Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra

mở đầu 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Công cuộc đổi mới đất nước mà vấn đề then chốt là xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã đặt ra nhiệm vụ củng cố, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Để xây dựng Nhà nước pháp quyền, cần cải cách nền hành chính quốc gia, song trùng với những cải cách tư pháp để hướng đến mục tiêu xây dựng một hệ thống cơ quan tư pháp thực sự sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, vì công lý, công bằng xã hội, theo quan điể

doc228 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2700 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m chỉ đạo của Đảng và Nhà nước là: Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức, bảo vệ trật tự, kỷ cương, đảm bảo và tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân [23]. Đi đôi với những định hướng chiến lược này, việc cải cách tư pháp còn hướng tới giải quyết những đòi hỏi mà thực tiễn đặt ra, cụ thể: Kịp thời giải quyết có hiệu quả của các vụ khiếu kiện yêu cầu bồi thường do bị oan, sai trong hoạt động tố tụng, kết hợp với việc xây dựng cơ chế, chính sách để mang lại bước phát triển thực sự đổi mới của hệ thống tư pháp từ Trung ương tới địa phương. Nhưng so với những định hướng trên, hiện nay tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp vẫn chưa có những bước đột phá để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, trong đó điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn để gây ra oan, sai cho công dân. Đối với nhiều địa phương, khi có oan, sai xảy ra nhưng cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) lại chưa kịp thời giải quyết việc bồi thường cho người bị thiệt hại, từ đó gây bất bình trong dư luận nhân dân, tạo ra một trong số tác nhân gây cản trở cho công tác cải cách và đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp nói chung. Vì vậy, việc khắc phục thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra đang là vấn đề có tính thời sự trong khoa học pháp lý nói riêng và trong định hướng cải cách tư pháp nói chung. Hiện nay, ngoài quy định của Hiến pháp và Bộ luật dân sự (BLDS) 1995, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để từng bước cụ thể hóa việc giải quyết loại trách nhiệm nhà nước (TNNN) bồi thường thiệt hại (BTTH) do hoạt động của cơ quan và người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều sự bất cập cả trong việc lập pháp, lập quy lẫn cơ chế bảo đảm thực hiện loại TNNN này. Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài "Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra", về phương diện lý luận và phương diện thực tiễn sẽ góp phần giải quyết tốt hơn vấn đề có tính thời sự cấp thiết này. 2. Tình hình nghiên cứu Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra (người có thẩm quyền THTT) là một trong số nội dung quan trọng trong pháp luật dân sự các nước và của Việt Nam. ở nhiều nước, vấn đề BTTH trong hoạt động tố tụng cũng như thiệt hại do hoạt động tố tụng gây ra đã được các nhà nghiên cứu lý luận và luật pháp đề cập đến, trong đó có những công trình đã được công bố, như: "BTTH do xâm phạm quyền tư pháp", (Nxb Tòa án nhân dân, 1999) và "Thực tiễn bồi thường án sai", (Nxb Tòa án nhân dân, 1999) của hai tác giả Trung quốc Dương Lập Tân và Trương Bộ Hồng; "Thực hiện trách nhiệm của Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền tố tụng" của Giáo sư tiến sĩ Mapozova (Viện Nhà nước pháp luật Mátxcơva) - Liên bang Nga; "Nguyên tắc bảo hộ người bị hại trong quá trình tố tụng hình sự" của tác giả Crabosky (Australia năm 1989)... ở Việt Nam, "BTTH do người có thẩm quyền cơ quan THTT gây ra" đã được đề cập nghiên cứu nhưng chưa nhiều. Các bài viết đăng tại các tạp chí chuyên ngành như: "Bàn về trách nhiệm BTTH của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự" của tác giả Nguyễn Thanh Tịnh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3 tháng 5 năm 2000, Bộ Tư pháp; "Xác định trách nhiệm đền bù thiệt hại giữa cơ quan và cá nhân gây ra trong hoạt động tố tụng hình sự", của Tưởng Bằng Lượng, Thẩm phán TAND Tối cao, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1 tháng 2 năm 1999. Ngoài ra, cũng có một số công trình nghiên cứu cá nhân và tập thể với quy mô và cấp độ chuyên sâu, bài bản như đề tài khoa học cấp Bộ: "BTTH do bị bắt, giữ, xét xử oan, sai ở Việt Nam và một số nước trên thế giới" do tiến sĩ Dương Thanh Mai chủ trì, hoặc luận văn thạc sĩ luật học: "BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra" của tác giả Nguyễn Hữu Ước thực hiện tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Về tổng thể, ở nước ta, cho đến thời điểm này, chưa có một công trình khoa học nào về "BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra" được nghiên cứu một cách có hệ thống ở cấp độ luận án tiến sĩ về vấn đề này. 3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu đề tài * Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu các quy định của pháp luật thực định và thực tiễn giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và công dân qua việc thực hiện TNNN BTTH trong các vụ việc oan, sai mà các cơ quan và người có thẩm quyền THTT gây ra. * Phạm vi nghiên cứu: BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT là đề tài rộng, chứa đựng nhiều vấn đề phức tạp về cả lý luận và thực tiễn. Đề tài nghiên cứu liên quan đến cơ quan THTT là cơ quan nhà nước được giao thực thi quyền tư pháp, tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và giải quyết các vụ việc tranh chấp xảy ra trong xã hội. Hoạt động bảo vệ pháp luật của cơ quan THTT là hoạt động liên quan đến nhiều người, nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ đan xen, có sự tham gia của nhiều cơ quan và chịu sự điều chỉnh của nhiều loại quy phạm của cả luật nội dung lẫn hình thức. Đặc biệt, hoạt động này lại phải tuân theo những trình tự, thủ tục tố tụng khác nhau (tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng lao động...), vì vậy, phù hợp với đối tượng nghiên cứu, đề tài giới hạn ở những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc giải quyết BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra cho người bị oan, sai trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử mà điển hình là bồi thường oan, sai về hình sự. Trên thực tế, dù hoạt động theo trình tự, thủ tục tố tụng nào thì gây oan, sai cho công dân là khả năng hoàn toàn có thể xảy ra, do khi thi hành công vụ, người có thẩm quyền THTT đã có hành vi hoặc quyết định tố tụng trái pháp luật, xâm phạm quyền tư pháp. Việc nghiên cứu sẽ tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu về BTTH do bị oan, sai mà người có thẩm quyền THTT gây ra với tính chất thực hiện TNNN từ hoạt động của cơ quan THTT. Việc giải quyết BTTH giữa cơ quan THTT và người bị oan, sai được đặt trong mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và công dân khi thực thi quyền lực tư pháp. * Mục đích nghiên cứu đề tài: - Làm rõ được đặc điểm, nội dung, bản chất của TNNN trong việc BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra khi tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. - Phân tích để thấy được thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết BTTH do người có thẩm quyền THTT gây ra phát sinh từ thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hiện nay. - Căn cứ vào định hướng xây dựng pháp luật, thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra để đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải quyết BTTH đối với các vụ việc có oan, sai do người có thẩm quyền THTT gây ra trong thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan THTT. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận án trước hết được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với việc vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, để làm sáng tỏ từng luận điểm khoa học, luận án còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học tin cậy khác như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, thống kê và các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp khác. 5. Những điểm mới về mặt khoa học của luận án Về nguyên tắc, yêu cầu tuân thủ pháp luật không loại trừ bất cứ ai, kể cả Nhà nước - chủ thể có quyền ban hành pháp luật. Nghiên cứu TNNN trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là đối với cơ quan THTT, vừa khẳng định quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đối với mục đích xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, vừa phù hợp với cách tiếp cận của khoa học pháp lý hiện đại. Thứ nhất, luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu tương đối toàn diện và có tính hệ thống những vấn đề pháp lý chủ yếu của trách nhiệm BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra. Thứ hai, trong luận án đã xây dựng được lý thuyết về trách nhiệm BTTH do người thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra, bằng việc tiếp cận theo ba phương diện: Là một chế định đặc thù của luật dân sự mang tính chất của chế định BTTH ngoài hợp đồng; là loại hình TNNN do thực thi quyền tư pháp của các cơ quan THTT; là nghĩa vụ của Nhà nước BTTH do người có thẩm quyền THTT xâm phạm quyền tư pháp, gây oan, sai dẫn đến thiệt hại về vật chất và tinh thần cho công dân trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Thứ ba, luận án làm rõ được những vấn đề pháp lý cơ bản của trách nhiệm BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra như khái niệm, bản chất, cơ sở xác định, nội dung, đặc thù, cách thức thực hiện trách nhiệm BTTH do người có thẩm quyền THTT gây ra. Thứ tư, luận án đã làm sáng tỏ về phương diện lý luận và thực tiễn vấn đề điều chỉnh pháp lý việc Nhà nước giải quyết BTTH cho công dân bị oan, sai trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan THTT. Thứ năm, đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm BTTH trong hoạt động chức năng của các cơ quan THTT và các biện pháp khả thi nhằm tăng cường TNNN đối với việc BTTH cho công dân do bị oan, sai, đảm bảo cho pháp luật được công bằng, xây dựng nền tư pháp XHCN của dân, do dân, vì dân. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Những kết quả nghiên cứu trong luận án này có thể làm tài liệu có tính chất tham khảo, vận dụng vào hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra. Các quan điểm khoa học trong luận án về giải quyết BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra có thể dùng tham khảo được trong quá trình thi hành và áp dụng pháp luật. Ngoài ra, luận án cũng có giá trị là tư liệu tốt phục vụ cho việc giảng dạy và học tập lý luận về TNNN đối với công dân tại các cơ sở đào tạo luật, cũng như đào tạo công chức nhà nước. Luận án góp phần làm thay đổi quan niệm, cách nhìn nhận của các cơ quan tư pháp trong việc đề cao trách nhiệm của Nhà nước trước công dân khi nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời tăng cường trách nhiệm cá nhân của người có thẩm quyền THTT trong khi thi hành công vụ, bảo đảm cho hoạt động tố tụng thể hiện đúng bản chất dân chủ của quyền tư pháp. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và 3 phụ lục, nội dung luận án gồm 3 chương, 8 mục. Chương 1 Những vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra 1.1. khái niệm thiệt hại và bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra 1.1.1. Khái niệm thiệt hại * Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu vấn đề thiệt hại Xã hội, như Mác nói là tổng hòa của các mối quan hệ đa dạng, phức tạp giữa các cá nhân với nhau hoặc giữa cá nhân với tổ chức, với Nhà nước. Trong những mối quan hệ đó, với tư cách là công dân, con người luôn ý thức về sự tồn tại và giải phóng chính mình. Nhưng cá nhân con người lại không thể tồn tại ngoài các mối quan hệ xã hội, ngoài sự chế ước của pháp luật và Nhà nước. Đặc biệt, con người không thể thực hiện các quyền và tự do của cá nhân mà lại không tôn trọng quyền và tự do của người khác. Giữa các cá nhân, khi tồn tại trong môi trường cộng đồng đã hình thành một quan hệ có tính lôgíc, theo đó quyền của cá nhân này bị chế ước bởi quyền của cá nhân khác cũng như của tổ chức và Nhà nước nhất định. Montesquieu, nhà tư tưởng lỗi lạc của thời kỳ khai sáng đã từng tuyên bố chân lý "tự do có nghĩa là có thể làm tất cả những gì mà không gây hại cho người khác". Sau này, tư tưởng của Montesquieu đã được cụ thể hóa trong Điều 4 Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 của Cộng hòa Pháp: "Tự do bao gồm quyền có thể làm mọi điều không gây hại cho người khác. Như vậy, việc thực hành các quyền tự nhiên của mỗi người chỉ bị giới hạn trong việc bảo đảm cho các thành viên của xã hội được hưởng các quyền đó. Các giới hạn này chỉ có thể do luật pháp quy định" [69]. Điều tuyên ngôn nêu trên có ý nghĩa là việc thực hiện các quyền tự nhiên của mỗi con người là trên cơ sở tôn trọng và không được vi phạm quyền tự nhiên của người khác, là không được vượt qua khỏi những khuôn khổ quy định và cho phép của pháp luật. Tính hiện thực trong các quyền của cá nhân là ở chỗ, không ai có thể có tự do đích thực trong hành động khi quyền tự do ấy lại không phải là kết quả được rút ra từ trong những mối quan hệ xã hội, từ trong sự tương tác, quy định và làm nên nhau giữa các cá nhân. Để có sự hiện thực đối với quyền của mỗi cá nhân trong một xã hội có tổ chức, thì quyền của từng cá nhân phải luôn gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội của chính người đó. Khuôn khổ tự do và việc hưởng cũng như thực hiện quyền của mỗi cá nhân được giới hạn bởi một hành lang pháp lý để cá nhân vừa có thể thực hiện những hoạt động thỏa mãn nhu cầu của mình, vừa không xâm phạm đến lợi ích của người khác, lợi ích của quốc gia... Điểm lại sự phát triển của lịch sử quyền con người trong xã hội để thấy rằng, các quyền của mỗi con người là sự kết tinh của các mối quan hệ xã hội giữa người với người. Đối với các mối quan hệ đó, Nhà nước và pháp luật đóng vai trò trung gian trong việc điều chỉnh, để cho tất cả các chủ thể khi tham gia vào quá trình hoạt động vì mục đích cá nhân có tự do, đồng thời hạn chế các hành vi tiếm quyền hay lạm dụng, vi phạm quyền; từ đó bảo đảm "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [42, tr. 628]. Điều này có ý nghĩa quan trọng cả về phương diện lý luận và phương diện pháp lý, vì đi đôi với việc thực hiện các quyền của từng cá nhân luôn tiềm ẩn nguy cơ gây ảnh hưởng, tổn thất, nhất là gây thiệt hại cho người khác. Những điều này cho thấy một thực tế, nếu việc hưởng và thực hiện quyền tự do của cá nhân con người là nhu cầu khách quan thì sự tồn tại của khả năng xâm phạm quyền và gây thiệt hại cho người khác cũng luôn là khả năng có tính khách quan. Vì thế, vấn đề thiệt hại và BTTH tất yếu được đặt ra trong khoa học pháp lý cũng như trong hệ thống pháp luật ở từng quốc gia. Trong nhận thức khoa học cần có sự đánh giá một cách tổng thể về thiệt hại ở các góc độ chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý, chứ không đơn thuần chỉ nhìn nhận thiệt hại theo nghĩa là một trong số căn cứ để xác định trách nhiệm dân sự (TNDS) về bồi thường. Làm rõ về mặt lý luận cũng như về nội dung pháp lý của thiệt hại và BTTH sẽ là cơ sở làm sáng tỏ yêu cầu của việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, Nhà nước, góp phần ngăn ngừa, loại bỏ, khắc phục thiệt hại cho con người từ những hoạt động của các cá nhân, tổ chức hoặc từ chính hoạt động của Nhà nước. Nhìn từ góc độ chính trị, thiệt hại thường là mặt trái của nhu cầu lợi ích xã hội. ảnh hưởng bởi thiệt hại có thể rất nặng nề, vì nó không chỉ là sự mất mát, thiếu hụt về vật chất, không chỉ động chạm đến quyền của cá nhân hay tổ chức mà trong nhiều trường hợp, nó còn ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường của xã hội, đặc biệt khi chủ thể gây thiệt hại lại là các cơ quan công quyền. Sức mạnh của một Nhà nước được khẳng định trước hết bằng việc bảo đảm và chăm lo đến lợi ích của công dân và của toàn xã hội. Vậy, điều gì sẽ xảy ra khi bản thân người có nghĩa vụ phải chăm lo quyền lợi cho người dân sống trong xã hội lại có hành động gây thiệt hại cho chính những người cần được bảo vệ đó. Vì vậy, nếu chỉ xét vấn đề thiệt hại qua lăng kính của mối quan hệ pháp luật dân sự thì yêu cầu một sự phát triển tiến bộ của xã hội dân chủ, văn minh đặt ra cho Nhà nước sẽ không được đề cao, nghĩa vụ của Nhà nước đối với công dân không được bảo đảm thực hiện. Nghiên cứu khía cạnh chính trị của vấn đề thiệt hại là trên cơ sở coi "chính trị là biểu hiện của những lợi ích căn bản giữa các giai cấp và của quan hệ lẫn nhau giữa các giai cấp đó" [34, tr. 62] và muốn nhận thức rõ vai trò tích cực của chính trị thì phải thấy rằng "nếu không có chính trị đúng, thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ vững được nền thống trị của mình và do đó không thể hoàn thành nhiệm vụ kinh tế của mình" [34, tr. 62-63]. Cho nên, nghiên cứu vấn đề thiệt hại không phải chỉ xét đến sự kiện xảy ra đơn lẻ từ các vụ việc cụ thể phát sinh hàng ngày trong các hoạt động xã hội, mà phải quan niệm rằng, đằng sau thiệt hại và vấn đề giải quyết, khắc phục hậu quả của thiệt hại là cả vấn đề chính sách, pháp luật nhà nước, quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng, là vấn đề quản lý của Nhà nước và của các cấp chính quyền. Có như vậy, việc giải quyết vấn đề thiệt hại và BTTH mới dần đi đến mục đích ngăn chặn, loại bỏ nguyên nhân gây ra thiệt hại, góp phần ổn định và giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, để tạo lòng tin thực sự của nhân dân đối với kỷ cương, pháp luật của Nhà nước. Từ góc độ kinh tế - xã hội, thiệt hại đang trở thành vấn đề có tính thời sự. Khó có thể tổng kết được các giá trị vật chất và tinh thần bị mất đi do thiệt hại xảy ra bởi các nguyên nhân khách quan hay từ các nguồn hoạt động khác nhau của cá nhân, tổ chức, Nhà nước. Không những thế, chi phí khắc phục hậu quả của thiệt hại lớn không kém gì các giá trị vật chất và tinh thần đã mất, chưa kể nhiều khi tốn kém to lớn nhưng vẫn không bù đắp được các tổn thất mà nền kinh tế - xã hội phải gánh chịu. Đối với xã hội, sự hiện hữu của vấn đề thiệt hại, đặc biệt là thiệt hại gây ra bởi hoạt động của các cơ quan có chức năng bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức luôn gây tác động tiêu cực, gây băn khoăn, lo lắng, thậm chí gây bức xúc, xáo trộn trong nhân dân và dư luận xã hội. ở góc độ chính trị, kinh tế - xã hội, thiệt hại không còn là sự cố luôn có khả năng xảy ra (mặc dù khả năng đó là tất yếu) mà phải đánh giá nó và các hậu quả kèm theo nó là vấn đề cần có sự quan tâm chung của toàn xã hội. Từ góc độ pháp luật, vấn đề thiệt hại là giải quyết trực diện các quan hệ giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại theo các tiêu chí, khuôn khổ nhất định. Nguyên tắc pháp luật chung của việc giải quyết vấn đề thiệt hại thể hiện ở chỗ, bất luận thiệt hại do nguyên nhân nào, nhưng một chủ thể trong hoạt động của mình mà gây thiệt hại cho chủ thể khác, nhất là lại có lỗi khi gây thiệt hại thì đều phải bồi thường. Đây là nghĩa vụ trước hết xuất phát từ lẽ công bằng, tồn tại trong quy định của hệ thống pháp luật quốc gia cũng như luật pháp quốc tế. Hơn nữa, sự chế ước quyền của một cá nhân bởi những quyền và lợi ích của cá nhân khác một mặt loại bỏ sự tuyệt đối hóa quyền tự do của cá nhân, mặt khác xác định trách nhiệm của cá nhân đối với hoạt động của chính mình và trước quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người. Trách nhiệm và nghĩa vụ xác định này không thể do các chủ thể tùy ý thỏa thuận. Nó phải được quy định trong các chế định pháp luật quốc gia cụ thể. * Khái niệm thiệt hại Theo nghĩa thông thường, thiệt hại là "mất mát, hư hỏng nặng nề về người và của" [82, tr. 1571]. Theo các quy định trong pháp luật của nhiều quốc gia," thiệt hại là tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ" [63, tr. 118]. Nội hàm của khái niệm thiệt hại này hướng đến việc quan niệm về thiệt hại và giải quyết các vấn đề phát sinh từ thiệt hại trên cơ sở quan hệ pháp luật dân sự, phù hợp với nội dung và bản chất pháp lý của vấn đề thiệt hại. Thông thường, thiệt hại được hiểu là sự giảm bớt lợi ích vật chất hay tinh thần của một chủ thể do có sự kiện gây thiệt hại của một chủ thể khác. Dấu hiệu thiệt hại được nhận biết bằng sự tổn thất những lợi ích vật chất hay tinh thần cụ thể, liên quan đến các đối tượng mà hành vi gây thiệt hại xâm hại tới như tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân hoặc tài sản, uy tín của tổ chức. Trong luật La Mã, các luật gia cho rằng có hai thành phần để tạo nên khái niệm thiệt hại: - Dammun enrgens tức thiệt hại thực, là sự mất đi của một bộ phận tài sản cụ thể; - Luerum cessans tức bỏ mất lợi tức, là sự mất mát tài sản có thể có nếu hoàn cảnh diễn ra bình thường (thiệt hại phái sinh). Cách quan niệm truyền thống về thiệt hại của luật La Mã vẫn được giữ lại trong quy định của pháp luật dân sự các nước, vì trong khái niệm thiệt hại của luật pháp hiện đại hay trong luật cổ thì cốt lõi của thiệt hại vẫn là tổn thất có liên quan đến tài sản - loại thiệt hại có thể và có cơ sở để xác định. Điều 1149 Luật Dân sự nước Cộng hòa Pháp quy định: "Những thiệt hại phải bồi thường cho người có quyền gồm những khoản mà họ mất và mức lợi mà họ không được hưởng" [9, tr. 315]. Hiện nay, quan niệm thiệt hại được phát triển thêm với nội dung mới là thiệt hại tinh thần, như quy định của Điều 310 BLDS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: "1. Trách nhiệm BTTH bao gồm trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm BTTH về tinh thần". Như vậy, nhìn từ góc độ nào (khoa học pháp lý hay quy định pháp luật) thì thiệt hại cũng thường gồm: + Thiệt hại vật chất Thiệt hại vật chất là thiệt hại về tài sản (tài sản bị mất, bị hủy hoại, bị hư hỏng) và chi phí phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại cùng hoa lợi, lợi tức không thu được mà đáng ra phải thu được. Về pháp lý, thiệt hại vật chất vừa động chạm đến tài sản hữu hình - thiệt hại trực tiếp (là vật và lợi ích vật chất khác thuộc quyền của chủ thể) như vật có thực, tiền và các giấy tờ có giá trị bằng tiền như cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, chứng từ tiền gửi, phương tiện thanh toán và quyền, nghĩa vụ tài sản và tài sản vô hình (đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ); đồng thời vừa xâm hại các lợi ích khác - thiệt hại gián tiếp (lợi tức, hoa lợi tính được thành tiền). Thiệt hại vật chất bao hàm nhiều vấn đề, chẳng hạn như vấn đề về tài sản. Tài sản được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau: thu nhập hợp pháp, của cải để dành, tư liệu sinh hoạt, nhà ở... Giải quyết BTTH về tài sản thực tế là giải quyết mối quan hệ giữa chủ thể gây thiệt hại với người bị thiệt hại, giữa người có nghĩa vụ khắc phục hậu quả xảy ra đối với người có quyền yêu cầu theo quan hệ nghĩa vụ dân sự, qua đó ổn định và lập lại trật tự quan hệ đã bị phá vỡ. Việc giải quyết đó không chỉ căn cứ duy nhất vào đặc điểm của tài sản mà còn phải dựa vào các dấu hiệu khác nhằm làm rõ mối quan hệ giữa người bị thiệt hại với tài sản của họ (là đối tượng bị hành vi gây thiệt hại tác động vào), đó là dấu hiệu về quyền đối với tài sản. Về pháp lý, một người có thể xác lập quyền đối với tài sản thông qua quyền sở hữu. Theo quan niệm phổ thông, người có quyền sở hữu là người có được một tài sản là của riêng mình và toàn quyền định đoạt tài sản đó. Trong luật La Mã, "quyền sở hữu là một dạng vật quyền, là quyền tuyệt đối trong đó người có quyền có thể thực hiện quyền thông qua hành vi của mình không phụ thuộc vào hành vi của người khác" [66, tr. 76]. Chủ sở hữu có đầy đủ các quyền năng đối với tài sản như: quyền sử dụng vật (jus utendi), quyền thu nhập thành quả và lợi nhuận (jus freuendi), quyền định đoạt số phận của vật đó (jus abutendi), quyền chiếm hữu vật (jus possidendi) và quyền đòi lại vật (jus vidieandi). Các quyền năng này của sở hữu chủ theo luật La Mã sau này được luật thực định của các nước quy định thành quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản như trong Điều 173 BLDS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1995: Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản. Quyền sở hữu tài sản là quyền được pháp luật bảo vệ. Nhưng trong thực tế, chủ sở hữu không phải là người duy nhất có quyền đối với tài sản của mình. Trong trường hợp tài sản được chủ sở hữu chuyển giao cho người khác hoặc do pháp luật quy định thì ngoài chủ sở hữu ra, người có tài sản do được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản, do thông qua giao dịch dân sự cũng có quyền đối với tài sản (như quyền chiếm hữu, quyền sử dụng). Vì vậy, khi thiệt hại xảy ra, người bị xâm hại là người đang chiếm hữu hoặc đang sử dụng tài sản đó. + Thiệt hại tinh thần Trong cuộc sống, sự tồn tại của yếu tố tinh thần nhằm toát lên "toàn bộ hoạt động nội tâm của con người nói chung (như ý nghĩ, tình cảm...)" [82, tr. 1648]. Hoạt động này chi phối và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người, làm nên giá trị tinh thần qua phạm trù danh dự, uy tín, nhân cách, phẩm giá của một con người hoặc danh dự, uy tín của tổ chức. Đời sống nội tâm là một trong hai mặt không thể thiếu cho sự tồn tại của mỗi cá nhân. Trong hoạt động xã hội, sự tồn tại của mặt thứ hai này trong cuộc sống con người cũng luôn bị đe dọa bởi khả năng gây thiệt hại khi tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm của con người bị xâm phạm. Thiệt hại tinh thần theo quy định của pháp luật Việt Nam là thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân. Thiệt hại tinh thần trong quan niệm pháp lý của luật châu Âu và luật Anh - Mỹ là loại thiệt hại không được biểu đạt bằng việc mất tài sản, hay vật hoặc các quyền định giá được bằng tiền. Khác với thiệt hại vật chất mà việc xác định thiệt hại không phải là khó khăn đặc biệt, thiệt hại tinh thần là thiệt hại đối với cuộc sống tâm linh của con người mà theo học thuyết pháp lý của Pháp gọi là thiệt hại đối với "thành phần tình cảm, tình thương yêu của sản nghiệp tinh thần". Vì thế, thiệt hại về tinh thần không có tiêu chí chung cho mọi cá nhân. Trước đây, trong luật La Mã cổ chưa từng biết đến loại thiệt hại này. Hiện nay, luật pháp của nhiều quốc gia đã đề cập đến thiệt hại tinh thần. BLDS Nhật Bản quy định: "Một người chịu trách nhiệm về thiệt hại theo quy định của Điều 709 phải bồi thường kể cả thiệt hại phi vật chất, bất kể thiệt hại như vậy xảy ra đối với quyền lợi, uy tín hoặc tài sản của người khác" [8]. Hoặc như BLDS Cộng hòa Liên bang Đức quy định: 1. Trong trường hợp gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cũng như trong trường hợp bị phạt tù giam thì người bị thiệt hại cũng có quyền yêu cầu bồi thường bằng tiền đối với những thiệt hại không mang tính tài sản. 2. Người phụ nữ có quyền yêu cầu tương tự, nếu người này bị thiệt hại trong các trường hợp vi phạm đạo đức nghiêm trọng, hoặc bị cưỡng bức quan hệ tình dục ngoài hôn nhân bằng âm mưu thâm độc, bị đe dọa hoặc lạm dụng mối quan hệ phụ thuộc [7]. ở Việt Nam, trước khi có BLDS, trong Thông tư số 173 của UBTP/TANDTC ngày 23/3/1972 đã đề cập đến khái niệm thiệt hại tinh thần, song thực tiễn thì ý kiến còn trái ngược nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, thiệt hại tinh thần không thể bồi thường vì mạng người, tình cảm con người là vô giá. Quan điểm thứ hai lý giải những thiệt hại, kể cả vật chất lẫn tinh thần đều phải bồi thường, vì mọi tính toán chỉ mang tính chất tương đối. Sự tính toán chỉ là đến mức sát thực tế nhất, vì thế mọi thiệt hại đều phải được bồi thường nhằm khắc phục hậu quả của việc gây hại. Sau khi BLDS Việt Nam 1995 có hiệu lực, thiệt hại tinh thần đã được quy định bằng điều khoản cụ thể: "Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác, thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại" [6]. Quy định của pháp luật một số nước và pháp luật Việt Nam cho thấy, một đặc điểm của thiệt hại tinh thần, đó là sự không định lượng được mức độ tổn thất. Thực tế này không phải do trình độ lập pháp và khoa học pháp lý chưa giải quyết được mà vì đặc tính của thiệt hại tinh thần thường gắn với danh dự, uy tín, tình cảm của con người. Nó thuộc về ý thức của con người, mang tính chủ quan nên khó xác định hay tính toán một cách chính xác. Nhưng đa số các nhà lý luận pháp lý đều thống nhất coi thiệt hại tinh thần là thiệt hại gây ra đối với tâm trạng con người và thể hiện bằng việc con người phải chịu những đau đớn và lo lắng về tinh thần. Hình thức thể hiện của thiệt hại tinh thần tương đối đa dạng, có thể là đau đớn do thương tích, đau khổ về tinh thần do mất người thân (cha, mẹ, vợ, chồng, con...) hoặc là nỗi khổ tâm khi không thể tham gia vào hoạt động xã hội vì bị cách ly khỏi xã hội hay không thể hòa nhập được vào đời sống cộng đồng nữa (như bị mù, bị liệt...); khổ tâm khi bị xâm hại đến những điều sâu kín hoặc bị cộng đồng xã hội xa lánh khi bị tù, giam. Những thiệt hại tinh thần đáng kể này thường là hậu quả của những vụ án có oan, sai mà đương sự là người phải gánh chịu. Thiệt hại tinh thần còn là các trường hợp khác nữa như tác giả một công trình hay tác phẩm bị người khác sử dụng để nhạo báng, bôi nhọ, v.v... Cũng như thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần thể hiện rõ tính xã hội. Nó liên quan đến cái gọi là "thành phần xã hội của sản nghiệp tinh thần" bao gồm danh dự, uy tín, tên tuổi, nhân phẩm... nói chung đó là các tổn hại về quyền và lợi ích liên quan đến nhân thân của con người vốn có tầm quan trọng trong việc tạo lập, duy trì, phát triển các mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Cho đến nay, thực tiễn lập pháp và xét xử hiện đại đã thừa nhận thiệt hại tinh thần cần phải được bồi thường, nếu có yêu cầu. Cái khó trong xác định thiệt hại về tinh thần là ở chỗ, căn cứ vào các tiêu chí nào để định lượng (vật chất hóa) loại thiệt hại này. Cơ sở giải quyết BTTH tinh thần là sự "bù đắp" một phần hay toàn bộ thiệt hại đã xảy ra. Mặc dù rất khó xác định tính chất, mức độ của thiệt hại tinh thần, nhưng việc BTTH tinh thần bằng một khoản tiền nào đó có tác dụng tích cực nhất định cho sự phục hồi trạng thái tinh thần bình thường của người bị thiệt hại. Trách nhiệm BTTH tinh thần mà người gây thiệt hại phải gánh chịu có tính chất như một chế tài, vì sẽ không công bằng nếu một người có lỗi khi thực hiện một hành vi gây thiệt hại cho người khác mà lại không bị trừng phạt. Có áp dụng như vậy thì mới đảm bảo nguyên tắc công bằng và góp phần gìn giữ những tình cảm, truyền thống đạo đức tốt đẹp. Việc xem xét một cách tổng thể thiệt hại còn._. có thể dựa trên những tiêu chí khác để xác định thiệt hại, như dựa vào đối tượng mà hành vi gây thiệt hại tác động đến thì có thể xảy ra những thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm. Với những thiệt hại này, vấn đề bồi thường thiệt hại là một trong những vấn đề pháp lý quan trọng của pháp luật dân sự. 1.1.2. Khái niệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra * Khái niệm BTTH Trong Đại từ điển tiếng Việt, bồi thường là "đền bù những tổn thất đã gây ra" [82, tr. 191]. Trong đời sống xã hội và pháp luật, việc giải quyết đền bù những tổn thất gây ra chủ yếu thông qua mối quan hệ pháp luật dân sự. Nhìn lại lịch sử phát triển của chế định BTTH, có thể thấy rằng, BTTH là một dạng nghĩa vụ dân sự, gọi là nghĩa vụ phát sinh do gây thiệt hại. Trong pháp luật và luật tục La Mã, nghĩa vụ này phát triển theo hướng, từ bắt đầu là sự trả thù cá nhân nhằm vào nhân thân của người gây thiệt hại, do người bị thiệt hại và những người thân của người bị hại áp dụng, rồi dần chuyển sang hình thức phạt tài sản, phạt tiền hay còn gọi là chế độ thục kim, có lợi cho người bị thiệt hại. Lúc đầu, việc phạt tài sản do người bị hại quy định với tính chất là sự cưỡng chế cá nhân, sau dần đến phạt tiền BTTH do Pháp quan thay mặt Nhà nước áp dụng theo quy định và trình tự tố tụng nhất định. Điều kiện để phát sinh nghĩa vụ bồi thường trong hệ thống luật La Mã là có thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại, vi phạm quyền lợi của người khác. Giải quyết nghĩa vụ này do Tòa án quyết định và thường là không căn cứ vào thiệt hại thực tế. Số tiền có tính chất như là một khoản tiền phạt có tính chất hình sự do Tòa án quyết định. BTTH còn có thể là do vi phạm nghĩa vụ. BTTH dạng này cũng là một chế định được hình thành từ lịch sử lâu đời của pháp luật dân sự Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Ví dụ, BTTH từ thực hiện nghĩa vụ đã từng để lại dấu ấn khá rõ ràng trong luật cổ Việt Nam, mà điển hình là trong hai Bộ luật Hồng Đức (triều Lê) và Bộ luật Gia Long (triều Nguyễn). Điều 591 Bộ luật Hồng Đức ghi: "Người đòi nợ không trình quan mà tự ý bắt đồ đạc, của cải của người mắc nợ, nếu quá số tiền trong văn tự thì xử phạt 80 trượng, tính những của cải ấy trả cho người có nợ, còn thừa thì trả cho người mắc nợ" [13]. Quy định này chứng tỏ, Bộ luật Hồng Đức cho phép bắt đồ đạc để trừ nợ nếu việc trừ nợ không vượt quá số tiền cho vay. Tương tự, Điều 134 của Bộ luật Gia Long cũng cấm các chủ nợ không được tự tiện bắt gia súc hay tài sản của con nợ và không được bắt thân nhân của con nợ làm nô tì. Người gây thiệt hại có thể nộp một số tiền chuộc để tránh sự trả thù [10]. Nghiên cứu hai bộ luật thời kỳ phong kiến của Việt Nam cho thấy, quy định về tiền bồi thường trong Bộ luật Hồng Đức kèm theo tính chất hình phạt. Ví dụ, Điều 29 ghi rõ: Tiền đền mạng ấn định tùy theo phẩm trật của kẻ bị chết, cụ thể: - Nhất phẩm, tòng nhất phẩm được phạt đến 15.000 quan; - Nhị phẩm, tòng nhị phẩm phạt đến 9.000 quan; - Tòng tam phẩm, tòng tứ phẩm 5.000 quan... cứ như vậy cho đến thấp nhất là thứ dân trở xuống là 150 quan. BTTH có thể là việc khắc phục những hậu quả do hành vi gây thiệt hại trái pháp luật. Trường hợp kẻ vi phạm đánh người gây thương tích thì ngoài phải chịu hình phạt đánh roi, còn phải bồi thường cho nạn nhân như sau: Sưng phù thì đền thương tổn 3 tiền, chảy máu thì phải 1 quan, gãy ngón tay, một răng thì đền 10 quan, đâm chém bị thương thì 15 quan, nếu là đọa thai chưa thành thì 30 quan, đã thành hình thì 50 quan, gãy một chân, một tay, mù một mắt thì 50 quan, đứt lưỡi, hỏng âm, dương vật thì 100 quan, với người quyền quý thì xử khác [13]. So với Bộ luật Hồng Đức, thì quy định về bồi thường của Bộ luật Gia Long có khác. Điều 201 Luật Gia Long có quy định về tiền bồi thường cho gia đình nạn nhân trong trường hợp tội giết người, tiền chuộc để giao cho gia đình nạn nhân lo chôn cất. Qua một số quy định đã dẫn từ hai bộ luật cho thấy, trong pháp luật phong kiến Việt Nam chưa có sự phân biệt rõ ràng "trách nhiệm dân sự" và "trách nhiệm hình sự". Nhưng qua quá trình phát triển, chế định BTTH đã hình thành, phát triển và tồn tại trong quy định của pháp luật dân sự Việt Nam. Chẳng hạn, Điều 609 BLDS Việt Nam quy định: "Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường". Hoặc như trong Luật Dân sự Cộng hòa Pháp, BTTH được quy định: "Bất cứ hành vi nào của một người mà gây thiệt hại cho người khác, thì người đã gây ra thiệt hại do lỗi của mình phải BTTH" [9, tr. 365]. Như vậy, về pháp lý, BTTH là: "Hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất tinh thần cho bên bị thiệt hại" [63, tr. 31]. Có nhiều hình thức pháp lý theo quy định của pháp luật để buộc chủ thể gây thiệt hại thực hiện nghĩa vụ bồi thường và nghĩa vụ này bao hàm cả nghĩa của trách nhiệm pháp lý dân sự. ý nghĩa TNDS của việc BTTH xuất phát từ bản chất của quan hệ pháp luật dân sự vốn là quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản nên một trong những đặc điểm của TNDS trước hết là trách nhiệm mang tính chất tài sản, thể hiện ở việc chủ thể có vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho người khác thì Tòa án sẽ buộc bên vi phạm phải bồi thường bằng chính tài sản của mình. Như vậy, TNDS ngoài nghĩa "là việc bắt buộc phải sửa chữa một thiệt hại do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự" [54, tr. 70-71] còn là việc buộc chủ thể có nghĩa vụ phải gánh chịu hậu quả bất lợi về những việc đã gây ra. Sự buộc gánh chịu này thể hiện cách phản ứng của Nhà nước đối với chủ thể có hành vi trái pháp luật đã gây ra hậu quả xấu. Sự phản ứng đó tạo điều kiện tích cực cho quan hệ xã hội phát triển, góp phần phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật. Xác định TNDS của chủ thể trong quan hệ BTTH là yêu cầu cần thiết vì đây là trách nhiệm của một chủ thể trước một chủ thể có liên quan về những nghĩa vụ mà giữa họ hoặc đã có sự cam kết (nghĩa vụ theo hợp đồng), hoặc đã được pháp luật quy định (nghĩa vụ ngoài hợp đồng). Nhưng trên thực tế, nếu khi thực hiện trách nhiệm này mà không có sự tác động bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước thì cũng khó có hiệu quả. Vì vậy, bên cạnh trách nhiệm có ý nghĩa là những nghĩa vụ mà các chủ thể đã xác định đối với nhau, còn có một phương tiện pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ dân sự không bị xâm phạm bởi các hành vi trái pháp luật là trách nhiệm BTTH nhằm "buộc bên vi phạm phải tiếp tục thực hiện đúng những nghĩa vụ hoặc phải BTTH do hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình gây ra cho phía bên kia" [62, tr. 42]. Lưu ý rằng, xác định TNDS bởi hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại phải tương xứng với tính chất, hậu quả của sự vi phạm. Với cách xác định như vậy, BTTH có những đặc điểm sau: Là quan hệ pháp luật dân sự dưới dạng quan hệ về nghĩa vụ dân sự, BTTH có đặc thù thể hiện rõ ở sự mâu thuẫn về quyền lợi giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại. Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải quyết thông qua việc BTTH, vì bản thân quá trình này có đặc điểm là để khắc phục hậu quả xấu đã gây ra đối với tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, hoặc tài sản, danh dự, uy tín của tổ chức. Trong các quy định của điều luật đều xác định phương thức, biện pháp khắc phục hậu quả của thiệt hại xảy ra. Nội dung khắc phục được thực hiện thông qua việc đền bù những hư hỏng, mất mát về vật chất hoặc đau đớn, mất mát về tinh thần trong các trường hợp thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm. Đặc điểm thứ nhất của BTTH là khắc phục hậu quả chỉ có ý nghĩa khi việc bồi thường đó do chính người đã có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thực hiện với tính chất một TNDS vì quyền lợi của chính người có quyền lợi bị xâm phạm. Cần phân biệt nghĩa vụ phát sinh từ việc gây thiệt hại trái pháp luật khác cơ bản so với nhiều nghĩa vụ dân sự khác ở chỗ: nghĩa vụ này không được dịch chuyển theo quan hệ pháp luật về thừa kế. Người thừa kế của người có hành vi trái pháp luật không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường (nhân danh người này) từ các hành vi vi phạm của người để lại thừa kế. Tức là, khi chủ thể có nghĩa vụ bồi thường hoặc chủ thể có quyền yêu câu bồi thường chết thì quyền hay nghĩa vụ đối với tài sản của những người thừa kế của người đã chết vẫn đảm bảo được thực hiện. Nhưng sự thực hiện này không phải trên cơ sở quan hệ giải quyết BTTH giữa người có nghĩa vụ bồi thường với người có quyền yêu cầu đòi bồi thường mà trên cơ sở của quan hệ thừa kế tài sản hay quyền đối với tài sản giữa những người được hưởng thừa kế với nhau. Đặc điểm thứ hai của BTTH là sự bù đắp tổn thất, mất mát về vật chất hoặc tinh thần. Sở dĩ việc BTTH có nghĩa là một sự bù đắp tổn thất về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm vì không phải trường hợp thiệt hại nào cũng có thể xác định chính xác mức độ thiệt hại, nhất là thiệt hại về tinh thần. Trong nhiều trường hợp, sự bù đắp có thể không tương xứng với thiệt hại nhưng vẫn có ý nghĩa, vì nếu không xác định được chính xác thiệt hại mà bỏ qua việc bồi thường thì có nghĩa là trật tự pháp luật đã bị xâm phạm, quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức sẽ bị xâm hại và không được pháp luật bảo vệ. Với những tổn thất về tinh thần, sự bù đắp của việc BTTH có ý nghĩa an ủi, chia sẻ nỗi đau đớn, mất mát mà người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ phải gánh chịu. Và như vậy, sự bù đắp sẽ góp phần giúp cho người bị thiệt hại ổn định lại cuộc sống sau những gì đã phải chịu đựng. Đó cũng là đạo lý cần được gìn giữ thông qua sự điều chỉnh của pháp luật, và mang ý nghĩa tinh thần của một sự bù đắp có tính vật chất, tài sản. Hai đặc điểm cơ bản trên đây làm cho BTTH hoàn toàn mang tính chất của quan hệ pháp luật dân sự. Một chủ thể khi có hành vi xâm phạm đến tài sản hay tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, của cá nhân, tổ chức đều phải bồi thường, dù người gây thiệt hại là cá nhân, tổ chức hoặc là người có thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. * Khái niệm BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT (người có thẩm quyền THTT) gây ra Nghĩa vụ BTTH từ hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác là nghĩa vụ pháp lý chung, không có ngoại lệ, được xác định đối với mọi chủ thể. Sự tồn tại tất yếu của khả năng để xảy ra thiệt hại từ hoạt động của cá nhân, tổ chức, Nhà nước đặt ra yêu cầu có sự quy định nghĩa vụ BTTH cho các loại chủ thể khi tiến hành hoạt động của mình, nhất là khi có hành vi trái pháp luật để xảy ra thiệt hại cho chủ thể khác. Trên thực tế, tuy thiệt hại xảy ra có cùng tính chất nhưng nếu do cơ quan công quyền, mà cụ thể là do cơ quan THTT gây ra thì tổn thất bao giờ cũng nặng nề hơn về nhiều phương diện. Chính vì vậy, việc giải quyết BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra phải được đặc biệt quan tâm, chứ không thể xem xét và giải quyết như các vụ BTTH dân sự thông thường. Cơ quan THTT là cơ quan nhà nước hoạt động nhân danh quyền tư pháp. Chức năng chủ yếu của cơ quan THTT là sử dụng công cụ pháp luật, áp dụng các biện pháp do pháp luật quy định nhằm đấu tranh phòng, chống tội phạm và giải quyết đúng đắn, kịp thời các tranh chấp xảy ra trong xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Nhà nước, bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN. Hoạt động chức năng của cơ quan và người có thẩm quyền của cơ quan THTT, tuy có nhiệm vụ bảo vệ và thực hiện pháp luật, nhưng hoạt động này vẫn có thể trở thành tác nhân gây thiệt hại cho công dân từ các hành vi tố tụng trái pháp luật. Thiệt hại do cơ quan THTT gây ra và việc giải quyết bồi thường này về bản chất phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự, tức được nhìn nhận là một loại quan hệ pháp luật có tính chất dân sự, song không thuần túy là quan hệ dân sự thông thường. Đây được xem là trường hợp BTTH có tính đặc thù của luật dân sự và chế định BTTH ngoài hợp đồng, bởi quan hệ giải quyết bồi thường tuy là quan hệ có tính chất dân sự nhưng phát sinh giữa chủ thể đặc biệt của luật dân sự là Nhà nước với công dân trong hoạt động tư pháp. Do đó, khác với BTTH dân sự thông thường, "BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra là trách nhiệm của Nhà nước phải khắc phục hậu quả mà người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra do xâm phạm quyền tư pháp bằng cách bù đắp, đền bù những tổn thất về vật chất, tinh thần và khôi phục danh dự, uy tín, nhân phẩm cho công dân". BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra là bồi thường của Nhà nước cho công dân bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng. Việc bồi thường này không đơn thuần chỉ là bù đắp, đền bù tổn thất vật chất hoặc tinh thần, mà một yêu cầu quan trọng khác đặt ra trong các vụ xét giải quyết BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra là Nhà nước (cụ thể là cơ quan THTT có hành vi gây thiệt hại) phải có những biện pháp khôi phục kịp thời danh dự, uy tín cho công dân, nhất là đối với từng trường hợp bị oan, sai về hình sự. Việc bồi thường này một mặt mang tính chất dân sự vì tổn thất mà người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra cho cá nhân, tổ chức trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thường là thiệt hại vật chất hoặc thiệt hại tinh thần do danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc sức khỏe, tính mạng, tài sản cá nhân bị xâm phạm. Về nguyên tắc, để kịp thời khắc phục hậu quả xảy ra, pháp luật buộc chủ thể đã gây ra thiệt hại có nghĩa vụ đối với người bị thiệt hại. Yêu cầu này chỉ có thể đạt được khi việc BTTH đó được giải quyết trong khuôn khổ của trách nhiệm pháp lý dân sự. Song mặt khác, mặc dù về hình thức, thiệt hại xảy ra là thiệt hại vật chất hoặc tinh thần như các thiệt hại dân sự thông thường, nhưng vì do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra nên mức độ, diễn biến của tổn thất thực tế trong nhiều trường hợp trở nên rất phức tạp, nếu không được kịp thời khắc phục bằng các giải pháp mang tính dân sự thì có thể còn dẫn đến việc phát sinh nhiều vấn đề phức tạp, mà một trong số tác động tiêu cực của trường hợp thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra đối với trật tự xã hội, đó là sự xói mòn, giảm sút lòng tin của nhân dân vào Nhà nước, vào nền pháp chế dân chủ XHCN, vào công lý, công bằng của pháp luật. Các biện pháp khắc phục mang tính chất dân sự (BTTH) là giải pháp kịp thời để giảm đến mức thấp nhất tác động tiêu cực mà hành vi gây thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra. Bên cạnh đó, sự đặc thù của BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra xuất phát từ một điều kiện thực tế khác, đó là vì thiệt hại phát sinh trong các giai đoạn, quá trình và hoạt động tố tụng phức tạp; một thiệt hại có thể do nhiều nguyên nhân, nhiều người, nhiều cơ quan THTT khác nhau gây ra. Thậm chí thiệt hại có thể cùng do một loại cơ quan, nhưng theo thủ tục tố tụng khác nhau thì diễn biến của thiệt hại trên thực tế lại khác nhau. Vì vậy, việc đánh giá mức độ thiệt hại, xác định phạm vi trách nhiệm và nội dung các thiệt hại được bồi thường đặt trong điều kiện hoạt động của cơ quan THTT để giải quyết BTTH không thể chỉ dựa trên các quy định của Luật dân sự mà còn dựa trên quy phạm pháp luật áp dụng riêng cho trường hợp BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan THTT gây ra. Điều này cho thấy, BTTH do người có thẩm quyền THTT gây ra, ngoài những đặc điểm của BTTH trong dân sự như sự bù đắp, sự đền bù tổn thất thực tế, còn có đặc điểm quan trọng khác thể hiện bản chất quyền tư pháp nhà nước, đó là để khẳng định tính đúng đắn, nghiêm minh, công bằng của pháp luật và tăng cường sự dân chủ của Nhà nước pháp quyền và pháp chế XHCN thông qua chính việc giải quyết bồi thường. Đây là đặc điểm nói lên tính đặc thù của BTTH do người có thẩm quyền THTT gây ra mà các cơ quan cũng như người có thẩm quyền THTT phải nhận thức và xác định rõ khi thực hiện trách nhiệm BTTH cho công dân, nhất là đối với BTTH oan, sai về hình sự. Điều kiện và xu thế phát triển của đất nước cũng như trên thế giới hiện nay đã khẳng định, "nội dung chủ yếu của tư tưởng Nhà nước pháp quyền là đề cao vai trò của pháp luật nhằm bảo vệ các giá trị xã hội lớn như tự do, công bằng, an toàn và phát triển" [50, tr. 32]. Thực hiện đúng trách nhiệm của cơ quan THTT trong BTTH khi hoạt động của người có thẩm quyền THTT gây ra thiệt hại cho công dân chính là hành động có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với công dân về việc tăng cường trách nhiệm của Nhà nước trước công dân. Có thể nói, đặc điểm về sự khẳng định tính pháp chế, tính dân chủ trong giải quyết BTTH do người có thẩm quyền THTT gây ra sẽ là một trong những điểm quan trọng để lý giải đặc thù của loại trách nhiệm này so với các trách nhiệm BTTH dân sự khác, như BTTH do người của pháp nhân gây ra hoặc do cá nhân gây ra. 1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm địa vị pháp lý của cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng * Khái niệm và đặc điểm địa vị pháp lý của cơ quan THTT ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, bộ máy nhà nước là hệ thống tổ chức các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan đó trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Là bộ phận của quyền lực nhà nước, quyền tư pháp được trao cho các cơ quan tư pháp nói chung và cơ quan THTT nói riêng để các cơ quan đó trực tiếp thực thi quyền lực này. Hoạt động của các cơ quan THTT chiếm một vị trí, vai trò rất quan trọng trong bộ máy nhà nước, bởi hoạt động đó phản ánh một cách đầy đủ và sâu sắc bản chất của một nền công lý, biểu hiện tập trung của các quyền tư pháp và thể hiện rõ nền tảng đạo đức xã hội XHCN. Hoạt động của cơ quan THTT là hoạt động có tính độc lập đặc thù, song không tách rời chính trị. Sự không tách rời chính trị của hoạt động tố tụng trên cơ sở xác định "chính trị là sự tham gia vào những công việc của Nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nước" [35, tr. 404]. Hiện tại trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, "cơ quan THTT là cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án" [47]. Quy định của Nghị định 47/CP (3/5/1997) về cơ quan THTT căn cứ vào hoạt động chức năng của cơ quan tư pháp. Nhưng nếu xét từ khía cạnh của khoa học tổ chức, khái niệm cơ quan tư pháp sẽ bao gồm nhiều cơ quan, nhiều tổ chức có liên quan đến hoạt động tư pháp và cơ quan THTT chỉ là một loại trong số đó. Nghĩa là, bên cạnh cơ quan THTT (với chức năng chính là giải quyết một vụ việc cụ thể theo quy định của pháp luật tố tụng), trong hệ thống các cơ quan tư pháp còn có cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý hay cơ quan hoạt động mang tính chất bổ trợ tư pháp như giám định, luật sư, công chứng... Vì vậy, quan niệm về cơ quan THTT như quy định của Nghị định 47/CP đã nêu thực chất mới chỉ có ý nghĩa là sự liệt kê danh sách các cơ quan có chức năng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Tùy theo tính chất, nội dung của vụ việc nảy sinh mà việc tham gia của từng cơ quan tố tụng cũng như vai trò, chức năng của mỗi cơ quan đó sẽ khác nhau. Để có khái niệm khoa học và phù hợp về cơ quan THTT, phải thấy được các mối liên hệ bên ngoài cũng như bên trong của các cơ quan THTT, chẳng hạn: - Các mối liên hệ bên ngoài, như mối liên hệ giữa hệ thống cơ quan THTT với hệ thống tư pháp, với các yếu tố chính trị - xã hội; với chính đối tượng của nó là các vi phạm pháp luật và tội phạm; - Các mối liên hệ bên trong của hệ thống cơ quan THTT được thể hiện giữa các bộ phận hợp thành của hệ thống và sự tương tác giữa các khâu trong hoạt động của hệ thống các cơ quan THTT. Trong hệ thống này, Tòa án giữ vị trí trung tâm, các cơ quan khác như cơ quan điều tra, cơ quan công tố giữ vị trí độc lập tương đối với Tòa án. Bên cạnh đó, để hiểu được vị trí, vai trò và bản chất của quyền tư pháp - theo nghĩa rộng (ở khía cạnh thể chế) là một trong số ba quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp) của Nhà nước và theo nghĩa hẹp là quyền chủ quan (của chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng) của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử khi giải quyết vụ việc thì phải tiếp cận hệ thống cơ quan THTT từ nhiều góc độ. Chẳng hạn, coi cơ quan THTT (vốn là một loại cơ quan nằm trong hệ thống tư pháp) là một trong những yếu tố của hệ thống kiểm tra, kiểm soát xã hội; là các khâu trong quá trình tố tụng dẫn đến xét xử và phán quyết của Tòa án; là khâu quan trọng nằm trong hệ thống của cả quá trình áp dụng pháp luật từ phía cơ quan quyền lực nhà nước. Như vậy, "cơ quan THTT là cơ quan nhà nước, độc lập thực thi quyền tư pháp trong giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng do luật định nhằm bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Nhà nước". Tùy theo từng thủ tục tố tụng mà có những cơ quan THTT khác nhau, ví dụ: cơ quan THTT trong xét xử hình sự gồm có cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), Tòa án nhân dân (TAND). Cơ quan THTT trong xét xử dân sự, hành chính, lao động... gồm TAND và VKSND. Cụ thể, cơ quan THTT trong lĩnh vực hình sự bao gồm: + Cơ quan điều tra: Theo Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự (1989), cơ quan điều tra gồm: Cơ quan điều tra của lực lượng an ninh nhân dân; cơ quan điều tra của lực lượng cảnh sát nhân dân; cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân; cơ quan điều tra của VKSND. Các cơ quan điều tra có nhiệm vụ phát hiện tội phạm, khởi tố, điều tra thu thập chứng cứ, lập hồ sơ vụ án theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Hoạt động của cơ quan điều tra nhằm xác định tội phạm và người thực hiện tội phạm, làm rõ những yếu tố liên quan đến việc thực hiện tội phạm như nguyên nhân, điều kiện phạm tội, tính chất tội phạm, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra... Từ đó phát hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm cũng như không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội trên nguyên tắc tôn trọng sự khách quan, đầy đủ, toàn diện để làm cơ sở cho việc truy tố, xét xử. Hoạt động của cơ quan điều tra giữ một vị trí quan trọng, vì điều tra đúng là cơ sở đầu tiên để truy tố xét xử đúng và ngược lại, điều tra sai có thể là tiền đề đưa đến những sai sót ngay từ đầu trong các hoạt động tố tụng và dễ dẫn đến việc truy tố, xét xử sai. Với nhiệm vụ và tính chất quan trọng như vậy, nên mọi hoạt động điều tra phải tuân theo pháp luật và chấp hành các nguyên tắc của pháp luật tố tụng hình sự như: Tôn trọng và đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, bảo đảm pháp chế XHCN, bảo đảm sự vô tư của người có thẩm quyền THTT, bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật và tôn trọng sự thật khách quan của vụ án, dựng lại hiện trường, mô tả vụ án bằng ngôn ngữ, họa đồ, ảnh chụp (tức điều tra sự việc đã xảy ra chứ không phải sẽ xảy ra). Nhìn chung, điều tra là để làm sáng tỏ mọi tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án, bởi vì "trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội" [13]. Quá trình này nếu được tiến hành thiếu khách quan hoặc có sự vi phạm thì hậu quả là quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức sẽ bị xâm phạm. Vì thế, toàn bộ hoạt động điều tra đều được VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khi tiến hành các hoạt động đó nhằm "bảo đảm hoạt động của cơ quan điều tra, của các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, của đơn vị bộ đội Biên phòng, cơ quan Hải quan và cơ quan Kiểm lâm phải tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự" [71]. + Viện kiểm sát: Theo quy định của Luật tổ chức VKSND, VKSND các cấp là một trong số cơ quan có thẩm quyền THTT. Viện kiểm sát (VKS) tham gia trong cả quá trình tố tụng với hai chức năng cơ bản là thực hiện quyền công tố và giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình này. Điều 137 (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến Pháp 1992) quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định [73]. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND thì hai chức năng nổi bật của VKS là thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp. Quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho VKS thực hiện theo quy định của pháp luật. Đó là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra trước cơ quan xét xử nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nội dung quyền công tố do VKS thực hiện là tổng hợp các biện pháp pháp lý được tiến hành với sự liên kết chặt chẽ với nhau trong hoạt động của VKS. Với nội dung này, thực hành quyền công tố của VKS vừa có chức năng thay mặt Nhà nước cáo buộc, vừa có ý nghĩa là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tố tụng (như tố tụng hình sự, tố tụng hành chính...). Có thể nói, trong tố tụng hình sự, hoạt động của VKS thể hiện đầy đủ hai chức năng: Thực hiện quyền công tố nhà nước và thực thi quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp. Đối với các thủ tục tố tụng khác thì chức năng chủ yếu của VKS là kiểm sát hoạt động tuân theo pháp luật của các cơ quan tố tụng và các cơ quan tư pháp khác. VKS tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hành chính... với tư cách khởi tố vụ án theo quy định của pháp luật. Đối với cơ quan điều tra, VKS đại diện cho cơ quan nhà nước cao nhất đánh giá căn cứ và tính hợp pháp của hoạt động điều tra, quyết định có đưa vụ án ra xét xử ở Tòa án hay không. Đối với Tòa án, không có một công dân nào có thể bị đưa ra xét xử nếu không bị VKS truy tố. + Tòa án Với tư cách là một trong những chủ thể của các loại quan hệ pháp luật tố tụng như tố tụng hình sự và tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, lao động... Tòa án có vị trí pháp lý đặc biệt quan trọng trong hệ thống cơ quan THTT. Khi tiến hành xét xử các vụ án hình sự, Tòa án phải giải quyết những vấn đề cơ bản của vụ án như định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo. Việc xét xử diễn ra ở các cấp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm,... ở từng cấp xét xử, vai trò của Tòa án không đơn giản là thực hiện quyền phán quyết bằng việc dựa vào các căn cứ do cơ quan điều tra và VKS đưa ra để định tội danh và quyết định hình phạt. Tòa án có thẩm quyền tố tụng hình sự, thẩm quyền này thể hiện ở chỗ, chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền quyết định xem một người có phạm tội hay không. Điều 10, Luật tố tụng hình sự đã khẳng định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Tòa án". Vai trò của Tòa án thể hiện ở khía cạnh, Tòa án với phán quyết của mình là nơi công lý, công bằng được thực hiện; là nơi thực hiện sự giáo dục nghiêm khắc và sự răn đe đối với các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần làm cho pháp luật phải được thực hiện. Về phương diện pháp lý, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước để tuyên bố một người đã phạm tội cùng mức hình phạt tương xứng để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật và sự lên án của xã hội đối với các hành vi phạm tội. Hoạt động của Tòa án là giai đoạn quyết định của quá trình tố tụng có vai trò quan trọng nhất trong việc định tội danh, quyết định hình phạt cho bị cáo. Nhưng Tòa án cũng là cơ quan chịu trách nhiệm về quyết định không đúng trong các trường hợp oan, sai hoặc chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Riêng đối với cơ quan thi hành án, hiện có hai quan điểm khác nhau về vị trí của cơ quan này có nằm trong hệ thống cơ quan THTT hay không? Quan điểm thứ nhất cho rằng, cơ quan thi hành án, ví dụ như cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan THTT, bởi vì đó là cơ quan tổ chức việc thi hành án dân sự, thực hiện nhiệm vụ của tố tụng dân sự. Quan điểm thứ hai không cho cơ quan thi hành án là cơ quan THTT vì đây là cơ quan hành chính, được đặt trong hệ thống cơ quan hành chính và hoạt động chủ yếu theo nguyên tắc của luật hành chính. Trong phạm vi luận án này, thi hành án là cơ quan thực thi quyền tư pháp nhưng không bao hàm ý nghĩa của quyền xét xử vốn là quyền mang đặc trưng bản chất của quyền tư pháp. Đối với một số cơ quan thi hành án theo các thủ tục tố tụng hình sự, dân sự, lao động, thì hoạt động của các cơ quan này lại có sự độc lập nhất định đối với quá trình giải quyết vụ việc. Vì vậy, cơ quan thi hành án không được xác định là cơ quan THTT mà chỉ là cơ quan tư pháp. Hoạt động của cơ quan thi hành án có ý nghĩa kết thúc quá trình bảo vệ pháp luật, công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Nhà nước. Từ đây, đặt ra một vấn đề có tính lý luận và thực tiễn đối với hoạt động chức năng của các cơ quan THTT là xử lý mối quan hệ giữa các cơ quan THTT với nhau như thế nào. Mặc dù mỗi cơ quan THTT có vai trò khác nhau trong từng giai đoạn tố tụng hoặc từng thủ tục tố tụng, nhưng về tổng thể, các cơ quan THTT đều có một số đặc điểm về địa vị pháp lý như sau: + Đây là các cơ quan nhà nước được Nhà nước trao cho quyền hạn độc lập thực thi quyền tư pháp. Cũng như các cơ quan hành pháp, hoạt động của các cơ quan THTT thực sự biểu hiện và "chuyển tải" quyền lực nhà nước vào đời sống xã hội, vì dù quyền lực của Nhà nước được thực hiện đầy đủ và đúng đắn qua hoạt động hành pháp, nhưng nếu không có sự "chuyển tải" hiệu quả quyền lực nhà nước ấy qua các cơ quan tư pháp nói chung và cơ quan THTT nói riêng thì đó sẽ là sự hạn chế không nhỏ, thậm chí còn làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả của quyền lực nhà nước. Điều này đồng nghĩa với việc nếu cơ quan THTT làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình sẽ có tác động tích cực đối với hoạt động lập pháp, hành pháp và có ý nghĩa quyết định đối với việc củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước trong đời sống xã hội. Các cơ quan THTT, thông qua hoạt động của mình để trực tiếp thực hiện quyền tư pháp Nhà nước. Khi đó, hoạt động của cơ quan THTT trực tiếp liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. ._.ính hoặc cán bộ của các cơ quan hành chính trong khi thi hành công vụ vi phạm quyền lợi hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, tổ chức khác dẫn đến tổn thất thì cơ quan hành chính đó là cơ quan có nghĩa vụ bồi thường. Hai cơ quan hành chính trở lên khi thi hành công vụ cùng vi phạm quyền lợi hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, tổ chức khác gây tổn thất thì có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại xảy ra. Các tổ chức thực thi quyền hành chính theo quy định của pháp luật vi phạm quyền lợi hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, tổ chức khác mà gây tổn thất thì các tổ chức đó là cơ quan có nghĩa vụ bồi thường. Các tổ chức hoặc cá nhân được cơ quan hành chính ủy quyền thực thi quyền hành chính vi phạm quyền lợi hợp pháp của pháp nhân, tổ chức khác mà gây tổn thất thì cơ quan hành chính ủy quyền là cơ quan có nghĩa vụ bồi thường. Trong trường hợp cơ quan có nghĩa vụ bồi thường bị giải thể thì cơ quan hành chính được chỉ định tiếp tục thực thi chức năng của cơ quan hành chính bị giải thể là cơ quan có nghĩa vụ bồi thường, nếu không có cơ quan tiếp nhận chức năng của cơ quan hành chính bị giải thể thì cơ quan ra quyết định giải thể là cơ quan có nghĩa vụ bồi thường. Điều 8: Đối với những trường hợp xét xử lại thì cơ quan hành chính có hành vi xâm hại đầu tiên là cơ quan có nghĩa vụ bồi thường, nhưng nếu quyết định sau khi xét xử lại tăng thêm tổn thất thì cơ quan xét xử lại đó có nghĩa vụ bồi thường đối với phần tăng nặng đó. Tiết 3 - Trình tự bồi thường Điều 9: Cơ quan có nghĩa vụ bồi thường thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 3 và Điều 4 của Luật này phải thực hiện việc bồi dưỡng. Người có quyền yêu cầu bồi thường phải có đơn gửi cơ quan có nghĩa vụ bồi thường, đồng thời cũng có thể gửi đơn yêu cầu giải quyết tố tụng hành chính. Điều 10: Trong trường hợp nhiều cơ quan cùng có nghĩa vụ bồi thường thì người có quyền yêu cầu bồi thường có thể gửi yêu cầu cho bất cứ một cơ quan nào trong số các cơ quan đó thực hiện bồi thường. Cơ quan nhận được đơn yêu cầu bồi thường phải thực hiện việc bồi thường. Điều 11: Người có quyền yêu cầu bồi thường nếu bị nhiều tổn thất khác nhau có thể đồng thời yêu cầu bồi thường các tổn thất đó. Điều 12: Người có quyền yêu cầu bồi thường phải có đơn, trong đơn ghi rõ đầy đủ các nội dung sau: 1. Tên, giới tính, tuổi, đơn vị công tác, chỗ ở của người bị hại, tên, trụ sở của pháp nhân, tổ chức và tên, chức vụ của đại diện pháp nhân hoặc người chịu trách nhiệm chính; 2. Lý do, căn cứ thực tế, yêu cầu cụ thể; 3. Ngày tháng năm làm đơn. Nếu người có quyền yêu cầu bồi thường gặp khó khăn trong việc viết đơn thì có thể nhờ người khác viết hoặc có thể trình bày miệng, cơ quan có nghĩa vụ bồi thường phải ghi vào sổ nhật ký của cơ quan. Điều 13: Cơ quan có nghĩa vụ bồi thường trong thời hạn 2 tháng kể từ khi nhận được đơn yêu cầu bồi thường, phải thực hiện việc bồi thường theo quy định tại chương 4 Luật này; nếu vượt quá thời hạn trên mà không bồi thường hoặc bồi thường không đầy đủ so với mức yêu cầu của người bị hại, thì người bị hại có thể kiện lên Tòa án trong thời hạn 3 tháng kể từ khi hết thời gian trên. Điều 14: Cơ quan có nghĩa vụ bồi thường sau khi bồi thường xong có quyền yêu cầu cán bộ, tổ chức hoặc cá nhân có hành vi cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại bồi hoàn một phần hoặc toàn bộ tiền bồi thường. Cơ quan hành chính có quyền xử lý hành chính những cán bộ có hành vi cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại; nếu cấu thành tội phạm thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Chương III - Bồi thường hình sự Tiết 1: Phạm vi bồi thường Điều 15: Các cơ quan có chức năng điều tra, truy tố, xét xử, quản lý trại giam và cán bộ của những cơ quan này khi thực thi nhiệm vụ xâm phạm quyền nhân thân, thuộc một trong các trường hợp sau thì người bị thiệt hại có quyền được bồi thường thiệt hại: 1. Bắt giữ sai đối với người bị tình nghi phạm tội nhưng chưa có dấu hiệu thực tế hoặc chưa có chứng cứ thực tế là phạm tội; 2. Giam giữ sai đối với những người chưa thực sự phạm tội; 3. Xét xử lại theo trình tự kiểm tra, giám sát xét xử là vô tội, nhưng đã chấp hành hình phạt đã tuyên; 4. Có các hành vi bạo lực như bức cung, đánh đập hoặc sai người khác dùng các hành vi bạo lực như đánh đập dẫn đến công dân bị thương tích hoặc tử vong; 5. Sử dụng vũ khí, dụng cụ trái pháp luật dẫn đến công dân bị thương tích hoặc tử vong. Điều 16: Các cơ quan thực thi chức năng điều tra, truy tố, xét xử, quản lý trại giam và cán bộ của những cơ quan này khi thực thi nhiệm vụ xâm hại đến quyền tài sản, thuộc một trong các trường hợp sau thì người bị thiệt hại có quyền được bồi thường thiệt hại: 1. áp dụng các biện pháp trái pháp luật như niêm phong, thu giữ tài sản; 2. Xét xử lại theo trình tự kiểm tra, giám sát xét xử là vô tội, nhưng đã chấp hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản. Điều 17: Nhà nước không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau: 1. Công dân cố ý khai sai sự thật hoặc tạo chứng cứ giả để bị coi là có tội, để bị bắt hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; 2. Những trường hợp bắt giam người không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 14, 15 Luật hình sự; 3. Những trường hợp bắt giam người không phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 11 Luật tố tụng hình sự; 4. Các hành vi cá nhân của cán bộ cơ quan nhà nước có chức năng điều tra, truy tố, xét xử, quản lý trại giam hoặc cán bộ của các cơ quan này không liên quan đến nhiệm vụ. 5. Công dân tự làm mình bị thương tàn tật hoặc có hành vi cố ý gây tônr thất cho mình; 6. Những trường hợp khác do pháp luật quy định. Tiết 2: Người có quyền yêu cầu bồi thường và cơ quan có nghĩa vụ bồi thường Điều 18: Việc xác định người có quyền yêu cầu bồi thường căn cứ theo quy định tại Điều 6 của Luật này. Điều 19: Các cơ quan có chức năng điều tra, truy tố, xét xử, quản lý trại giam và cán bộ của các cơ quan này trong khi thực hiện chức năng nhiệm vụ xâm hại quyền lợi hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và các tổ chức khác dẫn đến tổn thất thì những cơ quan này là cơ quan có nghĩa vụ bồi thường. Các cơ quan ra quyết định tạm giữ hoặc tạm giam trái pháp luật đối với người bị tình nghi nhưng thực tế không phạm tội hoặc không có căn cứ chứng minh phạm tội là những cơ quan có nghĩa vụ phải bồi thường. Cơ quan ra quyết định bắt giam hoặc bắt giam trái pháp luật người không phạm tội là những cơ quan có nghĩa vụ phải bồi thường. Nếu xét xử lại là vô tội, thì Tòa án ra quyết định đã có hiệu lực ban đầu là cơ quan có nghĩa vụ bồi thường. Tòa phúc thẩm xử vô tội thì tòa sơ thẩm và cơ quan ra quyết định bắt người là những cơ quan cùng có nghĩa vụ bồi thường. Tiết 3 - Trình tự bồi thường Điều 20: Các cơ quan có nghĩa vụ bồi thường thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 15, 16 của Luật này phải thực hiện việc bồi thường. Người có quyền yêu cầu bồi thường yêu cầu xác nhận đã có sự vi phạm thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 15, 16 của Luật này mà cơ quan được yêu cầu không xác nhận thì người có quyền yêu cầu bồi thường có quyền khiếu nại. Người có quyền yêu cầu bồi thường phải gửi đơn yêu cầu bồi thường tới cơ quan có nghĩa vụ bồi thường. Trình tự bồi thường áp dụng theo quy định tại Điều 10, 11, 12 của Luật này. Điều 21: Cơ quan có nghĩa vụ bồi thường phải thực hiện việc bồi thường theo quy định tại chương 4 của Luật này trong thời hạn 2 tháng kể từ khi nhận được đơn yêu cầu bồi thường. Nếu quá thời hạn trên mà không thực hiện bồi thường hoặc bồi thường không đầy đủ so với mức yêu cầu thì người có quyền yêu cầu bồi thường có quyền kiện lên cơ quan cấp trên của cơ quan đó trong thời hạn 30 ngày kể từ khi hết thời hạn trên. Nếu cơ quan có nghĩa vụ bồi thường là Tòa án nhân dân thì người có quyền yêu cầu bồi thường có thể căn cứ theo quy định tại khoản trên yêu cầu Hội đồng bồi thường của Tòa án nhân dân cấp trên của Tòa án đó ra quyết định bồi thường. Điều 22: Cơ quan xét xử lại phải ra quyết định trong thời hạn 2 thang kể từ ngày nhận được yêu cầu. Nếu người có quyền yêu cầu bồi thường không chấp nhận quyết định bồi thường thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, có quyền yêu cầu Hội đồng bồi thường của Tòa án nhân dân cùng cấp của cơ quan xét xử lại đó ra quyết định bồi thường; quá thời hạn trên mà cơ quan xét xử lại không ra quyết định người có quyền yêu cầu bồi thường có quyền yêu cầu Hội đồng bồi thường của Tòa án nhân dân cùng cấp sở tại với cơ quan xét xử lại đó ra quyết định bồi thường trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn trên. Điều 23: Tòa án nhân dân trung cấp(1) Tòa án nhân dân trung cấp là Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, khu tự trị, châu tự trị. trở lên thành lập Hội đồng bồi thường, thành phần gồm ba đến bảy thẩm phán. Hội đồng bồi thường ra quyết định bồi thường, thực hiện nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Quyết định bồi thường của Hội đồng bồi thường là quyết định có hiệu lực pháp luật, buộc phải thực hiện. Điều 24: Cơ quan có nghĩa vụ bồi thường sau khi bồi thường có quyền yêu cầu cán bộ thuộc một trong các trường hợp sau phải bồi hoàn một phần hoặc toàn bộ tiền bồi thường. 1. Các trường hợp quy định tại khoản 4, 5 Điều 15 của Luật này. 2. Trong khi xử lý vụ án có hành vi tham ô, nhận hối lộ, mưu lợi cá nhân, xét xử trái pháp luật. Đối với những người có trách nhiệm thuộc khoản 1 và 2 nêu trên các cơ quan hữu quan còn phải xử lý hành chính theo quy định pháp luật, nếu cấu thành tội phạm thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Chương IV - Cách tính bồi thường và tiêu chuẩn tính bồi thường Điều 25: Nhà nước bồi thường chủ yếu bằng tiền. Nếu có thể hoàn trả tài sản hoặc phục hồi nguyên trạng thì hoàn trả tài sản hoặc phục hồi nguyên trạng. Điều 26: Nếu xâm hại đến quyền tự do cá nhân thì tiền bồi thường mỗi ngày được tính theo lương bình quân ngày của cán bộ nhà nước của năm trước đó. Điều 27: Xâm hại đến quyền sức khỏe, tính mạng của công dân thì tiền bồi thường được tính như sau: 1. Nếu gây thương tích, phải thanh toán tiền chữa bệnh và bồi thường phần thu nhập bị giảm do phải nghỉ việc, tiền bồi thường mỗi ngày do thu nhập bị giảm tính theo lương bình quân ngày của cán bộ nhà nước vào năm trước đó, nhưng tối đa không quá 5 lần tiền lương bình quân của năm trước đó; 2. Nếu gây mất một phần hoặc toàn bộ khả năng lao động thì phải trả tiền chữa bệnh và tiền bồi thường tàn tật, tiền bồi thường tàn tật xác định theo mức độ mất khả năng lao động, tiền bồi thường cho việc mất một phần khả năng lao động tối đa không quá 10 lần tiền lương bình quân của cán bộ nhân viên nhà nước của năm trước đó, tiền bồi thường cho việc mất toàn bộ khả năng lao động tối đa không quá 20 lần tiền lương bình quân của cán bộ nhân viên nhà nước của năm trước đó. Đối với trường hợp gây mất toàn bộ khả năng lao động, còn phải bồi thường cả tiền sinh hoạt phí cho người không có khả năng lao động mà người đó phải nuôi dưỡng. 3. Nếu gây chết người thì phải trả tiền bồi thường làm chết người, tiền tang lễ, tổng số gấp 20 lần tiền lương bình quân của cán bộ nhà nước của năm trước đó. Nếu người chết khi còn sống phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng người không có khả năng lao động thì phải bồi thường tiền sinh hoạt phí cho người không có khả năng lao động đó. Tiền sinh hoạt phí quy định tại khoản 2 và 3 trên đây được tính căn cứ theo quy định về trợ giúp sinh hoạt của cơ quan dân chính địa phương đó. Nếu người được nuôi dưỡng là vị thành niên thì được nhận tiền sinh hoạt phí đến năm 18 tuổi, những người không có khả năng lao động khác được nhận tiền sinh hoạt phí cho đến lúc chết. Điều 28: Nếu xâm phạm đến quyền tài sản của công dân, pháp nhân và các tổ chức khác gây tổn hại, thì bị xử lý theo các quy định sau: 1. Phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc trưng thu tài sản, thu phí trái với quy định của Nhà nước thì phải hoàn trả tài sản; 2. Niêm phong, thu giữ tài sản trái pháp luật thì phải hủy việc niêm phong, thu giữ đó nếu làm hỏng hoặc gây mất mát tài sản thì phải bồi thường theo quy định tại khoản 3 và 4 dưới đây; 3. Tài sản phải hoàn trả bị hỏng, nếu có thể khôi phục nguyên trạng được thì khôi phục nguyên trạng, nếu không thể khôi phục nguyên trạng được thì bồi thường bằng tiền tương ứng với mức độ tổn thất. + Trong trường hợp tài sản phải hoàn trả bị mất thì bồi thường bằng tiền tương ứng; 5. Trong trường hợp tài sản đã đem phát mại thì trả lại số tiền đã thu được từ việc phát mại đó; 6. Hủy giấy phép, ra lệnh đình chỉ sản xuất kinh doanh trái pháp luật thì phải bồi thường chi phí cần thiết trong khoảng thời gian bị buộc đình chỉ sản xuất đó; 7. Gây tổn thất khác về quyền tài sản thì bồi thường theo tổn thất trực tiếp. Điều 29: Tiền bồi thường lấy từ ngân sách tài chính của các cấp, biện pháp bồi thường cụ thể do Quốc vụ viện quy định. Chương V - Các quy định khác Điều 30: Cơ quan có nghĩa vụ bồi thường được xác định thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2, 3 Điều 3, khoản 1, 2, 3 Điều 15 của Luật này, gây tổn hại đến danh dự, phải có biện pháp xóa bỏ sự ảnh hưởng đó, phải khôi phục lại danh dự cho người bị xâm hại và xin lỗi. Điều 31: Tòa án nhân dân trong quá trình tiến hành tố tụng dân sự, tố tụng hành chính áp dụng các biện pháp bảo toàn, biện pháp cưỡng chế trái với quy định pháp luật, thực thi sai những phán quyết, quyết định và những văn bản có hiệu lực pháp luật khác gây tổn hại thì trình tự yêu cầu bồi thường áp dụng theo các quy định về trình tự bồi thường hình sự của Luật này. Điều 32: Thời hiệu để người có quyền yêu cầu bồi thường yêu cầu Nhà nước bồi thường là 2 năm tính từ ngày hành vi của cán bộ cơ quan nhà nước được xác định là vi phạm pháp luật nhưng không có tính thời gian bắt giữ. Người có quyền yêu cầu bồi thường trong thời hạn 6 tháng cuối cùng của thời hiệu yêu cầu bồi thường do lý do bất khả kháng hoặc lý do khác không thể thực thi quyền yêu cầu thì thời hiệu yêu cầu bồi thường được dừng tính. Tiếp tục tính thời gian của thời hiệu yêu cầu bồi thường kể từ ngày lý do dừng tính thời hiệu bồi thường không còn nữa. Điều 33: Người nước ngoài, doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài trong phạm vi lãnh thổ nước CHND Trung Hoa yêu cầu nước CHND Trung Hoa bồi thường cũng áp dụng theo luật này. Quốc gia của người nước ngoài, doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài không được bảo hộ hoặc hạn chế công dân, pháp nhân, tổ chức của nước CHND Trung Hoa yêu cầu nước đó bồi thường. Nhà nước CHND Trung Hoa thực hiện nguyên tắc bình đẳng đối với các quốc gia của người nước ngoài, doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài. Chương VI - Các điều khoản bổ sung Điều 34: Người có quyền yêu cầu bồi thường yêu cầu Nhà nước bồi thường, các cơ quan có nghĩa vụ bồi thường và Tòa án nhân dân không được thu bất kỳ lệ phí gì của người có quyền yêu cầu bồi thường. Không được thu thuế đối với số tiền được bồi thường. Điều 35: Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1995. Luật về xem xét lại các bản án hình sự nước cộng hòa pháp Số: JUSX8910170L Hạ viện và Thượng viện đã thông qua, Tổng thống ban hành luật Điều 1: Tất cả những người đã bị xét xử và kết án vì một tội hình sự đều có quyền đề nghị xem xét lại bản án đó trong những trường hợp sau đây: 1. Sau khi bị kết án với tội danh giết người lại tìm thấy những căn cứ thể hiện đầy đủ các tình tiết về việc nạn nhân được coi là bị giết hại vẫn còn sống. 2. Sau khi một bản án đã được tuyên lại xuất hiện một bản án mới (có thể là phán quyết của Tòa Phúc thẩm hoặc Tòa Phá án) buộc tội một người khác về cùng một hành vi nhưng hai bản án này lại không tương đồng với nhau thì sự mâu thuẫn giữa chúng sẽ là bằng chứng cho sự vô tội của một trong hai bị cáo. 3. Sau khi tuyên án, một trong những nhân chúng đã từng làm chứng trong vụ án lại bị kết án do khai man chống lại bị cáo. Trong trường hợp này, đương nhiên nhân chứng này sẽ không được chấp nhận lại trong phiên tòa mới. 4. Sau khi tuyên án, có thêm những sự kiện hoặc yếu tố mới mà Tòa án đã không biết tới tại thời điểm xét xử, gây nghi ngờ về sự phạm tội của bị cáo. Điều 2: Những người có quyền đề nghị xét lại bản án: 1. Bộ trưởng Bộ Tư pháp. 2. Người đã bị kết án. 3. Trong trường hợp người đó không có năng lực hành vi thì do người đại diện hợp pháp của người đó thực hiện. 4. Trong trường hợp người bị kết tội đã chết hoặc mất tích, việc đề nghị xem xét lại bản án có thể do vợ hoặc chồng, con, cha mẹ, người được ủy quyền hoặc người được nhận di tặng toàn bộ hay một cách toàn bộ. Đơn yêu cầu xét lại bản án phải gửi đến một ủy ban gồm năm thẩm phán của Tòa Phá án (Cour de Cassation) và do Hội đồng Thẩm phán của tòa chỉ định. Chủ tịch của ủy ban là thành viên của Phòng hình sự Tòa Phá án. Năm thẩm phán dự khuyết được đề cử theo cùng trình tự. Các hoạt động công tố sẽ do Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa Phá án thực hiện. Sau khi nhận đơn đề nghị xem xét lại bản án dù trực tiếp hay qua con đường ủy thác điều tra, ủy ban này sẽ thụ lý hồ sơ và áp dụng mọi biện pháp điều tra cần thiết: đối chất, thẩm tra, tìm hiểu và tiếp nhận các ý kiến (lời khai) của người đệ đơn hoặc người cố vấn của họ và của Viện Công tố sau đó giao cho Phòng hình sự - được coi là Tòa xét lại các bản án hình sự oan sai để giải quyết những vấn đề cần xét lại. ủy ban này ra một quyết định và quyết định này là phán quyết cuối cùng không có khả năng kháng cáo, kháng nghị và theo đề nghị của người đệ đơn hoặc cố vấn của họ quyết định này có thể được công bố công khai. Trong trường hợp đơn yêu cầu xét lại bản án dựa theo khoản 4 Điều 1 thì ủy ban sẽ tính đến toàn bộ các tình tiết mới hoặc các yếu tố chưa được biết đến khi kết án mà các đơn yêu cầu xét lại đã bị từ chối trước đây đã lấy làm căn cứ. Điều 3: Khi đơn đề nghị xét lại được chấp nhận, ủy ban có thể ra lệnh ngừng thi hành quyết định bản án tại bất cứ thời điểm nào. Điều 4: Khi đơn đề nghị xét lại bản án được ủy ban chấp nhận, Tòa án sẽ xem lại vụ án và ra một quyết định và quyết định này không có khả năng kháng cáo, kháng nghị sau khi đã mở một phiên tòa công khai đồng thời tiếp nhận ý kiến của bên đệ đơn hay cố vấn của người này, của Viện Công tố cũng như của bên nguyên đơn dân sự nếu bên này có liên quan đến vụ án. Tòa án sẽ không chấp nhận xem xét lại nếu thấy đề nghị xét lại không có cơ sở. Ngược lại nếu đề nghị có cơ sở tòa sẽ hủy bỏ bản án cũ và tổ chức, nếu có thể, một phiên tòa xét lại ở một tòa án khác cùng ngạch và cùng cấp với tòa án đã ra quyết định đã bị hủy bỏ. Trong trường hợp không thể tổ chức lại phiên tòa do người bị kết án đã chết, được ân xá, bị mất trí, không chịu ra tòa hoặc vắng mặt một hay nhiều bị cáo, trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, hết thời hiệu khởi kiện hoặc bản án đã hết hiệu lực thì Tòa án sau khi đã xem xét đánh giá với sự có mặt của các bên nguyên đơn dân sự nếu họ có liên quan tới vụ án và của các trợ quản thay mặt cho người đã chết do tòa chỉ định, sẽ hủy bỏ những phần không đúng của bản án và phục hồi danh dự cho những người đã chết. Nếu việc không thể tổ chức được một phiên tòa mới chỉ được biết đến sau khi Tòa xét lại đã ra quyết định hủy bản án cần xét lại và tuyên bố trả lại hồ sơ vụ án thì Tòa án căn cứ vào bản kết luận của Viện Công tố để hủy bỏ việc chỉ định Tòa án xử lại và ra một quyết định theo như quy định tại khoản trên. Nếu việc hủy bỏ bản án cho một bị cáo vẫn đang còn sống đã không để lại một căn cứ nào có thể buộc tội người đó thì việc xét xử lại vụ án đó sẽ không diễn ra. Việc hủy bỏ bản án dẫn đến việc xóa bỏ án tích trong lý lịch tư pháp. Điều 5: Để áp dụng các Điều 2 và Điều 4 của Luật này người đệ đơn có thể được đại diện hoặc trợ giúp bởi một Luật sư của Hội đồng Nhà nước và của Tòa Phá án hoặc bởi một Luật sư có đăng ký hợp lệ ở Đoàn Luật sư. Điều 6: Nếu không chứng minh được việc không tìm ra những tình tiết mới hoặc không tìm ra các yếu tố không được biết đến tại thời điểm xét xử là lỗi của chính người bị kết tội (hoàn toàn hoặc một phần) thì người đó nếu được công nhận là vô tội theo quy định của Luật này có quyền được hưởng mức bồi thường tương ứng với những thiệt hại mà bản án sai đã gây. Tất cả những người khác chứng minh được rằng bản án đó đã gây cho họ thiệt hại đều có quyền yêu cầu bồi thường trong cùng một điều kiện như trên. Khoản bồi thường này do ủy ban thẩm phán quyết định và tuân theo trình tự thủ tục được quy định tại các điều 149-1 và 149-2 Bộ luật Tố tụng hình sự. Khoản bồi thường này sẽ do Nhà nước chi trả trừ trường hợp Nhà nước chứng minh được rằng do lỗi của nguyên đơn dân sự, người tố giác hoặc nhân chứng giả nên bản án sai đã được tuyên. Khoản bồi thường được chi trả như án phí hình sự. án phí xét lại do Kho bạc trả trước kể từ khi ủy ban thẩm phán thụ lý đơn theo quy định tại Điều 2. Nếu sau khi xét lại Tòa án vẫn tuyên án đối với bị cáo thì trách nhiệm thanh toán án phí xét lại thuộc về người bị kết tội hoặc những người bị kết tội và Nhà nước có thể đề nghị bồi hoàn. Nếu người đệ đơn yêu cầu xét lại bản án lại thua kiện thì phải chịu tất cả các chi phí. Nếu người đệ đơn yêu cầu thì quyết định của Tòa công nhận sự vô tội của người này sẽ được niêm yết tại thành phố nơi quyết định kết án đã được công bố, tại địa phương nơi xảy ra vụ án và tại nơi thường trú của người đệ đơn; tại nơi sinh và nơi ở cuối cùng của người đã bị kết án sai nếu như người ấy đã chết với cùng một điều kiện nội dung của quyết định cũng được công bố toàn văn trong Công báo và trong 5 tờ báo khác do tòa chọn. Chi phí cho các việc công bố này thuộc trách nhiệm của Kho bạc nhà nước. Điều 7: Luật này có hiệu lực sau 3 tháng kể từ ngày được đăng trên Công báo. Các văn bản và các quyết định được đưa ra trước khi Luật này có hiệu lực vẫn giữ nguyên giá trị. Đối với những đề nghị xem xét lại bản án của Bộ trưởng Bộ Tư pháp mà chưa được thụ lý tại thời điểm Luật này có hiệu lực thì sẽ được chuyển đến ủy ban Thẩm phán theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Tố tụng hình sự cùng với các giấy tờ liên quan đến việc thẩm tra và tìm hiểu. ủy ban này có quyền đề nghị được xem xét các tài liệu liên quan đến việc thẩm tra và nghiên cứu mà Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã thu thập. Luật này được thi hành như Luật của Nhà nước. Luật bồi thường thiệt hại do tạm giữ, tạm giam oan, sai của nước cộng hòa Pháp Số 70-643 ngày 17/07/70 Điều 1: Nếu không tính đến việc áp dụng các quy định tại Điều 505 và các điều sau đó của Bộ luật Tố tụng dân sự thì một người đã bị tạm giữ và sau đó được trả tự do vì chưa đủ căn cứ để truy tố hoặc được tòa tuyên vô tội có thể được nhận một khoản bồi thường nếu việc bị giam giữ này đã gây ra một thiệt hại đáng kể. 1. Khoản tiền bồi thường sẽ do một Hội đồng quyết định và đây là quyết định cuối cùng. Thành viên của Hội đồng gồm 3 thẩm phán là Chánh án hoặc Cố vấn của Tòa Phá án. Các thẩm phán của Hội đồng này và 3 thành viên dự khuyết do Văn phòng Tòa Phá án chỉ định hàng năm. Các hoạt động công tố do Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa Phá án thực hiện. 2. Hội đồng bồi thường đã nhận đơn thì trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày quyết định không truy tố vì không đủ căn cứ, quyết định xử trắng án hoặc miễn án có hiệu lực phải đưa ra một quyết định cuối cùng về việc bồi thường. Cuộc tranh luận để đưa đến kết luận cho việc bồi thường được diễn ra trong phòng cố vấn. Cuộc tranh luận được thực hiện trực tiếp, bằng lời nói và nếu người yêu cầu bồi thường có đề nghị thì có thể được trình bày các lý lẽ của mình. Thủ tục giải quyết bồi thường của Hội đồng này có tính chất tương tự như trình tự xét xử dân sự và được quy định bởi một Nghị định của Hội đồng Nhà nước. Điều 2: Các khoản bồi thường sẽ do Nhà nước chi trả, trừ trường hợp Nhà nước chứng minh được là chính lỗi của người tố giác không ngay tình, của nhân chứng giả đã gây ra việc tạm giam hay gia hạn tạm giam. Khoản bồi thường này được thanh toán như án phí hình sự. Nghị định về bồi thường thiệt hại do giam, giữ, oan sai của nước Cộng hòa Pháp Số 78-50 ngày 9/1/1978 Điều 1: (R.26 BLTTHS) Hội đồng bồi thường thụ lý đơn yêu cầu bồi thường của người đề nghị bồi thường. Đơn đề nghị này được gửi đến hoặc chuyển đến thư ký của Hội đồng xét bồi thường và thư ký của Hội đồng cấp cho người đề nghị bồi thường một giấy biên nhận. Đơn đề nghị bao gồm bản trình bày các sự kiện với đầy đủ các thông tin cần thiết nhất sau: 1. Ngày và lý do của quyết định tạm giữ cũng như về trại giam nơi người đó bị tạm giữ. 2. Tòa án đã ra quyết định thả, miễn xử hoặc miễn án cũng như về ngày ra quyết định đó. 3. Bản chất và mức độ các thiệt hại. 4. Địa chỉ mà các giấy báo phải gửi tới. Đơn đề nghị phải gửi kèm theo mọi bằng chứng. Điều 2: (R.27 BLTTHS) Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đơn, thư ký của Hội đồng xét bồi thường gửi bản sao đến Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa Phá án và đến nhân viên tư pháp của Kho bạc Nhà nước bằng thư bảo đảm với đề nghị giấy báo nhận. Thư ký của Hội đồng đề nghị lục sự của Tòa án đã ra quyết định công nhận sự vô tội của bị can được tiếp xúc hồ sơ vụ án. Điều 3: (R.28 BLTTHS) Người đề nghị bồi thường có thể đề nghị được nhận bản sao các giấy tờ liên quan đến vụ án và phải tự trả chi phí này. Luật sư của người này có quyền tiếp xúc với các tài liệu của vụ án này qua thư ký của Hội đồng. Điều 4: (R.29 BLTTHS) Nhân viên tư pháp của Kho bạc Nhà nước có quyền được biết đến các tài liệu của vụ án thông qua thư ký của ủy ban. Thư ký của ủy ban sẽ gửi các bản sao của các tài liệu miễn phí đến nhân viên tư pháp của Kho bạc Nhà nước khi có đề nghị. Nhân viên tư pháp của Kho bạc Nhà nước sẽ gửi kết luận của mình tới thư ký của ủy ban trong thời hạn 2 tháng kể từ ngày nhận được thư bảo đảm đã được nhắc tới ở Điều 2. Điều 5: (R.30 BLTTHS) Sau khi nhận được kết luận của nhân viên tư pháp của Kho bạc Nhà nước hoặc đã hết thời hạn nêu ở điều trên, thư ký của ủy ban chuyển hồ sơ lên Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa Phá án. Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa Phá án sẽ đưa ra quyết định cuối cùng của mình trong tháng tiếp sau đó. Điều 6: (R.31 BLTTHS) Thư ký của ủy ban thông báo tới người đề nghị bồi thường bằng thư bảo đảm với đề nghị giấy báo nhận các kết luận của nhân viên tư pháp của kho bạc Nhà nước và của Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa Phá án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày những người nói trên gửi kết luận của họ tới ủy ban. Điều 7: (R.32 BLTTHS) Trong thời hạn 1 tháng kể từ lần thông báo nêu ra ở điều trên người đề nghị bồi thường chuyển tới hoặc gửi tới thư ký của Hội đồng các ý kiến của mình và các ý kiến này sẽ được chuyển tới nhân viên tư pháp của Kho bạc Nhà nước và Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa Phá án trong thời hạn 15 ngày. Điều 8: (R.33 BLTTHS) Trong tháng tiếp theo kể từ ngày hết hạn của thời hạn 15 ngày nói trên, chủ tịch Hội đồng sẽ giao cho một trong những người phụ tá của mình hay một kiểm toán viên của Tòa Phá án nhiệm vụ nghiên cứu và báo cáo về vụ việc, người này không có quyền ra quyết định. Điều 9: (R.34 BLTTHS) Hội đồng xét bồi thường có quyền sử dụng tất cả các biện pháp điều tra cần thiết, và khi cần thiết thì thẩm vấn người có đơn đề nghị bồi thường. Điều 10: (R.35 BLTTHS) Chủ tịch Hội đồng định ngày mở phiên tòa sau khi tham khảo ý kiến của Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa Phá án. Thư ký của Hội đồng sẽ thông báo bằng thư bảo đảm với đề nghị giấy báo nhận cho người đề nghị bồi thường và nhân viên tư pháp của Kho bạc Nhà nước ít nhất một tháng trước ngày mở phiên tòa. Người đề nghị phải thông báo việc anh ta có thể đến dự phiên tòa hay không; có sự giúp đỡ của Luật sư hay không, tự tham gia phiên tòa hay sẽ cử luật sư đại diện. Điều 11: (R.36 BLTTHS) Người đề nghị bồi thường và nhân viên tư pháp của Kho bạc Nhà nước có thể nhờ một luật sư của Hội đồng nhà nước, của Tòa Phá án hoặc luật sư này phải đăng ký ở Đoàn Luật sư làm người đại diện hoặc giúp đỡ. Điều 12: (R.37 BLTTHS) Sau bản báo cáo, người đề nghị bồi thường hoặc trong trường hợp cần thiết, nhân viên tư pháp của Kho bạc nhà nước cùng với các luật sư của họ sẽ trình bày ý kiến. Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa Phá án đọc các kết luận của mình. Điều 13: (R.38 BLTTHS) Nếu đề nghị bồi thường bị bác bỏ, người đề nghị sẽ phải trả mọi án phí, trừ khi Hội đồng miễn cho anh ta một phần hay toàn bộ án phí. Quyết định của Hội đồng có kèm quyết định buộc phải thanh toán án phí. Điều 14: (R.39 BLTTHS) Nếu Hội đồng quyết định một khoản trợ cấp hoặc bồi thường cho người bị hại thì khoản bồi thường này và các chi phí cho việc cung cấp các tài liệu của người đề nghị bồi thường sẽ do nhân viên kế toán của kho bạc Paris người chịu trách nhiệm về việc chi trả các án phí giải quyết theo quyết định thi hành của Chủ tịch Hội đồng xét bồi thường. Điều 15: (R.40 BLTTHS) Quyết định của Hội đồng sẽ được thông báo ngay cho người đề nghị và nhân viên tư pháp của Kho bạc Nhà nước, bằng thư bảo đảm với đề nghị giấy báo nhận. Hồ sơ vụ án sẽ được gửi trả lại cùng với một bản sao của quyết định. 1. Trong trường hợp những thông tin được đưa ra trong đơn đề nghị cho thấy rõ rằng trong vụ án đã kết thúc mà người đề nghị đã được thả bằng một quyết định thả, miễn xử hoặc miễn án người đề nghị đã bị tạm giữ một cách thiếu căn cứ thì chủ tịch Hội đồng có thể quyết định không điều tra thêm và quyết định ngày mở phiên tòa. 2. Người đề nghị có quyền nhận trợ giúp tư pháp trước Hội đồng bồi thường thông qua một luật sư của Hội đồng Nhà nước, của Tòa Phá án hoặc một Luật sư có đăng ký tại Đoàn Luật sư. Việc đồng ý cho hưởng trợ giúp tư pháp do Văn phòng của Tòa Phá án hoặc Văn phòng của Tòa đã ra quyết định công nhận sự vô tội quyết định theo cùng một thủ tục, điều kiện và hiệu lực như trong thủ tục dân sự. "Đề nghị được giúp đỡ về mặt pháp lý được chuyển thắng tới Văn phòng có thẩm quyền". Đề nghị này làm ngừng thời hạn được quy định tại Điều 149 khoản 2 Bộ Luật Tố tụng hình sự. 3. Trong số các thẩm phán đã được chọn vào Hội đồng, Văn phòng của Tòa Phá án cử một người làm chủ tịch và một người khác làm trợ lý cho chủ tịch Hội đồng. Nhiệm kỳ hoạt động của các thẩm phán tham gia Hội đồng là một năm tư pháp. Khi một trong các thẩm phán của Hội đồng không còn có khả năng tham gia ủy ban nữa thì sẽ có một quyết định thay thế cho đến hết năm đó. 4. Các nhiệm vụ thư ký và lục sự của Hội đồng xét bồi thường do thư ký - lục sự của Tòa phá án thực hiện. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANAN~1.DOC
  • docCAMDOA~1.DOC
  • docCONGTR~1.DOC
  • docTOMTAT~1.DOC
  • docVIETTA~1.DOC
  • docBAOCAO~1.DOC
  • docBia-tt.doc
Tài liệu liên quan