồi, họ gặp rất nhiều khó khăn tong việc tìmkiếm một công việc khác, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của bản thân và gia đình họ. Đó là chưa kể đến một số tệ nạn xã hội có thể phát sinh sau đền bù GPMB sau khi thu hồi đất mà không có việc làm. Như vậy một vấn đề cấp bách khi tiến hành GPMB là hỗ trợ chuyển đổi việc làm cho người dân.
Theo quy định của Điều 29 Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 3/2/2004 thì hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị thu hồi trên 30% diện tích thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người trong độ tuổi lao động. Việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp được tiến hành chủ yếu dưới hình thức cho đi học nghề tại các trung tâm,cơ sở dạy nghề.
Điều 21 quyết định 26/2005/QĐ-UB ngày 18/2/2005 cũng quy định: Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sãn xuất nông nghiệp t ại các xã,thị trấn ngoại thành và các Phường mới thành lập sau năm 1997 khi bị thu hồi đất được hỗ trợ 25.000đồng/m2 chi phí chuyển đổi nghề nghiệp.
Ngoài ra để đảm bảo thu nhập cho người dân bị thu hồi đất dự án cũng tiến hành hỗ trợ bằngmột số hình thức khác như nhận nhân công làm việc cho một số khâu thực hiện của dự án trong một thời gian quy định.
Hỗ trợ di dânvà tái định cư:
Hỗ trợ di dân quy định tại Điều 19 quyết định 26/2005/QĐ-UB ngày 18/2/2005.Cụ thể như sau:
Hộ gia đình khi Nhà nước thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở trong phạm vi tỉnh, Thành phố Hà Nội được hỗ trợ 3.000.000đồng/hộ di chuyển sang tỉnh khác được hỗ trợ 5.000.000 đồng.
Đối với hộ gia đình được bố trí tái định cư nhưng chưa kịp bố trí nhà đất tái định cư, nếu bàn giaomặt bằng đúng thời hạn thì được hỗ trợ tiền thuê nhà ở tạm với mức 250.000đồng/khẩu/tháng, 500.000đồng/hộ độc thân/tháng và không quá 1.500.000đồng/hộ/tháng.
Nếu các hộ được bố trí nhà tạm trước khi nhận nhà tái định cư thì không được hỗ trợ.
Việc bổ trí các khu tái định cư phải phù hợp với đặc điểm sống của dân._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36543.doc