Biện pháp vượt rào cản thương mại để đẩy mạnh hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường hoa kỳ trong điều kiện hội nhập WTO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ ------- ab ------- ĐỀ TÀI BIỆN PHÁP VƯỢT RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỂ ĐẨY MẠNH HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP WTO Giáo viên hướng dẫn T.S Ngô Thị Tuyết Mai Sinh viên thực hiện Dương Việt Phúc Lớp Kinh tế quốc tế Khóa 47 Hà Nội - 2008 LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính tất yếu của đề tài. Những năm gần đây, thị trường Việt Nam được chứng kiến nhiều thành công phát triển rực rỡ của các sản ph

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện pháp vượt rào cản thương mại để đẩy mạnh hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường hoa kỳ trong điều kiện hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩm trong nước và việc đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu nhiều loại hàng hoá như : dầu thô, dệt may, nông sản, thuỷ hải sản, da giày, thủ công mỹ nghệ…sang thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản, các nước Châu Âu, …đã đem lại những giá trị kinh tế to lớn. Một trong những mặt hàng xuất khẩu mang lại những đóng góp rất lớn trong kim ngạch xuất khẩu chính là mặt hàng dệt may. Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường trường thế giới nói chung và thị trường Hoa Kỳ nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như trong tương lai. Mặt khác, mặt hàng dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước và tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, giúp cân bằng cán cân thanh toán, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, góp phần thúc đẩy các ngành sản xuất khác trong nước phát triển… góp phần quan trọng trong việc tạo sự phát triển và ổn định kinh tế - chính trị - xã hội. Tuy nhiên, đứng trước thành tựu to lớn đó chúng ta cũng không nên chủ quan. Ngày nay với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập hóa đang diễn ra mạnh mẽ đi kèm với nó là hoạt động xuất nhập khẩu cũng diễn ra hết sức sôi động và không kém phần phức tạp. Để có thể tồn tại và phát triển các quốc gia luôn tìm mọi biện pháp để thắng thế trong cuộc cạnh tranh đầy khốc liệt. Đặc biệt, hiện nay Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Do đó để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu kỹ và nghiên cứu sâu về thị trường này trong đó cần đặc biệt chú ý đến các rào cản thương mại mà Hoa Kỳ áp dụng đối với mặt hàng dệt may nếu muốn thâm nhập thị trường náy. Vậy những rào cản đó là gì? Ảnh hưởng của nó ra sao đối với hoạt động xuất nhập khẩu ? Biện pháp vượt qua rào cản để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa nói chung và hàng dệt may nói riêng sang thị trường Hoa Kỳ có hiệu quả trong điều kiện hội nhập? Chính vì lẽ đó mà em quyết định lựa chọn đề tài : “BIỆN PHÁP VƯỢT RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỂ ĐẨY MẠNH HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP WTO” làm đề tài nghiên cứu cho đề án của mình. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Tìm hiểu hệ thống rảo cản thương mại đối với hàng hóa và kinh nghiệm của một số nước trong việc áp dụng các rào cản thương mại đối với hàng dệt may. Tìm hiểu thực trạng áp dụng rào cản thương mại của Hoa Kỳ đối với nhập khẩu hàng dệt may. Tìm hiểu thực trạng và các biện pháp vượt qua các rào cản để đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua. Tìm hiểu một số giải pháp chủ yếu nhằm vượt rào cản để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may trong nước sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập WTO. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu : Biện pháp vượt rào cản thương mại Phạm vi nghiên cứu: Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp định tính: Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá. Phương pháp định lượng: Phương pháp thống kê. 5. Công cụ phục vụ nghiên cứu: Thu thập thông tin. Phỏng vấn, điều tra. 6. Kết cấu của đề tài. Đề tài gồm 4 phần: Phần 1: Lý luận chung về rào cản trong thương mại quốc tế và kinh nghiệm của một số nước trong việc áp dụng các rào cản thương mại đối với hàng dệt may. Phần 2: Thực trạng áp dụng rào cản thương mại của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may của Việt Nam. Phần 3: Thực trạng và các biện pháp vượt qua rào cản để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua. Phần 4: Một số giải pháp chủ yếu vượt qua rào cản để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may trong nước sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập WTO. Mặc dù em được rất cố gắng hoàn thành đề án này, nhưng do hạn chế về trình độ và thông tin cùng với thời gian có hạn nên không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo hướng dẫn TS . NGÔ THỊ TUYẾT MAI đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề án này. Hà Nội, tháng 10/2008. PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ RÀO CẢN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG VIỆC ÁP DỤNG RÀO CẢN THƯƠNG MẠI 1.1 Các khái niệm: Thương mại quốc tế: Theo tổ chức thương mại thế giới (WTO): thương mại bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và thương mại quyền sở hữu trí tuệ. Theo nghĩa rộng: thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ và các yếu tố sản xuất qua biên giới giữa các quốc gia. Rào cản trong thương mại quốc tế. Thuật ngữ “rào cản” trong kinh tế được hiểu là những công cụ, biện pháp, chính sách bảo hộ của quốc gia nhằm hạn chế những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến nền kinh tế của quốc gia đó. Từ đó có thể suy rộng ra, “rào cản trong thương mại quốc tế” được hiểu là các luật lệ, chính sách, quy định hay tập quán của Chính phủ mỗi nước trong khuôn khổ pháp lý chung nhằm hạn chế hay ngăn cản hoạt động thương mại hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài. 1.2. Phân loại rào cản thương mại quốc tế. Các công cụ thực hiện chính sách thương mại của quốc gia gốm công cụ thuế quan và công cụ phi thuế quan: Hạn ngạch, định giá hải quan, các tiêu chuẩn kỹ thuật, chính sách chống bán phá giá, các công cụ khác. Xuất phát từ các công cụ thực hiện chính sách thương mại trên vô hình chung nó đã trở thành các rào cản thương mại đối với các nước tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Như vậy, các rào cản thương mại quốc tế bao gồm: Rào cản thuế quan và rào cản phi thuế quan. 1.2.1. Hàng rào thuế quan: Nội dung chính của hàng rào thuế quan đó là việc áp dụng thuế là công cụ chính gây ra rào cản kìm hãm sự thâm nhập của hàng hóa nước ngoài vào trong nước. Theo đó khi hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào trong nước sẽ phải chịu một mức thuế nhất định do quốc gia đó đưa ra. 1.2.2. Hàng rào phi thuế quan. Theo tổ chức OECD, đưa ra định nghĩa: “Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp biên giới nằm ngoài phạm vi thuế quan có thể được các quốc gia sử dụng, thông thương dựa trên cơ sở lựa chọn, nhằm hạn chế nhập khẩu.” Các loại rào cản phi thuế quan bao gồm : Bảng 1: Bảng phân chia các loại rào cản phi thuế quan của OECD. Stt Hàng rào phi thuế 1 Các biện pháp kỹ thuật. 2 Các loại thuế và phí trong nước 3 Các quy định và thủ tục hải quan 4 Các hạn chế trong việc tiếp cận thị trường liên quan đến cạnh tranh 5 Các hạn chế về định lượng nhập khẩu 6 Các thủ tục và quy trình hành chính 7 Các quy định về mua sắm của chính phủ 8 Trợ cấp và hỗ trợ của chính phủ 9 Các hạn chế về đầu tư hoặc các yêu cầu 10 Các quy định hoặc chi phí về vận chuyển 11 Các hạn chế về cung cấp dịch vụ 12 Các hạn chế về sự dịch chuyển của thương nhân hoặc người lao động 13 Các công cụ bảo hộ thương mại: chống bán phá giá, thuế đối kháng, tự vệ… 14 Các quy định của thị trường trong nước (Nguồn OECD) Theo WTO: “ Biện pháp phi thuế quan là những biện pháp ngoài thuế quan, liên quan hoặc ảnh hưởng đến sự luân chuyển hàng hóa giữa các nước”. Theo cách định nghĩa này thì WTO cũng đã dựa trên cơ sở thuế quan, từ đó WTO xây dựng định nghĩa về hàng rào phi thuế quan như sau: “Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế quan mang tính cản trở đối với thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lý, khoa học, bình đẳng”. Ngoài những biện pháp chủ yếu kể trên, trong hoạt động thương mại quốc tế còn tồn tại rất nhiều hình thức rào cản thương mại khác. Ví dụ, như mua sắm của Chính phủ, quy tắc xuất xứ, các quy định về kiểm định hàng hoá trước khi xuống tàu, các quy định yêu cầu các nhà đầu tư phải sử dụng nguyên liệu trong nước, quy định tỉ lệ xuất khẩu sản phẩm hay hạn chế nguồn ngoại tệ dùng để thanh toán hàng nhập khẩu của công ty... Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại và xu hướng điều tiết các rào cản truyền thống, ngày càng xuất hiện nhiều hình thức rào cản trá hình và tinh vi hơn, thường là liên quan tới các tiêu chuẩn về kỹ thuật, môi trường, lao động, với mục đích cuối cùng là đạt được nhiều giá trị thặng dư cho doanh nghiệp mình, đất nước mình trong sân chơi chung toàn cầu. 1.3 Ưu và nhược điểm khi sử dụng các rào cản phi thuế quan. 1.3.1 Ưu điểm: 1.3.1.1. Phong phú về hình thức: Nhiều biện pháp phi thuế quan khác nhau có thể đáp ứng cùng một mục tiêu, áp dụng cho cùng một mặt hàng. Các rào cản phi thuế quan (NTB) trong thực tế rất phong phú về hình thức nên khả năng tác động và mức độ đáp ứng mục tiêu của chúng cũng rất đa dạng. Do đó, nếu sử dụng NTB để phục vụ một mục tiêu đề ra thì có thể sẽ có nhiều lựa chọn, kết hợp mà không bị gò bó chật hẹp trong khuân khổ một công cụ duy nhất như thuế quan. 1.3.1.2. Đáp ứng nhiều mục tiêu: Mỗi quốc gia thường theo đuổi nhiều mục tiêu trong chính sách kinh tế, thương mại của mình. Các mục tiêu đó có thể là: Bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích phát triển một số ngành nghề, bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật, bảo vệ môi trường, đảo bảo cân bằng cán cân thanh toán, đảm bảo an ninh quốc gia…các NTB có thể đồng thời phục vụ hiệu quả nhiều mục tiêu khác nhau trong khi có thể việc sử dụng công cụ thuế quan không khả thi hoặc không hữu hiệu bằng. 1.3.1.3. Nhiều rào cant thương mại chưa bị cam kết buộc cắt giảm hay loại bỏ. Do NTB thường mang tính mập mờ, mức độ ảnh hưởng không rõ ràng như những thay đổi định lượng của thuế quan, nhưng tác động của chúng có thể lớn nhưng lại là tác động ngầm, co thể che đậy hoặc biện hộ bằng cách này hay cách khác. Hiện nay, các hiệp định của WTO chỉ mới điều chỉnh việc sử dụng một số NTB nhất định, trong đó tất cả NTB hạn chế định lượng đều không được phép áp dụng trừ một số trường hợp ngoại lệ. Một số NTB khác tuy có nhằm mục tiêu hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước nhưng vẫn được WTO cho phép áp dụng với điều kiện tuân thủ những quy định cụ thể, rõ ràng, khách quan. Chẳng hạn như hàng rào kỹ thuật, biện pháp kiểm dịch động thực vật, biện pháp tự vệ… 1.3.2. Nhược điểm. 1.3.2.1. Không rõ ràng và khó dự đoán. Các NTB thường được vận dụng trên cơ sở dự đoán chủ quan, thậm trí tùy tiện của nhà chức trách về sản xuất và nhu cầu tiêu thụ trong nước. Trong bối cảnh nền kinh tế ngày nay rất phức tạp và thường xuyên biến động, việc đưa ra dự đoán tương đối chính xác là rất khó khăn. Nếu dự đoán không chính xác sẽ có ảnh hưởng xấu đến sản xuất trong nước chẳng hạn tình trạng cung vượt cầu hoặc ngược lại, điều này sẽ đồng nghĩa với việc các quyết định sản xuất và kinh doanh sẽ chịu rủi ro cao hơn. Sử dụng NTB cũng thường làm nhiễu tín hiệu chỉ dẫn các quyết định của người sản xuất và người tiêu dùng trong nước, tín hiệu chỉ dẫn việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế ( chính là giá trị thị trường), phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thực. Do đó khả năng xây dựng kế hoạch đầu tư sản xuất kinh doanh hiệu quả trong trung và dài hạn của người sản xuất bị hạn chế. Tác động của các NTB thường khó có thể lượng hóa được rõ ràng như các tác động của thuế quan. Nếu mức độ bảo hộ thông qua thuế quan đối với một sản phẩm có thể dễ dàng được xác định bằng chính thuế suất đánh lên sản phẩm đó, thì mức độ bảo hộ thông qua NTB là tổng mức bảo hộ của các NTB riêng rẽ áp dụng cho cùng một sản phẩm. Bản thân mức độ bảo hộ của mỗi NTB cũng chỉ có thể ước lượng tương đối do đó rất khó xây dựng một lộ trình tự do hóa thương mại rõ ràng như với bảo hộ chỉ bằng thuế quan. 1.3.2.2. Khó khăn tốn kém trong quản lý. Vì khó dự đoán nên các NTB thường đòi hỏi chi phí quản lý cao và tốn nhiều nhân lực của nhà nước để duy trì hệ thống điều hành bằng nhiều NTB. Một số NTB thuộc thẩm quyền và phạm vi quản lý của nhiều cơ quan với những mục tiêu khác nhau, đôi khi còn mâu thuẫn nhau nên khó khăn cho bản thân nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý và các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế trong việc xây dựng, sử dụng, tiếp cận thông tin cũng như đánh giá tác động của các NTB này. Các doanh nghiệp chưa chú trọng thông tin và chưa có có ý thức xây dựng đề xuất các NTB để bảo hộ sản xuất, còn trông chờ vào nhà nước tự quy định. Do đó, thực tế là các doanh nghiệp thường phải tốn kém chi phí vận động hành lang để cơ quan chức năng ra quyết định có lợi cho mình. Ngoài ra, có những NTB bị động là những NTB tồn tại trên thực tế ngoài ý muốn của các nhà hoạch định chính sách như bộ máy quản lý quan liêu, năng lực hạn chế, hệ thống pháp luật không công khai, không minh bạch. 1.3.2.3. Làm cho tín hiệu thị trường kém trung thực. Khác với thuế, các NTB không trực tiếp tác động đến giá nhưng nó lại tác động trực tiếp đến lượng cung, cầu của quốc gia. Do vậy, nó cũng có tác động như thuế làm cho tín hiệu thị trường trở nên kém trung thực. Khi cung (S) và cầu (D) cân bằng thì giá sẽ ở trong trạng thái ổn định. Trong trương hợp S > D sẽ dẫn đến áp lực làm giảm giá, ngược lại, khi S < D thì sẽ có áp lực làm tăng giá. Giả sử sản xuất xe máy của một quốc gia (S) là 500.000 chiếc. Lượng cầu (D) là 1.000.000 chiếc; để đảm bảo cân bằng cung cầu quốc gia đó cần nhập khẩu 500.000 chiếc xe máy nữa. Nhưng để bảo hộ sản xuất thực hiện chính sách tiết kiệm ngoại tệ, chính phủ đưa ra hạn ngạch nhập khẩu (M) là 300.000 chiếc. Khi đó: (S+M) – D = 200.000. Như vậy nhu cầu còn thiếu là 200.000 chiếc xe máy, điều này dẫn đến áp lực làm cho giá mặt hàng đó tăng lên. Tóm lại: Các biện pháp thuế quan và phi thuế quan là hai công cụ bảo hộ quan trọng đối với mọi quốc gia. Do mỗi công cụ có điểm mạnh,điểm yếu đặc thù nên nên chúng thường sử dụng bổ xung lẫn nhau nhắm bảo hộ sản xuất trong nước. Mặc dù về lý thuyết, WTO và các định chế thương mại khu vực thường chỉ thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất, nhưng thực tế đã chứng minh rằng các nước không ngừng sử dụng các NTB mới, vừa đáp ứng mục đích bảo hộ vừa không trái với thông lệ quốc tế. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, em chỉ xin nghiên cứu một số rào cản có tính chất điển hình được nhiều nước áp dụng và đặc biệt là Hoa Kỳ trong xu thế hội nhập ngày nay. Một số rào cản thương mại. Hàng rào thương mại Hàng rào thuế quan Hàng rào phi thuế quan Hạn ngạch Định giá hải quan Tiêu chuẩn kỹ thuật… Chống bán phá giá Rào cản khác 1.4. Tình hình áp dụng các rào cản thương mại đối với các hàng hóa nói chung. 1.4.1. Rào cản thuế quan: 1.4.1.1.Khái niệm: Thuế quan là loại thuế được áp dụng với hàng hóa xuất nhập khẩu (qua biên giới quốc gia), trong đó tổ chức hoặc doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu phải nộp một khoản tiền nhất định tính theo giá trị hoặc khối lượng hàng hóa qua cơ quan hải quan. 1.4.1.2 Phân loại: Thuế quan trong thương mại quốc tế gồm: thuế quan nhập khẩu và thuế quan xuất khẩu, trong đó thuế quan nhập khẩu được áp dụng phổ biến. Thuế quan nhập khẩu là loại thuế áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu vào thị trường một quốc gia, do đó giá của hàng hóa quốc gia này sẽ cao hơn giá ở ngoại quốc. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến người tiêu dùng trong nước. Thuế quan xuất khẩu là loại thuế được áp dụng với đơn vị hàng hóa xuất khẩu ra thị trường thế giới của một quốc gia, do đó giá hàng hóa của quốc gia này sẽ cao hơn giá hàng hóa trong nước. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó. Tác động của thuế quan. Thuế quan được áp dụng trước hết là nhằm mục đích tăng nguồn thu ngân sách cho chính phủ, sau đó là vì những mục đích khác như ngăn chặn hàng nhập khẩu và bảo vệ hàng trong nước, trả đũa một quốc gia khác, bảo vệ một ngành sản xuất quan trọng hay còn non trẻ của nước mình. Thông qua các vòng đàm phán, WTO luôn hướng mục tiêu cắt giảm thuế quan. Các nước thành viên không được phép tăng thuế lên trên mức trần đã cam kết trong biểu. Qua tám vòng đàm phán trong khuôn khổ GATT trước đây, đặc biệt là sau vòng Uruguay, thuế công nghiệp bình quân của các nước phát triển được giảm xuống 3,8%, các nước này cũng đồng ý cắt giảm 36% mức thuế công nghiệp. Riêng các nước đang phát triển đồng ý cắt giảm 24% thuế nông nghiệp. Với nhiều mức thuế được quy định cho mỗi dòng sản phẩm và mỗi sản phẩm lại chịu những biểu thuế khác nhau tùy thuộc vào quy định của từng quốc gia. Đi kèm với nó là các thủ tục, chứng từ, giấy phép… vẫn đang là những rào cản trực tiếp đối với những doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Với Việt Nam biểu thuế nhập khẩu được hợp lý hóa vào năm 1992 và đơn giản hóa vào năm 1999 sau khi Việt Nam gia nhập Khu vực tự do mậu dịch ASEAN (AFTA). Hiện nay, có ba loại thuế suất: thuế suất tối huệ quốc (MFN) áp dụng cho khoảng 75% tổng lượng hàng hóa nhập khẩu từ khoảng 80 nước có hiệp định thương mại song phương với Việt Nam, trong đó có Hoa Kỳ; thuế suất ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước ASEAN; và thuế suất chung (cao hơn thuế suất MFN là 50%) áp dụng cho tất cả các nước khác. Theo tinh thần của Hiệp định Thương mại Hoa Kỳ-Việt Nam (Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ), Việt Nam có nghĩa vụ giảm đáng kể các mức thuế suất, trung bình khoảng từ 1/3 đến 1/2 đối với một loạt các hàng hóa nhập khẩu từ Hoa Kỳ trong khoảng thời gian là 3 năm. Ngày 1/9/2003, Việt Nam áp dụng một hệ thống thuế quan mới dựa trên Hệ thống hài hòa có tám mã số và theo đúng Biểu thuế hài hòa của ASEAN (AHTN). Hệ thống thuế quan mới bao gồm 10.689 dòng thuế (nhiều hơn biểu thuế cũ là 4.200 dòng), trong đó 5.300 dòng theo hệ từ bốn đến sáu mã số và 5.400 dòng theo hệ tám mã số. Hiện nay, có 15 mức thuế suất (so với 20 mức trong biểu thuế cũ) và mức thuế suất trung bình đã tăng từ 16,8% lên 18,2%. Để thực hiện hệ thống thuế quan mới, Chính phủ Việt Nam đã tăng mức thuế suất đối với 195 mặt hàng và giảm mức thuế suất đối với 106 mặt hàng. Để bảo hộ 72 mặt hàng, trừ bột và hạt nhựa PVC và ống thép hàn, biện pháp phụ thu chênh lệch giá đã được thay thế bằng thuế nhập khẩu. Mức thuế suất đối với xăng dầu (mục 2709 và 2710) không được cụ thể hóa trong biểu thuế mới. Thuế quan là công cụ chủ yếu, rất truyền thống và có tác động lớn đến hoạt động thương mại quốc tế. Cụ thể: Tác động tích cực: i) Tăng nguồn thu ngân sách nhà nước; ii) Giúp các nhà sản xuất trong nước mở rộng quy mô; iii) Tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Tác động tiêu cực: i) Thuế quan xuất khẩu tác động bất lợi cho khả năng sản xuất của doanh nghiệp; ii) Thuế quan xuất khẩu cao và duy trì lâu sẽ làm lợi cho đối thủ cạnh tranh; iii) Thuế quan làm giảm lượng cầu quá mức, đồng thời ảnh hưởng đến cácđiều kiện thương mại khác. 1.4.2. Các rào cản phi thuế quan 1.4.2.1. Hạn chế định lượng (quota) +) Khái niêm: Hạn ngạch là quy định của nhà nước về lượng hàng hóa lờn nhất được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu từ một thị trường hoặc một khu vực cụ thể trong một thời gian nhất định, thường là một năm. +) Phân loại: Hạn ngạch có hai loại: Hạn ngạch nhập khẩu và hạn ngạch xuất khẩu. Hạn ngạch nhập khẩu là sự hạn chế trực tiếp số lượng một số hàng hóa có thể được nhập khẩu. Hạn ngạch này thường được âp dụng với các mặt hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước cần được bảo hộ. Hạn ngạch xuất khẩu là sự hạn chế trực tiếp số lượng một số hàng hóa có thể được xuất khẩu. Loại hạn ngạch này ít được áp dụng hơn. +) Tác động: Hạn ngạch đang được coi là có tác dụng bảo hộ mạnh hơn các biện pháp thuế quan và dễ bóp méo thương mại. Cho nên, điều XI của Hiệp định GATT không cho phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu hoặc xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, Hiệp định GATT cũng đưa ra một số ngoại lệ, cho phép các nước thành viên được áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng theo những điều kiện nghiêm ngặt. Ví dụ như để đối phó với tình trạng thiếu lương thực trầm trọng, bảo vệ cán cân thanh toán, bảo vệ sức khoẻ con người, động thực vật, bảo vệ an ninh quốc gia. 1.4.2.2. Thủ tục hải quan. Định giá hải quan để tính thuế cũng có thể trở thành một rào cản lớn với hoạt động thương mại. Ví dụ như quy định về áp giá tối thiểu để tính thuế nhập khẩu. Chính vì vậy, Hiệp định về định giá hải quan của WTO đã quy định các nguyên tắc cụ thể trong việc xác định giá trị tính thuế của hàng hoá, bắt buộc các thành viên phải thực thi đúng và minh bạch. Các thủ tục thông quan bao gồm các bước: i) Lập tờ khai bộ chứng từ, phân loại hàng hóa theo biểu thuế nhập khẩu; ii) Hải quan kiểm tra hàng; iii) Hải quan tính thuế; iv) Người nhập khẩu trả thuế và nhận hàng. Hải quan là cơ quan của ngõ trực tiếp tham gia vào các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Với nhiều thủ tục rườm rà và những quy định chặt chẽ về xuất khẩu, nhập khẩu. Mỗi cơ quan hải quan có cách quản lý khác nhau, cách tính thuế khác nhau cũng như quy định về các điều khoản giao hàng không giống nhau…tất cả những điều ấy đã trở thành một rào cản lớn với hoạt động thương mại. Hiệp định về định giá hải quan của WTO đã quy định các nguyên tắc cụ thể trong việc xác định giá trị tính thuế của hàng hoá, bắt buộc các thành viên phải thực thi đúng và minh bạch 1.4.2.3. Các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật. +) Khái niệm: Đây là những quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, đo lường, an toàn lao động, bao bì đống gói, đặc biệt là các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm, vệ sinh phòng dịch, các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường… Các quy định này xuất phát từ đòi hỏi thực tế của đời sống xã hội và phản ánh trình độ của nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên trên thực tế người ta thường khéo léo xử dụng các quy địnhnày một cách thiên lệch giữa các công ty trong nước với các công ty nước ngoài và biến chúng thành công cụ cạnh tranh có lợi cho nước chủ nhà Trong các rào cản phi thuế quan, hệ thống rào cản kỹ thuật được xem là một trong những nhóm biện pháp hữu hiệu nhất để ngăn chặn hàng nhập khẩu, đặc biệt từ các nước đang phát triển. Rào cản kỹ thuật là nhóm các biện pháp yêu cầu về mặt kỹ thuật áp dụng đối với hàng xuất khẩu của nước ngoài, và bảo vệ người tiêu dùng và hàng hóa trong nước. Hiện nay trong xu thế quốc tế hóa – khu vực hóa các rào cản thuế quan phải bị cắt giảm và thay vào đó là các rào cản phi thuế quan trong đó hệ thống rào cản kỹ thuật được đặc biệt quan tâm và sử dụng ngày càng rộng rãi. Các tiêu chuẩn về chất lượng. Chất lượng hàng hóa là một trong những yếu tố được quan tâm hàng đầu khi muốn nhập khẩu vào thị trường của nước khác. Do đó, các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa là rất quan trọng và có rất nhiều các tiêu chẩn về chất lượng đang được áp dụng trong đó điển hình là bộ tiêu chuẩn ISO 9000 – do tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) ban hành lần đầu năm 1987. Bộ tiêu chuẩn này đưa ra những tiêu chuẩn về quản lý chất lượng được quy tụ kinh nghiệm quốc tế và đang được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia. Mục tiêu của chất lượng của ISO 9000 là đảm bảo chất lượng của sản phẩm, với việc xây dựng một hệ thống chất lượng và phòng ngừa ngay từ khâu thiết kế, lập kế hoạch. Các quy định về tiêu chuẩn chất lượng bao gồm các nội dung : - Các yêu cầu, quy định đối với sản phẩm về: đặc tính, tính chất, kích thước, hình dạng, kiểu dáng, chức năng, hình thức, việc đóng gói, nhãn mác, của sản phẩm trước khi được tiêu thụ. - Các thủ tục đánh giá, giám định về chất lượng sản phẩm. Hiện nay hệ thống quản trị chất lượng ISO 9001:2000 đã được áp dụng rộng rãi trên 140 quốc gia, hệ thống này đề cập chủ yếu đến các lĩnh vực về chất lượng. Trên thực tế, sản phẩm nào được cấp giấy chứng nhận ISO 9001:2000 sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường vào các nước phát triển. Quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm. Đây là những quy định về tiêu chuẩn vệ sinh trong sản xuất, đặc biệt các doanh nghiệp sản xuất và chế biến thực phẩm cần tuân thủ chặt chẽ. Ở các thị trường khó tính như: EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ … thì quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm hết sức khắt khe, các doanh nghiệp xuất khẩu đều cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Point System). Tiêu chuẩn HACCP là hệ thống tiêu chẩu nhầm đánh giá tất cả các bước trong quy trình sản xuất, chế biến sản phẩm. Ngoài ra hệ thống này còn giúp xác định được những yếu tố có tính chất quyết định tới việc đảm bảo an toàn cho thực phẩm. Tiêu chuẩn về lao động và trách nhiệm xã hội. Hiện nay bộ tiêu chuẩn SA 8000 đang được các nước phát triển áp dụng rộng rãi. Đây là tiêu chuẩn quốc tế dựa trên công ước quốc tế về lao động của tổ chức lao động quốc tế (ILO) của liên hợp quốc về trẻ em và nhân quyền. Các nước Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Canada… quy định cấm nhập khẩu hàng hóa mà trong quá trình sản xuất có sử dụng lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, phân biệt đối xử, bắt người lao động làm quá giờ. Hệ thống SA 8000 đề cập đến các vấn đề : + Lao động trẻ em dưới 14 tuổi và trẻ em vị thành niên từ 14 -:- 18 tuổi. + Lao động cưỡng bức: sử dụng lao động tù tội, lao động để trả nợ người khác… + An toàn và sức khỏe tại nơi làm việc: liên quan đến moi trường lao động như cường độ lao động, thiêt bị lao động, chế độ y tế, bảo hộ lao động… + Quyền tham gia các hiệp hôi của người lao động. + Vấn đề phân biệt đối xử giữa những người lao động : ngăn cấm phân biệt đối xử giữa những người theo tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, tuổi tác.. + Kỷ luật lao động: không cho phép sử dụng những biện pháp đánh đập, cưỡng bức, xỉ nhục … người lao động. + Thời gian sử dụng lao động: quy định về lượng thời gian sử dụng lao động. + Lương và các phúc lợi xã hội cho nguwoif lao động: được hưởng chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội… + Quản lý doanh nghiệp, quan hệ cộng đồng : bao gồm quan hệ cộng đồng và khu vực, doanh nghiệp với doanh nghiệp hoặc dân cư trong khu vực. 1.4.2.4. Chính sách chống bán phá giá. Bán phá giá là việc giá của hàng hóa nhập khẩu vào một nước có giá trị thấp hơn so với giá tiêu thụ sản phẩm đó tại nước xuất khẩu hoặc nước thứ ba có điều kiện kinh tế, chính trị… tương đương như nước xuất khẩu. Bán phá giá thường được thực hiện khi một công ty muốn chiếm lĩnh thị trường hay cạnh tranh giành thị phần. Bán phá giá bị coi là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh, vì không dựa trên những tiêu chí thương mại và có xu hướng bóp méo thương mại, gây ảnh hưởng ngành công nghiệp nước nhập khẩu. Thông thường, các nước áp dụng thuế chống bán phá giá - một khoản thuế bổ sung vào thuế nhập khẩu thông thường - để làm tăng giá hàng hóa nhập khẩu, khắc phục tác động xấu của hành vi bán phá giá. Thuế chống bán phá giá được sử dụng lần đầu ở Ca-na-đa và ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn không chỉ bởi các nước phát triển như Mỹ, EU, Ca-na-đa... mà cả các quốc gia đang phát triển như Ấn Ðộ, Trung Quốc, Brazil... Ðể tránh hiện tượng lạm dụng thuế chống bán phá giá, gây ảnh hưởng tới xuất khẩu của một số nước, Hiệp định về chống bán phá giá của WTO quy định cụ thể về các tiêu chí để xác định hành vi phá giá và biện pháp khắc phục. 1.5 Kinh nghiệm của một số nước trong việc áp dụng rào cản thương mại. Để tìm hiểu sâu hơn về các rào cản phi thuế quan cũng như xem xét tình hình thực tiễn áp dụng các rào cản này như thế nào để vừa đạt mục tiêu phát triển kinh tế đồng thời tăng cường mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các quốc gia trên thế giới trong xu thế hôi nhập, chúng ta xem xét kinh nghiệm của một số quốc gia. 1.5.1. Thực tiễn áp dụng rào cản phi thuế quan của Nhật Bản. 1.5.1.1. Hạn chế định lượng. Tại Nhật Bản, hạn ngạch nhập khẩu được tính toán dựa trên cơ sở dự đoán nhu cầu về hàng hóa và nhu cầu trong nước. Vào đầu và giữa năm tài chính (từ tháng 4 năm trước đến tháng 4 năm tiếp theo), bộ công nghiệp và ngoại thương (MITI) Nhật Bản phê chuẩn những mặt hàng nhập khẩu theo quy chế hạn ngạch được ghi rõ trong thông báo nhập khẩu. Trong thông báo nhập khẩu MITI có quy định rõ trình tự các bước để xin hạn ngạch cho một mặt hàng hay một nhóm mặt hàng. Hạn ngạch nhập khẩu được phân cho các nhà nhập khẩu theo một trong các chế độ sau: Chế độ theo dõi, thực hiện phân bổ hạn ngạch. Theo chế độ này, hạn ngạch được phân bổ cho các nhà nhập khẩu căn cứ vào tỷ lệ nhập khẩu của họ trong thời kỳ trước đó so với tổng trị giá hay khối lượng của hạn ngạch của nhám hay một mặt hàng. Chế độ theo dõi việc thông quan. Theo chế độ này, hạn ngạch được phân bổ theo theo số lượng hay trị giá hạn ngạch dự tính hoặc đã thực hiện của thời gian trước đó của nhà nhập khẩu. Chế độ thông báo chính thức. Theo chế độ này, các cơ quan nhà nước quy định trước cho nhà nhập khẩu các nặt hàng quản lý bằng hạn ngạch. Chế độ theo đơn hàng. Hạn ngạch được phân bổ căn cứ vào số lượng hay trị giá hàng đã được đặt mua bởi người tiêu dùng cuối cùng. Chế độ theo đầu doanh nghiệp. Theo chế độ này, số lượng hay trị giá hạn ngạch được phân bổ bình đẳng cho các nhà nhập khẩu. Chế độ Olympic “ ai xin trước cấp trước”. Thường áp dụng cho các nhà nhập khẩu có tài liệu thông quan cho một số mặt hàng cụ thể nào đó trong một thời gian nhất định trong quá khứ và nhà nhập khẩu này đã ký hợp đồng nhập khẩu mặt hàng đó. Chế độ đồng thuận của các quan chức về phân bổ hạn ngạch. Theo chế độ này, các quan chức của MITI và các bộ phận khác sẽ bàn bạc để quyết định hạn ngạch phân bổ cho các nhà nhập khẩu. 1.5.1.2. Hạn ngạch thuế quan. Chế độ hạn ngạch thuế quan là chế độ, trong đó quy định mức thuế bằng không( 0% ) hoặc thấp hơn đối với những hàng hóa được nhập khẩu theo đúng số lượng quy định, nhằm đảm bảo cung cấp với giá hợp lý cho người tiêu dùng. Khi hàng hóa nhập khẩu vượt số lượng quy định thì sẽ áp dụng với mức thuế cao hơn ( thuế lần 2) Như vậy, trong chế độ hạn ngạch nhập khẩu, nhà nhập khẩu chỉ được phép nhập khẩu trong phạm vi số lượng quy định nhưng vẫn phải nộp thuế theo mức thuế theo quy định đối với phần vượt quá đó. 1.5.1.3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện ( Voluntary Export Restraint _ VER). Hạn chế xuất khẩu tự nguyện được đưa ra theo yêu cầu của nước nhập khẩu và được nước xuất khẩu chấp thuận nhằm ngăn chặn những mối đe dọa và những hạn chế đối với ngoại thương của nước mình. Tại Nhật Bản, vào cuối những năm 50, đã phải thực hiện hạn chế xuất khẩu tự nguyện đối với các sản phẩm dệt và một số mặt hàng sử dụng nhiều lao động. Đến cuối những năm 60, và đặc biệt trong những năm 70, 80 Nhật Bản đã phải thực hiện hạn chế xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ và Tây Âu. Đó là sắt thép, nhiều loại máy móc công nghiệp, ti vi màu,._. ô tô. Qua đó thấy rằng hạn chế xuất khẩu tự nguyện chỉ là biện pháp tạm thời và không có hiệu quả. Biện pháp này giúp làm giảm khối lượng trao đổi mậu dịch, nhưng lại bóp méo quá trình tự do ngoại thương và dẫn đến việc phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia và quốc tế một cách kém hiệu quả. Để tránh những ảnh hưởng xấu của hạn ngạch xuất khẩu, các công ty Nhật Bản tăng cường đầu tư ra nước ngoài nhằm chuyển hoạt động sản xuất hướng về xuất khẩu đến ngay tại thị trường xuất khẩu hoặc tại nước thứ ba để từ đó xuất khẩu sang thị trường các nước khác. 1.5.1.4. Giấy phép nhập khẩu. Tại Nhật Bản hầu hết các mặt hàng nhập khẩu không cần giấy phép của bộ công nghiệp và ngoại thương. Nhưng các mặt hàng sau vẫn còn giấy phép nhập khẩu: Hàng hóa liệt kê trong thông báo nhập khẩu thực hiện quản lý bằng hạn ngạch. Hàng hóa sản xuất hay vận chuyển từ các quốc gia, khu vực quy đinh trong thông báo nhập khẩu đòi hỏi phải có giấy phép nhập khẩu. Hàng hóa đòi hỏi phải có phương thức thanh toán đặc biệt. Hàng hóa cần có sự xác nhận của hải quan về nhập khẩu và phải đáp ứng được các quy dịnhđặc biệt của chính phủ. 1.5.1.5. Các biện pháp mang tính hành chính – kỹ thuật. Thị trường Nhật Bản có một số điểm khác biệt mang tính đặc trường so vời thị trường khác, đó là chất lượng được quan tâm hàng đầu. Thực tiễn ở Nhật Bản chứng tỏ tiêu chuẩn chất lượng và độ an toàn của các hàng hóa của Nhật cao hơn và chặt chẽ hơn với yêu cầu thông thường và tiêu chuẩn quốc tế. Tại Nhật Bản hiện nay, hệ thống dấu chất lượng bao gồm nhiều loại, quy định cho nhiều loại hàng hóa khác nhau, trong đó có hai dấu chứng nhận chất lượng được sử dụng phổ biến: Dấu chứng nhận công nghiệp Nhật Bản (JIS). Dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản ( JAS). 1.5.2. Thực tiễn áp dụng hàng rào phi thuế quan của Thái Lan. 1.5.2.1. Các biện pháp quản lý định lượng. Thái Lan cấm nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu để bảo đảm an ninh, môi trường hay đạo đức xã hội phù hợp với quy đinh của WTO. Tu nhiên Thái Lan cũng cấm nhập khẩu một số mặt hàng vì lý do bảo vệ sản xuất trong nước khó có thể minh bạch được theo tiêu chuẩn của WTO. Hiện nay, Thái Lan chỉ áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với số ít các mặt hàng như: máy móc, hóa chất, giấy, máy nông nghiệp, bình chứa gas còn lại chủ yếu chuyển sang biện pháp cấp phép nhập khẩu. 1.5.2.2. Cấp phép nhập khẩu. Thái Lan duy trì ba kiểu cấp phép: cấp phép tự động, cấp phép không tự động, và các biện pháp đặc biệt. Cấp phép không tự động áp dụng cho hầu hết các sản phẩm đặc biệt là nông sản. Biện pháp đặc biệt chỉ áp dụng đối với cá ngừ ( giữ gìn môi trường) và gỗ từ Miến Điện (duy trì quan hệ chính trị tốt). 1.5.2.3. Chống bán phá giá và thuế đối kháng Một tiểu ban thuộc Bộ Thương mại giám sát việc thực hiện các quy định về thuues chống bán phá giá và thuế đối kháng (1991). Các biện pháp được thực hiện trên cơ sở đơn khiếu nại của các nhà sản xuất chính trong nước có liên quan. Thuế chống bán phá giá chỉ được đặt ra trong thời gian 5 năm không được phép kéo dài hơn và không có thủ tục rà soát tự động. 1.5.2.4. Trợ cấp. Ngân hàng trung ương Thái Lan được giao nhiệm vụ hỗ trợ tài chính đối với các dự án ưu tiên thông qua chương trình tái tài trợ tín dụng công nghiệp. Mỗi công ty với tổng tài sản cố định không vượt quá 200 triệu baht đều được phân bổ định mức tín dụng để phát hành lệnh phiếu. Ủy ban quốc gia về xúc tiến đầu tư và xuất khẩu chịu trách nhiệm quản lý chương trình này. Chương trình này hướng mục tiêu vào hỗ trợ tài chính cho các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông thôn. 1.5.2.5. Thủ tục hải quan. Thời gian thông quan nói chung không dài hơn một ngày và có thể ngắn đi sau khi thực hiện hệ thống ASYCUDA (UNCTAD) nhằm máy tính hóa các thủ tục hải quan. Cục hải quan đang nỗ lực để xây dựng những điểm thông quan mới, cơ chế một cửa đã tồn tại ở hầu hết các điểm thông quan. 1.5.3. Thực tiễn áp dụng biện pháp phi thuế quan của Trung Quốc. 1.5.3.1. Các biện pháp hạn chế định lượng Trung Quốc cho phép xuất nhập khẩu tự do hàng hóa và công nghệ (trừ những hàng hóa phải tuân theo những quy định và luật lệ khác). Đối với những hàng hóa nhập khẩu phải tuân theo những hạn chế của chính phủ, trung Quốc thực thi quota và giấy phép. Tính đến nay Trung Quốc đã 4 lần cắt giảm các loại hàng hóa chịu sự quản lý bằng giấy phép hạn ngạch nhập khẩu. Từ 1/1/2002 Trung Quốc đã bãi bỏ quản lý hạn ngạch nhập khẩu của 14 loại hàng hóa thông thường, giảm số lượng hàng hóa thông thường vẫn chịu sự quản lý hạn ngạch nhập khẩu xuống còn 12 loại. Đến 1/11/2003 tiếp tục cắt giảm 8 loại, năm 2004 cắt thêm 2 loại và đến 2005 bãi bỏ hoàn toàn. 1.5.3.2. Trợ cấp. Trung Quốc sử dụng nhiều hình thức trợ cấp như: cho nhà sản xuất hưởng giá điện thấp; cho doanh nghiệp nhà nước và công ty thương mại nhà nước được vay ngân hàng với những điều kiện ưu đãi; các doanh nghiệp đáp ứng mục tiêu nhất định thì được vay ưu đãi hoặc được cấp các phương tiện nghiên cứu và phát triển; các doanh nghiệp xuất khẩu đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong đặc khu kinh tế và vùng ven biển được ưu đãi về thuế. 1.5.3.3. Chính sách chống bán phá giá. Khi phát hiện hành động bán phá giá của các nhà sản xuất nước ngoài gây ra những tổn thất cho công ty trong nước, những biện pháp chống bán phá giá tạm thời sau đây được áp dụng: Áp đặt thuế chống bán phá giá trong vòng 4 tháng kể từ ngày tuyên bố quyết định liên quan đến những biện pháp chống bán phá giá và có thể kéo dài đến 9 tháng trong những trường hợp đặc biệt. Yêu cầu có một quỹ bảo đảm bằng tiền mặt hoặc những hình thức bảo đảm khác. 1.5.3.4. Các biện pháp kiểm định và kiểm dịch hàng hóa nhập khẩu. Trung Quốc bắt buộc tất cả các hàng hóa trong danh mục hàng hóa phải kiểm tra theo những điều luật và quy định khác, hoặc theo các điều khoản mua bán trong hợp đồng ngoại thương sẽ được kiểm tra trước khi nhập khẩu, tiêu thụ hoặc sử dụng tại Trung Quốc. Tiêu chuẩn kiểm hóa chủ yếu dựa vào những tiêu chuẩn quốc gia bắt buộc, tiêu chuẩn nội thương, hoặc nếu không có thì dựa vào tiêu chuẩn được quy định trong hợp đồng mua bán. Để đáp ứng những yêu cầu kiểm tra ở cảng đến, nhà xuất khẩu tốt nhất nên lấy giấy chứng nhận của Trung Quốc trước khi chuyển hàng tới đây. 1.5.3.5. Xác định trị giá tính thuế hải quan. Cơ quan hải quan xác định trị giá tính thuế theo hóa đơn bán hàng. Tuy nhiên hải qua Trung Quốc còn có thể định giá lại hàng hóa bằng cách sử dụng giá ước tính của phòng thương mại. Quy định về xác định trị giá tính thuế quan không rõ ràng là một biện pháp hạn ché nhập khẩu của Trung Quốc. Thông qua tổng hợp những kinh nghiệm của một số nước tiêu biểu trong vấn đề áp dụng hàng rào phi thuế quan, ta có thể đánh giá được tác động của nó đến tình hình thương mại trên một số quan điểm sau: Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, các rào cản thuế quan dần bị loại bỏ và thay vào đó là các rào cản phi thuế quan, trong đó đặc biệt là các rào cản kỹ thuật đang dần trở thành công cụ hữu hiệu và không thể thay thế đối với các nước nhập khẩu để đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng, bảo vệ môi trường và bảo vệ ngành công nghiệp trong nước. Qua đó cũng đặt ra yêu cầu đối với nước xuất khẩu phải tìm cách đổi mới công nghệ để sản xuất ra những sản phẩm tối ưu, thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó cũng thể hiện vai trò quan trọng của chính phủ các nước trong việc đưa ra những chiến lược phát triển phù hợp để có thể tạo điều kiện thuận lơi nhất cho các doanh nghiệp của mình có lợi thế cạnh tranh tốt nhất trên thị trường thế giới do đó cũng chưa hẳn đưa đến một “thế giới phẳng” trong thương mại quốc tế. Đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển, họ chưa có đủ điều kiện cũng như kinh nghiệm để thắng thế trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này. Đây là một bài toán nan giải buộc họ phải tự tìm cách thích nghi và tìm lời giải đáp. PHẦN 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG RÀO CẢN THƯƠNG MẠI CỦA HOA KỲ ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM 2.1. Tổng quan về thị trường Hoa Kỳ. 2.1.1. Những nguyên tắc cần biết trước khi tiếp cận thị trường Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất thế giới và bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn sản phẩm hàng hoá của mình có mặt tại thị trường này. Một số mặt hàng của những nước kinh tế đang phát triển đã “len lỏi” vào được thị trường Hoa Kỳ. Trên quầy hàng của nhiều siêu thị đã thấy có mặt hàng được sản xuất đến từ rất nhiều nước khác nhau từ những nước giàu như Nhật Bản, châu Âu hay đến những nước nghèo ở châu Á và châu Phi. Tuy là một thị trường đầy hấp dẫn nhưng kinh doanh tại đây lại không dễ dàng một chút nào. Chẳng hạn như về vấn đề thương hiệu bị vi phạm. Cách đây 5 năm, mặt hàng đồ gỗ của công ty Egamex, Pháp bị Thái Lan lấy mất bản quyền. Nay không chỉ Thái Lan mà còn nhiều nước khác như Trung Quốc, Colombia,... cũng sản xuất những mặt hàng mang nhãn mác Egamex ngay trên thị trường Hoa Kỳ. Thương hiệu và quyền tác giả là vấn đề nhạy cảm trong đàm phán thương mại của Mỹ với bất cứ nước nào. Ngoài ra, Hoa Kỳ không phải một mà là nhiều thị trường. Muốn bán hàng ở Hoa Kỳ không phải là dễ, hai yếu tố quan trọng nhất là đảm bảo chất lượng và thời gian. Ở một số nước, mua xe ôtô mới cũng chỉ được bảo hành 1 năm và không quá 10.000 km, còn ở Hoa Kỳ con số đó là 10 năm và 100.000 dặm (160.000 km), mặc dù hiếm ai ở Hoa Kỳ lại chạy một chiếc xe tới 10 năm. Người bán hàng phải làm sao cho khách mua hàng của mình mà không trả lại. Hoa Kỳ không phải đơn thuần là một thị trường lớn về dân số (281 triệu dân), một thị trường giàu (với GDP 7.000 tỷ USD), thu nhập bình quân cao (37.000 USD) mà là nhiều thị trường. Bởi lẽ, về hành chính, họ có 50 tiểu bang, ngoài luật liên bang họ còn có luật tiểu bang, thuế má cũng khác nhau. Hoa Kỳ có nhiều vùng khí hậu, dân nhập cư từ nhiều nước khác nhau, họ mang theo tập quán, văn hóa khác nhau và đương nhiên nhu cầu tiêu dùng cũng khác nhau. Lại nữa, không phải tất cả người Mỹ đều giàu, vậy cũng phải cân nhắc hàng của mình thâm nhập vào giới có mức thu nhập nào là chính. Từ những khó khăn, thách thức như vậy thì việc đi tìm một triết lý kinh doanh thành công tại Mỹ luôn là mong muốn của bất cứ doanh nghiệp nào kinh doanh tại Mỹ. Và Hiệp hội doanh nghiệp Mỹ sau một số cuộc nghiên cứu đã đưa ra một số nguyên tắc để kinh doanh tại Mỹ: a. Chuẩn bị kỹ từng bước và sáng tạo. Các doanh nghiệp muốn xâm nhập thị trường Mỹ cần chuẩn bị đầy đủ bốn bước cần thiết. Bước đầu tiên là hoạch định một kế hoạch hay một chiến lược tiếp thị. Sau đó, doanh nghiệp sẽ lần lượt phải trả lời các câu hỏi cụ thể: muốn bán sản phẩm nào vào thị trường Hoa Kỳ ? Khả năng sản xuất hiện tại có đáp ứng được tiềm năng của thị trường Hoa Kỳ hay không ? Bước thứ ba là phải tính toán các chi phí tài chính liên quan đến những cố gắng để đạt được mục tiêu, như các chi phí tiếp thị. Bước thứ tư, cần xác định sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nội địa và trên thị trường quốc tế. Cuối cùng là phương thức mà doanh nghiệp cần để xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. b. Tìm kiếm thông tin và đối tác. Tìm kiếm các thông tin về thị trường và đối tác qua các thương vụ, các trung tâm xúc tiến ngoại thương là rất quan trọng. Kế đó nên tìm đến công ty tư vấn luật vì luật pháp của Hoa Kỳ vốn rất phức tạp. Việc tìm đến các công ty đại lý hay đại lý cũng cần thiết, họ sẽ lấy hoa hồng trong việc làm ăn, nhưng bù lại, họ là những chuyên gia rất hiểu biết về từng thị trường sản phẩm mà doanh nghiệp định đưa vào Hoa Kỳ. Họ làm việc chuyên nghiệp và sẽ hỗ trợ tốt. Bất cứ doanh nghiệp nào khi muốn bước vào thị trường Hoa Kỳ cũng cần tiến hành đầy đủ các bước đi cần thiết. Bước tìm kiếm đối tác sẽ là rất quan trọng. Khi tìm kiếm đối tác, doanh nghiệp cần đánh giá đúng đối tác để việc làm ăn suôn sẻ. Kế đó nên gặp trực tiếp đối tác để tìm hiểu về họ, từ đó hoạch định các yêu cầu của bản thân. Khi tiến hành thương lượng nên thông qua tư vấn luật vì luật pháp của Hoa Kỳ khá rắc rối. Khi bắt tay vào làm ăn và làm ăn khá suôn sẻ, doanh nghiệp cần thu thập các kiến thức và kinh nghiệm có được từ đối tác này để có thể tăng cơ hội cho mình. Cũng cần lập lại quy trình tìm kiếm đối tác Mỹ của mình với một ngoại lệ. Bây giờ, doanh nghiệp đã có uy tín và đây có thể là một sự khác biệt. Một điểm khác cần chú ý đến là doanh nghiệp sẽ phải cố gắng thu hút sự quan tâm quốc tế với bất cứ giá nào. Khi làm ăn với người Mỹ, nên nhớ rằng doanh nhân Mỹ hoạt động với mục đích là kiếm lợi. Điều này có nghĩa là mỗi dự án phải hàm súc một khả năng sinh lợi cần phải đạt được để dự án đó có thể tiến hành. Bởi trọng tâm số một của người Mỹ là kiếm lời và làm thế nào để đạt được, giữ được và tăng mức lời. Kiểm soát giá thành ở đây là vấn đề không kém phần quan trọng. Ngoài ra, theo đánh giá chung thì yếu tố thời gian sẽ quyết định một cuộc thương thảo thành công. Một doanh nhân Mỹ thường giải quyết các hợp đồng làm ăn một cách rất nhanh chóng. Người Mỹ không ưa sự chậm trễ. Vì thế, muốn làm ăn với Mỹ, doanh nhân nước ngoài phải chuẩn bị để hoàn tất việc thỏa thuận một cách nhanh chóng và hữu hiệu. Nếu không, việc làm ăn này sẽ bất thành do người Mỹ mất hứng thú. c. Hoạch định chiến lược và các yếu tố khác. Các doanh nghiệp phải hoạch định chiến lược tiếp thị của mình một cách tỉ mỉ. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp phải sẵn sàng để trả lời các câu hỏi về chiều sâu liên quan đến chiến lược và tương lai của công việc xuất khẩu của mình. Doanh nhân Mỹ thường mong đợi một cuộc phân tích tỷ mỉ. Điều đó buộc các đối tác nước ngoài trước khi gặp họ phải làm việc thật tích cực với một đội ngũ nhân sự tốt. Nếu không có đủ chuyên môn, doanh nghiệp nên nhờ một công ty tư vấn để kế hoạch làm ăn không bị phá sản. Các doanh nhân Mỹ rất quan tâm là vấn đề xã hội và các vấn đề như điều kiện an sinh môi trường và nhiều vấn đề khác. Người Mỹ luôn tin tưởng vào luật pháp và quyền lợi phục vụ cho lợi ích của các cá nhân cũng như bảo vệ tài nguyên thế giới. Chính vì thế, trong thương lượng, cũng như trong chuẩn bị làm ăn, doanh nghiệp hãy chú ý đến điều này. Ngoài ra, đối với người Mỹ trước tiên là doanh nhân, sau đó mới là bạn. Vì vậy, nhiều người tại Mỹ đã trở thành mối quan hệ bạn bè sau khi họ đã làm ăn với nhau. Người Mỹ thích giải quyết xong các hợp đồng làm ăn rồi sau đó mới tìm hiểu những người trong cuộc xem họ thế nào. Điều này ngược với nền văn hóa phương Đông. Chính vì thế, các doanh nghiệp châu Á cần phải nghiên cứu cung cách mà người Mỹ mua hàng trên Internet, một phương thức rất lạnh lùng. Nhưng từ đó, doanh nghiệp có thể tận dụng đặc điểm này để có thể bán hàng hoá cho họ bằng cách mà họ ưa thích, chứ không phải theo cách của mình. Đừng xem thường tính nguyên tắc khi kinh doanh tại Mỹ. Người Mỹ đòi hỏi những hợp đồng chính xác bằng văn bản. Họ cần có khuôn khổ pháp lý để hoàn tất các cuộc thương lượng. Bởi vậy, các doanh nghiệp phải chuẩn bị trước các cam kết bằng văn bản trước khi đi đến ký kết thoả thuận. 2.1.2.Đặc điểm của thị trường Hoa Kỳ đối với hàng dệt may nhập khẩu. Hoa Kỳ có số dân là 281 triệu người, 143 triệu là nữ chiếm 50,9% và 138 triệu là nam chiếm 49,1% dân số. Người dân Hoa Kỳ rất ưa chộng mua sắm hàng dệt may, tính trung bình mỗi người tiêu thụ 54 bộ quần áo mỗi năm. Người tiêu dùng Hoa Kỳ thích sử dụng các sản phẩm dệt may như: sợi nhân tạo, len dạ, hàng tơ lụa, cotton… Người dân Hoa Kỳ có thói quen mua bất cứ thứ hàng hóa gì đang được bán giảm giá, họ rất hiếm khi mua hàng hóa chưa được chiết khấu, chính vì vậy mà hầu như tất cả các cửa hàng bán hàng dệt may lúc nào cũng có những sản phẩm hạ giá. Thị trường Hoa Kỳ có hàng trăm nhãn hiệu dệt may nổi tiếng và gần như mọi nhãn hiệu dệt may nổi tiếng trên khắp thế giới đều tồn tại ở thị trương này. Bên cạnh đó, thị trường Hoa Kỳ có rất nhiều loại cửa hàng kinh doanh hàng dệt may theo đủ mọi phương thức khác nhau như: bán giá bình dân,chiết khấu, khuyến mãi… nhằm thu hút khách hàng từ đối thủ cạnh tranh. Trẻn thực tế, mọi chủng loại sản phẩm dệt may dù chất lượng cao hay trung bình đều có thể bán được trên thị trường Hoa Kỳ vì tầng lớp dân cư nước này đều tiêu thụ nhiều hàng hóa. Riêng đối với các nước đang phát trieenrtrong đó có Việt Nam kkhi xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ cần lấy giá làm yếu tố quan trọng, mẫu mã không cần quá cầu kỳ nhưng sản phẩm cần đa dạng và hợp thị hiếu của người dân nơi đây. Nhu cầu đối với hàng dệt may. Hàng năm thị trường Hoa Kỳ có nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may rất lớn,gần như là chiếm đa số lượng hàng tiêu thụ trên thị trương và có xu hướng ngày càng tăng. Nếu trong năm 1997 lượng hàng nhập khẩu chiếm 72% trên thị trường thì đến năm 2001 đã chiếm 88% và đến nay là trên 90% tổng lượng hàng dệt may trên thị trường này. Bảng 2.1 Kim ngạch nhập khẩu hành dệt may của Hoa Kỳ (Đơn vị : tỷ USD) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 KN 71,7 70,3 77,3 82,9 89,5 95,7 112,6 195 (nguồn: Hiệp hội dệt may giày da Hoa Kỳ và bộ thương mại Hoa Kỳ) Hoa Kỳ là quốc gia nhập khẩu tất cả chủng loại dệt may của các nước trên thế giới kể cả những nước không có quan hệ thương mại với Hoa Kỳ. Theo thống kê của bộ thương mại Hoa Kỳ, trong năm 2005 có các quốc gia dưới đây là những nước chiếm tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Hoa Kỳ. Bảng 2.2: Các nước xuất khẩu chính hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. (triệu USD) Stt 2001 2002 2003 2004 2005 1 Trung Quốc 6.536 8.744 11.609 14.558 22.405 2 Mêxico 8.945 8.619 7.291 7.793 7.246 3 Ấn Độ 2.633 1.933 3.212 3.633 4.617 4 Hồng Kông 4.403 4.032 3.818 3.959 3.607 5 Indonexia 2.553 2.329 2.376 2.620 3.081 6 Việt Nam 49 952 2.484 2.720 2.881 7 Pa-ki-xtan 1.924 1.983 2.215 2.546 2.904 8 Băngladet 2.205 1.990 1.939 2.066 2.457 9 Canada 3.162 3.199 3.118 3.086 2.844 10 Honduras 2.348 2.444 2.507 2.678 2.629 11 Thái lan 2.441 2.042 2.040 2.198 2.124 12 Philippin 2.248 2.042 2.306 1.938 1.921 13 Nước khác 30.792 30.655 32.104 33.516 30.489 Tổng cộng 70.240 72.183 77.434 83.310 89.205 (Nguồn: Tạp chí thương mại số tháng 3/2006) Sản phẩm dệt may của những quốc gia này chủ yếu là những sản phẩm thông thường giá rẻ, hợp thời trang phục vụ cho đại chúng người tiêu dùng bao gồm mọi chủng loại hàng dệt may phù hợp mọi lứa tuổi. Năm 2007, Việt Nam là nước thứ 47 trong những quốc gia xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ, với kim ngạch xuất khẩu: 44,6 triệu, chiếm 0,1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ và thị phần của các chủng loại sản phẩm dệt may Việt Nam còn nhỏ bé. Nhưng đến năm 2003, Việt Nam đã vươn lên là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ 8 vào thị trường Hoa Kỳ với kim ngạch xuất khẩu tăng 2.484 triệu USD; 2004: 2.720 triệu USD; 2005: 2.881 triệu USD, Sang năm 2006 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ là 3044 triệu USD và tiếp tục tăng đến năm 2007: 7.800 triệu USD, và dự kiến trong năm 2008 là 9,5 tỷ USD. Trong năm 2007 vừa qua, trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước là 48 tỷ USD, thì ngành dệt may đạt 7800 tỷ USD, chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Với thành tích xuất khẩu này, ngành dệt may đã vươn lên là một trong những mặt hàng đứng đầu trong danh mục mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và đưa Việt Nam đứng trong danh sách 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Những kết quả này cần được phát huy mạnh mẽ hơn trong năm 2008. 2.1.4 Những vấn đề quan tâm của nhà nhập khẩu hàng dệt may Hoa Kỳ. Những nhà nhập khẩu Hoa Kỳ trước khi quyết định nhập khẩu hàng dệt may của một số nước xuất khẩu nào đó, họ đặc biệt quan tâm đến những vấn đề: Vị trí của quốc gia: Nước xuất khẩu đã là thành viên của WTO hay chưa, hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may được Hoa Kỳ cấp là bao nhiêu, các trương trình ưu đãi thuế quan mà Hoa Kỳ giành cho quốc gia này, chất lượng giá thành sản phẩm, khả năng giao hàng đúng hạn, sự ổn định giá cả sản phẩm quốc gia đó, năng lực tài chính, trình độ công nghệ, các vấn đề liên quan đến đạo đức sản xuất, lao động, môi trường… Khả năng cung cấp nguyên phụ liệu: các quốc gia có nguồn nguyên phụ liệu dồi dào sẽ có khả năng thắng lợi trong cạnh tranh và mở rộng thị trường tiêu thụ tại Hoa Kỳ, do họ luôn chủ động về mặt nguyên liệu phục vụ cho sản xuất lớn hàng xuất khẩu, đáp ứng thời gian giao hàng nhanh. Sự sáp nhập theo ngành dọc của doanh nghiệp tại nước xuất khẩu: Các nhà nhập khẩu hàng dệt may Hoa Kỳ cũng đặc biệt quan tâm đến việc xáp nhập theo ngành dọc của doanh nghiệp dệt may tại nước xuất khẩu bởi lẽ sự xáp nhập từ khâu sản xuất nguyên liệu đến sản xuất sản phẩm giúp đảm bảo tính thống nhất về quy cách, chất lượng của sản phẩm xuất khẩu. Thực trạng áp dụng hàng rào thuế quan của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may xuất khẩu. Theo hiệp định song phương Việt Nam – Hoa Kỳ, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thỏa thuận dành cho nhau ngay lập tức và không điều kiện quy chế tối huệ quốc (MFN) theo quy định chung của GATT/WTO. Như vậy ngay sau ngày 10/12/2001, khi hiệp định có hiệu lực hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ sẽ được hưởng mức thuế MFN, thấp hơn nhiều so với mức thuế trung bình trên 50% áp dụng trước đây. Thời hạn của hiệp định: Hiệp định sẽ có hiệu lực từ ngày 01/05/2003 đến ngày 31/12/2004: Nếu các bên không chấm dứt hiệp định hoặc đàm phán lại hiệp định trước ngày 01/12/2004 hoặc trước ngày 01/12 của các năm sau đó cho đến khi Việt Nam gia nhập WTO thì hiệp định này tự động có hiệu lực thêm một năm nữa. Hoa Kỳ vừa hoàn thành đạo luật cải thiện an toàn sản phẩm tiêu dùng (CPSIA) năm 2008 để tạo ra một môi trường đảm bảo an toàn sản phẩm tiêu dùng được sản xuất và nhập khẩu từ nhiều nước khác nhau trên thế giới vào thị trường này. Theo đạo luật mới có hiệu lực từ ngày 12/11/2008 này, hàng hoá xuất khẩu cần có giấy chứng nhận hợp chuẩn tổng quát với mỗi chuyến hàng. Vấn đề là đạo luật này mở rộng đáng kể những yêu cầu so với trước, vì thế doanh nghiệp Việt Nam phải rất lưu ý khi đưa hàng hóa vào thị trường Hoa Kỳ. Với CPSIA, phía Hoa Kỳ đã mở rộng đáng kể yêu cầu tự chứng nhận hiện hành, còn trước CPSIA, những sản phẩm tiêu dùng chịu tiêu chuẩn an toàn theo Đạo luật an toàn sản phẩm tiêu dùng. Nay các sản phẩm tiêu dùng phải phải chịu tiêu chuẩn an toàn theo các đạo luật khác nữa như Đạo luật các chất gây hại liên bang, vải sợi dễ cháy, bao bì ngăn ngừa nhiễm độc, an toàn hồ bơi và và hồ nước mát xa, ngăn ngừa phòng xăng cho trẻ em, an toàn tủ lạnh. 2.3. Thực trạng áp dụng hàng rào phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may xuất khẩu. 2.3.1 Hạn ngạch. Tháng 4 năm 2003, Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký Hiệp định Dệt may. Hiệp định Dệt may này giúp các nhà sản xuất dệt may trong nước của Hoa Kỳ bằng việc đưa Việt Nam tham gia vào hệ thống hạn ngạch dệt may toàn cầu và giúp các nhà nhập khẩu của chúng ta bằng việc đảm bảo sự chắc chắn và tránh khả năng không dự đoán trước những hạn chế phát sinh đơn phương, ngẫu nhiên và thường xuyên. Hiệp định này còn có một điều khoản về lao động. Cả hai bên đều tái khẳng định cam kết với tư cách là thành viên của ILO và cũng thể hiện sự ủng hộ của họ đối với việc thực hiện các quy tắc về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp như một cách để cải thiện điều kiện lao động trong ngành dệt may. Hiệp định này cũng yêu cầu xem xét những tiến bộ đạt được trong mục tiêu cải thiện điều kiện làm việc trong ngành dệt may thông qua các cuộc tham vấn giữa Bộ Lao động Hoa Kỳ và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội của Việt Nam. Trong năm 2003, hạn ngạch của Việt Nam sẽ được xác định theo các mức khác nhau. Các mức hạn ngạch này sẽ được tăng thêm 7% mỗi năm(2% đối với các sản phẩm từ dêt). Điều chỉnh linh hoạt hạn ngạch: Hạn ngạch được diều chỉnh (tăng lên) không quá 6% một năm (bằng cách điều chỉnh các hạn ngạch khác giảm xuống để tổng hạn ngạch không thay đổi). Các hạn ngạch cụ thể cũng có thể được điều chỉnh hàng năm bằng cách mượn trước ( vay một phần hạn ngạch của năm tiếp theo) hoặc chuyển tiếp (sử dụng phần hạn ngạch chưa dùng đến của năm trước), mặc dù vậy không có hạn ngạch nào được điều chỉnh quá 11% một năm bằng cách sử dụng những điều chỉnh linh hoạt nêu trên. Phần mượn sẽ chiếm không quá 8% đối với các mặt hàng Cat 338/339 và 347/348, và chiếm không quá 6% cho tất cả các sản phẩm khác. Đảm bảo thực thi: Mỗi bên đồng ý cung cấp những thông tin mà bên kia cho là cần thiết để thực thi hiệp định và cung cấp những số liệu xuất nhập khẩu hàng hóa liên quan. Các bên thỏa thuận những biện pháp cần thiết để điều tra và trừng phạt hành vi gian lận và hợp tác toàn diện với nhau để xử lý vấn đề gian lận. Các bên thỏa thuận tạo điều kiện cho các chuyến thăm nhà máy để xác minh những tuyên bố về sản xuất, và Việt Nam đồng ý ngừng cấp visa cho công ty ngăn chặn việc tiếp cập của các cơ quan hải quan. Nếu Việt Nam phát hiện hành vi gian lận, Việt Nam sẽ điều tra và thông báo cho chính phủ Hoa Kỳ. sau khi tiến hành tham vấn, nếu Hoa Kỳ có bằng chứng rõ ràng về hành vi gian lận hoặc chứng minh được khả năng lớn là gian lận đã xẩy ra, thì Hoa Kỳ có thể khấu trừ vào phần hạn ngạch của Việt Nam một phần không vượt quá số lượng hàng hóa gian lận. Nếu Hoa Kỳ có bằng chứng rõ ràng về nhiều vụ gian lận sảy ra trong vòng 12 tháng, thì Hoa Kỳ có thể “phạt gấp ba lần” vào hạn ngạch dệt may tương ứng của Việt Nam. Cơ chế tham vấn. Nếu Hoa Kỳ cho rằng nhập khẩu các hàng có xuất xứ Việt Nam không thuộc diện bị áp dụng hạn ngạch, cụ thể theo hiệp định này việc gây rối loạn thị trường dệt may Hoa Kỳ và đe dọa cản trở thương mại giữa các bên, thì chính phủ Hoa Kỳ có thể yếu cầu tham vấn với chính phủ Việt Nam nhằm giảm nhẹ hoặc tránh sự rối loạn tình hình thị trường như vậy. Tính chính xác của hạn ngạch: Các bên ghi nhận rằng mức hạn ngạch được dựa trên số liệu về nhập khẩu. Hoa Kỳ có thể điều chỉnh các mức hạn ngạch cụ thể để phản ánh chính xác tình hình thương mại. 2.3.2 Các quy định của hải quan Mỹ. 2.3.2.1 Những yêu cầu về nhập khẩu. Ngoài những thủ tục thông thường như: điền tờ khai hải quan, kê khai trị giá hàng hóa để tính thuế, người nhập khẩu phải xác định xem hàng hóa của mình thuộc mã số nào trong biểu thuế của Mỹ (HTSUS), thì người nhập khẩu phải trả trước mức thuế dự kiến cũng như các chi phí thông quan. Tuy nhiên hải quan sẽ là người quyết định cuối cùng về mức thuế phải trả. Ngoài ra nhà nhập khẩu phải có trách nhiệm đảm bảo hàng hóa của mình phải đáp ứng được các yêu cầu bắt buộc như: yêu cầu về ký mã hiệu, các quy định về an toàn và ký mã hiệu hàng… và tất cả các yêu cầu này phải được bết và hoàn thành trước khi hàng đến Mỹ. Các sản phẩm sợi dệt nhập khẩu phi có tem, mark, mã theo quy định tại "Texxtile Fiber Products Identification Act", trừ khi được miễn trừ theo như điều khoản 12 của luật này: - Tên và tỷ lệ trọng lượng của các thành phần sợi lớn hơn 5% trong sản phẩm, các thành phần sợi nhỏ hơn 5% được ghi là "các sợi khác". - Tên hãng sản xuất và tên hoặc số đăng ký do Federal Trade Commission (FTC) cấp, của một hoặc nhiều người bán các sản phẩm sợi này. Tên nhãn hiệu đã được đăng ký tại Mỹ có thể được ghi trên nhãn mark, nếu nhãn mark này được gửi đến FTC. - Tên của nước nơi đã gia công hoặc sản xuất. Chính vì những quy định khắt khe này nên các doanh nghiệp Việt Nam đôi khi vì thiếu hiểu biết, hay ít cập nhật thông tin hoặc do đơn đặt hàng của các đối tác Hoa Kỳ không yêu cầu rõ ràng về mẫu mã, bao gói của sản phẩm, dẫn đến hàng loạt các sản phẩm dệt may của Việt Nam bị hải quan Mỹ trả về. Và người chịu mọi thiệt thòi ở đây không ai khác chính là các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Đây cũng là những hiện tượng thường thấy khi các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm nói chung và hàng dệt may nói riêng sang thị trường Hoa Kỳ. Để có thể xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đó bởi vì có thể chỉ do không đáp ứng được một yêu cầu nhất định, hàng nhập khẩu sẽ bị từ chối thâm nhập vào thị trường này. 2.3.2.2 Quy định về cấp Visa đối với mặt hàng dệt may. Mặt hàng dệt may Việt Nam muốn xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ thì một điều kiện quan trọng là sản phẩm này phải được cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ cấp Visa cho mặt hàng này – đây được coi như giấy thông hành cho cho sản phẩm dệt may Việt Nam khi thâm nhập sang thị trường này. Việc cấp visa cho hàng dệt may dùng để kiểm soát việc nhập khẩu hàng dệt và các sản phẩm dệt từ quốc gia khác vào Hoa Kỳ hoặc để ngăn cấm việc nhập lậu mặt hàng này vào Hoa Kỳ. Một visa hàng dệt có thể có hạn ngạch hoặc không có hạn ngạch, và hàng dệt có hạn ngạch có thể cần hoặc không cần một visa, điều này phụ thuộc vào xuất xứ nước xuất khẩu. Trong trường hợp visa có sự sai sót trong khai báo về chủng loại, số lượng mẫu mã, hoặc lô hàng đó khi nhập khẩu không có visa thì lô hàng đố sẽ bị giữ lại cho đến khi nhà xuất khẩu cung cấp lại visa theo đúng quy định sau khi đã được các nhà nhập khẩu thông báo về việc sai sót visa. Bên cạnh hình thức Visa thông thường, cục Hải quan Hoa Kỳ còn xây dựng hệ thống Visa điện tử “ELVIS”. Hệ thống này quy định về việc chuyển các thông tin Visa điện tử liên quan đến hàng dệt may của một quốc gia nào đó đến cục Hải quan Hoa Kỳ để tránh Visa gian lận. Hiện nay có Hồng Kông, Bangladesh, Philipines, Indonesia, Singapore, Thailan, Hàn Quốc, Malaysia, Campuchia… đã có ELVIS với Hoa Kỳ. 2.3..3. Tiêu chuẩn kỹ thuật. Quy định về nhãn mác, xuất xứ. Luật Hải quan Hoa Kỳ quy định mọi hàng hóa xuất khẩu , được sản xuất tại nước ngoài khi xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ phải được ghi rõ ở bên ngoài sản phẩm một nhãn hàng bằng tiếng Anh. Nhãn hàng bao gồm chữ hoặc biểu tượng hoặc là sụ kết hợp của nhiều yếu tố khác thể hiện nguồn gốc của một sản phẩm. Nhãn hàng phải được ghi đầy đủ, rõ ràng ở vị trí dễ thấy và phải bền như chính tuổi thọ của sản phẩm sao cho người tiêu dùng cuối cùng có thể biết được tên nước, địa điểm sản xuất… Trong quá trình nhập khẩu hàng hóa vào Hoa Kỳ, nếu hàng hóa không ghi nhãn xuất xứ đúng quy định, người xuất khẩu sẽ phải chịu một khoản thuế ghi chú (Marking Duty) tương đương với 10% giá trị lô hàng đó trừ khi hàng hóa đó được tái xuất hoặc bị phá hủy hay phải đánh dấu đúng lại dưới sự giám sát của Hải quan Hoa Kỳ. Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barr._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33447.doc
Tài liệu liên quan