lời mở đầu
Thương mại quốc tế đã được khẳng định cả về mặt lý luận và thực tiễn, là một trong những yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế, đóng một vai trò quan trọng vào sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hoá các quan hệ kinh tế, mọi quốc gia muốn phát triển nhanh và bền vững đều phải tham gia vào
55 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biện pháp thúc đẩy Xuất khẩu hàng hoá trong nền Kinh tế thị trường (ngành hàng thuỷ sản), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quá trình phân công lao động quốc tế một cách có hiệu quả dựa vào lợi thế so sánh của mỗi nước.
Trong điều kiện nền kinh tế của nước ta hiện nay cần khẳng định một cách nhất quán: Chiến lược hướng xuất khẩu là định hướng phát triển kinh tế chủ yếu và được coi là quốc sách hàng đầu. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh: "Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào các nguồn lực trong nước là chính đi đôi tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả". Sự phát triển mạnh của xuất khẩu sẽ góp phần giải quyết những nhiệm vụ kinh tế quan trọng. Trước hết có thể thấy xuất khẩu sẽ mang lại nguồn thu nhập ngoại tệ to lớn cho đất nước, góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán, tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Bên cạnh đó xuất khẩu tạo ra khả năng thay đổi cơ cấu kinh tế một cách năng động kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển; tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Cùng với sự phát triển của đất nước, cơ cấu hàng xuất khẩu đã có nhiều thay đổi, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã được mở rộng. Thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Với những lợi thế về địa lý và tài nguyên thiên nhiên mà thuỷ sản Việt Nam đã trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn và thế mạnh của nước ta.
Nhận thức được sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu, cũng như trước đòi hỏi thực tế và việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu; cùng với những kiến thức được trang bị tại nhà trường và nghiên cứu những tài liệu tham khảo tại thư viện nhà trường - Đại học Kinh tế quốc dân, em mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu:
"Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường (lấy ngành hàng thuỷ sản làm ví dụ)"
Đề tài này nhằm mục đích trình bày những vấn đề cốt lõi của nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu, những lợi ích nó mang lại cho nền kinh tế quốc dân và thực trạng của hoạt động xuất khẩu của nước ta; từ đó đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường.
Đây là một đề tài rộng và phức tạp, lại do những hạn chế về trình độ cũng như thời gian nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.
Đề tài này được hoàn thành dưới sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS. TS. Đặng Đình Đào.
Xin chân thành cảm ơn !
Hà nội, tháng 12 năm 1999
Sinh viên: Nguyễn Thị Kim Liên
phần I
Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường
I-/ Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường:
1-/ Tính tất yếu khách quan của Thương mại quốc tế:
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế (TMQT) là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Ngày nay, khi quá trình phân công lao động quốc tế đang diễn ra hết sức sâu sắc thì TMQT đã trở thành một quy luật tất yếu khách quan và được xem như là một điều kiện, tiền đề cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Thực tế cho thấy, không một quốc gia nào có thể tồn tại chứ chưa nói gì đến phát triển nếu tự cô lập mình không quan hệ kinh tế với thế giới. TMQT đã trở thành vấn đề sống còn vì nó cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức tiêu dùng của dân cư một quốc gia. Bí quyết thành công trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều nước là mở rộng thị trường quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến có hàm lượng kỹ thuật cao.
Theo quy luật lợi thế so sánh, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào TMQT để tạo ra lợi ích của mình. Những lợi ích mà TMQT đem lại đã làm cho thương mại và thị trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nguồn tiết kiệm nước ngoài, là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ. TMQT vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nước khác trên thế giới, vừa là nguồn hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội văn minh hơn, thịnh vượng hơn. Chính vì vậy, nó được coi là "bộ phận của đời sống hàng ngày"(1) Kinh tế học tập II - Trang 322 - David Begg - NXB KHKT 1992
.
2-/ Xuất khẩu - hướng phát triển chung của kinh tế thế giới và Việt Nam:
Ngay từ thế kỷ 17-18, các nhà kinh tế học AĐam Smith, David Ricado đã cho rằng: các quốc gia có lợi thế so sánh lớn hơn hay kém hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất sản phẩm vẫn có lợi khi tham gia vào phân công lao động và TMQT. Bởi vì nó cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của quốc gia đó khi chuyên môn hoá một số sản phẩm nhất định có lợi thế hơn, xuất khẩu sản phẩm đó và nhập khẩu những sản phẩm khác mà sản xuất trong nước có lợi thế kém hơn hoặc không sản xuất được.
Hội nhập với kinh tế trong khu vực và trên thế giới là yêu cầu tất yếu, khách quan của sự phát triển kinh tế của từng nước cũng như toàn thế giới. Ngày nay, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá đã và đang trở thành hiện thực, phát triển mạnh mẽ trên thế giới, đa số các quốc gia có chiến lược phát triển kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu.
Đối với các nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố thuộc tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những nhân tố thiếu và còn yếu là vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược "hướng vào xuất khẩu" về thực chất là giải pháp "mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với những tiềm năng bên trong về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho đất nước, góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước trên thế giới". Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh thế giới có nhiều thuận lợi. Các tổ chức kinh tế - thương mại khu vực đã ra đời và đang hoạt động có hiệu quả, Đảng và Nhà nước ta đã gia nhập vào ASEAN, AFTA và đang trong quá trình hội nhập vào WTO...
Bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá yêu cầu phải nâng cao chất lượng của sự tăng trưởng kinh tế. Chúng ta là nước đi sau, việc học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước, áp dụng vào những điều kiện thực tế của Việt Nam và hoàn cảnh quốc tế hiện nay nhằm sử dụng tốt nhất mọi cơ hội quốc tế để phát triển kinh tế đất nước theo mục tiêu đã định là cần thiết. Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá để tạo điều kiện thuận lợi để nước ta hoà nhập vào sự phát triển chung của thế giới, sử dụng tốt những lợi thế của đất nước và thông qua quan hệ trao đổi để bù đắp những sự thiếu hụt, yếu kém để trở thành nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá hoàn chỉnh.
3-/ Vai trò của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân:
Xuất khẩu (XK) hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của Nhà nước.
Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực kinh doanh này. Chính vì vậy, nó có vai trò to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, thể hiện:
3.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:
Xuất khẩu sẽ mang lại nguồn thu nhập ngoại tệ to lớn cho đất nước, góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ. Để thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước hết chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc, trang thiết bị hiện đại từ bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài; vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu chính là xuất khẩu.
3.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Sự phát triển các ngành công nghiệp XK tác động đến các ngành công nghiệp cung cấp đầu vào cho các ngành sản xuất, tạo ra "mối liên hệ ngược" thúc đẩy sự phát triển của các ngành này. Bên cạnh đó khi tích luỹ của các ngành kinh tế được nâng cao thì sản phẩm thô sẽ tạo ra "mối liên hệ xuôi" là nguồn cung cấp đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến và mối quan hệ này tiếp tục được phát triển. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất ổn định và phát triển.
3.3. Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất:
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới, một thị trường mà ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Sự tồn tại và phát triển của hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả do đó phục thuộc rất lớn vào kỹ thuật, công nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải luôn luôn đổi mới, luôn luôn tìm tòi, sáng tạo để cải tiến, nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất. Mặt khác, xuất khẩu trong nền kinh tế cạnh tranh còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị sản xuất và kinh doanh, đòi hỏi phải nâng cao tay nghề người lao động.
3.4. Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân:
Thông qua hoạt động sản xuất hàng hoá xuất khẩu, với nhiều công đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động với thu nhập không thấp, tăng giá trị ngày công lao động, tăng thu nhập quốc dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
3.5. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta:
Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường quốc tế... xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế,... Mặt khác chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta vừa kể ở trên lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu.
Có thể nói, xuất khẩu không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trọng trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như: vốn, kỹ thuật, lao động, nguồn tiêu thụ thị trường,...
Tóm lại: thông qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng trao đổi, thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế các tiềm năng của đất nước và tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới.
II-/ Những hình thức và nội dung kinh doanh xuất khẩu chủ yếu:
1-/ Những hình thức kinh doanh xuất khẩu chủ yếu:
Theo thuật ngữ chung, TMQT là quá trình trao đổi mua bán hàng hoá và dịch vụ vượt ra khỏi biên giới một quốc gia để thiết lập quan hệ với nước khác. Thuật ngữ này nhấn mạnh đến tính khác biệt về giới hạn địa lý giữa các quốc gia. Ngày nay, TMQT đã phát triển ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực trên thế giới dưới các hình thức rất đa dạng và phong phú. Điều này đã dẫn đến một yêu cầu là phải đưa ra được một định nghĩa mới bao hàm được toàn bộ nội dung cũng như hình thức TMQT. Người ta đi đến thống nhất với nhau rằng, TMQT là lĩnh vực trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các chủ thể mang quốc tịch khác nhau, không phân biệt thời gian và địa điểm. Theo tư duy mới này, mọi hoạt động chuyển giao quyền sở hữu giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau với mục đích sinh lời đều được coi là hoạt động TMQT.
Xuất khẩu hàng hoá là một bộ phận rất quan trọng của TMQT. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay thì lĩnh vực hoạt động này được biểu hiện dưới nhiều hình thức rất khác nhau. Theo quy định của Nghị định 33 CP (19/4/1994) lĩnh vực kinh doanh này bao gồm các hình thức chủ yếu sau:
- Xuất khẩu hàng hoá dưới các hình thức trao đổi hàng hoá, hợp tác sản xuất và gia công quốc tế.
- Xuất khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ, vật tư, phụ tùng cho sản xuất.
- Chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất.
- Làm các dịch vụ như đại lý, nhận uỷ thác xuất khẩu cho các tổ chức kinh tế nước ngoài.
- Hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài hợp tác sản xuất và gia công quốc tế.
2-/ Nội dung của kinh doanh xuất khẩu hàng hoá:
Xuất khẩu là hoạt động hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Hoạt động xuất khẩu phải trải qua nhiều khâu ràng buộc lẫn nhau và đòi hỏi nhà kinh doanh phải hết sức thận trọng, linh hoạt để nắm bắt đượct hời cơ, giảm rủi ro và thu về lợi nhuận cao nhất. Tuỳ theo các loại hình xuất khẩu khác nhau mà số bước thực hiện cũng như cách thức tiến hành có những nét đặc trưng riêng. Song trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá trực tiếp thì nội dung cơ bản của xuất khẩu có thể được thực hiện bởi các vấn đề sau:
2.1. Nghiên cứu thị trường:
Nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu, hàng cung ứng, giá cả thị trường, qua đó giúp nhà kinh doanh giải quyết được các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh hàng hoá.
Nội dung chính của nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước là nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết thị trường. Nghiên cứu thị trường thường được tiến hành theo hai phương pháp chính là phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường. Thông thường nghiên cứu thị trường bao gồm các công việc sau:
Một là: nghiên cứu thị trường, bao gồm phân tích tình hình cung, cầu và những điều kiện của thị trường như quy chế pháp lý,...
Hai là: lựa chọn đối tác buôn bán, cần tìm hiểu quan điểm kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, khả năng vốn và cơ sở vật chất của đối tác,...
2.2. Lập phương án kinh doanh:
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Việc xây dựng phương án bao gồm: Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng hợp về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn, lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh, đề ra mục tiêu cụ thể, đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đề ra, và sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh.
2.3. Tạo nguồn hàng xuất khẩu:
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một công ty, một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và bảo đảm điều kiện xuất khẩu được, nghĩa là nguồn hàng xuất khẩu phải đảm bảo những yêu cầu về chất lượng quốc tế.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu và tiến độ giao hàng, đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh. Công tác thu mua tạo nguồn hàng có thể tiến hành qua các hình thức như: thu mua tạo nguồn hàng theo hợp đồng, không theo hợp đồng, thông qua liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất, qua đại lý,... Các công việc thực hiện như: Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu, tổ chức hệ thống thu mua, ký kết hợp đồng, xúc tiến, khai thác nguồn hàng, tiếp nhận, bảo quản và xuất kho giao hàng xuất khẩu.
2.4. Thanh toán trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá:
Thanh toán quốc tế là một khâu rất quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá. Hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh này một phần lớn nhờ vào chất lượng của việc thanh toán. Trong xuất khẩu hàng hoá, thanh toán phải xem xét đến các vấn đề sau đây: tỷ giá hối đoái, các điều kiện đảm bảo hối đoái, tiền tệ trong thanh toán quốc tế, thời hạn trong thanh toán, các phương thức và hình thức thanh toán quốc tế.
2.5. Giao dịch - đàm phán - ký kết hợp đồng xuất khẩu:
2.5.1. Các hình thức giao dịch:
Trên thị trường thế giới tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức giao dịch có những đặc điểm riêng với kỹ thuật giao dịch riêng. Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và năng lực của người tiến hành giao dịch, mà doanh nghiệp chọn phương thức giao dịch phù hợp. Thông thường có các hình thức giao dịch sau: giao dịch trực tiếp, giao dịch qua thư tín, giao dịch qua điện thoại.
2.5.2. Đàm phán và nghệ thuật đàm phán:
Đàm phán trong kinh doanh bất kỳ một loại hình nào, đều là một nghệ thuật. Trong kinh doanh TMQT, các chủ thể đàm phán từ các quốc gia khác nhau, với ngôn ngữ và tập quán trong kinh doanh cũng khác nhau làm cho việc đàm phán phức tạp hơn. Quá trình đàm phán về các điều kiện của hợp đồng ngoại thương là cơ sở để đi đến ký kết hợp đồng. Bên cạnh đó, những tranh chấp trong TMQT đòi hỏi chi phí cao,... Chính vì vậy, đàm phán kinh doanh xuất nhập khẩu càng đòi hỏi phải tinh tế, khéo léo.
2.5.3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá:
Đối với quan hệ mua bán hàng hoá, sau khi các bên mua và bán tiến hành giao dịch và đàm phán có kết quả thì phải thực hiện lập và ký kết hợp đồng.
Hợp đồng thể hiện bằng văn bản là hình thức bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu ở nước ta. Đây là hình thức tốt nhất để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Hợp đồng xác nhận trách nhiệm rõ ràng của bên mua và bên bán tránh được những biểu hiện không đồng nhất trong ngôn từ hay quan niệm. Trước khi ký kết bất kỳ một hợp đồng kinh doanh xuất khẩu nào, nhà xuất khẩu cần lưu ý đến các khía cạnh dưới đây:
Thứ nhất là tính hợp pháp của hợp đồng xuất khẩu, thể hiện: Người ký hợp đồng phải có năng lực hành vi, chủ thể của hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện, nội dung của hợp đồng phải hợp pháp,...
Thứ hai là nội dung các điều khoản của hợp đồng. Một hợp đồng ngoại thương thông thường gồm có các điều khoản như: điều khoản tên hàng, điều khoản về phẩm chất, điều khoản về số lượng, điều khoản giao hàng, điều khoản giá cả, điều kiện cơ sở giao hàng, điều khoản thanh toán, điều khoản bao bì, ký mã hiệu, điều khoản bảo hành, phạt, bồi thường thiệt hại, điều khoản bảo hiểm, điều khoản về bất khả kháng, điều khoản về xử lý và giải quyết tranh chấp và các điều khoản khác như: lệ phí, thuế quan,...
2.6. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu:
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu là một quá trình có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh xuất khẩu, đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và các mối quan hệ với bạn hàng ở các nước. Bất kỳ một sai sót nào xảy ra trong quá trình thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đều có thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc như làm chậm tiến độ hợp đồng, suy giảm chất lượng hàng hoá,... dẫn đến những tranh chấp khiếu nại rất khó giải quyết, gây tổn thất về mặt kinh tế. Vì vậy tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi phải tiến hành chu đáo, có bài bản trên cơ sở tiết kiệm tối đa các khâu chi phí, nhằm nâng cao lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Nội dung trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu như sau:
1. Kiểm tra L/C.
2. Xin giấy phép xuất khẩu (nếu có).
3. Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu.
4. Thuê tàu và mua bảo hiểm cho hàng hoá (nếu được quyền).
5. Làm thủ tục hải quan.
6. Giao hàng lên tàu.
7. Làm thủ tục thanh toán.
8. Khiếu nại, trọng tài (nếu có).
III-/ Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá.
A-/ Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp:
Mỗi một chủ thể hoạt động trong xã hội đều chịu sự chi phối nhất định các môi trường bao quanh nó. Đó là tổng hợp các yếu tố có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp qua lại lẫn nhau. Chính những nhân tố này quy định xu hướng và trạng thái hành động của chủ thể. Trong kinh doanh TMQT, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu phải chịu sự chi phối của các nhân tố bên trong lẫn nhân tố bên ngoài nước. Các nhân tố này thường xuyên biến đổi, và vì vậy làm cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu ngày càng phức tạp hơn. Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh đòi hỏi các nhà kinh doanh phải nắm bắt và phân tích được ảnh hưởng của từng nhân tố cá biệt tới hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ cụ thể.
1-/ Nhân tố kinh tế - xã hội trong nước:
1.1. Trạng thái của nền kinh tế trong nước:
a-/ Dung lượng sản xuất:
Dung lượng sản xuất thể hiện số lượng đầu mối tham gia vào sản xuất hàng xuất khẩu và với số lượng sản xuất lớn thì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu trong công tác tạo nguồn hàng; song cũng trong thuận lợi đó, doanh nghiệp có thể phải đương đầu với tính cạnh tranh cao hơn trong việc tìm bạn hàng xuất khẩu và nguy cơ phá giá hàng hoá bán ra thị trường thế giới.
b-/ Tình hình nhân lực:
Một nước có nguồn nhân lực dồi dào là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước xúc tiến các mặt hàng xuất khẩu có sử dụng sức lao động. Nước ta nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ là điều kiện thuận lợi để xuất khẩu các sản phẩm sử dụng nhiều lao động như hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc, giày dép,... và nhận gia công xuất khẩu.
c-/ Nhân tố công nghệ:
Ngày nay, khoa học công nghệ tác động đến tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội và mang lại nhiều lợi ích, trong xuất khẩu nó cũng mang lại hiệu quả cao. Nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông, các doanh nghiệp ngoại thương có thể đàm thoại trực tiếp với khách hàng qua telex, điện tín, fax,... giảm bớt những chi phí đi lại, xúc tiến hoạt động xuất khẩu. Giúp các nhà kinh doanh nắm bắt các thông tin về diễn biến thị trường một cách chính xác, kịp thời. Bên cạnh đó, yếu tố công nghệ còn tác động tới quá trình sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu. Khoa học công nghệ còn tác động tới các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, các kỹ thuật nghiệp vụ trong ngành ngân hàng,... Đó cũng chính là các yếu tố tác động tới hoạt động xuất khẩu.
d-/ Cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng là yếu tố không thể thiếu nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Cơ sở hạ tầng bao gồm: đường sá, bến bãi, hệ thống vận tải, hệ thống thông tin, hệ thống ngân hàng,... có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu. Nếu các hệ thống nàylà hiện đại sẽ thúc đẩy hiệu quả xuất khẩu, ngược lại nó sẽ kìm hãm tiến trình xuất khẩu.
1.2. Các chính sách và quy định của Nhà nước:
Thông qua việc đề ra các chính sách và quy định, Nhàn ước thiết lập môi trường pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của các doanh nghiệp, nên nó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu. Chúng ta có thể xem xét tác động của các chính sách đó dưới các khía cạnh sau:
a-/ Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh tỷ lệ giữa giá trị của hai đồng tiền của hai nước với nhau.
Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Chế độ tỷ giá "cứng" có thể tác động tích cực đến tăng trưởng xuất khẩu một cách cụ bộ thông qua việc giảm giá đầu vào nhập khẩu của hàng xuất khẩu, song đây chỉ là tác động cục bộ. Tỷ giá hối đoái tác động đến giá cả từng mặt hàng xuất khẩu. Nếu tỷ giá hối đoái được xác định mang tính cạnh tranh cao (tỷ giá "mềm") thì các nhà xuất khẩu sẽ có lợi do bán được nhiều hàng hơn ra nước ngoài. Ngược lại, nếu đồng Việt Nam bị nâng giá thì hàng xuất khẩu lại trở nên quá đắt trong khi hàng nhập khẩu lại quá rẻ. Người ta đã rút ra một kết luận khá tổng quát rằng: bất cứ nước nào muốn thúc đẩy tăng trưởng chung bằng động lực xuất khẩu cũng đều phải thận trọng để tránh có một tỷ giá hối đoái bị nâng cao. Khi xem xét vấn đề tỷ giá, cần đặc biệt lưu tâm đến mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực tế. Tỷ giá hối đoái thực tế là tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh theo biến động của lạm phát. Tỷ giá hối đoái thực tế có thể chênh lệch khá nhiều so với tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Nếu tỷ giá hối đoái thực tế tăng so với tỷ giá hối đoái danh nghĩa thì các nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế, là nười bán theo mức giá cả quốc tế nằm ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Các nhà xuất khẩu các sản phẩm chế tạo có thể làm tăng giá cả xuất khẩu của họ để bù đắp lại chi phí nội địa cao hơn, nhưng kết quả khả năng chiếm lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ chỉ có thể giữ nguyên mức giá tính theo ngoại hối và lợi nhuận thấp. Nếu tình trạng ngược lại là tỷ giá hối đoái thực tế giảm so với tỷ giá hối đoái danh nghĩa, khi đó sẽ có lợi cho các nhà xuất khẩu.
b-/ Thuế quan và quota:
Khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước tại thị trường xuất khẩu cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của thuế xuất khẩu và quota. Thuế xuất khẩu có xu thế làm giảm xuất khẩu và do đó làm giảm nguồn ngoại tệ của đất nước. Còn quota là hình thức hạn chế về số lượng xuất khẩu có tác động một mặt làm giảm số đầu mối tham gia xuất khẩu trực tiếp, mặt khác tạo cơ hội thuận lợi cho những người xin được quota xuất khẩu.
c-/ Các chính sách khác của Nhà nước:
Các chính sách khác của Nhà nước như xây dựng các mặt hàng chủ lực, trực tiếp gia công xuất khẩu, đầu tư cho xuất khẩu, lập các khu chế xuất, các chính sách tín dụng xuất khẩu, chính sách trợ cấp xuất khẩu cũng góp phần to lớn tác động tới tình hình xuất khẩu của một quốc gia. Bên cạnh các chính sách trên, nhóm các chính sách hỗ trợ mang tính thể chế - tổ chức, các khung pháp lý và hệ thống hành chính cũng là một trong các nhân tố tác động trựng tiếp tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp...
2-/ Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý:
Nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những nhân tố quan trọng làm cơ sở cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất khẩu. Nó góp phần ảnh hưởng đến loại hàng, quy mô hàng xuất khẩu của quốc gia. Vị trí địa lý có vai trò như là nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế cũng như xuất khẩu của một quốc gia. Vị trí địa lý thuận lợi là điều kiện cho phép một quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế, hoặc thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ như du lịch, vận tải, ngân hàng,...
3-/ ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới:
Trong xu thế toàn cầu hoá thì phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng, vì vậy mà mỗi sự biến động của tình hình kinh tế xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh tế trong nước. Lĩnh vực hoạt động xuất khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể nước ngoài, chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính sách xuất khẩu, tình hình lạm phát, thất nghiệp hay tăng trưởng và suy thoái kinh tế... của các nước đều ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu ở nước ta.
B-/ Nhóm nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp:
1-/ Nhân tố bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính:
Là sự tác động trực tiếp của các cấp lãnh đạo xuống cán bộ công nhân viên nhằm mục đích buộc phải thực hiện một hoạt động. Để quản lý tập trung thống nhất phải sử dụng phương pháp hành chính. Việc thiết lập cơ cấu tổ chức của bộ máy doanh nghiệp cũng như cách thức điều hành của các cấp lãnh đạo là nhân tố quyết định tính hiệu quả trong kinh doanh. Nếu một doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức hợp lý, cách điều hành sáng suốt sẽ góp phần thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh doanh, ngược lại nếu cơ cấu tổ chức không hợp lý, không thống nhất, cách điều hành kém sẽ dẫn đến hiệu quả thấp trong hoạt động kinh doanh.
2-/ Nhân tố con người:
Con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá đặc biệt phải nhấn mạnh đến yếu tố con người bởi vì nó là chủ thể sáng tạo và trực tiếp điều hành các hoạt động, ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện qua hai chỉ tiêu chủ yếu nhất, đó là tinh thần làm việc và năng lực công tác. Tinh thần làm việc được biểu hiện bởi bầu không khí trong doanh nghiệp, tinh thần đoàn kết và ý chí phấn đấu cho mục tiêu chung. Năng lực của nhân viên lại biểu hiện qua kỹ năng điều hành, công tác các nghiệp vụ cụ thể và qua kết quả của hoạt động. Để nâng cao vai trò của con người, các doanh nghiệp một mặt phải chú trọng đào tạo cán bộ, công nhân viên, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ của họ, mặt khác phải quan tâm thích đáng đến lợi ích cá nhân, bao gồm cả lợi ích vật chất lẫn tinh thần.
3-/ Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp:
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ngoại thương phụ thuộc rất lớn vào hệ thống mạng lưới kinh doanh của nó. Một mạng lưới kinh doanh rộng lớn, với các điểm kinh doanh được bố trí hợp lý là điều kiện để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động như tạo nguồn hàng, vận chuyển, làm đại lý xuất khẩu,... một cách thuận tiện hơn và do đó góp phần nâng cao hơn hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. Nếu mạng lưới kinh doanh là quá thiếu hoặc bố trí ở các điểm không hợp lý sẽ gây cản trở cho hoạt động kinh doanh, làm triệt tiêu tính năng động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
4-/ Khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp:
Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp như vốn cố định bao gồm các máy móc, thiết bị chế biến, hệ thống kho hàng, hệ thống phương tiện vận tải, các điểm thu mua hàng, các đại lý, chi nhánh và trang thiết bị của nó cùng với vốn lưu động là cơ sở cho hoạt động kinh doanh. Các khả năng này quy định quy mô, tính chất của lĩnh vực h._.oạt động xuất khẩu, và vì vậy cũng góp phần quyết định đến hiệu quả kinh doanh.
phần II
phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân
I-/ Tình hình xuất khẩu ở nước ta:
1-/ Kim ngạch xuất khẩu:
Từ năm 1986 đến nay, dưới sự khởi xướng của Đảng và Nhà nước, con đường đổi mới ở Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu đáng kể, nền kinh tế đã đi vào thế ổn định và đang phát triển đi lên, quan hệ quốc tế được mở rộng. Trong giai đoạn này, kim ngạch xuất khẩu cũng không ngừng gia tăng, đóng góp một phần đáng kể cho GDP. Với chính sách hướng về xuất khẩu, xuất khẩu đã và đang trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn (1986 - 1999)
Đơn vị: triệu USD
Năm
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
ồ kim ngạch
677,8
723,9
833,5
1524
1815
2082
2475
3000
3600
5500
7100
8700
9352
11000
% tăng
6,8
15,1
82,9
19,0
14,7
18,9
21,2
20,0
52,8
29,0
22,5
7,5
17,5
Nguồn: Niên giám thống kê 1997 + 1998 và dự báo năm 1999
Trong giai đoạn này, kim ngạch xuất khẩu đã tăng liên tục từ 20-30% một năm. Năm 1996, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 0,6778 tỷ USD thì đến năm 1998 giá trị xuất khẩu đã đạt trên 9,352 tỷ USD, tăng hơn 13,8 lần. Dự báo kim ngạch xuất khẩu năm 1999 là 11 tỷ USD tăng 17,5% so với năm 1998 vượt 10,5% kế hoạch; trong đó: Doanh nghiệp Việt Nam là 8,55 tỷ USD chiếm 77,7%, tăng 15,8%. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 2,55 tỷ USD, chiếm 22,3%, tăng 23,6%.
Riêng năm 1989 xuất khẩu tăng 82,9% so với năm 1998, là năm có tốc độ tăng cao nhất, năm 1998 mặc dù không nằm trong trung tâm cơn bão tài chính tiền tệ khu vực nhưng ảnh hưởng rất nặng nề đến Việt Nam, đó là kim ngạch ngoại thương giảm đột ngột xuống còn 7,5% so với năm 1997. Do trong kim ngạch ngoại thương Việt Nam có tới trên 60% là giao dịch với các nước Châu á và 70% vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) cũng bắt nguồn từ đấy. Những khó khăn của Nhật Bản, Hàn Quốc cũng là nguyên nhân chính bên ngoài làm kim ngạch ngoại thương Việt Nam giảm đột ngột. Sự phá giá mạnh của đồng tiền trong khu vực tạo nên sức ép cạnh tranh lớn trong ngoại thương và trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
2-/ Cơ cấu hàng xuất khẩu:
Thời kỳ từ năm 1986 đến 1999, cơ cấu hàng xuất khẩu đã có nhiều thay đổi, nhiều mặt hàng giá trị đã được nâng cao thông qua chế biến, xuất khẩu từ chỗ chỉ trông vào nguồn nông, lâm, thuỷ sản và tài nguyên thiên nhiên đã chuyển dịch tăng dần hàng chế biến công nghiệp.
Bảng 2: Cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn (1991 - 1999)
(Đơn vị: %)
Cơ cấu xuất khẩu
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Nông - lâm - thuỷ sản
53
49,5
48,4
48,0
2,9
2,5
36,5
37
37,3
Công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
14
13,4
17,6
23,2
22,5
29,4
36,6
38,7
38,2
Công nghiệp nặng, khoáng sản
33
37,1
34,0
28,4
28,5
25,3
26,9
24,3
24,5
Cơ cấu hàng xuất khẩu năm 1997: Nhóm hàng nông lâm thuỷ sản đạt giá trị xuất khẩu là 3.247 triệu USD chiếm 36,5%, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 3.259 triệu USD chiếm 36,6%, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu là 2.399 triệu USD, chiếm 26,9%. Cơ cấu xuất khẩu năm 1998: Nhóm nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,45 tỷ USD chiếm 37% (tăng 0,6% so với năm 1997), nhóm công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp đạt 3,65 tỷ USD chiếm 38,7% tăng 6,2% so với năm 1997, nhóm công nghiệp nặng và khoáng sản đạt 2,25 tỷ USD chiếm 24,3% giảm 6,4% so với năm 1997. Điểm đáng chú ý là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia xuất khẩu khối lượng hàng hoá đạt giá trị kim ngạch 1.500 triệu USD chiếm tỷ trọng 16,8% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Và năm 1999 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 2,45 tỷ USD chiếm tỷ trọng 23,3%, tăng 23,6% so với năm 1998. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự chuyển biến tích cực, hàng qua chế biến chiếm trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu: năm 1991 tỷ trọng hàng chế biến chỉ chiếm 8,5% và năm 1994 chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu; năm 1996 lên gần 30%, riêng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 70%, năm 1997 là 27%, năm 1998 là 28% và năm 1999 là 31%...
Thời kỳ 1991-1997, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới được hình thành, tốc độ tăng trưởng cao, chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu như dầu thô 25%, thuỷ sản 12,8%, gạo 11,6%, hàng dệt may 10,6%, cà phê 75%, lâm sản 3,8%, cao su 3,3%, lạc nhân 1,8%, hạt điều 1,5%. Trong ba năm 1991-1993 chúng ta đã chú ý đầu tư để hình thành dần các ngành sản xuất hàng hoá, các vùng sản xuất nông sản tập trung, các khu công nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ nên đã tạo thêm 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới có giá trị xuất khẩu hơn 100 triệu USD như hàng dệt may, cao su, cà phê. Hai năm 1994 - 1995, Việt Nam đã đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, tích cực tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đã tạo thêm 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới là hàng giày dép, hạt điều và lạc nhân. Đến cuối năm 1995 nước ta đã hình thành được 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực mà giá trị mỗi mặt hàng hơn 100 triệu USD hàng năm. Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh, có sức cạnh tranh và chỗ đứng nhất định trên thị trường thế giới.
Bảng 3: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực (1995-1997)
Năm
Mặt hàng
Đơn vị
1995
1996
1997
Dầu thô
triệu tấn
7,6
8,7
9,5
Gạo
nghìn tấn
1.998
3.003
3.600
Hàng dệt
triệu USD
850
1.150
1.300
Thuỷ sản
triệu USD
620,7
650
760
Cao su
nghìn tấn
138,1
121,1
190
Lạc nhân
nghìn tấn
70
85
84
Cà phê
nghìn tấn
210
282,9
404
Than
triệu tấn
2,8
3,6
3,5
Chè
nghìn tấn
17,5
21,0
31
Cùng với sự phát triển, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực được mở rộng, bên cạnh các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã có, xuất hiện thêm một số mặt hàng mới như hàng điện tử, thủ công mỹ nghệ,... Bảng dưới đây là số liệu mặt hàng xuất khẩu chủ lực năm 1998 và 6 tháng đầu năm 1999.
Bảng 4: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực (năm 1998 và 6 tháng đầu năm 1999)
Năm
Mặt hàng
Đơn vị
1998
1999
Lạc nhân
nghìn tấn
87
29,6
Cao su
nghìn tấn
185
93
Cà phê
nghìn tấn
380
216,5
Chè
nghìn tấn
34
12,2
Hạt tiêu
nghìn tấn
15
23,8
Hạt điều nhân
nghìn tấn
29
6,8
Gạo
nghìn tấn
3.800
2.400
Than
nghìn tấn
3.163
1.419
Dầu thô
nghìn tấn
12.100
7.139
Hàng thuỷ sản
triệu USD
850
399
Hàng dệt may
tỷ USD
1,35
0,6975
Giày dép
triệu USD
960
699
Hàng rau quả
triệu USD
54
24
Hàng điện tử
triệu USD
476
264
Hàng thủ công mỹ nghệ
triệu USD
110
75
Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có 1 sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tuy vậy trong hàng điện tử nguyên liệu thô và sơ chế giảm mặc dù ở mức khiêm tốn. Cơ cấu hàng hoá vẫn còn tồn tại mấy vấn đề cơ bản sau:
+ Trong các mặt hàng xuất khẩu, tỷ trọng các hàng hoá thuộc nhóm ngành nông - lâm - hải sản vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn (năm 1996 là 41%). Điều này phản ánh cơ cấu sản xuất trong nước còn mang nặng tính nông nghiệp.
+ Chủng loại hàng hoá xuất khẩu chủ lực còn ít, lạc hậu và manh mún, phân tán trên nhiều địa phương khác nhau.
+ Kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng hàng chế biến sâu rất nhỏ (chiếm 22-25% tổng kim ngạch), như vậy gần 80% hàng xuất khẩu là nguyên liệu thô hoặc sơ chế, điều này làm giảm giá trị hàng xuất khẩu của nước ta.
+ Chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng hàng hoá còn kém, khó hấp dẫn người mua nên sức cạnh tranh trên thị trường kém, chất lượng không ổn định làm giảm uy tín của ta với các bạn hàng nước ngoài.
Tháng 11/1999 (vừa qua) đã thống kê và xác định được cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam trong 10 tháng năm 1999 như sau:
Cơ cấu xuất khẩu 10 tháng năm 1999:
1- Nguyên nhiên liệu : 18,2% (2 tỷ USD)
2- Khoáng sản : 19% (2,1 tỷ USD)
3- Dệt may và da giày : 28% (3,1 tỷ USD)
4- Điện tử, linh kiện điện tử : 5,3% (580 triệu USD)
5- Thủ công mỹ nghệ : 1,5% (180 triệu USD)
6- Các lĩnh vực khác : 19,4% (2,13 tỷ USD)
Xuất khẩu 9 tháng trong năm 1999 theo thống kê của Bộ Thương mại, xuất khẩu đạt khoảng 8,19 tỷ USD tăng so với cùng kỳ năm trước 17%. Trong các mặt hàng XK chủ lực thì dầu thô là mặt hàng có kim ngạch XK tăng nhanh bởi tác động tăng giá của giá dầu thế giới, 9 tháng năm 1999 xuất khẩu được 10,89 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,31 tỷ USD, dự kiến toàn bộ năm nay dầu tho XK có thể đạt 2 tỷ USD. Tiếp theo là gạo, mặc dù gạo Việt Nam đã có tính cạnh tranh cao nhưng do giá gạo thế giới hạ nên kim ngạch XK gạo chỉ đạt 882 triệu USD, tương ứng là 3,82 triệu tấn gạo. Kim ngạch XK gạo năm 1999 bằng 3,9 triệu tấn nhưng có khả năng XK được 4,2-4,5 triệu tấn, kim ngạch XK ằ 1 tỷ. Mặt hàng thuỷ sản vẫn giữ được tốc độ tăng 9% so với cùng kỳ năm 1998, đạt 687 triệu USD nhưng đã có dấu hiệu tăng chậm dần, có khó khăn về nguyên liệu. Dệt may đạt kim ngạch XK: 1,2 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm 1998. Giày dép đạt 1 tỷ USD, tăng 34% so với cùng kỳ năm 1998. Hàng điện tử và linh kiện máy tính tăng 21,5% đạt 420 triệu USD. Hạt tiêu tăng 16,9% đạt 126 triệu USD. Rau quả tăng 30% đạt 56 triệu USD. Hàng thủ công mỹ nghệ tăng 47% đạt 119 triệu USD. Cà phê: 250.000 tấn, lạc nhân 80.000 tấn, chè 21.500 tấn, than 2,1 triệu tấn.
3-/ Thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam:
Thị trường xuất khẩu được mở rộng nhanh theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá. Nếu năm 1991, thị trường Châu á chiếm tới 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì năm 1994 giảm xuống còn 75,8% và năm 1997 chỉ còn chiếm 67,7%. Riêng thị trường Đông Bắc á, năm 1995 chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng đến năm 1997 chỉ còn chiếm 44,0%. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam phát triển theo hướng mở rộng sang Châu Âu, đặc biệt Tây Bắc Âu, thị trường liên bang Nga và các nước Đông Âu có dấu hiệu phục hồi. Nếu năm 1991, thị trường Châu Âu mới chỉ chiếm tỷ trọng 9,79% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì đến năm 1994 đã tăng lên gấp 2 lần, đạt tỷ trọng 17,16% và năm 1997 tiếp tục tăng lên 21,5%. Châu Mỹ mà đặc biệt là Hoa Kỳ là một hướng mới trong phát triển thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Nếu năm 1991, Châu Mỹ mới chỉ chiếm tỷ trọng 0,16% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, thì năm 1994 đã tăng lên 2,76% và năm 1997 chiếm tới 4,48%. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng đang được mở rộng đáng kể sang Châu úc hay Châu Đại Dương - mà đặc biệt là Ôxtrâylia. Năm 1991, thị trường này mới chỉ chiếm tỷ trọng 0,96% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng đến năm 1997 đã tăng lên 2,78%.
Bảng 5: Cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1991-1997
(Tính bằng % của tổng số)
Năm
Các khu vực thị trường
1991
1994
1995
1996
1997
- Châu á:
79,94
75,80
72,40
69,6
67,7
+ Đông Bắc á
-
-
50,0
49,0
44,0
+ Đông Nam á
-
-
21,0
19,0
22,0
+ Nam á và Trung Đông
-
-
1,40
1,60
1,70
- Châu Âu:
9,79
17,17
17,80
16,80
21,50
+ Tây Bắc Âu
-
-
15,0
13,0
19,0
+ SNG và Đông Âu
-
-
2,8
3,80
2,5
+ Liên bang Nga
8,67
-
1,48
2,36
1,37
- Châu úc
0,96
1,07
1,04
0,82
2,78
- Châu Phi
0,68
0,56
0,70
0,70
0,80
- Châu Mỹ
0,16
2,76
4,33
4,22
4,48
+ Bắc Mỹ
0,16
2,59
3,40
3,70
3,80
+ Mỹ La Tinh
-
0,17
0,93
0,52
0,68
+ Hoa Kỳ
-
-
3,10
3,43
3,21
Tổng cộng:
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
Khu vực thị trường trọng điểm xuất khẩu của Việt Nam trong 2 năm 1998, 1999 chủ yếu vẫn tập trung vào 4 khu vực chính và có sự chuyển dịch từ Đông sang Tây:
Châu á : 63-54% (trong đó: Đông Bắc á: 40-30%, Đông Nam 23-24%)
Tây - Bắc Âu : 20-22%
Bắc Mỹ : 7-12%
SNG và Đông Âu cũ : 3-5%
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu và cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam 1998, 1999
(Đơn vị tính: triệu USD, tỷ trọng: % trong tổng số)
Năm
Khu vực
1998
1999
Kim ngạch
Tỷ trọng %
Kim ngạch
Tỷ trọng %
Tổng số:
11.500
100
14.950
100
1. Đông Bắc Âu
4.600
40
4.485
36
2. Đông Nam á
2.645
23
3.438
23
3. Tây Bắc Âu
2.300
20
3.139
21
4. Bắc Mỹ
805
7
1.345
9
5. SNG và Đông Âu cũ
345
3
598
4
6. Châu Đại Dương
345
3
448
3
7. Trung Cận Đông và Nam á
230
2
299
2
8. Châu Phi
115
1
149
1
9. Mỹ Latinh
115
1
149
1
Đặc điểm và xu hướng chuyển dịch cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam từ 1991 đến 1999 cho thấy: một mặt, quan hệ buôn bán và phạm vi không gian thị trường xuất khẩu không ngừng mở rộng; đồng thời Việt Nam không chỉ phát triển thị trường gần mà đã vươn nhanh đến các thị trường xa (Tây Bắc Âu, Bắc Mỹ, Châu Đại Dương). Việt Nam đã chuyển dần cơ cấu thị trường từ các nước Châu á - Thái Bình Dương là chủ yếu sang các khu vực thị trường khác phù hợp với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại. Trong đó đáng chú ý là đã củng cố và mở rộng thị trường liên minh Châu Âu (EU), bắt đầu đi vào thị trường Bắc Mỹ, Trung Cận Đông và Châu Phi. Mặt khác, Việt Nam không chỉ phát triển và mở rộng thị trường sang các nước đang phát triển mà còn mở rộng thị trường tới toàn bộ các nước công nghiệp phát triển, các thị trường được coi là khó tính, khó len chân và có mật độ cạnh tranh cao.
Cùng với sự mở rộng phạm vi của khu vực thị trường, số nước bạn hàng xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh từ năm 1990 đến nay. Năm 1986, Việt Nam mới xuất khẩu tới 34 nước, năm 1990 là 51 nước, đến năm 1997 đã tăng lên 106 nước trong đó có 10 nước bạn hàng lớn nhất, chiếm tỷ trọng trên dưới 75% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam.
Bảng 7: Danh mục 10 nước bạn hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
Tên nước
Nhật Bản
Singa-pore
Trung Quốc
Đài Loan
Hồng Kông
CHLB Đức
Pháp
Thái Lan
Liên bang Nga
Hàn Quốc
% ồ kim ngạch XK
28,5
14,6
7,4
5,4
4,9
4,6
3,2
2,9
2,2
2,2
Sự biến đổi cơ cấu nước bạn hàng xuất khẩu của Việt Nam mấy năm qua là minh chứng về sự chi phối của quy luật lợi thế so sánh trong buốn bán quốc tế, nó phá vỡ mọi sự ngăn cách về trình độ phát triển và không gian địa lý. Vai trò của các thị trường xa, đặc biệt là các nước phát triển Tây Âu, Bắc Mỹ đã tăng lên, mở ra cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời tạo tiền đề để Việt Nam nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại từ các khu vực có nền "công nghệ nguồn".
Dưới đây là bảng tổng kết kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 1999 giữa Việt Nam với các nước:
Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 1999 giữa việt nam với các nước
Đơn vị: triệu USD
Nước
1998
7 tháng đầu năm 1999
Tổng kim ngạch
9.361
6.171
Ôxtrâylia
469
353
Đức
588
403
Philippin
392
273
Anh
333
245
Hà Lan
306
194
Irắc
0
152
Bỉ
212
184
Nhật Bản
1.481
907
Thuỵ Sĩ
277
172
Inđônêxia
316
266
Trung Quốc
4.789
398
Italia
144
95
Pháp
307
218
Tây Ban Nha
85
57
Lào
73
128
Campuchia
75
52
Canađa
80
58
Ba Lan
38
34
Iran
35
17
Mê hi cô
32
17
áo
8
30
Đan Mạch
43
29
Các tiểu vương quốc Arập thống nhất
0
13
Ixraen
0
11
Na Uy
17
11
Bungari
0
8
Mỹ
469
222
Braxin
14
4
Bồ Đào Nha
4
3
Brunây
0
0,3
Thuỵ Điển
58
28
Bêlarutxia
0
0
Phần Lan
20
10
Thổ Nhĩ Kỳ
9
0
Ai Len
0
0
Hunggari
0
0
Bên cạnh đó hoạt động xuất khẩu qua các cửa khẩu cũng rất sôi động. Chẳng hạn như hoạt động xuất khẩu qua các cửa khẩu trên bộ ở phía Bắc: biên giới đất liền (trên bộ) Việt Nam - Trung Quốc dài trên 1.400 km, kéo dài từ phía tây tỉnh Quảng Ninh đến phía tây tỉnh Lai Châu, tiếp giáp giữa 6 tỉnh của Việt Nam (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lao Cai, Lai Châu) với khu tự trị Quảng Tây và tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Theo số liệu thống kê thì kim ngạch xuất khẩu qua cửa khẩu của Việt Nam với các nước thể hiện ở bảng sau:
Bảng 9: Kim ngạch xuất khẩu qua các cửa khẩu biên giới
Đơn vị: triệu USD
Đơn vị
Chính ngạch
Tiểu ngạch
Tổng số
Tỷ lệ % so với toàn tuyến
1. Quảng Ninh
240,54
41,21
281,75
32,58%
2. Lạng Sơn
453,93
72,67
526,60
60,91%
3. Cao Bằng
1,98
11,81
13,79
1,59%
4. Hà Giang
2,24
4,30
6,54
0,76%
5. Lao Cai
32,38
2,90
35,28
4,08%
6. Lai Châu
0,23
0,49
0,72
0,08%
Tổng cộng
731,30
133,38
864,68
100,00%
Qua bảng trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu qua các cửa khẩu biên giới tại Lạng Sơn đạt cao nhất là 526,6 triệu USD chiếm 60,91% toàn tuyến, tiếp đó là Quảng Ninh đạt 281,75 triệu USD chiếm 32,58% và thấp nhất là tại tỉnh Lai Châu chỉ đạt 0,72 triệu USD chiếm 0,08%.
4-/ Những hạn chế, khó khăn trong xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam và vấn đề cần giải quyết:
Xuất khẩu hàng hoá những những năm qua có nhiều tiến bộ vượt bậc đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy vậy, việc đánh giá đúng những hạn chế, khó khăn trong công tác xuất khẩu là điều cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn cấp bách.
Theo đánh giá của các nhà kinh tế thì hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đạt hiệu quả chưa cao, thiếu ổn định và đang nổi cộm nhiều vấn đề cần giải quyết. Điều đáng lo ngại khi thấy cán cân thương mại những năm gần đây mất cân đối so với tốc độ nhập khẩu, xuất khẩu hàng hoá thấp và bị bỏ rơi một khoảng cách xa, thực tế này đã diễn ra trong năm 1997. Nhập siêu tăng nhanh vượt quá mức an toàn. Năm 1996 nhập siêu lên tới 3,9 tỷ USD, tăng 81% so với năm 1993 chiếm 18% GDP ảnh hưởng tới sự phát triển an toàn của nền kinh tế. Trong khi đó sản phẩm chủ yếu vẫn là nguyên liệu thô thuộc dạng cồng kềnh và trị giá thấp, hàng qua chế biến chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Chính vì thế, trị giá hàng xuất khẩu không tăng được bao nhiêu dù số lượng có nhiều hơn. Quả thật đây là một chỉ số quá thấp, không tương xứng với tiềm năng to lớn về mặt tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực của ta. Những hạn chế và khó khăn trong xuất khẩu hàng hoá của ta thể hiện rõ trên nhiều mặt, đáng chú ý nhất là các vấn đề sau đây:
(1) Sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu còn yếu. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các nguyên liệu thô hoặc mới sơ chế. Có thể coi đây là hạn chế lớn nhất của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam. Do hạn hẹp về vốn, máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu, chậm được đổi mới, chúng ta đã bán rẻ nhiều tài nguyên thiên nhiên, các loại nông lâm hải sản, không tận dụng hết nguồn lao động rẻ, dồi dào. Mặc dù tỷ trọng hàng thô và sơ chế năm 1991 là 85% và đến năm 1995 giảm xuống còn 70%, đã đánh dấu một bước tiến, song một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch xuất khẩu cao vẫn là hàng sơ chế như dầu thô, gạo, cà phê, cao su, than đá, tôm đông lạnh,... Những mặt hàng tinh chế xuất khẩu, có kim ngạch lớn hãy còn ít, nhưng chủ yếu là gia công cho nước ngoài, ngoại tệ thực thu chỉ vào khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu, nên khả năng tích luỹ không nhiều. Bên cạnh đó các nước phát triển chỉ mong muốn nhập hàng thô và sơ chế của Việt Nam để chế biến lại, XK sang nước thứ 3, vừa giải quyết công ăn việc làm cho mình, vừa thu lợi nhuận cao, nên họ tìm mọi cách để khai thác triệt để tài nguyên thiên nhiên của nước khác. Do XK dưới dạng thô và sơ chế vừa tốn nguyên liệu, năng suất thấp, giá thành cao, chất lượng sản phẩm thấp, dẫn đến sự cạnh tranh không bình đẳng giữa nước giàu và nước nghèo.
(2) Vấn đề tổ chức xâm nhập và phát triển thị trường trong XK hàng hoá còn nhiều hạn chế và mất cân đối. Xu hướng chính của Việt Nam là đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế đối ngoại. Thế nhưng cho đến nay hoạt động xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu mới diễn ra ở khu vực Châu á (chiếm 80%) còn ở các châu lục khác thì đang chiếm tỷ trọng nhỏ. Đặc biệt, xuất khẩu Việt Nam còn chưa vươn tới các thị trường Châu Phi mênh mông và đầy tiềm năng. Vấn đề này liên quan khả năng mở rộng quan hệ ngoại giao của các nhà kinh doanh Việt Nam trong việc tìm kiếm bạn hàng và thị trường.
Mặt khác, hàng hoá xuất khẩu Việt Nam chưa có thị trường ổn định, vững chắc, quan hệ lâu dài và gắn bó, chúng ta chưa hình thành hệ thống sách lược thị trường và thương nhân. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi một sự nỗ lực rất lớn từ phía Nhà nước và các nhà kinh doanh. Điều quan trọng trong việc tổ chức xâm nhập và phát triển thị trường là phải tạo mối quan hệ kinh tế lâu dài, thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng nâng cao chất lượng sản phẩm, bình đẳng và cùng có lợi.
(3) Tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động XK cần được tiếp tục hoàn thiện, đặc biệt là đối với các đầu mối xuất khẩu các mặt hàng chủ lực. Hiện nay, cơ chế chính sách xuất nhập khẩu chưa phát huy hết hiệu lực, tình trạng buôn lậu khá phổ biến làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình sản xuất và lưu thông hàng hoá trong nước. Trong hoạt động xuất khẩu vẫn chưa giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa các mặt hàng chủ lực với các nhóm hàng hoá khác, quá chú trọng và ưu tiên một số mặt hàng mà không biết tận dụng và bỏ qua nhiều loại hàng hoá khác rất có triển vọng và tiềm năng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng các mặt hàng có kim ngạch lớn, chủ lực thì việc đa dạng hoá các sản phẩm khác trở thành nội dung then chốt trong chiến lược xuất khẩu của nước ta sau này. Cơ chế điều hành hoạt động XK còn mang nặng tính chất đối phó với từng tình huống như cơ chế quản lý kế hoạch định hướng song thực chất là một hình thức biến tướng của quản lý hạn ngạch. Các chính sách quản lý của Nhà nước thay đổi thường xuyên làm cho các doanh nghiệp không kịp xoay xở, bị động, lúng túng trong hoạt động kinh doanh. Hoạt động thanh tra, kiểm soát, xử lý vi phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật vẫn còn chồng chéo, trùng lặp, gây khó khăn cản trở tới hoạt động sản xuất kinh doanh, gây tâm lý lo lắng, đối phó của các nhà quản lý doanh nghiệp. Sự tuỳ tiện vận dụng pháp luật của các nhân viên chức thuộc các cơ quan này đang trở thành một tệ nạn gây ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh XK của các doanh nghiệp.
(4) Thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng trong nhiều năm và lên đến gần 4 tỷ USD trong năm 1996, đưa tỷ lệ nhập siêu so với GDP lên mức cao gấp rưỡi so với những nước có mức độ nhập siêu cao trên thế giới, thực sự là điều đáng lo ngại. Năm 1997 mức độ nhập siêu đã giảm nhưng vẫn còn ở mức 2,5 tỷ USD. Tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch XK đã vượt quá chỉ giới an toàn. Năm 1998 mức nhập siêu là 2,133 tỷ USD, bằng 22,8% so với tổng kim ngạch XK, so với năm 1997 tỷ trọng này giảm 3,7%.
(5) Vấn đề bức bách hiện nay là việc thông tin thương mại phục vụ cho XK hàng hoá còn có nhiều hạn chế. Từ nhiều năm nay thông tin thương mại của ta thường rất chậm, không đầy đủ, thiếu chính xác nên ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Trong khi đó, nhiều đối tác của các doanh nghiệp Việt Nam lại hiểu rất rõ tình hình xuất nhập và các nhu cầu của ta. Nhưng chúng ta nắm được rất ít thông tin về bạn hàng, chưa kể đến các doanh nghiệp nội địa cùng ngành cạnh tranh lẫn nhau, tranh mua tranh bán, xuất phá giá để hưởng lợi một mình. Cuối cùng chỉ có phía bạn hàng được lợi, cả Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam đều bị thua thiệt.
Thông tin kinh tế đầy đủ, chính xác, kịp thời là một trong những điều kiện quyết định để quản lý, điều tiết nền kinh tế nói chung và hoạt động XK nói riêng đạt kết quả tốt. Hiện nay vấn đề này chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý. Chúng ta có cả một hệ thống thống kê từ Tổng cục thống kê Nhà nước đến Cục thống kê của các tỉnh, thành phố, của các bộ, ngành,... nhưng hoạt động kém hiệu quả. Chỉ nói rằng việc thống kê kim ngạch xuất nhập khẩu và mặt hàng xuất nhập khẩu trong từng kỳ kế hoạch, thường xuyên có sự sai lệch về con số giữa Tổng cục thống kê, Bộ thương mại và Tổng cục hải quan,... Điều này ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý, điều hành hoạt động xuất nhập khẩu nói chung, việc điều tiết cung cầu hàng hoá xuất nhập từng mặt hàng trong từng thời kỳ, gây ra những biến động, mất cân đối trong nền kinh tế, mất thời cơ xuất nhập khẩu. Củng cố và hoàn thiện hệ thống tin kinh tế (cả trong nước và trên thế giới). Đồng bộ hoá hệ thống thống kê từ Trung ương đến cơ sở để nhanh chóng có được những báo cáo chính xác, kịp thời, đầy đủ là yêu cầu cần thiết trước mắt trong công tác quản lý kinh tế nói chung và quản lý hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng.
(6) ảnh của tỷ giá hối đoái đến hoạt động xuất khẩu: chính sách của tỷ giá còn hạn chế trong phục vụ chiến lược hướng về xuất khẩu, cần phải có một tỷ giá hối đoái linh hoạt phù hợp với sức mua đồng tiền Việt Nam. Trong thời gian qua, quan hệ tỷ giá hối đoái chỉ khuyến khích nhập khẩu, các chuyên gia nước ngoài cho rằng Việt Nam mới chỉ lo quản lý người xuất khẩu mà chưa lo quản lý nguồn ngoại tệ, để cho các doanh nghiệp dùng ngoại tệ nhập khẩu tràn lan. Dưới tác động của tỷ giá hối đoái, năm 1996 một số doanh nghiệp đã lợi dụng sự giảm tỷ giá hối đoái USD-VNĐ để nhập hàng thông qua bảo lãnh L/C trả chậm khiến nhập khẩu tăng vọt. Do vậy cần điều chỉnh lãi suất cho vay vốn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ, rút bớt khoảng cách chênh lệch giữa hai loại lãi suất này.
Mặt hàng hoạt động xuất khẩu của ta diễn ra không đồng đều, chủ yếu tập trung ở một số thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng. Các địa phương chỉ chiếm 40% giá trị xuất khẩu cả nước và đang có nguy cơ giảm dần, bởi thế các nguồn hàng ở các địa phương chưa được khai thác cho xuất khẩu, chưa tận dụng được lợi thế trong từng địa phương phục vụ cho xuất khẩu.
* Với những kết quả đã đạt được trong những năm qua, nhưng nhìn chung hiệu quả hoạt động xuất khẩu của ta vẫn chưa cao, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới vẫn còn yếu kém có thể do những nguyên nhân chính sau đây: trước hết chúng ta thấy công nghệ sản xuất chế biến hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, lạc hậu mấy thế hệ, không thích hợp với nền kinh tế thị trường. Các xí nghiệp, kho tàng, bến bãi, máy móc thiết bị,... thường quá lớn, cồng kềnh, đồ sộ nhưng công suất lại thấp nên hoạt động kém hiệu quả vì phải chịu khấu hao lớn, các định mức tiêu hao nguyên - nhiên - vật liệu thường rất cao mà sản xuất ra chất lượng lại thấp. Mấy năm gần đây một số doanh nghiệp đã tích cực đổi mới công nghệ hiện đại nhưng thông thường là sử dụng chắp vá, không đồng bộ vì vốn đầu tư có hạn. Tổ chức sản xuất và bộ máy quản lý cồng kềnh, bất cập với công nghệ.
Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam phần lớn còn ở dạng thô và nguyên liệu, thu gom hàng hoá tại các vùng lãnh thổ khác nhau nên chất lượng hàng hoá thấp và không đồng đều, chưa chú trọng quy hoạch vùng sản xuất hàng XK lớn và đồng bộ, chưa có mặt hàng xuất khẩu chủ lực giá trị lớn. Hàng hoá chế biến sâu và tinh chiếm tỷ trọng thấp. Bênh cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam vừa mới bắt đầu tham gia hoạt động thị trường thế giới trong điều kiện phải chấp nhận cuộc cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia có nhiều kinh nghiệm trên thương trường. Công tác tổ chức thông tin giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp chưa tốt, trình độ tổ chức quản lý, điều hành hoạt động xuất khẩu, trình độ tiếp thị của doanh nghiệp còn yếu. Do thiếu sự hướng dẫn, điều hành, phân công, phối hợp hoạt động kinh doanh giữa các doanh nghiệp đã dẫn đến tình trạng mạnh ai nấy làm, phân tán, cục bộ, tranh mua, tranh bán làm suy yếu lẫn nhau,... hậu quả xảy ra là giá mua hàng XK ở trong nước bị đẩy lên cao và giá bán thị trường ngoài nước bị ép giảm xuống, cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu chưa đồng bộ và thống nhất.
Bên cạnh đó năm 1997, đã xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở 5 nước Đông Nam á, sau đó lan rộng sang một số nước Đông á. Đối với Việt Nam, khoảng 30% kim ngạch buôn bán, 70-80% lượng đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào là từ các nước Đông Nam á và Đông á, bởi vậy cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nhất định ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Khủng hoảng tiền tệ làm cho giá đồng tiền của các nước bị giảm, đồng nghĩa với việc giá bán của hàng hoá sẽ rẻ đi. Đây là một lợi thế rất lớn của các nước này nhằm thúc đẩy XK, đẩy mạnh việc bán hàng vào thị trường Việt Nam, cạnh tranh, xâm chiếm thị phần của hàng Việt Nam trên các thị trường khác, mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước Đông Nam á bị giảm đi. Hiện nay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp từ 15%-20% tốc độ tăng trưởng XK, sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính đã làm cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giảm đi, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng XK của Việt Nam.
II-/ Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam:
Việt Nam có hơn 3.000 km bờ biển, 12 cửa sông với hơn 2 triệu km2 thềm lục địa và hơn 1 triệu km2 diện tích mặt nước. Hàng năm Việt Nam đã đánh bắt được từ 1,2-1,7 triệu tấn hải sản, trong đó công suất đánh bắt những loại hải sản có giá trị cao trên thị trường quốc tế như tôm, có thể đạt 50-60 ngàn tấn/năm; mực các loại từ 30-40 ngàn tấn/năm; chưa kể hàng trăm ngàn tấn cá các loại, trong đó nhiều loại có giá trị kinh tế rất cao.
Chính nhờ những lợi thế này mà thuỷ sản Việt Nam đã trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn và thế mạnh của nước ta. Trong những năm qua ngành thuỷ sản đã đạt được tốc độ phát triển cao, ổn định, mức tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản lượng thuỷ sản trên 4%/năm, giá trị kim ngạch XK chiếm 10-15% trong tổng kim ngạch XK hàng năm của Việt Nam, mức tăng trưởng GDP từ 4-5%. Thành công của ngành thuỷ sản bắt đầu từ đổi mới cơ chế đầu tư từ bao cấp sang cơ chế tự cân đối, tự trang trải, lấy nguồn thu trong xuất khẩu thuỷ sản đề đầu tư lại cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành, gắn việc đầu tư với áp dụng công nghệ mới, sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Đầu tư cho ngành thuỷ sản chủ yếu tập trung vào một số khâu như: đánh bắt hải sản, nuôi trồng thủy sản, đầu tư cho các cơ sở dịch vụ nghề cá, cho nghiên cứu khoa học.
Hiện nay Việt Nam đang trở thành một trong những nước đánh bắt, nuôi trồng và xuất khẩu thuỷ sản đáng kể trên thế giới. Vào năm 1997 Việt Nam là 1 trong 20 nước đánh bắt thuỷ sản lớn trên thế giới với 1,2% sản lượng thuỷ sản của thế giới và đứng thứ 29 trên thế giới về XK với 1% giá trị xuất khẩu thuỷ sản của thế giới. So với các nước Đông Nam á thì Việt Nam đứng thứ 4 sau Thái Lan, Inđônêxia, Singapor.
1-/ Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam:
Thuỷ sản là một ngành kinh tế kỹ thuật phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên. Trở lại với lịch sử những năm cuối thập kỷ 70, thuỷ sản là một ngành kinh tế yếu kém, sa sút. Trong môi trường bao cấp thời kỳ 1976-1980 Nhà nước ta đã đầu tư cho ngành khá lớn, với tổng số vốn 2 tỷ VNĐ (giá nă._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0709.doc