Phần Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, quan điểm “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”, chưa được nhận thức đầy đủ trong xã hội, chưa thực sự chi phối sự chỉ đạo tổ chức thực tiễn của nhiều cán bộ quản lý và cấp quản lý, kể cả đầu tư cho giáo dục và tạo cơ chế cho tổ chức và hoạt động giáo dục. Trong quản lý về giáo dục chưa tạo ra được sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các lực lượng xã hội để phát triển sự nghiệp giáo dục.
Nhiệm vụ đặt ra cho công tác quản lý
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Biện pháp thực hiện xã hội hoá giáo dục đối với ngành học mầm non trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng (Hà Nội) đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, cách làm, cách thực hiện chủ trương đường lối của Đảng bằng con đường giác ngộ, huy động và tổ chức sự tham gia của mọi người dân, mọi lực lượng xã hội; tạo ra sự phối hợp liên ngành một cách có kế hoạch dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Nhà nước làm cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Trong xu thế hội nhập và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với giáo dục. Giáo dục đang đứng trước những thời cơ phát triển cực kỳ thuận lợi, nhưng cũng đang đối mặt với nhiều thách thức to lớn.
Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội lần thứ VIII đã khẳng định: “Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”. Mục đích cuối cùng của quá trình xã hội hoá sự nghiệp giáo dục là nâng cao thêm mức hưởng thụ về giáo dục của nhân dân, nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần và vật chất của từng người dân.
Trẻ em hôm nay sẽ là chủ nhân đất nước ngày mai, vì thế cần phải bắt đầu từ việc chăm sóc, giáo dục trẻ em tuổi mầm non và trách nhiệm này không chỉ thuộc về các nhà mầm non, mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội.
Luật giáo dục sửa đổi năm 2005 đã khẳng định rõ ở điều 12 về “Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục” .
Theo tinh thần của luật giáo dục, công tác quản lý chỉ đạo, phát triển giáo dục mầm non cần phải gắn với công tác vận động xã hội mới đem lại hiệu quả cao. Phát triển giáo dục luôn đi liền với xã hội hoá giáo dục. Đối với giáo dục mầm non, xã hội hoá để phát triển luôn là quy luật tồn tại và phát triển.
Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xã hội hoá giáo dục mầm non là một trong những nhân tố hàng đầu để thực hiện phát triển giáo dục mầm non có chất lượng, phục vụ cho mục tiêu hình thành nhân cách trẻ em, tạo điều kiện thực hiện phổ cập giáo dục ở các bậc học khác.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ : “Chăm lo phát triển mầm non”, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non là một quy luật và khâu then chốt để thực hiện “chuẩn hóa”, “hiện đại hóa”, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đến năm 2020 là: “Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các gia đình.”
Song hiện nay, xã hội hoá giáo dục mầm non trên thực tế chưa phát huy được thế mạnh của nó, bởi vì trong xã hội còn tồn tại nhiều nhận thức sai lệch về xã hội hoá giáo dục mầm non. Có quan điểm cho rằng xã hội hoá giáo dục mầm non chỉ đơn thuần về đa dạng hoá các hình thức tham gia của nhân dân và xã hội mà ít chú trọng tới nâng mức hưởng thụ từ giáo dục của người dân. Vì vậy, có nơi công tác xã hội hoá giáo dục mầm non chỉ đơn thuần về mặt tài chính, hoặc chỉ có trông giữ trẻ nên xã hội hoá chỉ là "để dân lo", Nhà nước không cần bận tâm đến. Trái lại có nơi chỉ thụ động trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước.
Thực trạng công tác này ở Hà Nội đã đặt ra cho xã hội nhiều điều phải bàn về lý luận và thực tiễn ở từng địa bàn dân cư để tăng cường công tác xã hội hoá giáo dục mầm non.
Từ những lý do trên, tôi chọn hướng nghiên cứu “Biện pháp tăng cường công tác xã hội hoá giáo dục mầm non trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất được các biện pháp thực hiện xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non trên địa bàn nhằm thúc đẩy sự phát triển của Giáo dục mầm non ở Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn mới.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận vầ phân tích thực trạng giáo dục mầm non quận Hai Bà Trưng, đề tài sẽ đề xuất các giải pháp xã hội hoá để phát triển giáo dục mầm non quận Hai Bà Trưng trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về xã hội hóa giáo dục, xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non hiện nay.
2. Chỉ ra thực trạng xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non và các biện pháp thực hiện xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non ở Hai Bà Trưng Hà Nội.
3. Đề xuất các biến pháp tăng cường thực hiện xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non trên địa bàn Hai Bà Trưng Hà Nội.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chỉ nghiên cứu đề xuất các giải pháp cơ bản về xã hội hoá giáo dục mầm non nhằm giúp cho các cấp quản lý tháo gỡ khó khăn tạo cơ hội cho giáo dục mầm non phát triển vững chắc.
5. Đối tượng nghiên cứu
5.1. Một số giải pháp thực hiện xã hội hoá giáo dục mầm non, nhằm đưa lại sự phát triển vững chắc về số lượng và chất lượng cho giáo dục mầm non ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
5.2. Do điều kiện hạn chế, nên chỉ nghiên cứu các giải pháp xã hội hoá giáo dục mầm non quận Hai Bà Trưng và một vài mô hình xã hội hoá giáo dục mầm non đang được sự quan tâm của nhân dân một vài địa phương trọng điểm.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
6.2. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
6.3. Phương pháp khảo sát qua trưng cầu ý kiến
6.4.Phương pháp toạ đàm
6.5.Phương pháp thống kê
Phần nội dung
Chương I: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Sơ lược về vấn đề nghiên cứu
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Giáo dục
Phạm trù giáo dục thường được tiếp cận theo hai phương diện:
Thứ nhất: Tiếp cận theo quá trình giáo dục- theo tiếp cận này thì “Giáo dục” là quá trình đào tạo con người một cách có mục đích nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất, nó được thực hiện bằng cách tổ chức tuyển chọn và lĩnh hội các kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người.
Thứ hai: Tiếp cận về mặt hệ thống giáo dục quốc dân - Theo cách tiếp cận này thì “Giáo dục là hệ thống các thể chế, các biện pháp tổ chức đào tạo và giáo dục của một nước”.
(Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 2 trang 120 - Nhà Xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội 2002)
1.2.2. Giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non là một phân hệ của Hệ thống Giáo dục và Đào tạo “Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi”.
“Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp một”. (Luật Giáo dục năm 2005, Điều 21 - 22)
1.2.3. Xã hội hoá giáo dục
Thuật ngữ “Xã hội hoá giáo dục” được dùng phổ biến ở Việt Nam vào thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Khái niệm này được hiểu theo hai nội dung sau:
Thứ nhất: Khái niệm chỉ sự tăng cường chú ý, quan tâm của xã hội về vật chất và tinh thần cho sự nghiệp giáo dục.
Thứ hai: Khái niệm chỉ sứ mệnh của ngành giáo dục, của nhà trường làm cho người học được thích ứng nhanh với đời sống xã hội (xã hội hoá cá nhân).
Người ta thường biểu đạt xã hội hoá giáo dục bằng công thức có mối liên hệ tương tác hai chiều qua việc đưa vào tiếng Anh EFA=AFE
Education for all - Giáo dục cho mọi người (EFA)
All for Education - Tất cả cho giáo dục (AFE).
1.2.5. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục bắt nguồn từ quản lý chung. Đây là hoạt động của chủ thể quản lý tác động tới khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung nhất là sự ổn định và phát triển của hệ thống.
Quản lý giáo dục là tác động của cơ quan quản lý giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở giáo dục và Đào tạo, phòng Giáo dục và Đào tạo và nhà trường) đối với các thuộc cấp của mình nhằm thực hiện được mục tiêu giáo dục mà Đảng và Nhà nước ban hành.
Quá trình giáo dục theo mối liên hệ hai chiều: Giáo dục tác động vào xã hội và xã hội tác động vào giáo dục. Cần có sự quản lý, điều khiển để các hoạt động này diễn ra theo xu thế cân bằng động và đạt được sự đồng thuận làm cho quá trình xã hội hoá của xã hội đạt tới sự bền vững.
Quản lý giáo dục hướng vào năm cấp độ:
Quản lý nền giáo dục trong mối quan hệ với nền kinh tế,
Quản lý Hệ thống giáo dục Quốc dân trong mỗi quan hệ với cơ cấu dân số và cơ cấu lao động.
Quản lý nhà trường trong mối quan hệ với đời sống cộng đồng.
Quản lý quá trình dạy học/giáo dục/đào tạo trong mỗi quan hệ với quá trình hình thành nhân cách - sức lao động.
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục mầm non và xã hội hoá giáo dục mầm non.
1.3.1. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục chung trong đó có giáo dục mầm non
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ kính yêu của Dân tộc đã dạy: “Muốn có Chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa, muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải nuôi dạy con người ngay từ lúc lọt lòng”.
Người còn dạy: “Mẫu giáo tốt là mở đầu một nền giáo dục tốt”.
Ngay trong những ngày chiến tranh ác liệt chống đế quốc Mỹ, Chính phủ đã đề ra Nghị quyết số 140/CP ngày 15/7/1971 nói về tầm quan trọng của công tác giáo dục trẻ thơ. Nghị quyết này nhấn mạnh “Việc nuôi nấng và dạy dỗ trẻ em trong thời kỳ trứng nước có tác dụng quyết định khá lớn đối với sự hình thành và phát triển thế hệ tương lai của Dân tộc và có ý nghĩa rất sâu sắc đối với tiền đồ đất nước ta.”
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có lời nói đầy tâm huyết ngày 7/9/1973:
“Nếu hiện nay ta chưa có Chủ nghĩa xã hội cho khắp mọi người thì làm sao hãy có Chủ nghĩa nghĩa xã hội cho trẻ em - Phải như vậy mới đúng. Đây là ý lớn của Bác Hồ, của Bộ Chính trị, của Nhà nước ta”.
Hội nghị TW2 của Ban chấp hành Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII định hướng cho chiến lược giáo dục và đào tạo với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã ghi rõ: “Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển giáo dục mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi, phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các gia đình”.
Hội nghị lần thứ VI của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã cụ thể hoá thành các chỉ tiêu cho phát triển giáo dục mầm non đến năm 2010:
“Mở rộng hệ thống trường lớp giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nông thôn. Tăng tỷ lệ trẻ trước 3 tuổi đi nhà trẻ 12% năm 2000 lên 15% vào năm 2005 và 18% vào năm 2010; trẻ từ 3-5 tuổi đi học mẫu giáo từ 50% năm 2000 lên 58% vào năm 2005 và 67% vào năm 2010 (Trong đó trẻ 5 tuổi đi học mẫu giáo đạt 85% vào năm 2005 và 95% vào năm 2010). Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non xuống dưới 20% vào năm 2005, dưới 15% vào năm 2010”.
1.3.2. Xã hội hoá giáo dục nói chung và xã hội hoá ngành học mầm non nói riêng đã được Chủ tịch Hồ chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm ngay từ khi xây dựng nền giáo dục cách mạng.
Nền giáo dục của nước ta là nền giáo dục của dân, do dân, vì dân, nền giáo dục đặt trên các nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng.
Người đã nhấn mạnh: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, cần phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường với nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó. ...
1.4. Mục tiêu - Nguyên tắc - Nội dung xã hội hoá giáo dục mầm non
1.4.1. Mục tiêu xã hội hoá giáo dục mầm non
a) Xã hội hoá giáo dục mầm non nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non
Nói đến giáo dục là nói đến chất lượng và mục tiêu hàng đầu của giáo dục là chất lượng. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục mầm non sẽ tạo ra các nhân tố đồng thuận giữa nhà trường và xã hội thực hiện mục tiêu giáo dục. Thông qua con đường này đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục mầm non, thông điệp tới cộng đồng, tới cán bộ, nhân dân, tới cha mẹ của trẻ và thông qua đó huy động tâm lực, tài lực, vật lực của cộng đồng phát triển trường mầm non.
b) Xã hội hoá giáo dục mầm non nhằm góp phần nâng cao tri thức về nuôi dạy trẻ cho nhân dân và cộng đồng.
c) Xã hội hoá giáo dục mầm non nhằm góp phần tăng cường quá trình chuẩn hoá, hiện đại hoá các nhà trường mầm non.
d) Xã hội hoá giáo dục mầm non nhằm thúc đẩy quá trình dân chủ hoá giáo dục
1.4.2. Nguyên tắc xã hội hoá giáo dục mầm non
a) Xã hội hoá giáo dục mầm non đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quán triệt các yêu cầu quản lý Nhà nước về giáo dục.
b) Xã hội hoá giáo dục mầm non thực hiện theo nguyên tắc tính chủ động của ngành giáo dục.
c) Xã hội hoá giáo dục mầm non thực hiện theo nguyên tắc tính tự nguyện, đồng thuận của cộng đồng.
d) Xã hội hoá giáo dục mầm non thực hiện theo nguyên tắc căn cứ vào tình hình thực tiễn.
e) Xã hội hoá giáo dục mầm non đặt trên nguyên tắc tính hiệu quả
1.4.3. Nội dung xã hội hoá giáo dục mầm non
Nội dung xã hội hoá giáo dục mầm non bao gồm những vấn đề chủ yếu sau:
a) Thường xuyên nâng cao nhận thức của các lực lượng trong xã hội về tầm quan trọng của giáo dục mầm non, của công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ thơ.
Những năm tháng của tuổi mầm non là những năm tháng đặt các tiền đề thiết yếu cho việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ trong suốt cuộc đời. Hiện nay đất nước ta còn nghèo nên chưa giành được nhiều kinh phí cho công việc này, nhưng quyết không vì thế mà coi nhẹ công tác giáo dục mầm non.
b) Nhà trường mầm non thực hiện việc truyền thông giáo dục kiến thức nuôi dạy trẻ đúng với khoa học cho cha mẹ của trẻ và nhân dân và cán bộ quản lý cộng đồng.
c) Huy động cộng đồng đầu tư nguồn lực cho mục tiêu và yêu cầu phát triển các trường mầm non.
Nguồn lực ở đây bao gồm nhân lực, vật lực, tài lực.
Ngoài ba nguồn lực hiển thị và có thể lượng hoá như đã nêu ra, ngày nay người ta còn nói đến hai nguồn lực: Tâm lực và tin lực.
d) Xây dựng cơ chế hợp lý để gắn kết các nhà trường mầm non và nhà trường phổ thông, gắn kết các cơ quan, các cơ sở sản xuất, các đoàn thể xã hội theo mục tiêu nâng cao hiệu quả giáo dục mầm non.
1.5. Quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non
Quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non đặt trên cơ sở phương pháp luận của quản lý và giáo dục học mầm non.
Phương pháp luận quản lý có nhiều cách tiếp cận, song cách tiếp cận cơ bản nhất là tiếp cận chức năng và tiếp cận mục tiêu. Tiếp cận chức năng đòi hỏi phải bao quát tối thiểu năm vấn đề sau:
1.5.1. Kế hoạch hoá- Bất cứ chương trình xã hội hoá giáo dục mầm non nào của nhà trường cũng phải đưa vào chương trình kế hoạch hoá.
Chu trình này quán triệt các yêu cầu:
- Phân tích được tình hình, nêu rõ được điểm mạnh, điểm yếu của nhà trường về công tác xã hội hoá; phân tích được khó khăn, thuận lợi của nhà trường về công tác xã hội hoá.
- Xác định được các nhu cầu trong xã hội hoá
- Vạch ra được mục tiêu trong xã hội hoá
- Cụ thể hoá thành các nhiệm vụ cần tiến hành.
- Gắn nhiệm vụ vào trục thời gian.
1.5.2. Tổ chức thực hiện
- Phân công, phân nhiệm các mục tiêu nhiệm vụ đề ra ứng với các tổ chức con người cụ thể có trong trường.
- Phát hiện được các nguồn lực cần huy động
- Tổ chức huy động được nguồn lực
- Phân phối nguồn lực huy động được theo các đơn vị mà nhà trường hình thành
1.5.3. Chỉ đạo, chỉ huy, điều phối
- Chỉ dẫn mọi thành viên trong đơn vị thực hiện các công việc đề ra về xã hội hoá giáo dục.
- Điều phối, điều chỉnh các nhiệm vụ để công việc tiến hành nhịp nhàng.
Nếu nhiệm vụ có khối lượng quá lớn mà năng lực thực hiện bình thường thì phải hạ bớt khối lượng hay yêu cầu.
Nếu nhiệm vụ có khối lượng còn thấp so với khả năng công việc thì phải bổ sung nhiệm vụ.
1.5.4. Kiểm tra
- Tổ chức kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ, đối chiếu kết quả đạt được so với yêu cầu đặt ra để xem công việc đề ra đã đạt kết quả đến mức nào.
Nên có một sự đánh giá qua việc lượng hoá kết quả (Định lượng kết quả qua các phép đo hiện hành như chiều cao, cân nặng, phát triển của trẻ, sự cải tiến về về chất lượng và số lượng của đội ngũ; sự cải tiến về chất lượng và số lượng của cơ sở vật chất sư phạm nhà trường).
1.5.5. Thông tin
Chương 2
Phân tích thực trạng xã hội hoá giáo dục mầm non trên địa bàn quận hai bà trưng hà nội
2.1. Khái quát về giáo dục của quận hai bà trưng
Quận Hai Bà Trưng nằm về phương nam của thành phố Hà Nội. Đây là quận đang trong quá trình đô thị hoá và phát triển.
Trước năm 2004: Diện tích : 14,65 km2 , chia làm 25 phường và số dân là 42 vạn. Năm 2004 sau khi tách một phần sang quận Hoàng Mai thì hiện nay: Diện tích là 10,09 km2 , Số phường là19 và dân số là 32 vạn.
Năm 2005 kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên 14%, chiếm 37 % trong quá trình sản xuất trên địa bàn Quận, trên 20% giá trị của cả thành phố.
Sự nghiệp giáo dục được quan tâm phát triển toàn diện. Quận đã chú trọng tập trung cho mục tiêu phát triển bền vững tiểu học. Hiện đã có trên 70% số học sinh tiểu học 2 buổi/ngày.
Phong trào thi đua "Dạy tốt - Học tốt" không ngừng phát triển và đi vào chiều sâu. Chất lượng giáo dục trong các trường được nâng lên rõ rệt trong thời kỳ đổi mới giáo dục.
2.2. Thực trạng giáo dục mầm non ở Quận Hai Bà Trưng
2.2.1. Giáo dục mầm non ở Hà Nội
Nhà trẻ: Tổng số nhà trẻ và nhóm trẻ là: 996, đã huy động được 21.636 cháu, chiếm 16,7% trong số cháu từ 1- 3 tuổi.
Trường mầm non: có 336 trường, trong đó có 130 trường mầm non công lập, số còn lại là các trường ngoài công lập.
Riêng khu vực nông thôn có 119 trường đều là các trường ngoài công lập. Có 27 trường đạt hiệu quả.
Tổng số cháu được huy động ra trường mầm non là 96.722 cháu đạt tỷ lệ 82.3% số cháu trong độ tuổi mầm non.
Riêng các cháu 5 tuổi là 35.840 cháu, chiếm 96,8% số cháu trong độ tuổi 5 tuổi.
Hà Nội có thành tựu lớn về giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật ở tuổi mầm non. Hiện nay, tổng số trẻ khuyết tật trên địa bàn Thành phố Hà Nội là 1.167 cháu. Huy động được 756 cháu học hoà nhập chung với các cháu phát triển bình thường, đạt 64,8%.
Hà Nội rất chú ý đến việc nâng cao chất lượng giáo dục mầm non: thể hiện rõ nét là nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Tổng số trẻ mầm non được tổ chức ăn tại trường: 84.904 cháu chiếm 87,8%. Số cháu suy dinh dưỡng hiện chỉ còn 7.016 cháu chiếm tỷ lệ 6,2% của cả nước. Đó là một tỷ lệ rất thấp so với các tỉnh thành khác.
2.2.2 Giáo dục mầm non ở Quận Hai Bà Trưng
Mẫu giáo: Toàn Quận có 7 trường mẫu giáo với 172 lớp. Trong đó có 140 lớp công lập và 32 lớp ngoài công lập (21 lớp do tư nhân quản lý).
Quận đã huy động được 7.014 cháu ra lớp đạt trên 80% số cháu trong độ tuổi.
Nhà trẻ: Toàn Quận có 60 nhóm trẻ. Trong đó Công lập 43 nhóm, Ngoài công lập 17 nhóm. Tổng số cháu ra nhóm: 1.803 cháu ra nhóm đạt trên 17,5% cùng độ tuổi
2.2.3. Giáo dục mầm non Quận Hai Bà Trưng: Mạng lưới các nhà trường
Như vậy trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng có mạng lưới giáo dục mầm non như sau:
- Tổng số trường là 22, có 239 lớp (Trong đó nhà trẻ có 82 lớp và mẫu giáo có 157 lớp). Tổng số cháu đi học là: 9.047 cháu (trong đó nhà trẻ có 2.131 cháu và mẫu giáo có 6.915 cháu).
- Tổng số cô nuôi dạy là: 482 cô. Trong đó cô nuôi dạy trẻ có 162 cô và cô giáo dạy mẫu giáo có 220 cô.
(Nguồn thống kê năm học 2005 - 2006 của Phòng giáo dục đào tạo Quận Hai Bà Trưng).
2.3. Thực trạng xã hội hoá giáo dục mầm non trên địa bàn quận Hai Bà Trưng
3.2.1. Tổ chức khảo sát thực trạng xã hội hoá giáo dục mầm non trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng.
a) Để đánh giá được thực trạng xã hội hoá giáo dục mầm non trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, học viên đã tìm hiểu các văn bản của Đảng bộ Quận, của Phòng giáo dục Quận, hồ sơ của các nhà trường.
b) Học viên cũng đã tiếp xúc với các nhà trường phát phiếu thăm dò về nhận thức công tác xã hội giáo dục mầm non, các nội dung mà nhà trường tiến hành xã hội hoá giáo dục mầm non, phân tích mặt mạnh, mặt yếu, thuận lợi, khó khăn khi thực hiện xã hội hoá giáo dục mầm non trên phạm vi nhà trường và trên địa bàn toàn Quận.
2.3.2. Những hoạt động xã hội hoá giáo dục mầm non mà Quận và Nhà trường đã thực hiện
a) Quận đã có những biện pháp khẩn trương khi thực hiện Quyết định số 161/TTg và Kế hoạch 55/kh-ub của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Phổ biến tinh thần các văn bản quan trọng này tới các ngành, cơ quan và nhân dân các phường.
- Quyết định 161/2002/QĐ-TTg do Thủ tướng ban hành ngày 15/11/2002 đề cập tới Chính sách giáo dục mầm non trong tình hình đổi mới. Tiếp đó là Thông tư liên tịch số 05/2003/TTLT của Bộ giáo dục và Đào tạo - Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính ngày 24/2/2003 nhằm hiện thực hoá tinh thần Quyết định 161 của Thủ Tướng. Ngày 26/11/2003, Thành phố Hà nội đã ban hành Kế hoạch số 55 để triển khai khi việc thực hiện Quyết định số 161/2002/QĐ - TTg.
Để triển khai các văn bản quan trọng này, Quận Hai Bà Trưng đã có sự quán triệt và kịp thời chỉ đạo các phường, các trường mầm non trong toàn Quận. Những kết quả tích cực được thể hiện ở một số điểm như sau:
- Đại đa số cán bộ giáo viên và nhân dân đã có nhận thức sâu sắc hơn về vị trí vai trò của giáo dục mầm non trong Hệ thống giáo dục quốc dân.
- Các cấp uỷ Đảng, Chính quyền địa phương khi xây dựng và triển khai các kế hoạch chung đều đã lưu ý đến kế hoạch phát triển giáo dục mầm non.
Xây dựng trường lớp, tăng cường các điều kiện về cơ sở vật chất, công tác chăm sóc giáo dục trẻ được chú ý nhiều hơn.
b) Sự tham gia của cộng đồng cho phát triển trường mầm non
c) Xã hội hóa nhằm vào việc tăng cường chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ.
- Các nhà trường chú ý việc cân định kỳ; phối hợp với lực lượng y tế của Quận để triển khai khám sức khỏe, theo dõi chặt chẽ tình hình sức khỏe của các cháu. Sau mỗi đợt khám các nhà trường với sự tư vấn của cán bộ y tế đã phân loại, tổng hợp các trẻ bị suy dinh dưỡng. Những trẻ bị bệnh thì gia đình được tư vấn về cách điều trị.
- Vận động các nhà tài trợ như “Chương trình P/S bảo vệ nụ cười trẻ em Việt Nam” tới khám, chăm sóc và tư vấn về vệ sinh răng miệng cho các em và cấp miễn phí bàn chải và kem đánh răng cho 100% trẻ em 5 tuổi. Công ty sữa tư vấn về dinh dưỡng và tặng các sản phẩm về sữa.
Đưa trẻ khuyết tật tới trường hoà nhập cùng các cháu.
Phối hợp với gia đình, ký hợp đồng với các nhà cung cấp thực phẩm tươi sống làm tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm.
d) Xã hội hóa nhằm vào việc tăng cường chất lượng giáo dục chung, qua việc thực hiện chương trình mới.
Chương trình cải tiến được các nhà trường thực hiện nghiêm túc 100% các trường tổ chức cho trẻ học đủ các bài theo chương trình mới đã ban hành và hoạt động theo đúng lứa tuổi.
Các nhà trường đã liên hệ với các tổ chức hữu quan trên địa bàn Quận đưa các nội dung như: Giáo dục lễ giáo; Giáo dục Luật lệ giao thông; Giáo dục dân số, sức khỏe, giới tính, giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm phù hợp với lứa tuổi của trẻ.
e) Xã hội hóa giáo dục nhằm vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Giáo viên mầm non thường từ nhiều nguồn hình thành, có số được đào tạo chính qui, hệ thống; có số được đào tạo theo nhiều giai đoạn để trở thành giáo viên đứng lớp. Con đường để nâng cao tay nghề cho giáo viên mầm non là sự bồi dưỡng tại chức (ngay tại trường) và qua các hội giảng của Quận. Việc thúc đẩy khích lệ cho các cô tự làm đồ dùng dạy học bằng những vật liệu dễ, tìm sẵn có (các loại sinh vật bằng giấy, mũ vải, xốp bọt biển, các loại rối ống, rối que, rối dẹt ...) tạo ra môi trường dạy học ngày càng phong phú, đa dạng. Những đồ dùng dạy học sinh động này do các cô tự làm đã giúp trẻ cảm nhận được cái hay của các truyện kể, qua đó nâng cao kỹ năng diễn đạt khi kể chuyện và hình thành cho trẻ khả năng bắt chước.
Trong việc nâng cao nghiệp vụ sự phạm thì nội lực của các cô là chủ yếu, song sự giúp đỡ của gia đình, của cộng đồng, sự quản lý của nhà trường, của Quận có tác động rất lớn.
Quận Hai Bà Trưng đã tổ chức được các Hội thi với chủ đề: “Bé mầm non với văn thơ và văn thơ với bé mầm non”
Chủ đề này đã lồng ghép với liên hoan “Bé khỏe, bé ngoan”. Các liên hoan này không những tạo sân chơi bổ ích cho các bé mà còn tăng cường nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên.
Giáo viên đã thực hiện được phương thức “Học mà chơi, chơi mà học” cho trẻ một cách khá tự nhiên. Giáo viên giúp cho trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái; ngồi học và cầm bút đúng tư thế. Qua đó giúp trẻ mạnh dạn, tự tin. Nhiều trẻ yêu thích sách, truyện tranh, biết cách chào hỏi với người trên theo lễ giáo.
f) Xã hội hóa giáo dục nhằm tăng cường cơ sở vật chất sư phạm cho các nhà trường và tăng cường nguồn tài chính để cải thiện đời sống giáo viên.
- Với sự tham mưu tốt của Phòng giáo dục những năm gần đây một số công trình cho giáo dục mầm non ở Quận Hai Bà Trưng đã được xây dựng khang trang, hiện đại. Các trường đều được bổ sung nhiều đồ dùng dạy học phục vụ cho công tác nuôi dạy của các cô và đáp ứng nhu cầu vui chơi cho các cháu như: trang bị bàn ghế, giường nằm, giá đồ chơi, đồ chơi ngoài trời, các thiết bị máy móc nghe nhìn, ấn loát và trang bị thiết bị cho các phòng tập năng khiếu cho trẻ. Khi Nhà nước tăng cường vốn đầu tư, thì các nhà trường cũng vận động nhân dân, cha mẹ các bé đóng góp thêm để tăng cường các điều kiện cho các cháu.
Năm học 2005 - 2006 nhân dân và các tổ chức sản xuất xã hội trên địa bàn Quận đã đóng góp vào việc nâng cấp cơ sở vật chất sư phạm chiếm khoảng trên 50% so với ngân sách nhà nước bỏ ra. Tổng đầu tư: 3.714.624.000đ. Trong đó Ngân sách nhà nước 2.383.905.000đ; nhân dân đóng góp: 1.142.919.000đ; tổ chức xã hội: 187.800.000đ)
- Về cải thiện điều kiện tài chính ngoài lương cho giáo viên và cán bộ công nhân viên: Thu nhập ngoài lương chính với mức cao nhất 500.000đ/tháng, mức trung bình 300.000đ/tháng và mức thấp nhất 150.000đ/tháng.
2.4. Đánh giá chung về xã hội hoá giáo dục mầm non trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng
2.4.1. Đánh giá chung
Đánh giá về kết quả xã hội hoá giáo dục tất nhiên ngoài các đại lượng như sự đóng góp tài chính, vật chất cho các nhà trường thì điều chủ yếu là phải nhận diện được chất lượng giáo dục.
Trong hoàn cảnh hiện nay việc phân tích để xác định chất lượng đích thực còn có nhiều khó khăn; cho nên phải thông qua sự đánh giá định lượng của các nhà trường các giáo viên.
Các trường mầm non Quận Hai Bà Trưng theo thống kê cuối mỗi năm học đều thực hiện sự đánh giá trẻ qua bốn mặt sau: Phát triển thể lực; Phát triển nhận thức; Phát triển ngôn ngữ; Phát triển tình cảm quan hệ xã hội.. Mỗi trẻ đều được thông báo cho gia đình biết để gia đình cùng phối hợp với nhà trường đẩy mạnh các mặt tốt và hạn chế các dấu hiệu chưa tốt của trẻ.
Trên tổng thể, năm học 2005 - 2006 đã có kết quả như sau:
Các nội dung trẻ được đánh giá
Đạt yêu cầu
Chưa đạt yêu cầu
Tổng số bé
Tỉ lệ %
Tổng số bé
Tỉ lệ %
Phát triển thể lực
Nhà trẻ
1170
95
62
5
Mẫu giáo
5915
97
183
3
Phát triển nhận thức
Nhà trẻ
1188
96,5
44
3,5
Mẫu giáo
5976
98
122
2
Phát triển ngôn ngữ
Nhà trẻ
1135
92
98
8
Mẫu giáo
5855
96
243
4
Phát triển tình cảm và quan hệ xã hội
Nhà trẻ
1207
98
25
2
Mẫu giáo
6037
99
61
1
Như vậy là tỉ lệ đạt yêu cầu của bốn nội dung ở cả hai khối nhà trẻ và mẫu giáo đều có tỉ lệ trên 90%. ở khối mẫu giáo tỉ lệ cao hơn.
Phát triển thể lực đạt 97%
Phát triển nhận thức đạt 98%
Phát triển ngôn ngữ đạt 96% Phát triển tình cảm và quan hệ xã hội đạt 99%
2.4.2. Những ưu điểm, nhược điểm về xã hội hoá giáo dục mầm non trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng
a) Ưu điểm:
- Nhận thức chung về quan điểm của Đảng, của Nhà nước, của ngành đối với công tác xã hội hoá giáo dục mầm non thể hiện sự đúng đắn.
Các lực lượng trong Quận cho rằng hệ giáo dục mầm non vốn chưa được coi trọng trong số các ngành giáo dục của Hệ thống giáo dục quốc dân, nên cần tăng cường xã hội hoá giáo dục để gia tăng nguồn lực cho các nhà trường.
- Các nhà trường bước đầu đã phát huy tác dụng vào đời sống cộng đồng. Cụ thể đã giúp cho cha mẹ các cháu và nhân dân các tổ dân phố hiểu về sứ mệnh của giáo dục mầm non.
- Đã thu hút được một lực lượng tài chính, vật chất nhất định để chống sự xuống cấp trong các nhà trường và cải thiện bước đầu đời sống các cô. Cộng đồng cũng quan tâm, khích lệ tinh thần để các cô thực hiện nhiệm vụ cao cả của mình.
- Tập hợp được một lực lượng chính trị - xã hội của Quận, các ngành, các giới cùng quan tâm tới phát triển trường mầm non và xã hội hoá giáo dục mầm non.
- Phòng giáo dục Quận và các trường mầm non trên địa bàn Quận đều coi nhiệm vụ xã hội hoá giáo dục mầm non là trách nhiệm chính của mình, có ý thức chủ động vận động nhân dân, cha mẹ các cháu tham gia vào việc phát triển nhà trường.
b) Những nhược điểm về thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục mầm non trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng
- Tuy bước đầu đã có nhận thức đứng đắn về xã hội hoá giáo dục mầm non, song sự nhận thức này chưa đều. Các nhận thức sâu sắc mới chỉ ở phạm vi hạn hẹp trong một số người có hiểu biết, được tiếp xúc thường xuyên với văn bản chỉ đạo, được tham dự nhiều cuộc hội thảo, Hội nghị khoa học. Một bộ phận không nhỏ người dân và cả cán bộ, giáo viên các nhà trường còn có sự hiểu đơn giản về xã hội hoá giáo dục. Họ thường cho rằng nó chỉ đơn thuần nhằm vào việc huy động sự đóng góp của nhân dân, của cha mẹ học sinh. Đằng rằng việc này là cần thiết trong hoàn cảnh hiện nay của nước ta, song đó không phải là duy nhất.
Ngay việc vận động nhân dân đóng góp cho việc hiện đại hoá các trường, chống sự xuống cấp của các trường mới chỉ làm tốt ở những phường có thuận lợi về dân trí hay có tiềm lực về kinh tế như Bách Khoa, Phố Huế, Lê Đại Hành ...làm tốt.
Quận Hai Bà Trưng vẫn là “Quận nghèo” nhìn trong tương quan với các quận khác như Hoàn Kiếm, Ba Đình, nên sự huy động về tài lực, vật lực cho phát triển mầm non còn chưa dồi dào.
- Các lực lượng trên địa bàn Quận dù hăng hái với với xã hội hoá giáo dục mầm non, song sự phối hợp chưa thật chặt chẽ. Có một số lực lượng như các xí nghiệp, các cơ sở sản xuất, đặc biệt là sản xuất tư nhân còn thiếu sự chủ động đối các mục tiêu xã hội hoá giáo dục mầm non.
- Một số cấp quản lý các nhà trường chưa thật nhạy bén tận dụng được các cơ hội thuận lợi để tăng cường nguồn lực cho nhà trường phát triển.
- Công tác tuyên truyền, giáo dục cho cộng đồng về sự cần thiết của việc đưa trẻ tới trường của nhiều trường còn chưa tốt nên vẫn còn tình trạng các gia đình gửi con ở nhà người trông giữ, không đảm bảo điều kiện cho cháu phát triển.
2.4.3. Những thuận lợi và khó khăn xã hội hoá giáo dục mầm non trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng.
Phân tích thuận lợi, khó khăn xã hội hoá giáo dục mầm non trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng là qua trình phân tích tìm xem hoàn cảnh khách quan tác động vào công tác này như thế nào?
a) Về thuận lợi:
- Giáo dục mầm non và xã hội hoá giáo dục mầm non ở Quận Hai Bà Trưng Hà Nội luôn nhận đ._.