Lời nói đầu
Khi hội nhập kinh tế quốc tế là bước đi tất yếu thì chủ chương mở rộng quan hệ ngoại thương của Đảng, Nhà nước ta là cần thiết và đúng đắn. Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã có những bước phát triển đáng kể. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng liên tục với nhịp độ cao và khá ổn định (Bình quân tăng 4 - 4,5%/năm), góp phần đáng kể trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, theo hướng CNH và HĐH,
107 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biện pháp thúc đẩy Xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ từ nền kinh tế thuần nông, tự cung, tự cấp sang nền kinh tế thị trường với tỷ suất hàng hoá ngày càng cao, khẳng định vị thế của nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam trên thương trường Quốc tế.
Lợi ích to lớn của hội nhập kinh tế Quốc tế mang lại cho mỗi nước tham gia là rõ ràng và không thể bác bỏ. Con đường xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo kiểu cô lập với bên ngoài, tự cấp, tự túc, thay thế nhập khẩu đã hoàn toàn không có sức thuyết phục. Vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia là hội nhập kinh tế ở mức độ nào, bằng hình thức nào để có thể mang lại lợi ích tối đa và phải trả một cái giá tối thiểu quả thực là một thách thức không nhỏ !
Việt Nam với hơn 80 triệu dân, và trên 70% lao động xã hội đang hoạt động và sinh sống dựa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Nên vấn đề phát huy các lợi thế và tiềm năng trong sản xuất nông nghiệp,đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu không chỉ là yêu cầu đối với sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp mà còn là vấn đề mang tính chiến lược, nhằm giải quyết có tính tổng thể về các quan hệ mang tính xã hội... Do đó cần phải có những thay đổi cách tiếp cận về chiến lược và chính sách phát triển nông nghiệp phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Trong thời gian thực tập tại Bộ Thương Mại, qua nghiên cứu tình hình sản xuất và kinh doanh xuất khẩu nông sản. Với các lợi thế và tiềm năng về đất đai, lao động, các điều kiện sinh thái... Nhưng khối lượng và kim ngạch nông sản xuất khẩu của Việt Nam còn rất khiêm tốn và bộc lộ nhiều hạn chế. Từ thực tế đó em lựa chọn đề tài: "Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam" làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
+ Nhằm phân tích, đánh giá về thực trạng sản xuất xuất khẩu đối với các mặt hàng (gạo, cà phê, cao su, chè, điều) và những giải pháp chủ yếu đã tác động đến quá trình thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam.
+ Đề xuất và kiến nghị các giải pháp chủ yếu, nhằm thúc đẩy xuất khẩu nông sản trong thời gian tới (2001 - 2010)
Với mục tiêu trên chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về xuất khẩu hàng nông sản phẩm trong quá trình hội nhập của việt nam
ChươngII: Thực trạng về xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của việt nam trong thời gian qua
Chương III: Giải pháp và những kiến nghị chủ yếu, nhằm thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam trong thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
+ Đối tượng nghiên cứu chính là các mặt hàng và ngành hàng (gạo, cà phê, cao su, chè, điều) về các giải pháp chủ yếu trong sản xuất, chế biến, môi trường kinh doanh xuất khẩu nhằm thúc đẩy xuất khẩu.
+ Phạm vi nghiên cứu: Chỉ giới hạn tập trung nghiên cứu một số nông sản chủ yếu của Việt Nam như: gạo, cà phê, cao su, chè, điều, được xác định là những mặt hàng chủ lực xuất khẩu đã có khối lượng, kim ngạch xuất khẩu cao trong những năm gần đây và có tiềm năng lợi thế để phát triển.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của em để hoàn thành chuyên đề này là:
+ Từ kiến thức đã học tại trường ĐH KTQD
+ Cùng sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Đặng Đình Đào, và sự chỉ bảo của các cô chú làm việc tại Vụ kế hoạch thống kê - Bộ thương Mại.
+ Qua thu thập thông tin, số liệu từ các giáo trình, thời báo, tạp chí ... có liên quan.
Do hạn chế về thời gian, tài liệu cũng như trình độ có hạn, hơn nữa việc tìm hiểu các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nông sản chủ lực của Việt Nam là một công tác phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế- xã hội, nên em viết chuyên đề này không tránh khỏi thiếu sót. Em mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô giáo và ý kiến đóng góp của các bạn sinh viên. Sau cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Đặng Đình Đào người đã tận tình chỉ dẫn, và các thầy cô giáo đã từng dậy dỗ em trong suốt quá trình học tập, cùng các cô chú ở Vụ kế hoạch thống kê - Bộ thương Mại đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
chương 1
những vấn đề chung về xuất khẩu hàng nông sản phẩm trong quá trình hội nhập của việt nam
I. Hội nhập kinh tế quốc tế và vai trò của mặt hàng nông sản trong hệ thống các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
I.1. Hội nhập kinh tế của việt nam
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “ Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức và khu vực củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên thương trường quốc tế” . Ngày 18 tháng 11 năm 1996, Bộ Chính Trị đã ra nghị quyết về kinh tế đối ngoại nhằm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này,Nghị Quyết số 7-NQ/Tw của bộ chính trị
về hội nhập kinh tế Quốc tế ngày 27/11/2001; Mặt khác vấn đề này cũng đã được xác định cụ thể tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định chủ trương “Phát huy cao độ nội lực , đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh và có hiệu quả bền vững”
Thật vậy , đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, Việt Nam cần chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ kiến thức quản lý để đẩy mạnh công cuộc Công Nghiệp Hoá- Hiện Đại Hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Đó là một trong những giải pháp để nước ta thoát khỏi sự tụt hậu về kinh tế và cũng là giải pháp giúp Việt Nam sánh vai ngang hàng với bạn bè thế giới , hoà mình với công cuộc hội nhập kinh tế thế giới .
Bước vào đầu thế kỷ XXI nền kinh tế nước ta đang lĩnh hội nhiều cơ may phát triển nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều thách thức lớn :
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đã chính thức có hiệu lực ; lộ trình thực hiện AFTA và chương trình ưu đãi thuế quan CEPT ngày một đến gần, hội nghị cấp cao APEC tạo thuận lợi mới cho Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới, sức ép của hội nhập và cạnh tranh toàn cầu đang lớn dần... Để hội nhập và phát triển không còn con đường nào khác hơn là nền kinh tế, mà cụ thể, là tự thân mỗi doanh nghiệp phải vận động phải nâng cao năng lực quản lý và cạnh tranh. xác định rõ điều này, tháng 9 năm 2001,Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng đã đề ra Nghị Quyết Quốc Hội về nhiệm vụ năm 2001 và chương trình hành động của chính phủ năm 2001 cũng đã thể hiện quyết tâm cao của cơ quan quyền lực nhà nước, trong việc tập trung mọi nỗ lực cho phát triển kinh tế . Tuy nhiên, suốt chặng đường 15 năm đổi mới cho thấy sức cạnh tranh của các doanh nghiệp việt nam còn yếu. Nhiều chuyên gia đánh giá thị trường Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn mới bắt đầu xuất phát so với nền kinh tế nhiều nước trong khu vực, sự yếu kém có thể thấy cụ thể ở nguồn vốn, lượng vốn qúa nhỏ, quy mô và phương pháp quản lý manh mún khiến sức cạnh tranh rất thấp, đồng thời việc liên kết để tạo thành một tập đoàn kinh tế cũng khó có thể thực hiện. Nhìn ở góc độ công nghệ hầu hết thiết bị công nghệ đang sử dụng trong các doanh nghiệp còn lạc hậu, đi sau công nghệ trung bình sử dụng ở các nước phát triển. Trong khi đó hoạt động chuyển giao công nghệ chủ yếu được thực hiện trên bề mặt, chưa theo chiều sâu và chưa có một chiến lược rõ ràng để tránh lãng phí, đảm bảo chất lượng và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành sản xuất qua đầu tư công nghệ thiết bị, lực lượng lao động đang sử dụng tại các doanh nghiệp hiện nay phần lớn chưa phù hợp với yêu cầu của một phương thức quản lý hiện đại thì hầu hết xuất thân từ nông nghiệp và công nghiệp bao cấp, chưa quen với tác phong công nghiệp thị trường. Hơn nữa lại mất cân đối giữa công nhân kỹ thuật , công nhân có tay nghề cao với lực lương cử nhân . Hội nhập là vấn đề tất yếu để Việt Nam Phát triển, trước hết Việt Nam cần nỗi lực thực hiện Hiệp Định Thương Mại Việt -Mỹ, AFTA,CEPT và trong tương lai là hội nhập toàn cầu khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) . Song điều cần nhấn mạnh là dù hiện tại hay tương lai việt nam cần luôn chủ động tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức để nâng cao vị thế cạnh tranh của hàng hoá và uy tín của mình. Được vậy, sản phẩm Việt Nam khi hội nhập kinh tế thế giới mới mong có chỗ đứng trên thị trường .
Hội nhập kinh tế Quốc Tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và cạnh tranh, tuy quá trình hội nhập kinh tế đưa lai cho Việt Nam những thuận lợi nhưng bên cạnh đó không ít những khó khăn, do vậy Việt Nam cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc vận dụng xử lý khéo léo tính hai mặt của tiến trình hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ thụ động, vừa phải trống tư tưởng giản đơn nôn nóng. Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước vừa đáp ứng và tuân thủ đúng các quy định của các tổ chức quốc tế mà nước ta tham gia.
Việt Nam đã và đang đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế Quốc Tế, mở rộng quan hệ kinh tế song phương và đa phương; phát trriển quan hệ đầu tư với gần 70 nước và lãnh thổ ; bình thường hoá quan hệ với các tổ chức tài chính - tiền tề Quốc Tế : ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tề quốc tế (IMS) ngân hàng phát triển châu á (ADB); ra nhập hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) và khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); tham gia sáng lập diễn đàn á-Âu (ASEM) ; ra nhập diễn đàn hợp tác kinh tế châu á -Thái Bình Dương (APEC); trở thành quan sát viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO); và đang tiến hành đàm phán để ra nhập tổ chứ này.
Ngoài ra nước ta cũng đã ký Hiệp định khung về hiệp tác kinh tế với liên minh châu Âu (EU) và hiệp định thương mại Việt -Mỹ .
Để tăng cường việc chỉ đạo công tác hội nhập kinh tế Quốc Tế , Chính phủ đã thành lập uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế Quốc Tế, Uỷ ban đã có nhứng đóng góp tích cực đóng góp vào việc thực hiện nhiệm vụ mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế .
Thực hiện đường lối đổi mới, chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế , nước ta đã mở rông được quan hệ đối ngoại, vượt qua những khó khăn về thị trường do những biến động ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu gây ra; phá được thế vị bao vây cấm vận của các thế lực thù địch,tạo dựng được môi trường Quốc Tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường quốc tế, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế ở khu vực vào cuối những năm 90 của thế kỷ XX.
Quá trình hội nhập kinh tế đã đem lại cho Việt Nam nhiều thuận lợi nhưng không ít những khó khăn .
1. Những thành tựu đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (*)(*) Nghị quyết số 07/TW ngày 27/11/2001 của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế.
Thu hút được một số lượng đáng kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Và viện trợ phát triển chính thức (ODA), tiếp thu được nhiều thành tựu mới về khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý
Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, góp phần tạo lập tư duy kinh tế mới nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh .
Bước đầu xây dựng được một đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại và quản lý kinh doanh thích nghi dần với điều kện mới, tạo tiền đề để tiếp tục quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm tiếp theo .
Với những kết quả đó chúng ta đã từng bước thực hiện đựơc chủ trương kết hợp phát huy nội lực với ngoại lực, hình thành sức mạnh tổng hợp đưa đến những thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng, trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc
Tuy nhiên quá trình hội nhập kinh tế vừa qua cũng bộc lộ nhiều mặt yếu kém
2. Những tồn tại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam (*)
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã được khẳng định rõ trong nhiều nghị quyết của Đảng và trên thực tế đã được thực hiên từng bước nhưng nhận thức về nội dung,bước đi và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế chưa đạt được sự nhất trí cao và nhất quán, Một bộ phận cán bộ chưa thấy hết và chủ động tranh thủ những cơ hội mở ra, hoặc chưa nhận thức đầy đủ những thách thức sẽ nẩy sinh, để từ đó có kế hoạch thúc đẩy nền kinh tế nước ta vươn lên chủ động hội nhập có hiệu quả ;cơ cấu kinh tế chậm lực chuyển dịch để luôn phát huyđược lợi thế so sánh của đất nước; không ít chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới cho phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế .
Công tác hội nhập kinh tế quốc tế mới được triển khai chủ yếu ở các cơ quan trung ương và một số thành phố lớn, sự tham gia của các ngành các cấp của các doanh nghiệp còn yếu chưa đồng bộ, vì vậy chưa tạo lập được sức mạnh tổng hợp cần thiết đảm bảo cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả cao.
Doanh nghiệp nước ta nói chung còn ít hiểu biết về thị trường thế giới và luật pháp quốc tế, năng lực quản lý còn yếu , trình độ công nghệ còn lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh còn yếu kém, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp và bảo hộ của Nhà Nước còn lại
Môi trường kinh doanh ở nước ta tuy đã được cải thiện đáng kể song về nhiều mặt còn yếu kém : hệ thống luật pháp còn thiếu chưa động bộ,chưa đủ rõ ràng và nhất quán ; kết cấu hạ tầng phát triền chậm ; trong bộ máy hành chính còn nhiều biểu hiện của bệnh quan liêu và tệ tham nhũng , trình độ nghiêp vụ yếu kém . nguồn nhân lực chưa được đào tạo tốt .
Đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngọai còn thiếu và yếu tổ chức chỉ đạo chưa sát và kịp thời,các cấp, các ngành chưa quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuẩn bị tham gia vào hội nhập. Đây là nguyên nhân sâu xa của những yếu kém, khuyết điểm trong hợp tác kinh tế với nước ngoài .
Hiện nay, trước xu thế hội nhập , nền nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức mới mang tính cạnh tranh về sản xuất, xuất khẩu nông sản, đặc biệt là đối với những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực
I.2. Vai trò của mặt hàng nông sản trong hệ thống các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
Theo phân loại của FAO, hàng nông sản là tập hợp của nhiều nhóm hàng khác nhau như, nhóm hàng các sản phẩm nhiệt đới, nhóm hàng ngũ cốc, nhóm hàng thịt, nhóm hàng sữa và các sản phẩm sữa, nhóm hàng nông sản nguyên liệu, nhóm hàng dầu mỡ và các sản phẩm .
Hàng chủ lực là loại hàng chiếm vị trí quyết định trong kim ngạch xuất khẩu do có thị trường nước ngoài và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi .
Vấn đề xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã được Nhà Nước đề ra từ cuối những năm 1960. Tuy nhiên, chỉ mới gần đây, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới có cách nhìn nhận nghiêm túc, rõ ràng . Hàng xuất khẩu chủ lực được hình thành trước hết là quá trình thâm nhập vào thị trường nước ngoài , qua những cuộc cọ xát cạnh tranh mãnh liệt trên thị trường thế giới. và cuộc hành trình đi vào thế giới ấy kéo theo việc tổ chức sản xuất trong nước trên quy mô lớn với chất lượng phù hợp đòi hỏi của người tiêu dùng. Nếu đứng vững được thì mặt hàng đó liên tục phát triển .
Để được xét là mặt hàng chủ lực, điều kiện cần và đủ phải đạt theo tiêu chuẩn sau :
Một là : có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên thị trường đó .
Hai là : Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để thu được lợi trong buôn bán .
Ba là : Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước .
Ngày nay, số lượng và quy mô các mặt hàng xuất khẩu chủ lực không ngừng tăng lên. Tạm tính các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 50 triệu USD/năm trở lên, năm 1991 từ 6 mặt hàng lên 14 nhóm mặt hàng trong năm 1999 . Đó là : lạc nhân, cao su, chè, điều, gạo, hạt tiêu, than đá, dầu thô, thuỷ sản, rau quả, hàng dệt may, giầy dép, hàng điện tử và linh kiện máy tính, hàng thủ công mỹ nghệ . Nếu tính đạt kim ngạch từ 100 triệu USD/năm trở lên thì số mặt hàng này năm 1991 mới có 4 năm 1999 đã lên tới 11 .
Việt Nam có 15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực chia làm 3 nhóm chính : Nông, lâm, thuỷ sản; Nhiên liệu, khoáng sản; Công nghiệp và thủ công mỹ nghệ . Do trình độ và định hướng đề tài có hạn, ở đây em chỉ xin trình bày về năm mặt hàng ở nhóm mặt hàng nông sản chủ lực : Gạo, cà phê, điều , cao su , chè.
Nông nghiệp là ngành khởi đầu , đóng vai trò chủ đạo trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp rất phong phú, phối hợp từ công nghệ đơn giản nhất đến những kỹ thuật tiên tiến. Ngành nông nghiệp có khả năng tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền nhằm phát triển các ngành công nghiệp khác góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội. Nông nghiệp liên quan chặt chẽ với sự phát triển của các ngành công nghiêp khác, bởi vì nông nghiệp là ngành hàng đầu của nền kinh tế, nó sẽ cần một khối lượng nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực và vì thế tạo điều kiện để đầu tư phát triển các ngành kinh tế này và ngược lại, ngành công nghiệp lớn mạnh sẽ là động lực để ngành nông nghiệp tạo đà đi lên
Việt nam là một nước nông nghiệp dựa vào sản xuất lúa gạo là chính, nông nghiệp có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó đóng góp khoảng 42% tổng sản phẩm quốc nội ( GDP), 71 % lượng lao động của cả nước hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp . Việt Nam có nhiều ưu thế để sản xuất nông nghiệp như : Lợi thế đầu tiên phải kể đến là tài nguyên đất , tổng diện tích tự nhiên của cả nước có trên 33.1 triệu ha . trong đó có 8,1 triệu ha đất nông nghiệp rất phù hợp cho việc trồng lúa và các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, điều, chè, hạt tiêu... cùng với đất, nước, có ảnh hưởng lớn đến khả năng khai thác nông nghiệp. Tài nguyên nước dồi dào cũng là một trong lợi thế nổi bật của sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Ngoài ra nước ta còn có lợi thế về khí hậu, độ ẩm, nhiệt độ, lượng mưa lớn rất thích hợp cho sự tăng trưởng của cây lương thực, cây công nghiệp. Nguồn nhân lực cũng là một lợi thế Việt Nam có nguồn nhân lực lớn cả về số lượng lẫn chất lượng với gần 29 triệu lao động chiếm 70% lực lượng lao động của cả nước. Đó là những ưu thế về sản xuất nông nghiệp, ưu thế đó ngày càng rõ ràng hơn khi đặt trong bối cảnh khó khăn của tình hình lương thực thế giới ngày nay. Thế mà, như đã khẳng định ở trên, luật chơi của kinh tế ngày nay là luật chơi của kinh tế thị trường trong đó mỗi quốc gia chỉ có thể trông cậy vào vũ khí duy nhất là hướng vào xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế so sánh cao nhất của mình .
Vai trò của hoạt động xuất khẩu nông sản chủ lực cần phải kể đến đó là:
a. Xuất khẩu nông sản chủ lực nhằm giải quyết vấn đề ngoại tệ cho quốc gia có ngoại tệ để nhập khẩu nhằm phục vụ cho công cuộc Công Nghiệp Hoá- Hiện Đại Hoá đất nước .
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta để công nghiệp hoá đất nước trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến .
b. Xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ yếu đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển .
Với quan điểm coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất và xuất khẩu.Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc dẩy sản xuất phát triển đê thực hiện
Xuất khẩu sẽ tạo điềukiện cho các ngành khác cùng cơ hội phát triển
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp phần ổn định sản xuất
Tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia
Thông qua xuất khẩu nông sản việt nam sẽ có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về giá cả và chất lượng . cuộc cạnh tranh này có tác dụng ngược trở lại buộc các doanh nghiệp việt nam phải tổ chức, xem xét lại khâu sản xuất , hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp , các doanh nghiệp phải nhìn lại chất lượng sản phẩm của mình để thích nghi với những biến động của thị trường thế giới.
c. Xuất khẩu nông sản có tác dụng tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân .
Tác động của xuất khẩu nông sản đến đời sống nhân dân khá rõ nét, được thể hiện trên nhiều phương diện . Một mặt sản xuất nông sản là nơi thu hút nhiều lao động và việc làm có thu nhập khá ổn định, mặt khác xuất khẩu nông sản tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu sản phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng phong phú của nhân dân . Ngoài ra thông qua xuất khẩu nông sản chúng ta phần nào hiểu rõ hơn về yêu cầu của thị trường đối với mặt hàng nông sản . Mối quan hệ giữa thị trường nước ngoài và sản xuất trong nước được thực hiện qua xuất khẩu là một cách tốt nhất để nâng cao trình độ và hiệu quả của nền công nghiệp .
Nông sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta hiện nay, các sản phẩm nông sản có vai trò rất to lớn , góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu , xuất khẩu hàng nông sản đem lại nhiều lợi ích như tích luỹ vốn cho sự nghiệp Công Nghiệp Hoá- Hiện Đại Hoá đất nước giúp Việt Nam khai thác được các lợi thế của mình về đất đai khí hậu. Trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của các vùng sinh thái và các địa phương như trong cả nước , đã hình thành được phần chuyên canh sản xuất hàng hoá nông sản xuất khẩu trên quy mô lớn như lúa gạo ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long ,Đồng Bằng Sông Hồng ; cà phê vùng Tây Nguyên ; cao su vùng Đông Nam Bộ ; chè vung miền Núi -Trung Du phía Bắc ; và một số vùng cây ăn quả đặc sản khác ... đã góp phần nâng cao được khối lượng hàng hoá và kim ngạch nông sản xuất khẩu (bình quân tăng 20%/ năm )
Những con số phản ánh ở trên tuy là những kết quả bước đầu, song đã góp phần đáng kể trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo từng bước Công Nghiệp Hoá- Hiện Đại Hoá đất nước, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ từ nền kinh tế thuần nông, tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhằm nâng cao vị thế của nền nông nghiệp Việt Nam trên thương trường quốc tế.
Biểu I.1. Mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thời kì 1996- 2001:
Mặt hàng
Đơn vị
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Lạc nhân
nghìn tấn
127,0
83,3
87,0
56,0
76,2
80,0
Cao su
nghìn tấn
194,5
194,6
191,0
263,0
251,5
300
Cà phê
nghìn tấn
283,7
398,7
382,0
488,0
733,93
910
Chè
nghìn tấn
20,8
32,0
33,0
37,0
56,5
58,0
Hạt tiêu
nghìn tấn
25,3
23,0
15,0
38,4
37,9
50,6
Hạt điều nhân
nghìn tấn
16,5
33,3
25,6
16,0
18,4
40,9
Hàng rau quả
Triệu USD
90,2
68,0
53,0
74,0
72,0
75,0
Gạo
Triệu tấn
3,00
3,50
3,75
4,50
3,50
3,55
Nguồn: Niên gián thống kê 2001
Trong năm năm 1991- 1995. Việt Nam đã xuất khẩu được với số lượng lớn, nhưng chỉ tới năm 1995 vị trí gạo mới được khẳng định trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Cà phê cũng có những bước tiến vượt bậc, năm 1990 là 89,6 nghìn tấn, năm 1999 là 488 nghìn tấn, năm 2000 là 743 nghìn tấn và đạt 910 nghìn tấn và 2001. Với mặt hàng chè năm 2000 xuất khẩu đạt 56,5 nghìn tấn nhưng đến năm 2001 đã xuất khẩu được 58 nghìn tấn. Hạt điều nhân cũng có sự tăng trưởng đáng kể về số lượng xuất khẩu, năm 2000 là 18,4 nghìn tấn, năm 2001 đã là 40,9 nghìn tấn.
Biểu I.2: Tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam
Nhóm hàng
1996
1997
1998
1999
2000
2001
CN nặng và khoáng chất
28.74
28.02
27.87
27.16
26.08
25.40
CN nhẹ và thủ công nghiệp
28.96
36.71
36.62
37.08
37.12
37.60
Nông sản
29.76
24.29
24.31
23.87
23.60
23.00
Lâm sản
2.90
2.45
2.04
1.86
1.88
1.80
Thuỷ sản
9.94
8.53
9.16
10.03
11.32
12.20
Nguồn : Niên gián thống kê 2001
Việt Nam là một nước có nhiều ưu thế về xuất khẩu hàng nông sản, trong 14 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam có 9 mặt hàng là nông sản : Lạc nhân, Cao su, Chè, Gạo, Hạt tiêu, Hạt điều nhân... Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng nhanh qua các năm, hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã trở thành mặt hàng quen thuộc và ưa chuộng trên thế giới.
Xét về tỉ trọng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chúng ta thấy rằng từ 1996 đến nay, tỷ trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có xu hướng giảm sút, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và thủ công mỹ nghệ có chiều hướng gia tăng mặc dù có sự giảm nhẹ năm 1998. Song với chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng đã qua chế biến, tỷ trọng nhóm hàng này đã tăng lên gần 40% vào những năm 1999, 2000, 2001. Nhóm hàng nông, lâm , thuỷ sản là nhóm hàng xuất khẩu khá quan trọng của Việt Nam trong đó quan trọng nhất thuộc về nhóm hàng nông thuỷ sản xuất khẩu. Trong những năm qua, hàng nông sản xuất khẩu đang từng bước chiếm được vị trí quan trọng trong xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay đang dao động trong khoảng 23- 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
I.3. Nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với qúa trình hội nhập quốc tế:
Với chính sách đổi mới, mở cửa. Việt Nam sẽ trở thành thị trường cạnh tranh của các công ty Đa Quốc Gia và Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các nước khác để đưa hàng hoá của mình xâm nhập và thâu tóm thị trường thế giới, tiến tới Việt Nam sẽ tham gia và Tổ chức thương mại Quốc Tế (WTO). Đó là những thuận lợi và cơ hội rất tốt để Việt Nam hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Bởi lẽ, nhờ tham gia và sự phân công, hiệp tác quốc tế, sẽ mở rộng được thị trường nước ngoài, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh và nâng cao khả năng cạnh tranh các sản phẩm trên thị trường thế giới.
Song song với những thuận lợi trên, khi hội nhập vào thị trường thế giới và khu vực, Việt Nam phải đương đầu với những khó khăn: Chất lượng, khối lượng của hàng nông sản chưa cao, chưa tạo lập được thị trường tiêu thụ ổn định, thiếu bạn hàng, giá cả thường xuyên biến động gây không ít khó khăn cho cả người sản xuất và người tiêu dùng. Mặt khác, sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với hàng hoá nước ngoài. Do vậy vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là phải nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu hòng đứng vững trên thị trường và ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Việc tiếp tục đổi mới nền kinh tế, đổi mới cơ chế, luật pháp, phương thức quản lý để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu nông sản là vấn đề có tính chất cơ bản giúp Việt Nam hội nhập một cách có hiệu quả vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Theo các chuyên gia kinh tế, cùng với AFTA. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, sức ép gia tăng mạnh lên nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam là năm 2006. Chúng ta sẽ hoàn tất lộ trình thực hiện chương trình CEPT. Khi đó thuế xuất nhập khẩu theo CEPT giảm xuống còn từ 0-5% và hàng rào phi thuế quan bị xoá bỏ, hàng hóa của các nước ASEAN sẽ tràn vào thị trường Việt Nam với giá thấp hơn hiện nay rất nhiều do thuế xuất nhập khẩu giảm. Nếu Việt Nam không đầu tư, chuẩn bị thật kĩ lưỡng ngay từ bây giờ- mà thực tế bây giờ không còn là sớm nữa- chắc chắn sẽ không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp ASEAN khác. Cũng có ý kiến cho rằng, CEPT sẽ giúp hàng hoá Việt Nam rộng cửa vào các nước ASEAN nên cơ hội chia đều cho các đối thủ. Tuy nhiên, khi xuất khẩu vào các nước ASEAN, giá FOB cảng Việt Nam vẫn còn cao và số lượng hàng hoá xuất khẩu không lớn, nên khả năng chiếm lĩnh thị trường ASEAN của hàng hoá Việt Nam không cao. ASEAN là một thị trường khá lớn với khoảng 500 triệu dân, tuy trước mắt gặp rất nhiều khó khăn tạm thời song tiềm năm phát triển còn lớn, lâu nay chiếm khoảng trên dưới 1/3 kim ngạch buôn bán của nước ta, sắp tới khi AFTA hình thành càng mở ra triển vọng giao lưu buôn bán. Mặt khác, ASEAN có nhiều hàng hoá giống ta đều hướng ra các thị trường khác là chính chứ không phải là buôn bán trong khu vực là chính, thêm vào đó các mặt hàng của ASEAN lại hơn ta về chất lượng và số lượng, có bạn hàng lâu năm và ổn định hơn ta ( gạo đứng đầu xuất khẩu thế giới là Thái Lan, cao su là Inđônêxia...) trong khi đó với việc áp dụng biểu thuế AFTA, hàng của ASEAN có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đi vào thị trường Việt Nam. Do đó có thể làm cho cán cân thương mại càng bất lợi hơn với chúng ta.
Vì vậy, Việt Nam cần chủ động hội nhập theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nứơc mình, đảm bảo xem trọng các cam kết song phương và đa phương. Bên cạnh đó, cần làm cho doanh nghiệp xuất khẩu thấy rõ thuận lợi và thách thức đan xen trong khi hội nhập đang gõ cửa. Muốn vậy, phải bám sát lộ trình trong cơ chế mới 2001- 2005, cắt giảm từng bước các biện pháp bảo hộ, bao cấp cũ, đề ra những bước đi phát triển bền vững, đoạn tuyệt với cách chụp dựt, ăn xổi. Khi xuất khẩu, hàng hoá phải hấp dẫn về chất lượng, kiểu dáng và giá cả. Khi nhập tìm được công nghệ cao, thị trường gốc, hiệu quả cao, không thua thiệt với bên ngoài, cạnh tranh được với hàng nhập khẩu ngay tại sân nhà.
Trong khi tiếp tục có các giải pháp hỗ trợ về xuất khẩu nông sản, cần phải cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng có tính toán đến yếu tố thị trường, với những liệu pháp mạnh về qui vùng, đổi mới giống, qui trình sản xuất, bảo quản, chế biến. Bên cạnh năng xuất cao phải có chất lượng tốt, giá cả hợp lý đáp ứng nhu cầu của khách hàng quốc tế. Có chế định ưu đãi thu hút nhằm thực hiện tự giác theo những nội dụng nêu trên.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, bảo đảm độc lập tự chủ, bình đẳng cùng có lợi. Thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập, trước hết là lộ trình giảm thuế quan. Thực hiện chính sách bảo hộ có trọng điểm, có điều kiện và có thời gian phù hợp với tiến trình hội nhập. Tích cực thực hiện các cam kết đối với các cơ chế hợp tác song phương và đa phương mà nước ta đã tham gia, đặc biệt chú ý tới các cam kết trong khuôn khổ ASEAN, diễn đàn hợp tác á-Âu (ASEM), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương ( APEC), tiếp tục đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mở rộng quan hệ kinh tế với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở Châu á, Châu Phi, Trung Đông và Mỹ la tinh. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế
II. Nội dung và hình thức xuất khẩu hàng nông sản
II.1. Nội dung :
Việt ._.Nam là một nước nông nghiệp , nông nghiệp có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó đóng góp khoảng 42% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), 71,9% lực lượng lao động của cả nước hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, Việt Nam đã chọn con đường phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu. Thực tế cho thấy ngành nông nghiệp đã đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đồng thời thay thế được nhập khẩu những nông sản phẩm mà trong nước sản xuất có hiệu quả hơn để khai thác tốt nhất các lợi thế về nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, kĩ thuật, công nghệ, thị trường cho sự phát triển.
Để xuất khẩu được hàng hoá ra khỏi lãnh thổ của Việt Nam, nội dung của hoạt động xuất khẩu được tổ chức gồm nhiều nghiệp vụ: Từ điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, bạn hàng giao dịch , thông qua các bước giao dịch và đàm phán đi đến kí kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá được chuyển đến nước bạn, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua và người mua tiến hành thủ tục thanh toán. Mỗi nội dung của hoạt động xuất khẩu chính là mõi khâu, mỗi nhiệm cụ của hoạt động xuất khẩu và để đạt đựơc hiêu quả cao nhất phục vụ được đầy đủ, kịp thời cho sản xuất và cho tiêu dùng đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng mỗi nghiệp vụ và đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau.
1. Nghiên cứu thị trường: Nông sản xuất khẩu
Muốn khai thác và nghiên cứu, phát triển nguồn hàng của mình, các doanh nghiệp ngoại thương phải luôn tìm cách tiếp cận thị trường. Thị trường là một dạng thù khách quan gắn với lợi ích nền sản xuất với lưu thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất, lưu thông thì ở đó có thị trường.
Nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết và đầu tiên đối với bất cứ công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới.
Nghiên cứu thị trường là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một hoặc một nhóm sản phẩm. Công tác nghiên cứu thị trường phải góp phần chủ yếu trong việc thực hiện phương châm hành động “ chỉ bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái thị trường có”.
Đối với doang nghiệp xuất khẩu, nghiên cứu thị trường cần phải trả lời các câu hỏi: Nước nào là thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm; khả năng bán được bao nhiêu, bán cho ai; chọn phương pháp bán nào là phù hợp nhất... Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế.
2. Lập dự án kinh doanh:
Lập dự án kinh doanh chỉ có thể thực hiện được khi đã tiến hành nghiên cứu thị trường. Dựa và kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu, tiếp cận thị trường đơn vị kinh doanh phải lập phương án kinh doanh, phương án này là kế hoạch chiến lược, phương hướng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đặt ra các mục tiêu sao cho khả thi nhất.
Theo dự báo kế hoạch của Bộ NN- PTNT, mục tiêu phấn đấu trong năm 2002 của ngành là: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 2,5%, lâm ngiệp đạt 3% so với năm 2001. Sản lượng lương thực có hạt đạt 34,5 triệu tấn, trong đó thóc đạt 32-32,3 triệu tấn; ngô 2,3-2,5 triệu tấn; cà phê 750 ngàn tấn; hạt điều cả vỏ 146 ngàn tấn, chè búp khô 60 ngàn tấn. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm sản đạt 3 tỷ USD trong đó mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là gạo 3,8 triệu tấn, cà phê 750 ngàn tấn; cao su mủ khô 310 ngàn tấn, hạt tiêu 46 ngàn tấn; hạt điều 140 ngàn tấn, chè 80 ngàn tấn.
Theo chiến lược phát triển xuất- nhập khẩu của Bộ Thương Mại: Về gạo, do nhu cầu thế giới tương đối ổn định, khoảng trên 20 triệu tấn/ năm dự kiến trong suốt thời kì 2001- 2010 ta chỉ có thể xuất khẩu được 4-4,5 triệu tấn/năm. Về nhân điều có thể tăng kim ngạch xuất khẩu từ 144 triệu USD năm 2001 lên 400 triệu USD hay cao hơn vào năm 2010 vì nhu cầu điều trên thế giới còn lớn. Hạt tiêu do giá cả dao động lớn, ta lại có khả năng mở rộng sản xuất, gia tăng sản lượng, từ đó có khả năng kim ngạch tăng lên 230 - 250 triệu USD so với 160 triệu USD hiện nay. Về cà phê, do sản lượng và giá cả phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết nên rất khó dự báo chuẩn xác về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong những năm tới. Nhưng có thể Việt Nam sẽ xuất khẩu được 750 ngàn tấn vào năm 2010 với kim ngạch đạt khoảng 850 triệu USD. Với hai mặt hàng còn lại là cao su và chè Chính Phủ đều đã có dự án phát triển. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cao su có thể đạt 500 triệu USD vào năm 2010. Nhu cầu chè trên thế giới tiếp tục tăng, ta có tiềm năng phát triển có thể đưa kim ngạch chè từ mức 200 triệu USD lên 800 triệu USD
3.Tổ chức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu:
Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các công việc, các nghiệp vụ được thể hiện thông qua các nội dung sau đây
a. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu.
Là nghiên cứu khả năng cung cấp hàng xuất khẩu trên thị trường như thế nào? Nghiên cứu xác định mặt hàng kinh doanh xuất khẩu về sự phù hợp và khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật, ngoài ra còn phải xác định được giá cả trong nước của hàng hoá so với giá cả quốc tế. Nghiên cứu nguồn hàng phải nắm được chính sách quản lí của nhà nước về mặt hàng đó, mặt hàng đó có được phép xuất khẩu hoặc thuộc hàng ngạch xuất khẩu hay không? Một trong những bí quyết thành công trong nghiên cứu tìm hiểu thị trường dự đoán được xu hướng biến động của hàng hoá, hạn chế được rủi ro.
b. Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu
Xây dựng một hệ thống thu mua thông qua các đại lý và chi nhánh của mình, doanh nghiệp ngoại thương sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua, nâng cao năng xuất và hiệu quả thu mua, lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua, kết hợp nhiều hình thức thu mua là cơ sở tạo ra nguồn hàng ổn định và hạn chế những rủi ro trong thu mua hàng hoá xuất khẩu.
c. Ký kết hợp đồng trong thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu.
d. Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu
Sau khi đã ký kết hợp đồng với các bạn hàng và các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương phải lập kế hoạch thu mua tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận thực hiện theo kế hoạch, sao cho nguồn hàng đảm bảo yêu cầu cả về chất lượng và số lượng cho xuất khẩu.
e.Tiếp nhận bảo quản và xuất kho giao hàng xuất khẩu.
4. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng:
Sau giai đoạn nghiên cứu tiếp cận thị trường là giai đoạn giao dịch và thương lượng với nhau về các điều kiện để đi đến ký kết hợp đồng, trong buôn bán quốc tế có những bước giao dịch chủ yếu: Hỏi giá, phát giá, đặt hàng, hoàn giá, chấp nhận và cuối cùng là xác nhận.
Giao dịch đàm phán tức là trao đổi các điều kiện mua bán giữa hai bên thông qua thư tín, điện thoại hoặc các bên gặp gỡ trực tiếp.
Ký kết hợp đồng xuất khẩu là kết quả của việc giao dịch và đàm phán thành công, hai bên đi đến những nhất trí về giá cả, chất lượng, điều kiện thanh toán, giao dịch và loại hàng hoá được ghi chi tiết trong hợp đồng
5. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu:
Sau khi hợp đồng đã được ký kêt, nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi giữa hai bên được thiết lập, các bên phải xác định rõ nội dung và trình tự công việc phải làm để cố gắng không gây ra sai sót thiệt hại hoặc vi phạm hợp đồng, tất cả các sai sót là cơ sở phát sinh khiếu nại. Thông thường quá trình này bao gồm các công việc sau: Ký hợp đồng xuất khẩu, kiểm tra L/C , xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá, mua bảo hiểm, giao hàng lên tầu, làm thủ tục hải quan, kiểm nghiệm hàng hoá, uỷ thác yêu cầu, thanh toán, giải quyết khiếu nại.
6. Đánh giá việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Kết thúc một hợp đồng xuất khẩu cũng là dấu hiệu để các nhà kinh donh ngoại thương chuẩn bị từ đầu cho hợp đồng mới, qua đánh giá hợp đồng đã thực hiện, họ sẽ phát huy những thành tựu đạt được và hạn chế khắc phục những mặt còn tồn tại, để nhằm đem lại những kinh nghiệm bổ ích hơn đạt hiệu quả kinh doanh cao hơn cho những hợp đồng trong tương lai
II.2. Hình thức xuất khẩu hàng nông sản .
Cơ sở lý luận của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu bắt nguồn từ nguyên lý tổng cầu và yếu tố quyết định mức sản xuất . Tư tưởng cơ bản của chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu là nhằm phát huy lợi thế so sánh và xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, mở rộng phân công lao động quốc tế. Trước tình hình đó đòi hỏi mỗi quốc gia phải có phương thức phù hợp có cách đi hợp lý, cải tạo và thay đổi số nền kinh tế nước mình sao cho thích ứng đối với đòi hỏi của thị trường thế giới .
Theo nghị định 57 /CP: “ Thương nhân Việt Nam theo quy định của pháp luật được quyền xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa, không phụ thuộc ngành nghề, ngành hàng ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh , trừ hàng hoá thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu”. Đây là một quy trình mới , rất thông thoáng trong các thủ tục hành chính và pháp lý tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường thế giới.
Xuất khẩu không phải là hành vi mua bán đơn lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán, đầu tư trong nước ra đến bên ngoài nhằm mục đích thúc đẩy hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù hợp và từng bước nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện văn minh xã hội .
Người ta có thể phân chia các hình thức xuất khẩu khác nhau nhưng chỉ mang ý nghĩa tương đối tuỳ thuộc vào việc chúng ta nhìn từ góc độ nào
Theo nghị định 57/CP hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá là hoạt động mua, bán hàng hoá của tư nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm cả hoạt động tạm nhâp tái xuất, tạm xuất tái nhập, và chuyển khẩu hàng hoá .
Trên thị trường thế giới, những giao dịch trong hoạt động xuất khẩu đều tiến hành theo những cách thức nhất định. Trong mỗi cách thức giao dịch mua bán quy định thủ tục tiến hành, điều kiện giao dịch, thao tác và chứng từ cần thiết, mỗi phương thức có đặc điểm riêng có kỹ thuật tiến hành riêng.sau đây là một số hình thức xuất khẩu cơ bản.
1. Xuất khẩu trực tiếp :
Hay còn gọi là xuất khẩu tự doanh, là hình thức xuất khẩu mà trong đó các nhà sản xuất , các công ty , các xí nghiệp và các nhà xuất khẩu trực tiếp ký kết hợp đồng bán hàng cho các doanh nghiệp , cá nhân nước ngoài được nhà nước và bộ thương mại cho phép .
2. Xuất khẩu uỷ thác .
Xuất khẩu uỷ thác hay còn gọi là hình thức xuất khẩu thông qua trung gian ,là loại hình xuất khẩu trong kinh doanh thương mại quốc tế mà người xuất khẩu quyết định diều kiện giao dịch mua bán về hàng hoá, giá cả, điều kiện, địa điểm giao nhận, phương thức thanh toán, phải thông qua người thứ ba trung gian, người trung gian buôn bán phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới .
Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp một doanh nghiệp có hàng hoá muốn xuất khẩu nhưng vì doanh nghiệp không được phép xuất khẩu trực tiếp hoặc không có đủ điều kiện xuất khẩu trực tiếp tiến hành uỷ thác cho doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu làm dịch vụ xuất khẩu hàng hoá cho mình. Bên uỷ thác sẽ thu được phí uỷ thác
3. Xuất khẩu hàng đổi hàng
Xuất khẩu hàng đổi hàng hay còn gọi là buôn bán đối lưu ,đây cũng là hình thức xuất khẩu trong đó người đó xuất khẩu cũng đồng thời là người nhập khẩu với lượng hàng hoá và dịch vụ trao đổi với nhau có giá trị tương đương
Trong quá trinh mua bán ,ký hợp đồng , thanh quyết toán nhanh vẫn phải dùng tiền làm vật ngang giá chung.
4.Tạm nhập tái xuất
Là tái xuất trực tiếp xuất khẩu ra nước ngoài những mặt hàng trước đây đã nhập khẩu với nguyên dạng khi nhập (có thể qua sơ chế hoặc không qua sơ chế )
Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một lượng ngoại tệ lớn hơn so với lượng ngoại tệ ban đầu bỏ ra , giao dịch với hình thức này luôn luôn thu hút được 3 nước tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu : Nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu
5. Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá .
Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt tại đó thông qua những người môi giới, do sở giao dịch chỉ định , người ta mua bán hàng hoá có khối lượng lớn , có tính chất đồng loạt và sản phẩm có thể thay thế cho nhau . Sở giao dịch hàng hoá thể hiện sự giao dịch tập trung quan hệ cung cầu về mặt hàng giao dịch trong một khu vực, ở một thời điểm nhất định.
6.Gia công quốc tế .
Là hình thức xuất khẩu mà trong đó một bên nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác để chế biến ra sản phẩm giao dịch, giao lại cho bên đặt gia công và nhận tiền gia công dây là hình thức giao dịch khá phổ biến trong hoạt động ngoại thương của nhiều nước
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng nông sản của việt nam và vấn đề hiệu quả xuất khẩu nông sản chủ lực .
III.1. Các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng nông sản của việt nam.
1. Tiến bộ khoa học kỹ thuật liên quan đến sản xuất,vận chuyển phân phối bảo quản và chế biến hàng nông sản .
Tiến trình hoàn cầu hoá đã đem lại sự tiến bộ, sự bùng nổ các cuộc cách mạng và công nghệ tiên tiến hiện đại với đặc trưng kỹ thuật và công nghệ cao trở thành phương tiện quan trọng nhất nhằm thúc đẩy sản xuất nâng cao năng xuất lao động, đẩy mạnh xuất khẩu . Những thành tựu kỹ thuật liên quan đến sản xuất , vận chuyển bảo quản chế biến các hàng hoá nông sản làm xuất hiện những hàng hoá mới đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Nhờ khoa học kỹ thuật chúng ta có thể sản xuất những sản phẩm chất lượng tốt ,hàm lượng công nghệ kỹ thuật cao để nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu của thị trường thế giới.
Công nghệ sau thu hoạch và chế biến đã được quan tâm, nhưng nhìn chung còn lạc hậu và kém phát triển. với yêu cầu cao về chất lượng và sự biến đổi nhanh về thị hiếu tieu dùng cả về phẩm chất và hình thức. Tuy có sự chuyển biến mạnh và từng bước đổi mới theo hướng tăng tỷ phần (%) hàng nông sản chế biến.Công nghệ và chất lượng chế biến nông sản trong 10 năm qua (1990-2001) đã được cải thiện đáng kể về hình thức, chủng loại, mẫu mã. Giá trị tổng sản phẩm công nghiệp chế biến nông- lâm sản liên tục tăng với tốc độ 12-14%/năm, đã hình thành một số nhà máy chế biến có công nghệ thiết bị tương đối hiện đại, ngánh xay xát gạo đạt 18-20tr tấn/năm, so với năm1990 tăng gấp 2 lần, đã có sự đổi mới rất lớn trong công nghệ chế biến gạo, nhất là công nhgệ tách hạt và đánh bóng, nhưng vấn đề còn lạI là chất lượng nguyên liệu. Ngành điều có thể nói là một ngành non trẻ, nhưng có tốc độ phát triển nhanh từ xuất thô 100%, nay đã chuyển sang xuất điều nhân chế biến đã tăng gấp 80 lần, tưng tự vậy ngành cà phê tăng gấp 4 lần, ngành cao su tăng gấp 3 lần … Nhưng nhìn tổng thể thì hàng nông sản của Viêt Nam phần lớn vẫn ở dạng thô và sơ chế là chính, tỷ trọng chế biến sâu mới đạt 25%, Mặt khác nguyên liệu thu gom là chính, sản xuất phân tán trên nhiều vùng khác nhau nên chất lượng nguyên liệu thấp và không đồng đều. Ccác xí nghiệp, kho tàng, bến bãi, máy móc thiét bị chắp vá. Hệ số sử dụng công suất các nhà máy chế biến thấp, bình quân đạt 50-60%, lãng phí và hao tốn nguyên nhiên vật liệu nhiều.Chất lượng sản phẩm chế biến thấp (tỷ lệ hao tốn sau thu hoạch đối với gạo là 13-16%).Việt Nam là một nước được đánh giá là có công nghệ ở trình độ trung bình thấp.
Việt nam là một nước còn lạc hậu về trình độ sản xuất cũng như trang thiết bị máy móc phục vụ cho quá trình sản xuất và xuất khẩu . Do vậy trong những năm tới ta cần chú trọng vào việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật trong việc cải tạo hoặc tạo ra những giống cây trồng mới , đem lại những năng xuất cao, chất lượng tốt và chịu được sự khắc nghiệt của thiên nhiên . Ngoài ra còn phát triển công nghiệp chế biến hàng hoá nông sản sâu và tinh để nâng cao hiệu quả xuất khẩu .
Qua nghiên cứu, điều tra thì tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch của ta là rất lớn, điều này dẫn đến chi phí sản xuất tăng
Biểu I.3: Tỷ lệ tổn thất hao hụt sau thu hoạch
Chỉ tiêu
Tỷ lệ tổn thất %
Tổn thất lúc thu hoạch
1,3 –1,7
Tổn thất lúc vận chuyển
1,2 – 1,5
Tổn thất lúc đạp, tuốt
1,4 – 1,8
Tổn thất lúc phơi sấy, làm sạch
1,9 – 2,1
Tổn thất lúc bảo quản
3,2 – 3,9
Tổn thất lúc xay xát
4,0 – 4,5
Tổng cộng
13,0 – 16,0
Nguồn: Số liệu điều tra cảu viện nghiên cứu sau khi thu hoạch và tổng cục thống kê
2. ảnh hưởng của tình hình cung cầu hàng hoá nông sản trên thị trường Quốc Tế.
Khi nền kinh tế phát triển, thu nhập cao thì nhu cầu về tất cả các hàng nông sản trên thế giới ngày càng cao, không chỉ ở các nước phát triển và thậm trí những nước phát triển và kém phát triển, như vậy có thể thấy thị trường nông sản trên thế giới ngày càng biến động và được mở rộng. Hiện nay nhu cầu về hàng nông sản phục vụ cho tiêu dùng của các nước phát triển và đang phát triển là khác nhau, ở các quốc gia có nền phát triển cao , nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng nông sản có phẩm cấp chất lượng cao, đặc biệt càng khắt khe hơn trong việc yêu cầu về đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng . Còn ở các nước đang phát triển thì hàng hoá được yêu cầu ở mức thấp hơn nhưng giá trị thu lại cũng thấp hơn, Thậm trí kém mấy lần so với hàng hoá được chế biến sâu . Do đó Việt Nam hiện tại trong tương lai cần phải thoả mãn nhu cầu thị trường thế giới về hàng hoá chất lượng cao, hàng tinh chế , nhu cầu về hoạt động dịch vụ phục vụ người tiêu dùng có su hướng tăng nhanh
3. Quan hệ thương mại và chính sách của các nước bạn hàng nhập khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam .
Việt Nam với chủ trương muốn là bạn của tất cả các nước mở rộng quan hệ buôn bán ngoại giao, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước khác trên thế giới là nhân tố quan trọng để mở cửa thị trường, tăng hợp tác toàn diện, đặc biệt tăng trưởng khối lượng hàng hoá với các nước, trong đó có hàng nông sản . Hiện nay khi mà hiệp định thương mại Việt -Mỹ ký kết, Việt nam được hưởng quy chế đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) trong quan hệ buôn bán song thương, điều này là một cơ hội to lớn đối với nước ta , thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt nam vào thị trường Mỹ, Với một mức thuế suất thấp nhất, có thể còn bằng không , do đó sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông sản xuất khẩu nước ta .
4.Môi trường kinh tế .
Để khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu, nhà nước ta đã có nhiều chính sách, cơ chế, nghị định, nghị quyết như (Nghị định 57/1998/NĐ-CP, Nghị định 44/2001/NĐ-CP, Quyết định 46/2001/QĐ-TTg…) ban hành nhằm tạo điều kiện mở rộng các hoạt động thương mại và quy định chi tiết về thi hành luật Thương Mại về hoạt động xuất- nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán với nước ngoài. Chỉ thị số 31/2001 của thủ tướng Chính Phủ đã cho phép thực hiện thí điểm chế độ Tham Tán nông nghiệp lý do chủ yếu là vì thị trường nông sản thế giới rất bấp bênh, rào cản hữu hình và trá hình lạI nhiều, nếu không có người nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ thì rất khó theo dõi.Vì vậy, cần có chế độ tham tán nông nghiệp tại 4 thị trường chính là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc. Nhưng do cơ chế quản lý kinh tế nói chung và quản lý xuất nhập khẩu nói riêng thay đổi thường xuyên gây tác động tiêu cực không nhỏ cho các doanh nghiệp , sự lúng túng và mất phương hướng trong hoạt động của các doanh nghiệp. Nhằm hạn chế các tồn tại trên, Quyết Định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 đã ban hành cơ chế quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá ổn định cho cả thời kỳ 2001-2005; bãi bỏ quy định đầu mối và hạn ngạch đối với xuất khẩu gạo.
Nhận thức đẩy đủ những lợi thế và những bất lợi trong sản xuất kinh doanh nông sản là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng để chủ động và tự tin hơn trong quá trình chỉ đạo sản xuất và thị trường . Vấn đề là phải làm sao kết hợp được các lợi thế so sánh,phát huy tối đa được hiệu quả của chúng . Muốn vậy đòi hỏi sự nỗ lực của cả xã hội và sự kết hợp chặt chẽ của các ngành các cấp , các địa phương đơn vị sản xuất . Đặc biệt là vai trò điều tiết của chính phủ,nhằm chủ động tạo lập và xây dựng các chiến lược về mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu . Để có thể từ những lợi thế tạo sức cạnh tranh cao cho hàng hoá việt nam trên thương trường quốc tế .
III.2. Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng nông sản việt nam .
1. Chất lượng và công nghệ sản xuất, chế biến nông sản xuất khẩu .
Chất lượng sản phẩm là vấn đề có tính quyết định,là chỉ tiêu tổng hơp phản ánh mức độ thoả mãn nhu cầu của hàng hoá về quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, sở thích và tập quán tiêu dùng ... Vì vậy sản phẩm thô và sơ chế không đáp ứng hoặc đáp ứng ở mức độ thấp nhu cầu và tập quán tiêu dùng. Vấn đề chất lượng và công nghệ là nội dung cốt lõi của cạnh tranh về chất lượng, thực chất là cạnh tranh về kỹ thuật và công nghệ thế giới .
Chất lượng hàng nông sản việt nam trong những năm vừa qua đã được cải thiện đáng kể, các mặt hàng đã được đa dạng hoá hơn, nhiều chủng loại mới được ra đời, công nghệ chế biến từng bước được chế biến và nâng cao, Việt Nam đã chú ý hơn về chất lượng sản phẩm xuất khẩu như công nghệ tách hạt, và đánh bóng. Năm 1989 gạo phẩm cấp cao 5% tấm chỉ chiếm 32% trong tổng khối lượng hàng xuất khẩu, năm 1994 tỷ lệ gạo 5% tấm đã lên 44,83%. Đối với hạt đièu trước đây chủ yếu là xuất thô, hai năm 1996,1998 ta đã xuất khẩu điều nhân hơn thế nữa chúng ta nhập điều thô để chế biến tái xuất khẩu. Tuy đã chuyển biến mạnh từng bước có đổi mới theo hướng tăng tỷ phần (%) hàng chế biến , nhưng nhìn tổng thể hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam , phần lớn vẫn ở dạng thô, nguyên liệu thu gom từ các vùng lãnh thổ khác nên chất lượng hàng hoá thấp và không đồng đều . Bên cạnh đó công nghệ chế biến còn quá lạc hậu chủ yếu là của Liên Xô (cũ) từ những năm 50, nên hầu hết các trang thiết bị máy móc đã lạc hậu hàng chục thế hệ, không thích ứng với nền kinh tế thị trường hiện nay . Các cơ sở sản xuất, chế biến, bến bãi, máy móc cồng kềnh nhưng kém hiệu quả, các định mức tiêu hao nguyên nhiên - vật liệu thường rất cao, trong khi hàn hoá sản xuất ra chất lượng thấp . Tuy có nhiều doanh nghiệp rất tích cực đổi mới công nghệ, nhưng nguồn vốn hạn hẹp nên thường sử dụng chắp vá và không đồng bộ, kèm theo đó là tổ chức bộ máy sản xuất quản lý cồng kềnh, bất cập đang là những cản lực trong cạnh tranh .
2. Sự hạn chế trong việc xâm nhập và tạo lập ổn định thị trường .
Các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới, trong bối cảnh thị trường được phân chia và sự phân công lao động quốc tế được xác lập tương đối ổn định .Các doanh nghệp Việt Nam còn non trẻ đã phải đương đầu trong sự cạnh tranh gay gắt của các công ty, tập đoàn đa quốc gia hay doanh nghiệp lớn nhiều năm kinh nghiệm trên thương trường. Bên cạnh đó là sự yếu kém của công tác tổ chức thông tin chưa kịp thời, thiếu đồng bộ chất lượng không cao . Ngoài ra còn kể đến sự yếu kém về trình độ tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động xuất nhập khẩu và khả năng tiếp thị, marketing của các danh nghiệp Việt Nam còn yếu kém .
3. Khả năng và điều kiện sản xuất các mặt hàng nông sản trong nước.
Đây là điều kiện nguồn hàng cho xuất khẩu một nước chỉ có thể xuất khẩu được khi các nguồn hàng trong nước đủ để đáp ứng nhu cầu cũng như việc sản xuất, thu gom, bảo quản chế biến, sản phẩm chế biến không đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế. Sau những năm phát triển lương thực nền sản xuất nước ta đã tăng trưởng đáng kể, công nghệ mới được sử dụng rộng rãi tay nghề của người lao động được nâng cao . ở một số nơi , có những doanh nghiệp có đủ khả năng sản xuất và chế biến nhiều mặt hàng nông sản đáp ứng được nhu cầu thị trường . Nhưng số đó còn rất nhỏ, đại đa số các đơn vị sản xuất còn thiếu thốn, công nghệ chủ yếu còn lạc hậu chưa thoả mãn với nhu cầu ngày một nâng cao của khách hàng nước ngoài .
4. Nhận thức về vai trò ,vị trí của xuất khẩu và định hướng chính sách phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Chính Phủ .
Việt Nam có nhiều lợi thế và tiềm năng về đất đai, lao động, điều kiện sinh thái, cho phép phát triển sản xuất nhiều loại nông sản xuất khẩu có giá trị kinh tế lớn. Với dân số xấp xỉ 81 triệu dân, là nguồn nhân lực dồi dào về số lượng gần 29 triệu lao động, (chiếm khoảng 70% lực lượng lao động của cả nước ). Không những thế nguồn nhân lực nông thôn Việt Nam có chất lượng cac hơn nhiều so với một số nược trong khu vực, cơ cấu tuổi lao động vào loại trẻ gần 50% lao động ở độ tuổi 29, lao động Việt Nam cần cù, sáng tạo, nhạy bén với những cái mới. Hơn nữa Việt nam là một nước có lịch sử lâu đời về sản xuất nông nghiệp, đã xuất khẩu được khối lượng lớn về nông sản như : gạo, cà phê, hạt tiêu, cao su, điều… Do vậy trong những năm tới Đảng và nhà nước ta vẫn kiên trì con đường phát triển kinh tế xã hội bằng cách phát huy các lợi htế về nông nghiệp, đồng thời phát triển công nghiệp và gia tăng dịch vụ, nhưng phát triển nông nghiệp vẫn là mục tiêu hàng đầu.
5. Quy hoạch và kế hoạch phát triển hàng nông sản xuất khẩu .
Chủ trương và chính sách của Đảng và nhà nước chỉ là định hướng chiến lược còn khả năng thực thi chính sách phụ thuộc vào việc đề ra kế hoạch, quy hoạch phát triển trong thời kỳ. Thực tế ở nước ta do chậm trễ trong việc xây dựng, phê duyệt chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội nên không có cơ sở xây dựng triển khai quy hoạch, kế hoạch phát triển xuất, nhập khẩu nói chung và hàng nong sản nói riêng . Mặt khác do hạn chế về tầm nhìn dẫn đến bị động , lúng túng trong việc xử lý các quan hệ ASEAN, APEC, EU, Mỹ, WTO. Xác định thị trường trọng điểm với cùng mặt hàng để có kế hoạch phát triển nguồn hàng thu mua và chế biến hợp lý .
6. Tổ chức điều hành xuất khẩu
Là việc xác định các mặt hàng được phép xuất khẩu theo hạn ngạch hay tự do, xác định mới xuất khẩu ; phân chia hạn ngạch; đề ra các chính sách khuyến khích xuất khẩu; điều chỉnh tiến độ xuất khẩu theo kế hoạch đặt ra .
ở nước ta việc điều hành xuất khẩu do chính phủ , các bộ ngành thực hiện, trong trường hợp cần thiết có thể có Uỷ ban riêng , chúng ta đã học hỏi được nhiều điều thông qua tổ chức điều hành xuất khẩu gạo trong thời gian vừa qua
7.Tổ chức thu mua.
Do thiếu tổ chức hợp pháp hợp lực một cách chặt chẽ nên hiện nay có quá nhiều doanh nghiêp của Trung Ương và địa phương, của nhiều ngành nhiều cấp quản lý trên một vùng lãnh thổ cùng tham gia sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, môt ngành hàng, một mặt hàng. Nhưng không có sự hình thành rõ ràng quan hệ ngành hàng (giữa sản xuất -chế biến - lưu thông tiêu thụ), vẫn trong tình trạng nhiều nhưng thiếu, đông nhưng không mạnh, thiếu sự quản lý hướng dẫn, điều hành phân công và sự kết hợp trong hoạt động kinh doanh nên đã xẩy ra tình trạng lộn xộn mua bán theo kiểu chụp dựt, mạnh ai nấy làm, tranh mua tranh bán, bị ép gía ... Hậu quả để lại là giá mua trong nước bị đẩy lên cao và giá bán ở thị trường nước ngoài bị đẩy xuống thấp, gây thiệt hại lớn tới lợi ích của xã hội và trước nhất là người trực tiếp sản xuất ra hàng hoá .
III.3.Hiệu quả xuất khẩu nông sản chủ lực : Gạo
Vấn đề hiệu quả trong xuất khẩu là một trong những giải pháp hàng đầu cho những nhà kinh doanh xuất nhập khẩu muốn đạt kim ngạch xuất khẩu cao mà nhóm hàng sản xuất và xuất khẩu đã đụng trần ( gạo, cà phê, hạt tiêu, chè...) thực tế năm 2001 cho thấy tuy một số nông sản xuất khẩu chủ lực vẫn tăng về lượng nhưng lại giảm về giá trị do giá giảm điều này gây tổn thất lớn cho nguồn thu của nông dân trực tiếp sản xuất cũng như nhà kinh doanh xuất khẩu. Do vậy trong những năm tơí với những mặt hàng nông sản cầu đã bão hoà thì Việt Nam không nên tăng sản lượng xuất khẩu mà tập trung vào chất lượng xuất khẩu để đạt kim ngạch xuất khẩu cao, hiện nay các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam được là do giá rất thấp so với mặt hàng nông sản cuả các nước khác, hơn nữa lại xuất khẩu chủ yếu là thô, hàm lượng xuất khẩu sâu và tinh là rất nhỏ, vì thế kim ngạch xuất khẩu thu về cũng nhỏ.
Trên phạm vi cả nước, cần thực hiện chiến lược đa dạng hoá nông nghiệp nhằm khai thác hết tiềm năng của sản xuất nông nghiệp Việt Nam tạo ra các cơ sở nguồn hàng nông sản xuất khẩu không chỉ có quy mô lớn mà còn phong phú về chủng loại sản phẩm. Một mặt, đa dạng hoá nông nghiệp dựa trên các yếu tố, đất đai, lao động và vốn vật chất do đó, đa dạng hoá nông nghiệp sẽ phù hợp với hoàn cảnh và trình độ của sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay.
Mặt khác, do quá trình công nghiệp hoá ở nhóm nước đang phát triển diễn ra mạnh mẽ có tác dụng mạnh đến thay thế nông sản thế giới theo hướng làm thay đổi lợi thế so sánh trong sản xuất nông nghiệp của cả nước; và chính điều này đã buộc các nước này chú trọng đến vấn đề đa dạng hoá nông nghiệp để lấp đầy những lỗ hổng của nhu cầu thị trường. Để nâng cao hướng xuất khẩu, nâng cao hàm lượng sản phẩm xuất khẩu có chứa công nghệ kỹ thuật cao. Việt Nam có thể giảm diện tích gieo trồng thí dụ có thể giảm 30 vạn ha canh tác lúa, giảm từ 500 ngàn ha cà phê xuống còn 350 ngàn ha. Để tập trung đầu tư thâm canh, nâng cao chất lượng giống ở số diện tích còn lại cũng như giảm dịch vụ kiểm phẩm, xông trùng, bảo quản ở kho ngoại quan...nhằm đạt được lợi thế về chi phí thấp.
“ Bằng nhiều giải pháp đồng bộ, cổ phần và các ngành có liên quan sẽ giúp nông dân đạt được mục tiêu cấp bách và lâu dài là sản xuất lúa chất lượng cao với giá thành hạ để đạt được mục tiêu cấp bách và lâu dài là sản xuất lúa chất lượng cao với giá thành hạ để có lãi ’’. Đó là kết luận của Phó Thủ Tướng Nguyễn Công Tạn tại Hội Nghị thúc đẩy tiêu thụ lúa gạo tổ chức tại thành phố HCM ngày 4/4/2001
Theo Bộ NN- PTNT, do sản lượng gạo thế giới tăng, các nước sản xuất lúa gạo liên tục hạ giá chào bán gạo tại các cuộc đấu thầu quốc tế. Với giá gạo ở mức phổ biến 150 USD/ tấn trong những tháng đầu năm, chi phí vận chuyển 15USD/ tấn đưa ra là 1300 đ/kg lúa cho vụ Đông Xuân hiện nay, nhiều dịch vj lo ngại sẽ kinh doanh thua lỗ. Song, cổ phần vẫn quyết định phải mua đủ 1 tr/tấn gạo tạm trữ để giúp nông dân có thu nhập ổn định.
Nhu cầu tiêu thụ lúa gạo chất lượng cao trong nước và trên thế giới ngày càng tăng, vấn đề hàng đầu với bà con nông dân là giá lúa giống. Bộ NN-PTNT yêu cầu các đơn vị làm lúa giống cung cấp loại gống chất lượng cao có giá trị không chênh lệch so với các giống lúa thường. Chính Phủ sẽ nghiên cứu bù khoản chênh lệch này. Viện lúa ĐBSCL đưa ra quy trình thâm canh tổng hợp sản xuất lúa cao sản xuất khẩu, giá thành hạ đã ứng dụng hơn 100 điểm trong 3 năm qua được địa phương tiếp nhận. Kết quả cho thấy áp dụng các tiến bộ kỹ thuật tổng hợp trong mô hình thâm canh lúa cao sản hàng hoá đã tiết kiệm chi phí đầu tư khoảng 1-1,5 triệu đồng/ha và tăng năng suất lúa từ 0,5-0,7 tấ._.ch thức nẩy sinh
III.5. Về đào tạo cán bộ
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực (như Nhật Bản, Xingapore…) cho thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thành công đối với sự phát triển của đất nước. Ngày nay nhân tố này lại càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng tới tư duy quản lý, tư duy kinh tế và phương thức sản xuất, kinh doanh. Vì vậy để thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược đã đề ra,vấn đề tạo dựng được một đội ngũ cán bộ, doanh nhân có năng lực và một đội ngũ công nhân lành nghề tham gia công tác xuất nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng
Có thể nói tư duy kinh doanh, nghiệp vụ và phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung mới ở trình độ thấp, có khoảng cách khá xa so trình độ thế giới. Hơn thế nữa, với mục tiêu chiến lược là tăng trưởng xấp xỉ 14%/năm thì nhu cầu về công nhân lành nghề (may mặc, lắp ráp điện tử, cơ khí…) sẽ rất lớn. Cứ xuất khẩu 1 tỷUSD hàng may mặc hoặc giày dép thì cần tới 300 – 400 ngàn công nhân, cứ xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì cần thêm 3 – 4 ngàn công nhân…Vì vậy, song song với việc đào tạo một đội ngũ cán bộ, đội ngũ doanh nhân có năng lực phải chú trọng tạo một đội ngũ công nhân đủ về số lượng, thạo về tay nghề để thực hiện chiến lược xuất nhập khẩu.
Nhà nước cần nghiên cứu tổ chức những lớp đào tạo và bồi dưỡng giám đốc để hình thành dần đội ngũ doanh nhân có năng lực, có khả năng xử lý linh hoạt, đồng thời cần có chính sách khuyến khích doanh nhân giỏi, đặc biệt là trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Nếu cần, có thể xem lại chế độ tiền lương cho người đứng đầu các doanh nghiệp Nhà nước
III.6. Về tổ chức thực hiện định hướng phát triển xuất - nhập khẩu thời kỳ 2001 - 2010.
Để thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược đã đề ra, cần tiến hành các biện pháp sau:
* Tăng cường và làm rõ hơn trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa các Bộ và các địa phương trong các khâu quy hoạch, tổ chức sản xuất, tổ chức tiêu thụ. Xem xét khả năng xây dựng một số chương trình xuất khẩu trọng điểm với sự tham gia của các Bộ, ngành, địa phương hữu quan với một cơ quan chủ đạo tập trung. Tăng cường quan hệ hợp tác, phối hợp giữa các Bộ với các tổ chức đại diện doanh nghiệp (như phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, các Hiệp hội ngành hàng…)
* Củng cố hệ thống xúc tiến thương mại (ở cả TW và địa phương), trong đó có việc hình thành và phát triển Cục xúc tiến Thương mại, cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng khung pháp lý và thực hiện sự quản lý Nhà nước, điều hoà, phối hợp công tác xúc tiến thương mại trong cả nước. Từng bước hình thành các trung tâm thương mại Việt Nam ở nước ngoài. Ban hành quy chế thưởng cho các cá nhân, doanh nghiệp mở rộng được thị trường,tìm thêm được đối tác. Tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt trong việc thành lập các trung tâm thương mại,kho ngoại hải quan… để giới thiệu, đưa nguyên liệu, hàng hoá sang và tổ chức sản xuất hàng hoá xuất khẩu ngay tại thị trường đó
* Mở rộng việc hình thành và củng cố vai trò của các hiệp hội ngành hành để tăng cường tính tổ chức và tính tập thể trong môi trường cạnh tranh. Khắc phục xu hướng “ quốc doanh hoá hiệp hội”, khẳng định nguyên tắc cơ bản của các hiệp hội là nguyên tắc “ mở”, qui tụ tất cả các doanh nghiệp có chung quyền lợi, bất kể thành phần kinh tế, bất kể qui mô. Khuyến khích các hiệp hội tự thành lập quỹ phong ngừa rủi ro và tham gia các hiệp hội ngành hàng quốc tế để phối hợp hành động, ổn định giá cả
* Sớm hoàn thiện Quỹ Hỗ trợ tín dụng xuất khẩu theo đúng tiêu chí của luật khuyến khích đầu tư trong nước (1998) để giúp các doanh nghiệp có tiềm năng thông qua việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, bão lãnh tiền vay và cấp tíndụng xuất khẩu cho người mua nước ngoài, tiến tới thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu
Nghiên cứu thành lập Quỹ hoặc công ty bảo hiểm xuất khẩu để bảo hiểm rủi ro thanh toán khi tiếp cận các thị trường mới. Khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự hình thành các quỹ bảo hiểm đề phòng rủi ro, kể cả trong trường hợp giá thị trường thế giới biến động. Nhà nước có chính sách thưởng cho doanh nghiệp, cá nhân làm tốt công tác xuất khẩu
* Thiết kế mạng lưới các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, kể cả tham tán thương mại phục vụ thiết thực cho việc mở rộng quan hệ kinh tế và thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường trách nhiệm của các bộ phận đó đối với việc cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng. Khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp mở văn phòng đại diện ở bên ngoài để tiếp thị,xúc tiến xuất khẩu
* Giao Bộ Thương Mại cùng Uỷ ban cộng tác người Việt ở nước ngoài hình thành mạng lưới người Việt sinh sống ở nước ngoài làm đại lý tiêu thụ hàng hoá cho Việt Nam.
* Các Bộ, ngành sản xuất cần phối hợp với Bộ kế hoạch - Đầu tư, Bộ Thương Mại xây dựng các chương trình, kế hoạch xuất khẩu, nhất là đối với các mặt hàng chủ lực, từ khâu sản xuất tới khâu tiêu thụ; hướng dẫn, hỗ trợ các nhà sản xuất thực hiện.
IV. Một số biện pháp cụ thể khác
IV.1. Biện pháp về chiến lược sản phẩm
Như trên đã phân tích, nguyên nhân có tính bao trùm cản trở khả năng và hiệu quả xuất khẩu nông sản là do chất lượng sản phẩm không cao, không ổn định, không đồng đều, khối lượng phân tán nhỏ lẻ, mẫu mã không hấp dẫn, giá cao…Để thúc đẩy xuất khẩu, cần áp dụng các biện pháp nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh, tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu mọi mặt và đa dạng của khách hàng. Do vậy giải pháp về sản phẩm là giải pháp có tính chiến lược trước mắt cũng như lâu dài
Để khắc phục những hạn chế mang tính cơ cấu, hướng phát triển chủ đạo của nhóm hàng nông sản trong 10 năm tới đây là chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực trong mỗi ngành, thậm chí trong từng loại sản phẩm, nâng cao năng suât, chất lượng và giá trị gia tăng. Cần có sự đầu tư thích đáng vào khâu giống và công nghệ sau thu hoạch, kể cả đóng gói, bảo quản,vận chuyển… để tạo ra những đột phá về năng suất và chất lượng sản phẩm
IV.2. Quy hoạch nông sản xuất hàng hoá tập trung
Quy hoạch nông sản xuất hàng hoá tập trung nhằm tạo ra vùng nguyên liệu có chất lượng cao gắn với hệ thống tiêu thụ phục vụ chế biến và xuất khẩu
Xác định và qui hoạch đầu tư một cách đồng bộ các vùng sản xuất hàng hoá tập trung tạo vùng nguyên liệu ca cho chế biến và xuất khẩu. Vùng lúa gạo chất lượng cao cho xuất khẩu với khoảng 1,0 triệu ha ở ĐBSCL và khoảng 300.000 ha ở vùng ĐBSH, dự kiến hàng năm làm ra 70% gạo xuất khẩu có chất lượng cao. Vùng cà phê thâm canh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Trung Bộ khoảng 700 ngàn ha; vùng chè miền núi phía Bắc khoảng 100 ngàn ha; vùng điều tập trung thâm canh Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ với diện tích khoảng 300 ngàn ha.
Ngoài ra, sự đổi mới trong luật đất đai và thuế sử dụng đất đã tác động tích cực đến người nông dân, trong quá trình sử dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn đất đai có khả năng canh tác nông – lâm nghiệp. Do vậy diện tích gieo trồng các cây đã tăng lên cả 3 phương diện: khai hoang phục hoá; thâm canh tăng vụ và đổi mới hệ thống cây trồng
Hiệu quả kinh tế về sử dụng đất tăng. ở nhiều vùng, nhiều địa phương đã đổi mới cơ cấu cây trồng mùa vụ (từ 1 vụ – 2 vụ lên 3 – 4 vụ/năm) nâng cao hệ số sử dụng đất canh tác (từ 1,54 lên 1,96 lần), nhiều mô hình canh tác 4 – 5 vụ/năm đã xuất hiện. Góp phần nâng cao hiệu quả và giá trị sử dụng đất trong nông nghiệp, xuất hiện các mô hình sản xuất đạt hàng chục triệu đồng đến hàng trăm triệu đồng trên 1 ha.
Chính sách đất đai đã tạo điều kiện cho quá trình hình thành các trạng trại sản xuất, hiện nay cả nước có khoảng 115.000 trang trại. Nhiều trang trại sản xuất chuyên môn hoá có qui mô lớn trên các vùng sản xuất tập trung như vùng chè, cà phê, cao su, vùng lúa, vùng cây ăn quả,…
Biểu III.3: Diện tích các loại cây trồng
Đơn vị tính: 1000 ha
Năm
Tổng số
Chia ra
Cây hàng năm
Cây lâu năm
Cây lương thực
Cây công nghiệp
Cây công nghiệp
Cây ăn quả
1990
9.040,0
7.110,9
542
657,3
281,2
1991
9.409,7
7.448,0
578,7
662,7
271,9
1992
9.752,0
7.707,4
584,4
697,8
260,9
1993
9.979,7
7.796,7
598,9
778,5
296
1994
10.381,4
7.809,0
655,8
851,7
320,2
1995
10.496,9
7.972,0
717,3
902,5
346,4
1996
11.031,1
8.217,5
694,3
1.107
385,1
1997
11.316,4
8.320,4
728,2
1.153,4
426,1
1998
11.704,8
8.540,6
808,2
1.202,3
447
1999
12.285,1
8.868,4
1.594,6
1.216,1
496
2000
12.296,3
8.876,1
1.602,4
1.297,8
510,2
% tăng bình quân
103,81
102,65
104,5
109,3
105,65
Nguồn: Niên giám thống kê 1999 và 2000
IV.3. Tăng cường năng lực chế biến và kiểm soát chất lượng để nâng cao giá trị xuất khẩu.
Mục tiêu của giải pháp này là nhằm không ngừng nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam trên các góc độ khác nhau như: tăng khối lượng xuất khẩu nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu từ khâu chọn giốn đến thương mại hoá các sản phẩm nông nghiệp bằng cách tăng giá trị công nghiệp trong sản phẩm ở mức độ cao nhất có thể, tiếp cận thị trường có lợi ích xuất khẩu lớn, hạn chế bớt biên độ giao động giá của các sản phẩm nông nghiệp
Trên thị trường thế giới xu hướng chung của các nước xuất khẩu nông sản là tăng tỷ lệ các sản phẩm có độ chế biến sâu nhằm nâng cao các giá trị sản phẩm, thoã mãn được các tiêu chuẩn chất lượng của thị trường nhập khẩu và giảm mức giao động của giá cả nông sản trên thị trường …Mặt khác trong điều kiện nước ta, đây là vấn đề hết sức quan trọng trong chủ trương phát triển của một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh vào xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010
Để cho nông sản hàng hoá ngày càng đáp ứng được yêu cầu về chất lượng trong quá trình chế biến, Nhà nước cần thiết phải hỗ trợ công nghiệp chế biến nông sản cho các cơ sở sơ chế, các doanh nghiệp chế biến thông qua chương trình giới thiệu rộng rãi các tài liệu và trình diễn các công nghệ chế biến các nông sản mới, hỗ trợ các doanh nghiệp trong chuyển giao công nghệ, hỗ trợ nghiên cưú và cải tiến công nghệ đang được áp dụng và có chính sách nâng cao công nghệ chế biến thông qua thuế,tín dụng, khấu hao.
Nhà nước cần hỗ trợ việc đào tạo và hướng dẫn hệ thống kiểm soát chất lượng nông sản sản xuất xuất khẩu để người sản xuất và chế biến hiểu được các yêu cầu về chất lượng đồng bộ với các nông sản xuất khẩu. Sớm thành lập và đưa hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất khẩu để trong mọi trường hợp đều tiêu thụ hết hàng hoá nông sản.
IV.4. Tăng cường vai trò của Chính phủ trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản
Đây là giải pháp mang ý nghĩa trợ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm nông sản Việt Nam xâm nhập thị trường mới và duy trì ổn định các thị trường truyền thống.
* Thông qua các hoạt động ngoại giao, đàm phán với các thị trường có điều kiện ưu đãi mậu dịch dành cho các sản phẩm nông phẩm nông nghiệp của các nước đã phát triển như thị trường Mỹ, thị trường các nước Tây Âu
* Đàm phán ký kết các thoả thuận thương mại song phương và đa phương, bao gồm: Đàm phán hạn ngạch xuất khẩu đối với mặt hàng có hạn ngạch, đàm phán đòi cân bằng xuất – nhập khẩu với các thị trường Việt Nam còn nhập siêu, ký các hiệp định Chính Phủ và mua bán hàng hoá giữa các quốc gia.
* Xây dựng tốt mối quan hệ giữa Việt Nam với các tổ chứckinh tế thương mại của các khu vực và thế giới như: ASEAN, APEC, WTO, AFTA, FC… tham gia vào các hiệp hội xuất khẩu theo các mặt hàng nông sản, như Hiệp hội cao su, Hiệp hội cà phê, Hiệp hội chuối…
* Tiến hành mạnh mẽ hơn các hoạt động xúc tiến thương mại cả trong và ngoài nước nhằm đẩy nhanh quá trình tiếp cận thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp, các sản phẩm Việt Nam.
Mậu dịch hàng nông sản cũng có vị trí quan trọng, thông thường, cơ hội tiếp cận thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm nông nghiệp bị hạn chế bởi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan của mỗi quốc gia, do đó phải được dàm phán thoả thuận ở cấp độ quốc gia và đôi khi trở thành điều kiện cho các thoả thuận thương mại của các hàng hoá khác. Vì vậy chính phủ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng và củng cố và phát triển thị trường xuất khẩu nói chung và thị trường nông sản nói riêng
IV.5. Hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản
Do qui mô của thị trường quốc tế lớn hơn rất nhiều so với thị trường trong nước, mặt khác thị trường nông sản quốc tế thường xuyên biến động phức tạp, nên các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông sản xuất khẩu thường gặp nhiều khó khăn trong nghiên cứu thị trường. Đối với Việt Nam thì các doanh nghiệp nắm bắt thông tin về thị trường quốc tế còn rất kém, thông tin thiếu, độ chính xác không cao. Vì vậy các doanh nghiệp bị động lúng túng trong điềuhành xuất khẩu nông sản. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong kinh doanh nông sản xuất khẩu. Nhà nước nên thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại, trong đó có trung tâm xúc tiến nông sản xuất khẩu để trợ giúp các nhà sản xuất chế biến và kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam. Chức năng của trung tâm này lànắm bắt và cung cấp thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các doanh nghiệp Việt Nam tổ chức xúc tiến xuất khẩu và đưa hàng ra nước ngoài một cách thuận lợi và tiết kiệm chi phí. Việc tập trung nghiên cứu thị trường nước ngoài về nông sản là hướng hoạt động của trung tâm, về lâu dài sẽ tiến tới thiết lập một ngân hàng dữ liệu về từng thị trường nước ngoài để sẵn sàng cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam nếu họ cần đến. Các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài cần có các nhóm công tác nghiên cứu thị trường, có báo cáo chi tiết về thị trường
IV.6. Cải tiến cơ chế quản lý xuất khẩu
Để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả đề ra, cần tập trung vào giải quyết các vấn đề sau:
* Xoá bỏ cơ chế “ xin – cho” trong cấp hạn ngạch xuất khẩu đối với các nông sản quản lý bằng hạn ngạch
* Đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu nông sản
* Tiếp tục khuyến khích các thành phầnkinh tế trực tiếp tham gia vào xuất khẩu nông sản
* Việt Nam nằm trong khu vực nông sản nhiệt đới chịu sức ép cạnh tranh của nhiều quốc gia. Trong xu thế hội nhập, chúng ta cần tiếp thu những kinh nghiệm của các nước có những mặt hàng giống nhau, đổi mới toàn diện sản xuất, chế biến tiêu dùng và xuất khẩu nông sản, đưa nông sản vào các thị trường có chiến lược tiếp thị. Gắn mục tiêu xuất khẩu nông sản trong chương trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
IV.7. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xoá bỏ các rào cản bất hợp lý đang cản trở hoạt động xuất khẩu.
1.Tiếp tục mở rộng chế độ miễn kiểm tra đối với hàng xuất khẩu
Kể từ ngày15/10/2001, Tổng cục Hải quan đã áp dụng thí điểm chế độ miễn kiểm tra đối với hàng xuất khẩu tại cảng Sài Gòn và cảng Hải Phòng. Mở rộng địa bàn và tăng thêm diện hàng hoá xuất khẩu được miễn kiểm tra Hải quan, trong đó, chú trọng những mặt hàng được coi là “đầu tàu tăng trưởng” như nông sản, thực phẩm chế biến, đIện tử và linh kiện…Bên cạnh đó, quy trình nghiệp vụ đối với hàng xuất khẩu được cảI thiện hơn nữa để đáp ứng nguyện vọng cơ bản của doanh nghiệp là có thể xuất hàng vào bất cứ thời điểm nào trong ngày.
2. Sự ổn định của biểu thuế
Nhiều doanh nghiệp nhận xét, biểu thuế xuất nhập khẩu hiện nay thay đổi quá thường xuyên khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tính toán hiệu quả kinh doanh. Theo Bộ thương mại, do nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi nên rất khó tránh khỏi việc phải có những thay đổi thường xuyên về thuế suất nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hộ của ngành hàng mới. Tuy nhiên Bộ Thương Mại đề nghị Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài Chính phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan, trên cơ sở chiến lược phát triển của các ngành, kết hợp với các cam kết của ta trong tiến trình hội nhập, nghiên cứu ban hành một biểu thuế tương đối ổn định cho thời kỳ 2002-2005. Ngoài ra, khi tăng thuế, nên có thời gian đệm từ 1-2 tháng cho các doanh nghiệp chuẩn bị và kịp hoàn tất các thương vụ đã lên kế hoạch kinh doanh. Việc tăng thuế không nên có hiệu lực thi hành ngay hoặc chỉ sau 15 ngày như hiện nay, khiến doanh nghiệp rất lúng túng.
Nhanh chóng ban hành các chú giải biểu thuế để tránh tranh chấp trong việc áp mã tính thuế.
3. Chính sách thuế
Còn rất nhiều bàn cãi xung quanh cách tính thuế VAT của Việt Nam, cùng một mặt hàng nhưng có khi bị tính thuế nhiều lần, để tránh sự trùng lắp cần có sự sửa đổi, hoàn thiện chính sách thuế từ các cấp ban ngành có thẩm quyền, tránh thiệt hại cho người tiêu dùng, các doanh nghiệp tham gia tạo nguồn xuất khẩu.
Nghị định 79/2000/NĐ- CP ngày 29/12/2000 đã quy định chi tiết thi hành luật thuế giá trị gia tăng, phương pháp tính thuế giá trị gia tăng theo cách khấu trừ thuế được tính như sau:
Số thuế giá trị gia tăng phải nộp
=
Thuế VAT đầu ra
–
Thuế VAT đầu vào được khấu trừ
Trong đó:
Thuế VAT đầu ra = Giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra * Thuế suất VAT của hàng hoá dịch vụ đó.
Thuế VAT đầu vào = Tổng số thuế VAT ghi trên hoá đơn VAT mua hàng hoá, dịch vụ.
Với các trường hợp khi mua hàng hoá đã được tính thuế đầu vào thì khi áp dụng thuế giá trị gia tăng thì được hoàn trả lại thuế đầu vào. Trong trường hợp cơ sở sản xuất, chế biến mua nông sản chưa qua chế biến của người sản xuất mà không có hoá đơn VAT sẽ được tính khấu trừ thuế VAT đầu vào theo tỷ lệ % tính trên giá trị hàng hoá mua vào. Nhưng việc khấu trừ thuế không được áp dụng đối với các cơ sở mua để sản xuất hàng xuất khẩu và kinh doanh thương nghiệp. Do sự quản lý không đủ chặt chẽ của các cơ quan thuế cũng như sở của luật thuế cho nên có nhiều doanh nghiệp, cá nhân tham gia kinh doanh không thực hiện đúng những thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế, lập sổ kế toán và giữ chứng từ, hoá đơn liên quan đến việc tính thuế đã gây khó khăn cho các cơ quan tính thuế. Ngoài ra, còn rất nhiều cơ quan cố tình nộp chậm hoặc không nộp thuế, tình trạng khai man ( khi tăng thuế đầu vào để được khấu trừ), trốn thuế (buôn lậu) thường xuyên xảy ra gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
Chính vì vậy, để hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất khẩu thực sự có hiệu quả, các cơ quan, ban ngành có thẩm quyền cần nhanh chóng hoàn thiệt chế độ tính thuế và áp thuế cho phù hợp. Với mọi loại thuế gián thu, kể cả thuế nhập khẩu phảI được hoàn lại cho tất cả các doanh nghiệp tham gia cung ứng nguyên liệu, phụ liệu đầu vào cho xuất khẩu, các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu được ưu tiên hoàn nhanh thuế VAT đã nộp ở khâu đầu vào không qua 20 ngày kể từ khi doanh nghiệp hoàn tất thủ tục hải quan về xuất khẩu. Việc tính thuế nhập khẩu cần thể hiện sự khuyến khích cho cả các công cụ và dụng cụ sản xuất hàng xuất khẩu.
IV.8. Đào tạo cán bộ và chính sách khoa học công nghệ
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, khoa học công nghệ đãđóng góp tới 30 – 40% tăng trưởng sản lượng nông nghiệp trong thời gian vừa qua và ngày càng khẳng định rõ vai trò, vị trí quan trọng, là động lực trực tiếp của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp
Trong thời gian tới “ chính sách khoa học công nghệ” trong nông nghiệp cần tạo ra bước chuyển biến mới để đáp ứng nhu cầu của chiến lược cạnh tranh nông sản trên thị trường
Tập trung đầu tư cho khoa học công nghệ cơ bản và ứng dụng, thực hiện các chương trình nghiên cứu giống (lai tạo, chọn lọc, nhập nôi,) quốc gia, tạo một bước có tính “ đột phá” về năng suất, chất lượng, phát triển công nghệ sau thu hoạch, nghiên cứu kinh tế, thị trường
Có cơ chế chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất theo các lĩnh vực ưu tiên
Tăng cường công tác khuyến nông, đưa nhanh và trực tiếp đến người sản xuất (hộ nông dân)
Kiện toàn và sắp xếp hệ thống công nghệ khoa học để phát huy sức mạnh trí tuệ của các đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật. Tăng cường đầu tư trang bị và cơ sở vật chất cho nghiên cứu khoa học
Đổi mới công tác quản lý khoa học, tiến tới thực hiện cơ chế đấu thầu trong các đề tài nghiên cứu
Có quy hoạch vàkinh phí đào tạo đội ngũ nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước
IV.9. Đẩy mạnh đầu tư và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ
Trước mắt cũng như lâu dài cần tập trung cho công tác nghiên cứu lai tạo giống, tạo ra những giống có năng suất, chất lượng cao phục vụ chế biến và xuất khẩu
Đối với lúa, hiện nay đã đưa vào sản xuất trên 100 giống lúa mới khác nhau và được gieo trồng tới 80 – 90% diện tích gieo trồng lúa của cả nước, đã góp phần đáng kể làm tăng sản lượng lương thực. Việc lựa chọn cơ cấu thích nghi trên các vùng sinh thái là cần thiết, song do yêu cầu thị trường gạo thế giới là hạt dài, trừ Nhật bản mua hạt tròn nhưng không nhiều, do vậy cần tăng cường công tác nghiên cứu về giống để có giống đáp ứng xuất khẩu theo tiêu chuẩn (chiều dài hạt gạo + 7mm; chiều dài/chiều rộng >3; gạo trong, nấm (điểm) bạc bụng cho phép 0 –1mm ) để nâng cao sức cạnh tranh về gạo trên thị trường
Đối với cà phê, do chất lượng hiện nay không đồng đều, cần thực hiện chương trình lai ghép cải tạo rộng lớn trong sản xuất, thay thế cơ bản diện tích số cây cho năng suất thấp quá nhỏ và bệnh rỉ sắt bằng cây đầu dòng đã được đánh giá tốt, bên cạnh đó nghiên cứu tạo giống cà phê chè và giống lai mới có chất lượng để tăng giá trị trên thị trường và chất lượng cà phê tạo sức cạnh tranh trên thị trường.
Đối với cao su, những giống mới đưa vào từ năm 1994 trở lại đây, nhất là giống lai tạo trong nước, tỏ ra có tiềm năng năng suất cần được tiếp tục và phát triển. Vấn đề quan trọng là cải tạo các vườn cao su già cần được thanh lọc giống, cây kém chất lượng đồng thời tuyển chọn giống cao su cho các vùng mới.
Tóm lại: Việt Nam có nhiều lợi thế và tiềm năng về sản xuất một số nông sản xuất khẩu có giá trị, trên qui mô lớn và có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới nhờ có những lợi thế so sánh vốn có. Song để khai thác có hiệu quả, đòi hỏi phải áp dụng đồng bộ các giải pháp kinh tế – tổ chức – kỹ thuật đặc biệt trong điều kiện có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt đang đặt ra cho sản xuất những vấn đề có tính thách thức lớn. Do vậy một mặt đòi hỏi phải có sự quan tâm đồng bộ về nhiều mặt của Nhà nước để tạo dựng cho ngành xuất khẩu nông sản có vị thế và sức mạnh.
V. Một số kiến nghị với Nhà nước.
Hiện nay nhóm hàng nông, lâm thuỷ sản đang chiếm gần 25 % kim ngạch xuất khẩu với những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, chè, đIều, rau quả, thuỷ sản (trừ mặt hàng chè) còn lạI tất cả đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm. Nhưng mấy năm gần đây do bão hoà về cung cầu thị trường trên thế giới, do chất lượng, số lượng nông sản xuất khẩu của Việt Nam còn nhiều hạn chế nên giá cả các mặt hàng này rất bấp bênh, do đó đề nghị Nhà nước sớm đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục những hạn chế kể trên.
Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là những bộ luật về kinh tế từ đó tạo môi trường pháp lý đồng bộ để các doanh nghiệp làm căn cứ xây dựng các kế hoạch sản xuất.
Duy trì ổn định các chính sách kinh tế, tránh gây biến động về môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh .
Nhà nước cần đẩy mạnh đàm phán thương mại song phương và đa phương để mở thị trường mới, tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và nới lỏng các hàng rào phi thuế quan.
Nhà nước cần tiếp tục tạo môi trường đầu tư thuận lợi để tranh thủ đầu tư với nước ngoài- một nhân tố quan trọng đảm bảo gia tăng xuất khẩu.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động ở thị trường nước ngoài, Nhà nước xoá bỏ các thủ tục cấp giấy phép thành lập Văn phòng đại diện tại nước ngoài và đơn giản hoá các thủ tục mở tài khoản để phục vụ giao dịch trên thị trường.
Đối với những mặt hàng mà Việt Nam giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (gạo, cà phê, hạt tiêu..) tăng cường áp dụng các biện pháp như thông tin, chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia các kế hoạch và điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể…để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi.
Tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển các quan hệ quốc tế. Trong môi trường kinh doanh hiện đại, phát triển quan hệ quốc tế là rất cần thiết, nó cho phép doanh nghiệp và nền kinh tế tận dụng được lợi thế so sánh của mình để phát triển. Hơn thế nữa, đối với một nền kinh tế đang phát triển và có thể nói còn lạc hậu như nước ta, hội nhập và phát triển quan hệ quốc tế còn là cơ hội để chúng ta học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển quan hệ quốc tế, nhà nước cần:
Mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trên thế giới.
Hoàn thiện hệ thống luật pháp, đặc biệt là các điều luật có liên quan đến yếu tố nước ngoài.
Tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp xúc với các bạn hàng nước ngoài.
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài tham quan học hỏi kinh nghiệm.
Tổ chức các hội chợ quốc tế tại Việt Nam và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ quốc tế khác.
Đơn giản hoá thủ tục hải quan để các doanh nghiệp dễ dàng quan hệ với các bạn hàng nước ngoài.
Nhà nước cần nghiên cứu các hình thức bảo hiểm cho các loại cây trồng, hình thành quỹ bảo hiểm cho từng ngành sản phẩm. Trước mặt cần thành lập các quỹ bảo hiểm nông sản: Lúa, cà phê, cao su…quỹ này dùng để can thiệp thị trường khi giá cả thị trường đột biến xuống dưới giá sàn, định hướng và giúp đỡ sản xuất trong những trường hợp đặc biệt khó khăn do thiên tai. Quỹ này được trích từ phần thuế xuất khẩu và các khoản thu, đóng góp khác đối với từng loại nông sản.
Tiếp tục triển khai các quy định giá tối thiểu cho các loại nông sản xuất khẩu chủ yếu.
Kết luận
Trên cơ sở phân tích các vấn đề chung về tình hình triển vọng thị trường nông sản thế giới, cũng như thực trạng và triển vọng phát triển sản xuất và khả năng xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt nam, đề tài đã đặt ra những luận cứ để nhìn nhận một cách khoa học và nghiêm túc những cơ hội tiềm năng cũng như thách thức cần tháo gỡ trong con đường phát triển tiến tới hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Trong khuôn khổ đề tài, dựa trên các nguồn thông tin, số liệu khác nhau đề tài nghiên cứu: "Giải pháp và các kiến nghị chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt nam" đã tiến hành phân tích, luận giải các vấn đề thuộc nhà nội dung nghiên cứu, nhằm đưa ra các kết luận, nhận định cần thiết góp phần vào thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.
Việt Nam tuy có lợi thế về tiềm năng đối với một số nông sản xuất khẩu có giá trị cao. Song để khai thác có hiệu quả đòi hỏi phải áp dụng đồng bộ các giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật, đặc biệt trong sự cạnh tranh gay gắt của quá trình hội nhập. Đề tài đã tổng hợp một cách hệ thống và cập nhật các thông tin, phân tích thị trường, kim ngạch và số lượng nông sản xuất khẩu để từ đó nêu lên các biện pháp chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu. Vấn đề chuyên đề đưa ra không phải là mới nhưng mong muốn góp phần tăng thêm những nhận định để chúng ta có thể đạt được một kết quả tốt hơn trong xuất khẩu. Hy vọng rằng Việt Nam với lợi thế của mình và định hướng phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng trong những năm tới sẽ thúc đẩy các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam, không những phong phú về chủng loại, chất lượng tốt, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng mà còn tạo nên "sức lan toả" mạnh mẽ của sản phẩm nông nghiệp Việt nam trên thị trường nông sản thế giới.
Trong quá trình nghiên cứu, em đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của thầy giáo PGS.TS Đặng Đình Đào và cô Trần Thị Bích Lộc- Phó vụ trưởng Vụ Kế hoạch Thống kê - Bộ Thương Mại. Một lần nữa em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sự giúp đỡ quý báu đó.
Danh mục tài liệu tham khảo
Sách:
1. Giáo trình kinh tế thương mại : PGS. TS Đặng Đình Đào
2. Giáo trình thương mại Quốc tế : PGS TS Nguyến Duy Bột
3. Giáo trình Marketing thương mại : TS Nguyễn Xuân Quang.
4.Giáo trình kinh tế ngoại thương : PGS TS Nguyến Duy Bột
5. Giáo trình QTDNTM : PGS TS Nguyễn Thừa Lộc
6. Giáo trình QTDNXK : PSG TS Nguyễn Chí Thành.
II. Báo, Tạp chí
Tạp chí Kinh tế phát triển
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế
Tạp chí Kinh tế thương mại
Tạp chí Kinh tế ngoại thưong
Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt nam
Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới
Tạp chí Con số và sự kiện
Tạp chí Thời báo kinh tế
Báo Kinh tế thương mại, Lao động...
III. Các tài liệu khác từ Bộ thương mại
1. Báo cáo hàng năm của Bộ thương mại
2. Báo cáo tình hình tổng kết thương mại 2001, phương hướng nhiệm vụ năm 2002.
3. Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu 2001-2010
4. Phác thảo phương hướng phát triển ngành thương mại trong thập kỷ tới 2001-2010
5. Cục diện kinh tế thế giới
Ngoài ra còn nhiều tài liệu tham khảo có liên quan khác: Chuyên đề thực tập, một số các Nghị quyết, Nghị định, Quyết định...
Phụ lục 1.
Công thức tính:
Hệ số chi phí tài nguyên nội địa DRC (Dommestic resource cost coeffcient)
n
ồ Aij pj
j = k+1
DCRi =
n
Pib - ồ Aij pj
j = k+1
Trong đó:
Ai j : là hệ số chi phí đầu vào j đối với sản phẩm i
J = 1,…, k là đầu vào khả thương
J = k + 1, …, n là nguồn lực nội địa và các đầu vào trung gian bất khả thương
Pj là giá kinh tế của các nguồn lực nội địa và các đầu vào trung gian bất khả thương
Pib: là giá biên giới của sản phẩm khả thương tính theo tỉ giá hối đoái kinh tê
Pjb: làgiá biên giới của các đầu vào khả thương tính theo tỉ giá hối đoái kinh tế
Nếu DRC 1 thì sản xuất sản phẩm đó trong nước để xuất khẩu là không có hiệu quả. Chỉ tiêu này nói lên ý nghĩa về mặt hiệu quả giữa chi phí về nguồn lực nội địa với giá trị ròng thu được qua xuất khẩu. (Ví dụ DCR gạo = 0,49, nghĩa là để tạo ra 1$ từ xuất khẩu gạo, phải huy động nguồn nội lực tương ứng là 0,49$)
Phụ lục 2
Sơ đồ chế biến gạo xuất khẩu
Ruộng lúa
Sơ chế
( phơi sấy)
Kho
Lúa nguyên liệu
Làmsạch lúa
Bóc vỏ trấu
Tách lúa gạo
Chà trắng (xay)
Đánh bóng
Sàng
Phân loại
Thùng chứa
Thùng chứa
Thùng chứa
Gạo nguyên
Gạo vỡ
Tấm
Pha trộn
Đóng bao
Kho
Bao đay
Xuất khẩu
Cát, sạn, hạt cỏ, rơm
Xử lý điều chỉnh độ ẩm (sấy)
Vỏ trấu
Lúa
Cám
Gạo vỡ
Cám
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0369.doc