Lời nói đầu
Qua 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến và đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, đến nay nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé. Muốn đạt được mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh tất yếu phải đẩy tới bước mới CNH - HĐH. Công nghiệp hoá là thực chất xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN. Đó không chỉ là tăng nhanh tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong GDP mà còn là quá trình chuyển dịch
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Công ty XNK Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới cơ bản về kỹ thuật và công nghệ, hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân , tạo cơ sở cho sự tăng trưởng nhanh , đạt hiệu quả cao và lâu dài của toàn bộ nền kinh tế quốc dân .
Chúng ta đều biết rằng, hoạt động xuất khẩu có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, xuất khẩu hàng hoá đang trở thành một vấn đề hết sức cấp thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, cũng như góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Thông qua hoạt động xuất khẩu, Việt Nam có thể tận dụng được các tiềm năng sẵn có để sản xuất ra các loại hàng hoá phục vụ cho việc trao đổi, buôn bán với các quốc gia khác để thu ngoại tệ. Với ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu, chúng ta có thể mua sắm các loại hàng hoá cần thiết từ các nước trên thế giới nhằm phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá- hiện đại hoá cũng như thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt của dân cư. Chính vì vậy, Đại hội Đảng lần thứ VI đã đưa việc sản xuất hàng xuất khẩu là một trong ba chương trình kinh tế quan trọng trong thời kỳ đổi mới của nước ta (ba chương trình đó là: sản xuất lương thực, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu ). Từ đó đến nay, vấn đề sản xuất hàng xuất khẩu cũng như các hoạt động liên quan đến xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam đang trở thành một vấn đề được nhiều người quan tâm với mục đích tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhất để đưa hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có hiệu quả.
Bởi vì, thực tiễn hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam cho thấy, bên cạnh một số thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng đang gặp không ít những khó khăn trong hoạt động này.
Qua thời gian học tập tại trường, với sự hiểu biết của mình cùng với sự giúp đỡ của thầy cô giáo, em đã nghiên cứu đề tài ² Một số Biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây".
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động Xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường
Chương II: Thực trạng hoạt động Xuất khẩu ở Công ty Xuất Nhập khẩu Hà Tây
Chương III : Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu ở Công ty XNK Hà Tây.
Vì trình độ và thời gian có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn.
Với cơ sở số liệu minh họa được lấy tại Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây, phương pháp nghiên cứu là dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với thực tế, từ đó rút ra những ý kiến nhận xét và đề xuất các giải pháp.
Cuối cùng, em chân thành cảm ơn Thầy giáo - TS nguyễn cảnh lịch trường ĐHtm đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài trên.
Hà nội ngày 10 tháng 5 năm 2001.
Sinh viên.
PHạM THàNH HảI
Chương I
CƠ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường
I. Xuất khẩu hàng hoá và vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường.
1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hoá
1.1. Khái niệm:
Từ sự ra đời của hoạt động thương mại quốc tế có thể nói: Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới thông qua các quan hệ mua bán quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế là biểu hiện của một hình thức quan hệ xã hội ở phạm vi quốc tế và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt.
Hoạt động xuất khẩu là m ột mặt quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Nó là quá trình bán những hàng hoá của quốc gia đó cho một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới nhằm thu ngoại tệ.
Như vậy, về bản chất hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán trong nước đều là một quá trình trao đổi hàng hoá (bán hàng), đó là quá trình thực hiện giá trị hàng hoá của người sản xuất hoặc người bán. Tuy nhiên, về hình thức và phạm vi thì hoạt động xuất khẩu có nhiều điểm khác biệt mà các nhà xuất khẩu cần nhận thấy để có sự vận dụng hợp lý.
1.2. Đặc điểm:
Thứ nhất, khách hàng trong hoạt động xuất khẩu là người nước ngoài. Do đó, khi muốn phục vụ họ, nhà xuất khẩu không thể áp dụng các biện pháp giống hoàn toàn như khi chinh phục khách hàng trong nước. Bởi vì, giữa hai loại khách hàng này có nhiều điểm khác biệt về ngôn ngữ, lối sống, mức sống, phong tục tập quán. . . Điều này sẽ dẫn đến những khác biệt trong nhu cầu và cách thức thoả mãn nhu cầu. Vì vậy, nhà xuất khẩu cần phải có sự nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu nhu cầu của khách hàng nước ngoài để đưa ra những hàng hoá phù hợp.
Thứ hai, thị trường trong kinh doanh xuất khẩu thường phức tạp và khó tiếp cận hơn thị trường kinh doanh trong nước. Bởi vì thị trường xuất khẩu vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia nên về mặt địa lý thì nó ở cách xa hơn, phức tạp hơn và có nhiều nhân tố ràng buộc hơn.
Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động xuất khẩu thường là mua bán qua hợp đồng xuất khẩu với khối lượng mua lớn mới có hiệu quả.
Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu như thanh toán, vận chuyển, ký kết hợp đồng. . . đều phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro.
Nói tóm lại, hoạt động xuất khẩu là sự mở rộng quan hệ buôn bán trong nước ra nước ngoài, điều này thể hiện sự phức tạp của nó. Hoạt động xuất khẩu có thể đem lại kết quả cao hơn hoạt động kinh doanh trong nước nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro hơn.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của một quốc gia được thực hiện bởi các đơn vị kinh tế của các quốc gia đó mà phần lớn là thông qua các doanh nghiệp ngoại thương. Do vậy, thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hoá của quốc gia là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân mà còn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia.
2. 1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trong trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Nó là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
ở các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự tăng trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là nguồn chủ yếu cuả họ cho quá trình phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó, vì đây là nguồn chính để đảm bảo nước này có thể trả được nợ.
Thứ hai, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
- Coi thị trường là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể là:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thế nhờ qui mô.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần so với khả năng sản xuất của quốc gia đó.
+ Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút kỹ thuật công nghệ từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng lực cho sản xuất mới.
+ Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không nhất thiết phải sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá mà mình cần, mà thông qua xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản xuất một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá mà mình cần.
- Một cách nhìn nhận khác lại cho rằng, chỉ xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá thừa trong tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi hẹp và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển.
Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Đối với việc giải quyết công ăn việc làm: Xuất khẩu thu hút hàng ttriệu lao động thông qua sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động.
Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một loại hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế. . . phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
2. 2. Đối với doanh nghiệp
Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế.
Thứ nhất, thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tham gia vào các cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
Thứ hai, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tao ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận. Sản xuất hàng xuất khẩu còn giúp doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh, đồng thời có vốn để tiếp tục đầu tư vào sản xuất không chỉ về chiều rộng mà cả về chiều sâu.
Thứ ba, xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở cả hai bên đều có lợi. Vì vậy đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số và lợi nhuận, đồng thời chia xẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của công ty.
Thứ tư, xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản xuất, Marketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh.
Như vậy, hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng và có tác động tích cực tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
iI. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu của doanh nghiệp hiện nay
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, điều này căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hoá trước khi xuất khẩu, căn cứ vào nguồn hàng xuất khẩu...Hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương thường tiến hành một số hình thức xuất khẩu và được coi là xuất khẩu sau:
1. Xuất khẩu trực tiếp.
Hoạt động xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu hàng hoá mà trong đó các doanh nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước, sau đó bán các sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài (có thể qua một số công đoạn gia công chế biến).
Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp ngoại thương muốn có hàng hoá để xuất khẩu thì phải có vốn thu gom hàng hoá từ các địa phương, các cơ sở sản xuất trong nước. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng thì hàng hoá thuộc sở hữu của doanh nghiệp.
Xuất khẩu theo hình thức trực tiếp thông thường có hiệu quả kinh doanh cao hơn các hình thức xuất khẩu khác. Bởi vì doanh nghiệp có thể mua được những hàng hoá có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của khách hàng với giá cả mua vào thấp hơn. Tuy nhiên, dây là hình thức xuất khẩu có độ rủi ro lớn, hàng hoá có thể không bán được do những thay đổi bất ngờ của khách hàng, của thị trường dẫn đến ứ đọng vốn và đôi khi bị thất thoát hàng hoá.
2. Xuất khẩu uỷ thác.
Hoạt động xuất khẩu uỷ thác là một hình thức dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp ngoại thương đứng ra với vai trò là trung gian thực hiện việc xuất khẩu hàng hoá cho các đơn vị có hàng hoá uỷ thác. Trong hình thức này, hàng hoá trước khi kết thúc quá trình xuất khẩu vẫn thuộc sở hữu của đơn vị uỷ thác. Doanh nghiệp ngoại thương chỉ có nhiệm vụ làm các thủ tục về xuất khẩu hàng hoá, kể cả việc vận chuyển hàng hoá và được hưởng một khoản tiền gọi là phí uỷ thác mà đơn vị uỷ thác trả.
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là dễ thực hiện, độ rủi ro thấp, doanh nghiệp ngoại thương không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng hoá và cũng không phải tự bỏ vốn ra để mua hàng. Tuy nhiên, phí uỷ thác mà doanh nghiệp nhận được thường nhỏ nhưng được thanh toán nhanh.
3. Hoạt động gia công xuất khẩu quốc tế.
Gia công quốc tế đó là một hoạt động mà một bên - gọi là bên đặt hàng - giao nguyên vật liệu , có khi cả máy móc , thiết bị và chuyên gia cho bên kia gọi kà bên nhận gia công . Để xuất ra một mặt hàng mới theo yêu cầu của bên đặt hàng . Hàng hoá sau khi sản xuất xong được giao cho bên đặt gia công .Bên nhận gia công được trả tiền công . Khi hoạt động gia công vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì được gội là gia công quốc tế.
Theo hình thức xuất khẩu này, doanh nghiệp ngoại thương đứng ra nhập nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm về cho các đơn vị nhận gia công từ các khách hàng nước ngoài đặt gia công. Sau đó, đơn vị ngoại thương sẽ nhận thành phẩm từ các đơn vị nhận gia công và xuất sản phẩm này sang cho khách hàng nước ngoài đã đặt gia công. Đơn vị ngoại thương sẽ nhận được khoản tiền thù lao gia công.
Hoạt động gia công xuất khẩu có đặc điểm là doanh nghiệp ngoại thương không phải bỏ vốn vào kinh doanh nhưng thu được hiệu quả cũng khá cao, ít rủi ro và khả năng thanh toán đảm bảo vì đầu ra chắc chắn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp muốn thực hiện theo hình thức này, doanh nghiệp phải quan hệ được với các khách hàng đặt gia công có uy tín. Đây là một hình thức phức tạp, nhất là trong quá trình thoả thuận với bên khách hàng gia công về số lượng, chất lượng, nguyên vật liệu và tỷ lệ thu hồi thành phẩm, giám sát quá trình gia công. Do đó, các cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp phải am hiểu tường tận về các nghiệp vụ và quá trình gia công sản phẩm.
4. Hoạt động xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu.
Theo hình thức này, mục đích của hoạt động xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là thu về một lượng hàng hoá khác tương đương với trị giá của lô hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp ngoại thương có thể sử dụng hình thức xuất khẩu này để nhập khẩu những loại hàng hoá mà thị trường trong nước đang rất cần hoặc có thể xuất khẩu sang một nước thứ ba.
5. Hoạt động xuất khẩu theo Nghị định thư.
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá thường là hàng trả nợ được thực hiện theo Nghị định thư giữa hai Chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này có nhiều ưu điểm như: Khả năng thanh toán chắc chắn (vì Nhà nước thanh toán cho doanh nghiệp), giá cả hàng hoá dễ chấp nhận, tiết kiệm được chi phí trong nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng.
6. Một số loại hình xuất khẩu khác.
Theo Nghị định số 33/CP của Chính phủ ngày 14/04/1994 về Quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu có quy định các hình thức dưới dây cũng được coi là xuất khẩu hàng hoá:
6.1. Tạm nhập tái xuất
Tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua hàng hoá của một nước để bán cho một nước khác (nước thứ ba) trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương có làm các thủ tục nhập khẩu rồi lại làm các thủ tục xuất khẩu không qua gia công chế biến.
Đối với những hàng hoá nhập nhẩu nhằm mục đích sử dụng trong nước nhưng một thời gian sau, vì một lý do nào đó nó không được sử dụng nữa mà được xuất ra nước ngoài thì không dược coi là hàng hoá kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất.
Thời gian hàng hoá kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất được lưu chuyển ở Việt Nam là 60 ngày.
6.2. Chuyển khẩu hàng hoá
Chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam cũng như thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam.
6.3. Quá cảnh hàng hoá
Hàng hoá của một nước được gửi đi tới một nước thứ ba qua lãnh thổ Việt Nam, có sự cho phép của Chính phủ Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam nếu có đủ điều kiện như quy định của Nhà nước Việt Nam có thể được xem xét cho thực hiện dịch vụ này để tăng thêm thu nhập.
iii. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp nước ta
Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng là rất cần thiết, bởi vì những nhân tố này thường xuyên làm ảnh hưởng đến các kết quả cũng như tiến triển trong tương lai của hoạt động xuất khâu của doanh nghiệp. Mục đích của việc nghiên cứu này là nhằm nhận diện các nhân tố ảnh hưởng, chiều hướng tác động của chúng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
1. Nhóm các nhân tố ảnh hưởng trong nước.
1.1. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
Đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng nằm bên trong đất nước nhưng không chịu sự kiểm soát của doanh nghiệp. Các nhân tố đó là:
- Chiến lược, phát triển kinh tế - xã hội chính sách và pháp luật liên quan đến hoạt động xuất khẩu của Nhà nước. Đây là nhân tố không chỉ tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ở hiện tại, mà còn cả trong tương lai. Vì vậy, một mặt doanh nghiệp phải tuân theo và hưởng ứng nó ở hiện tại, mặt khác doanh nghiệp phải có các kế hoạch xuất khẩu trong tương lai cho phù hợp.
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Đây là một chiến lược tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm xuất khẩu ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu cuả thị trường thế giới dựa trên cơ sở khai thác tốt với nhu cầu của thị trường quốc gia. Với chiến lược này, Nhà nước có các chính sách phát triển cụ thể cho từng giai đoạn nhằm khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu trong đó có doanh nghiệp ngoại thương.
Việc khuyến khích hoạt động xuất khẩu được thể hiện ở các chính sách, các biện pháp liên quan đến việc tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Tuy nhiên, không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu.. Bởi vì, việc tự do hoàn toàn đối với xuất khẩu nhiều khi mang lại thiệt hại rất lớn cho quốc gia, chẳng hạn như việc xuất khẩu hàng hoá quý hiếm, các sản phẩm thuộc về di tích văn hoá, các sản phẩm là vũ khí...
- Tỷ giá hối đoái hiện hành: Tỷ giá hối đoái là giá cả của ngoại tệ tính theo đồng nội tệ, hay quan hệ so sánh về giá trị giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.
Trong hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp phải quan tâm đến yếu tố này vì nó liên quan đến việc thu đổi ngoại tệ sang nội tệ của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp.
Nếu tỷ giá hối đoái lớn hơn tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu thì doanh nghiệp có thể thực hiện hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái mà nhỏ hơn tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu thì doanh nghiệp không nên xuất khẩu.
Để có biết được tỷ giá hối đoái, doanh nghiệp phải được cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái hiện hành của nhà nước và theo dõi biến động của nó từng ngày.
- Khả năng sản xuất hàng xuất khẩu của từng nước: Khả năng này đảm bảo nguồn hàng cho cho doanh nghiệp, biểu hiện ở các mặt hàng có thể được sản xuất với khối lượng, chất lượng quy cách, mẫu mã, có phù hợp với thị trường nước ngoài hay không. Điều này quyết định khả năng cạnh tranh của các mặt hàng khi doanh nghiệp đưa ra chào bán trên thị trường quốc tế.
Nếu một đất nước có trình độ khoa học công nghệ phát triển, có khả năng tạo ra được nhiều loại mặt hàng đa dạng, chất lượng tiêu chuẩn quốc tế, hình thức mẫu mã đảm bảo thẩm mỹ cao và giá cả phải chăng thì đây là điều kiện thuận lợi rất lớn cho doanh nghiệp khi tham gia hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, khả năng sản xuất trong nước yếu kém, với chúng loại mặt hàng đơn điệu, thô sơ, sẽ hạn chễ rất lớn khả năng cạnh tranh và mở rộng xuất khẩu của các doanh nghiệp.
Hiện nay, ở nước ta năng lực sản xuất hàng sản xuất hàng xuất khẩu còn thấp kém, mặt hàng xuất khẩu còn đơn sơ, chất lượng chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đây là một khó khăn cho các doanh nghiệp ngoại thương khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
- Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước: Cạnh tranh một mặt có tác động thúc đẩy sự vươn lên của các doanh nghiệp, mặt khác nó cũng chèn ép và “ dìm chết” các doanh nghiệp yếu kém. Mức độ cạnh tranh ở đây biểu hiện số lượng của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cùng ngành hoặc cùng mặt hàng có thể thay thế nhau. Hiện nay, nhà nước có chủ trương khuyến khích mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu đã dẫn đến sự bùng nổ số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu, do đó đôi khi dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh. Đây là một thách thức cho các doanh nghiệp ngoại thương hiện nay.
- Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước:
Đây là nhân tố thuộc về cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu. Nó bao gồm phát triển của hệ thống giao thông vận tải, trình độ phát của hệ thống thông tin liên lạc. Các nhân tố này có thể tăng cường hoặc hạn chế năng lực giao dịch, mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp, tăng cường hoặc hạn chế các dịch vụ vận chuyển hàng hoá xuất của doanh nghiệp.
Trên đây là những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có rất nhiều các nhân tố khác nữa mà doanh nghiệp cần phải nắm bắt và hiểu biết về nó.
1.2. Nhóm các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
Đây là nhân tố thuộc về doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát và điều chỉnh nó theo hướng tích cực nhằm phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của mình. Có thể kể đến các nhân tố sau:
- Trình độ năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh của ban giám đốc doanh nghiệp: Đây là nhân tố hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì trình độ và năng lực quản trị kinh doanh của ban giám đốc doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp có được các chiến lược kinh doanh đúng đắn, đảm bảo cho doanh nghiệp có thể tận dụng được các cơ hội của thị trường quốc tế trên cơ sở khả năng vốn có của mình.
- Trình độ và năng lực kinh doanh xuất khẩu của đội ngũ cán bộ kinh doanh trong doanh nghiệp: Cán bộ kinh doanh là những người trực tiếp thực hiện các công việc của quá trình xuất hàng hoá. Vì vậy, trình độ và năng lực trong hoạt động xuất khẩu của họ sẽ quyết định tới hiệu quả công việc, theo đó quyết định tới hiệu quả kinh doanh của toàn doanh nghiệp.
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Biểu hiện ở quy mô vốn hiện có và khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Năng lực tài chính có thể làm hạn chế hoặc mở rộng các khả năng khác của doanh nghiệp, vì vốn là tiền đề cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có tác động không nhỏ tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .Nếu chiến lược kinh doanh không phù hợp làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ dẫn đến phá sản còn phù hợp (đúng hướng) sẽ phát triển tốt.
1.3 Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý.
Vị trí địa lý cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên là những cái mà tự nhiên ban cho, thông qua đó các nước khai thác tiềm năng của nó để phục vụ xuất khẩu.
Nguồn tài nguyên thiên là một trong những nhân tố quan trọng làm cơ sở cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất khẩu. Nó góp phần ảnh hưởng đến loại hàng , quy mô hàng xuất khẩu của quốc gia.
Vị trí địa lý có vai trò như là nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế cũng như xuất khẩu của một quốc gia. Vị trí đị lý thuận lợi là điều kiện cho phép một quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế , hoặc thuúc đẩy xuất khẩu dịch vụ như du lịch , vận tải , ngân hàng…
2. Nhóm các nhân tố ảnh hưởng ngoài nước.
Đây là các nhân tố nằm ngoài phạm vi kiểm soát của quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Có thể kể đến các nhân tố sau:
- Tình hình phát triển kinh tế của thị trường xuất khẩu: Có ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng xuất khẩu, do đó có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Các nhân tố phản ánh sự phát triển kinh tế của thị trường xuất khẩu là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu nhập của dân cư, tình hình lạm phát, tình hình lãi suất.
Tình hình chính trị, hợp tác quốc tế: Nó biểu hiện ở xu thế hợp tác giữa các quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến sự hình thành các khối kinh tế, chính trị của một nhóm các quốc gia, do đó sẽ ảnh hưởng đến tình hình thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp.
Đặc điểm và sự thay đổi về văn hoá- xã hội của thị trường xuất khẩu: Có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu của khách hàng, do đó ảnh hưởng đến các quyết định mua hàng của khách hàng và ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
- Trình độ phát triển khoa học công nghệ của thị trường xuất khẩu: Sẽ ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội của thị trường đó, do vậy sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu và sức mua của khách hàng.
Chính sách thương mại của các quốc gia có thị trường xuất của doanh nghiệp: Có thể làm hạn chế hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường đó. Một quôc gia có chính sách thương mại tự do sẽ giúp cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sang thị trường quốc gia đó được thực hiện một cách dễ dàng hơn và thường mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngược laị, một quốc gia có chính sách thương mại khắt khe thì sẽ tạo ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện xuất khẩu sang thị trường này.
Mức độ cạnh tranh quốc tế: Biểu hiện ở sức ép từ phía các doanh nghiệp, các công ty quốc tế đối với doanh nghiệp khi cùng tham gia vào một thị trường xuất khẩu nhất định. Sức ép này càng lớn thì càng gây khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn thâm nhập, duy trì, mở rộng thị trường xuất khẩu cho mình.
3. ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới.
Trong điều kiện mà mỗi quốc gia đều dựa vào lợi thế của mình cũng như thị trường tiêu thụ thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu thì tính liên kết và phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng lên. Chính vì điều này mà mỗi sự biến động của tình hình kinh tễ- xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động kinh tế trong nước. Lĩnh vực hoạt động xuất khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể ở nước ngoài, chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính sách xuất khẩu, tình hình lạm phát , thất nghiệp hay tăng truởng về suy thoái kinh tế...của các nước đều ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu ở nước ta.
Chương II
Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây
I. Tổng quan về Công ty
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
- Công ty Xuất nhập khẩu Hà Tây được thành lập ngày 01/12/1992 theo Quyết định số 471-QĐ/UB của UBND tỉnh Hà Tây. Trạm thu mua hàng xuất khẩu đặt tại các tỉnh, huyện.
- Công ty được cấp giấp phép đăng ký kinh doanh số 104356 ngày 11 tháng 12 năm 1993. Và có giấp phép kinh doanh xuất nhập khẩu số 2.06.1.002 ngày 23 tháng 3 năm 1993 của Bộ Thương mại.
- Ngày 20/11/1991 theo Quyết định số 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành theo quy chế về việc "Thành lập và giải thể Doanh nghiệp Nhà nước" - Công ty chuyển giao các đơn vị hạch toán độc lập sang các cơ sở chuyên ngành quản lý.
- Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một doanh nghiệp Nhà nước, trực thuộc UBND tỉnh Hà Tây hạch toán kinh doanh độc lập, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại hai Ngân hàng Công thương Hà Tây và Ngân hàng ngoại thương Việt nam.
- Tên gọi: Công ty Xuất nhập khẩu Hà Tây .
- Tên giao dịch quốc tế : HA TAY IMPORT- EXPORT COMPANY (UNIMEX HATAY)
- Trụ sở chính: 16A Trần Đăng Ninh - Thị xã Hà Đông - Tỉnh Hà Tây.
- Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đặt dưới sự quản lý của nhà nước, cấp trên trực tiếp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty chịu trách nhiệm vật chất về những cam kết của mình với những hợp đồng đã ký với các bên và ngược lại. Công ty thực hiện hạch toán kinh tế trên cơ sở tuân thủ các chủ trương chính sách, pháp luật và các quy định quản lý về Nhà nước và địa phương tôn trọng và đảm bảo quyền lợi vật chất, tinh thần, các chính sách đối với người lao động ở trong đơn vị và làm tròn nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước và Tỉnh.
2. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Công ty.
* Chức năng hoạt động của Công ty.
- Trực tiếp xuất khẩu và nhận ủy thác xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thổ, thủy hải sản, thực phẩm chế biến, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng tiểu thủ công nghiệp do Công ty thu mua, gia công chế biến hoặc do liên doanh, liên kết tạo ra.
- Trực tiếp nhập khẩu và nhận ủy thác nhập khẩu các mặt hàng công cụ sản xuất, vật tư, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng kể cả chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất.
- Tổ chức sản xuất, liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư với các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài để sản xuất chế biến hàng xuất nhập khẩu và hàng tiêu dùng.
* Nhiệm vụ của Công ty:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn về sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, gia công, lắp ráp theo đúng luật pháp hiện hành của Nhà nước và h._.ướng dẫn của Sở Thương mại Hà Tây .
- Tổ chức nghiên cứu nâng cao năng suất lao động, đổi mới trang thiết bị, tổ chức tiếp thị tốt để nâng cao năng lực kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả ngày càng cao.
- Chấp hành pháp luật Nhà nước, thực hiện các chế độ, chính sách về quản lý và sử dụng tiền vốn, vật tư, tài sản, nguồn lực, thực hiện hạch toán kinh tế, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Thực hiện báo cáo theo ngành và chịu sự thanh tra của pháp luật.
- Tổ chức tốt bộ máy doanh nghiệp, quản lý toàn diện, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ công nhân viên chức theo pháp luật, chính sách của Nhà nước và sự phân cấp quản lý của Sở Thương mại để thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của Công ty. Chăm lo đời sống, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động làm việc, thực hiện phân phối công bằng.
Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an ninh chính trị và an toàn xã hội trong phạm vi quản lý của Công ty theo quy định của pháp luật.
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty.
Công ty Xuất nhập khẩu Hà Tây gồm có 169 cán bộ công nhân viên được biên chế thành 04 phòng ban và 02 chi nhánh.Các phòng quản lý chức năng có 01 trưởng phòng và 01 đến 02 phó. Một số cán bộ, nghiệp vụ chuyên môn.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty
Sơ đồ 1
Chú thích : Quan hệ chỉ đạo trực tiếp
Quan hệ phối hợp
Đứng đầu Công ty là Giám đốc Công ty do UBND Tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm. Giám đốc quản lý và điều hành Công ty theo chế độ 01 thủ trưởng và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Công ty trước pháp luật, trước Sở Thương mại và tập thể cán bộ công nhân viên chức của Công ty.
Giúp đỡ công việc cho Giám đốc Công ty có 03 Phó Giám đốc Công ty. Phó Giám đốc Công ty do Giám đốc Công ty lựa chọn và đề nghị Giám đốc Sở Thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm.
Kế toán trưởng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Công ty, có trách nhiệm giúp Giám đốc Công ty tổ chức thực hiện toàn bộ công tác kế toán thống kê thông tin kinh tế, báo cáo kết quả hoạt động của Công ty theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Công ty được tổ chức theo bộ máy quản lý chức năng và mạng lưới kinh doanh phù hợp với nhiệm vụ của một Công ty Xuất nhập khẩu.
Nhiệm vụ của các phòng ban chức năng do Giám đốc quy định cụ thể:
* Phòng kinh doanh:
+ Nghiên cứu và nắm bắt tình hình thông tin thị trường trong nước và nhu cầu mặt hàng,về nguồn hàng,tình hình sản suất,giá cả và các biến động.
+ Xác nhận kế hoạch kinh doanh hàng năm,6 tháng,đề suất các phương án kinh doanh,liên doanh liên kết tiêu thụ hàng hóa và phối hợp thực hiện các phương án đó sau khi đã được Công ty phê duyệt.
+ Giúp Giám đốc tỗ chức xây dựng kế hoạch xuất - nhập khẩu,các kế hoạch thâm nhập thị trường mới,mở rộng thị trường truyền thống.
* Phòng Tổ chức hành chính:
- Giúp Giám đốc trong công tác tổ chức hoạt động hành chính, quản lí tài sản và nhân sự, tiền lương. Phối hợp với các phòng chức năng để quản lí và điều hành hoạt động của Công ty theo đúng định hướng và kế hoạch.
+ Xây dựng phương án bố trí sắp xếp cán bộ viên chức toàn công ty và các đơn vị .
+ Làm công tác khác về tổ chức: quản lý hồ sơ cán bộ ,làm thủ tục về tiếp nhận , nghỉ hưu thôi việc, thuyên chuyển, khen thưởng và kỷ luật cán bộ.
Tham mưu qiúp giám đốc về công tác hành chính quản trị cụ thể:
+ Xây dựng phương án bảo vệ đảm bảo công tác an ninh trật tự cơ quan
+ Làm tốt văn thư,lưu trữ , quản lý dấu công ty , dấu chức danh.
+ Quản lý nhà khách, đảm bảo các yêu cầu vật chất cho công tác điều hành hàng ngày.
+ Đảm bảo công tác vệ sinh môi trường cơ quan.
* Phòng Kế toán tài vụ :
Thực hiện theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh và báo cáo tình hình tài chính và các nghiệp vụ tài chính kế toán khác. Chịu trách nhiệm quản lý vốn, tài sản, hàng hoá, giám sát thu chi tại Công ty.
- Phối hợp với phòng kế hoạch tổng hợp xây xây dựng kế hoạch tài chính toàn công ty và kế hoạch từng đợn vị thành viên .
- Các phương án kinh doanh đã được Giám đốc duyệt trong thời hạn 3 ngày phải đáp ứng vốn để các đơn vị thực hiện hợp đồng ( hồ sơ vay vốn do các đơn vị chuẩn bị).
Thanh toán tiền hàng với bạn hàng trong nước và nước ngoài.
Giám sát sử dụng vốn của các đơn vị đôn đốc thu hồi vốn, lãi tiền vay.
Lựa chọn phương pháp hạch toán phù hợp và hướng dẫn kế toán các đơn vị trong công tác hạnh toán.
Chấp hành nghiêm chế độ báo cáo kế toán, thống kê chế độ báo cáo về thuế, kịp thời, chính xác đúng quy định.
- Kế toán trưởng , từng quý báo cáo ban Giám đốc tình hình quản lý sử dụng vốn các khoản công nợ trong hạn, đến hạn và nợ quá hạn, đề xuất biện pháp sử lý. Thời gian báo cáo trong vòng 5 ngày của tháng đầu quý báo cáo tình hình quý trước.
Tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của từng đơn vị và đề xuất Giám đốc khen thưởng.
Kế toán trưởng liên đới chịu trách nhiệm khi để các đơn vị sử dụng vốn sai mục đích, làm thất thoát vốn.
Hệ thống sổ sách, công tác hạch toán kế toán, phân phối lợi nhuận của Công ty thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước và theo pháp lệnh kế toán. Việc phân tích hoạt động kinh tế tài chính của Công ty được thực hiện theo quy định hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn của cơ quan quản lý chuyên ngành.
* Phòng Kế hoạch thị trường :
- Xây dựng kế hoạch định hướng phát triển sản xuất kinh doanh dài hạn (5- 10 năm) của toàn công ty.
Tổng hợp kế hoạch định hướng quý năm của các đơn vị trực tiếp kinh doanh.
Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch và phối hợp với phòng kế toán tài chính giám sát việc sử dụng vốn của các đơn vị thành viên.
Kiểm tra các hợp đồng kinh tế, thẩm định các phương án sản xuất kinh doanh, đề xuất ý kiến với Giám đốc. Thời gian kiểm tra, thẩm định để trình kế hoạch không quá 2 ngày, kể từ khi nhận được hợp đồng và phương án các đơn vị gửi đến.
Chịu trách nhiệm liên đới khi để xẩy ra kinh doanh thua lỗ hoặc thất thoát vốn do yếu tố chủ quan gây ra.
Phòng Nvụ Mây tre:
- Phòngnghiệp vụ mây tre có nhiệm vụ thu mua, tìm kiếm nguồn hàng các mặt hàng truyền thống như mây tre , hàng thủ công mỹ nghệ ...
- Tổ chức giới thiệu các mặt hàng ra nước ngoài, mở rộng hợp tác kinh doanh với các bạn hàng và khách hàng.
- Hợp tác chặt chẽ với các phòng ban khác có liên quan về thu mua tiêu thụ các sản phẩm mà công ty kinh doanh
* Văn phòng đại diện ở các Tỉnh :
- Giúp Giám đốc làm công tác tiếp thị. Trong một số trường hợp đặc biệt trưởng văn phòng đại diện được Giám đốc uỷ nhiệm ký một số văn bản của Công ty. Tổ chức xuất nhập khẩu hàng hóa do tự khai thác được thị trường đảm bảo có hiệu quả, chấp hành tốt chính sách và các quy định của nhà nước, của địa phương nơi đặt văn phòng đại diện.
II. tình hình hoạt động kinh doanh của công ty xuất nhập khẩu hà tây
1.Mặt hàng kinh doanh của Công ty :
Công ty Xuất nhập khẩu Hà Tây là một Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp bao gồm hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu, thiết bị máy móc đáp ứng nhu cầu khác nhau của sản xuất và đời sống. Bên cạnh đó, Công ty còn thực hiện các dịch vụ gia công sản xuất, tái sản xuất hàng hóa, nhận ủy thác xuất nhập khẩu, chuyển khẩu.
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, mặt hàng chủ yếu của Công ty gồm:
* Về xuất khẩu: Công ty trực tiếp xuất khẩu các mặt hàng sau:
- Phòng KD I : Thảm cói, Len, Đồ gỗ mỹ nghệ, Dép xốp..
- Phòng KD II: Chè, Ván tre ép, Gỗ trang trí nội thất, ..
- Phòng KD III : Hoa quả, Tơ tằm, Sợi tẩy, Quần áo sợi..
- Xí nghiệp T3 : Gia vị, May thêu, Thảm cói..
Trạm Chương Mỹ : Mây tre..
- Trạm Thường tín : Hoa quả , đường kính..
- Chi nhánh TPHCM : Da trâu bò thuộc, Mành trúc..
- Phòng Mây tre : Mây tre..
- Phòng kế hoạch: Quần áo len..
- Chi nhánh Lạng sơn: Hoa quả..
* Về nhập khẩu: Công ty trực tiếp nhập khẩu các mặt hàng sau:
+ Hàng tiêu dùng: Sợi acrylic, Bếp nướng, các thiết bị điện, xe gắn máy, xe hơi, vải, thực phẩm ...
+ Hàng vật tư thiết bị phục vụ sản xuất: phân bón, xăng dầu, hóa chất, hạt nhựa, phụ tùng ô tô, máy nông ngư nghiệp ...
Từ mặt hàng kinh doanh của Công ty ta biết được chiến lược kinh doanh của Công ty là đa dạng hóa. Tuy nhiên, những mặt hàng mà Công ty chú trọng nhất trong xuất khẩu vẫn là hàng nông, lâm, thổ sản. Đây là mặt hàng truyền thống của Công ty, có nguồn cung ứng khá phong phú và dồi dào ở trong nước, phù hợp với điều kiện sản xuất ở nước ta. Về nhập khẩu, Công ty tập trung nhiều nhất vào mặt hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Đây là những mặt hàng mà năng lực sản xuất ở trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là nhu cầu ở các tỉnh phía Bắc.
Nhìn chung, những mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đều thuộc diện khuyến khích và ưu đãi của Nhà nước. Đây cũng là những mặt hàng kinh doanh chủ lực của phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp. Đối với Công ty, vấn đề đặt ra là phải tìm được nguồn hàng có chất lượng cao, đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng.
2. Vốn kinh doanh, khả năng huy động và sử dụng vốn của công ty
Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một đơn vị Nhà nước.Vì vậy một mặt Công ty chịu sự quản lý về tổ chức, mặt khác được nhận vốn kinh doanh do Nhà nước cấp và Công ty còn có thể nhận được một lượng vốn nhất định từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết. Đây có thể nói là nguồn vốn ban đầu đảm bảo cho Công ty hoạt động. Công ty phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn vốn này trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
Khi mới thành lập, vốn đăng ký kinh doanh một phần là do Nhà nước cấp, một phần là do Công ty tự trang trải. Công ty có thể khai thác các nguồn vốn khác như vay Ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng khác, vay các cá nhân hoặc từ lãi để lại của Công ty để mở rộng và phát triển kinh doanh của mình.
Hiện nay, việc huy động vốn của công ty đang gặp phải một số khó khăn nhất định, vì vậy công ty cần phải có các biện pháp huy động và sử dụng vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Trong các năm qua, nhờ có sự cố gắng vợt bậc về huy động vốn của các cán bộ công nhân viên, tổng vốn kinh doanh của Công ty không ngừng được tăng lên.
Bảng 1: Tổng vốn kinh doanh và cơ cấu của nó
Đơn vị: VND
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
99/98
2000/99
Vốn
%
Vốn
%
Vốn
%
S.tiền
T.T%
S.tiền
T.T
%
Vốn CĐ
Vốn LĐ
5.977.748.122
6.040.737.418
49,7
50,3
6.817.748.759
18.523.398.891
26,71
73,29
7.140.451.041
19.421.355.309
24,4
75,6
839.990.637
12.482.661.473
114
306
322.703.282
879.957.508
104
104
Cộng
12.018.485.540
100
25.341.147.650
100
26.561.806.410
100
13.322.662
210
1.220.659
104
( Nguồn: Báo cáo tài chính Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây )
Qua bảng tổng kết vốn của công ty qua các năm ta thấy đều tăng .Năm 1998 vốn kinh doanh của công ty là 12.018.485.000 đồng.Trong thời gian này, Công ty luôn có xu hướng là tăng tỷ trọng vốn lưu động và giảm tỷ trọng vốn cố định.
Năm 1999, Công ty đã đạt được một thành công lớn là lượng vốn kinh doanh huy động được tăng lên một mức tuyệt đối là hơn 13 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với năm trước, trong đó chủ yếu là vốn huy động được từ các cán bộ công nhân viên trong Công ty và các tổ chức tín dụng tăng lên. Tuy nhiên trong thời gian này tỷ trọng vốn cố định lại có sự tăng lên. Năm 2000 công ty đã tăng được vốn lên 26.516.806.410 đồng.Tăng lên mức tuyệt đối hơn 1 tỷ đồng , tương ứng với 1,04 lần so với năm 1999.
Nguyên nhân trong thời gian này khả năng huy động vốn của công ty bị chững lại,không huy động được.Tỷ lệ vốn cố định năm 1998 là 5.977.748.122 đồng chiếm 49,7% nhưng đến năm 1999 tỷ lệ vốn cố định giảm là 26,71% .Nhưng đến năm 2000 vốn cố định của công ty có xu hướng tăng lên cùng với sự tăng lên của tổng số vốn kinh doanh .
3. Các khách hàng của công ty.
Trên cơ sở sự nỗ lực của mình, qua hơn sáu năm hoạt động đến nay Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đã có quan hệ với rất nhiều khách hàng, bạn hàng trong và ngoài nước.
Khách hàng trong nước của Công ty có rất nhiều loại: khách hàng mua lẻ, khách hàng mua buôn... chủ yếu tập trung ở một số nơi như Hà nội, Hải Dương, Thành Phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh. . .
Khách hàng nước ngoài của Công ty là Ba lan, Hồng Kông, Nga, Nhật, Đài Loan. . .
Với bạn hàng nước ngoài, Công ty đã quan hệ với rất nhiều bạn hàng ở Trung Quốc, Thái Lan...
Mối quan hệ trong kinh doanh của công ty với các khách hàng luôn ổn định giúp đỡ nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình
4. Nguồn nhân lực của Công ty
Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên của Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là 169 người.
Trong đó trình độ Đại học có 32 ngời chiếm 18,93%, trình độ trung cấp có54 ngời chiếm 31,95%, lao động phổ thông 83 ngời chiếm 41,11%.Đây là một đội ngũ bao gồm những ngời có trình độ đại học, những kỹ thuật viên lành nghề. Đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động, nhiệt tình có trình độ chuyên môn tốt và có tinh thần trách nhiệm cao đối với Công ty.
5. Một số kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty
5. 1. Các kết quả chung
Với sự cố gắng không ngừng của toàn thể cán bộ công nhân viên trong thời gian qua, Công ty đã đạt đợc kết quả nh sau:
Bảng 2: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty
Đơn vị: 1000VND
1998
1999
2000
99/98
2000/99
Stiền
TT
%
Stiền
TT
%
I. Tổng DT
165.118.984
186.947.427
286.390.333
21.828.443
112
99.342.906
173
II Tổng CP
162.484.129
183.437.196
282.010.881
20.963.065
112
98.573.685
154
1.GVHB
159.817.872
180.326.308
271.326.411
20.508.426
113
90.990.003
150
2.Các loại thuế
1.586.428
1.675.208
9.828.361
98.780
106
8.152.901
586
3.CPBH,CPQL
1.079.829
1.435.679
2.756.361
355.850
140
1.320.662
191
III.LN thực hiện
2.634.855
3.510.232
4.379.482
875.377
134
869.250
124
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty)
Nhìn vào bảng trên ta thấy hoạt động kinh doanh của Công ty trong các năm từ 1998 đến 2000 đều có hiệu quả cao. Trong thời gian hoạt động, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng doanh thu và lợi nhuận của Công ty vẫn liên tục tăng lên. Năm 1999, doanh thu của Công ty tăng lên một mức vượt bậc, gấp 1,12 lần năm 1998, tương ứng với số tuyệt đối là 21.828.443.000 đồng. Bên cạnh việc tăng doanh thu từ xuất khẩu Công ty đã tiến hành đầu tư và mở rộng thị trường trong nước, do đó doanh thu từ hoạt động ngoại thương cũng tăng lên.
Năm 2000 so với năm 1999 tăng lên 1,53 lần tương ứng với 99.342.906.000 đồng
Trong các năm từ 1998 đến 2000, doanh thu qua các năm của Công ty tăng lên khoảng 121 tỷ đồng và lợi nhuận tương ứng cũng tăng lên từ 2,6 đến 4,3 tỷ đồng (năm 1998 lợi nhuận thực hiện là gần 2,6 tỷ đồng nhưng đến năm 2000 thì lợi nhuận đạt được ở mức hơn 4 tỷ đồng).
Như vậy, trong khoảng thời gian 3 năm từ 1998 đến 2000 doanh thu của Công ty đã tăng lên 1,7 lần (từ 165 tỷ năm 1998 lên 286 tỷ năm 2000), lợi nhuận của Công ty đã tăng lên 1,65 lần (từ 2,6 tỷ năm 1998 lên 4,3 tỷ năm 2000). Điều này nói lên rằng hoạt động kinh doanh của Công ty đang có xu hướng khả quan đáng mừng.
5. 2. Một số kết quả từ hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh chính của Công ty. Trong thời gian qua, kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đã đạt đợc một số kết quả sau:
Bảng 3: Tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty
Đơnvị: USD
S
tt
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
99/98
2000/99
st
tt
st
tt
1
Kim ngạch NK
5.184.658
6.234.399
5.877.379
1.049.741
120%
-375.020
92,27%
2
Kim ngạch NK
8.071.270
9.739.879
15.393.595
1.722.609
120%
5.653.716
158%
3
Tổng kim ngạch XNK
13.255.928
15.974.000
21.216.975
2.718.072
120%
5.242.975
132%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh XNK của công ty xnk Hà Tây )
Nhìn chung, trong các năm tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu của Công ty đều tăng lên: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2000 đã tăng lên 1,6 lần so với 1998; trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng lên 1,9 lần, kim ngạch nhập khẩu tăng lên 1,1 lần. Như vậy kim ngạch xuất tăng lên rất nhanh từ 8.071.270 USD năm 1998 lên 15.393.595 USD năm 2000, đặc biệt là trong hai năm 1998 và 1999 kim ngạch nhập khẩu tăng lên nhanh hơn rất nhiều. Sở dĩ kim ngạch xuất khẩu tăng lên nhanh như vậy vì trong thời gian này Công ty đã chú trọng đầu tư vào các mặt hàng truyền thống như mây tre, tơ tằm, hoa quả khô...
III. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của công ty xuất nhập khẩu Hà TâY
Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động cơ bản của công ty góp phần tạo lên sức mạnh trong kinh doanh của Công ty. Qua thời gian xem xét hoạt động xuất khẩu của Công ty có thể thấy một số vấn đề sau:
1. Vị trí hoạt động xuất khẩu của công ty trong 3năm 98-200
Nếu xem xét hoạt động xuất khẩu của công ty so với toàn bộ hoạt động xuất khẩu của đất nước ta có thể thấy: quy mô kinh doanh của công ty còn nhỏ bé nên tổng doanh thu từ hoạt động xuất khẩu chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng doanh thu xuất khẩu của cả nước .
Bảng 4: Tình hình xuất khẩu của công ty và xuất khẩu của cả nước
Đơn vị: USD
Năm 1998 1999 2000
Chỉ tiêu KNXK % KNXK % KNXK %
Công ty 8.071.270 0,009 9.739.879 0,104 15.393.595 0,133
Cả nước 885000000 100 9.356.000.000 100 11.504.000.000 100
Như vậy, tỷ trọng giá trị xuất khẩu của công ty giai đoạn 1998 - 2000 so với giá trị xuất khẩu của cả nước có xu hướng tăng lên cùng với sự tăng lên của giá trị hoạt động xuất khẩu của cả nước. Điều này rất phù hợp với chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước ta hiện nay.
Nếu xem xét doanh thu từ hoạt động xuất khẩu trên tổng doanh thu từ hoạt động kinh doanh của công ty ta thấy:
Bảng 5: Tổng doanh thu và doanh thu xuất khẩu của công ty
Đơn vị: VND
Năm
1998
1999
2000
99/98
2000/99
Chỉ tiêu
Trị giá
%
Trị giá
%
Trị giá
%
Stiền
TT
%
Stiền
TT
%
DT
XK
104.321.436
63
135.458.320
72,5
210.858.327
73,4
31.136.884
129
85.400.007
155
Tổng DT
165.118.984
100
186.947.427
100
286.390.333
100
21.828.443
112
99.342.906
173
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty XNK Hà Tây)
Năm 1998, phần lớn doanh thu của Công ty là thu được từ hoạt động xuất khẩu (doanh thu xuất khẩu chiếm 63%). Nhưng tỷ lệ này sang các năm sau tăng lên cùng với sự tăng lên của tổng doanh thu . Cụ thể là năm 1999 doanh thu xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 72,5% tổng doanh thu của công ty và các năm 2000 tỷ lệ này tăng lên nhưng vẫn chỉ ở mức 73,4% trên tổng doanh thu. Nguyên nhân là do công ty đã biết chú trọng vào các mặt hàng truyền thống như mây tre hàg thủ công mỹ nghệ ...
Năm 1999 tăng 1,29 lần tương ứng với 31.136.884 đồng. Sang năm 2000 so với năm 1999 tăng 1,55 lần tương ứng với 75.400.005 đồng. Điều đó chứng tỏ hoạt động của công ty ngày càng phát triển .
Nếu xem xét lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu trên tổng lợi nhuận của công ty thì:
Bảng 6: Tổng lợi nhuận và lợi nhuận từ xuất khẩu của công ty XNK Hà Tây
Đơn vị: 1000VND
Năm
1998
1999
2000
99/98
2000/99
Chỉ tiêu
Trị giá
%
Trị giá
%
Trị giá
%
Stiền
TT
%
Stiền
TT
%
LN
XK
1.886.411
69
2.701.845
77
3.581.016
81
815.434
143
879.171
132
Tổng LN
2.634.855
100
3.510.232
100
4.379.482
100
875.377
133
869.610
124
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động xuất khẩu của công ty XNK Hà TâY)
Như vậy, trong các năm từ 1998 đến 2000 lợi nhuận của công ty liên tục tăng lên cùng với sự tăng lên của tổng lợi nhuận.
Năm 1999 so với năm 1998 tăng 1,5 lần tương ứng với 815.434.000 đồng. Năm 2000 so với năm 1999 tăng 1,29 lần tương ứng với 879.171.000 đồng. Lợi nhuận xuất khẩu của công ty chiếm tỉ lệ lớn trong tỏng lợi nhuận của công ty .
Qua các năm lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu của công ty không ngừng tăng lên, năm 2000 đạt ở mức cao nhất là 3.581.016.000 đồng chiếm 81% của tổng lợi nhuận. So với năm 1998 tăng 1,89% mức tuyệt đối là 1.694.605.000 đồng.
2. Nguồn hàng xuất khẩu của công ty.
2. 1. Nguồn hàng xuất khẩu.
Nguồn hàng xuất khẩu là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của công ty. Vì vậy việc tổ chức thu mua tạo nguồn là một vấn đề hết sức quan trọng. Hiện nay công ty tổ chức thu mua hàng xuất khẩu từ các địa phơng, các cơ sở sản xuất nằm rải rác trên cả nớc. Việc mở rộng được thị trường thu mua của công ty trong thời gian qua là kết quả đáng mừng và nó sẽ giúp cho công tác thu mua tạo nguồn hàng đạt kết quả cao nếu công ty biết khai thác một cách triệt để.
Địa bàn thu mua tạo nguồn của công ty được phân bố theo các chi nhánh trực thuộc:
- Tại khu vực phía bắc: do ba chi nhánh Lạng Sơn, Chương Mỹ, Hà Đông tổ chức. Các mặt hàng chủ yếu là hàng mây tre đan, rau quả, thảm len ,thảm cói....
- Tại khu vực Nam Bộ: do chi nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức. Các mặt hàng nhẹ da thuộc, mành trúc,...
Ngoài ra công ty còn tổ chức thu mua trực tiếp từ các cơ sở sản xuất chế biến, chủ yếu là các mặt hàng như gốm sứ, hàng may mặc, nhãn, vải khô. . . được sản xuất tại các khu vực Miền Bắc.
Như vậy, hàng hoá thu mua phục vụ cho xuất khẩu của công ty ở các tỉnh khu vực phía Bắc chiếm một tỷ lệ lớn, đây cũng là điều kiện thuận lợi về địa hình cho hoạt động xuất khẩu của Công ty vì thị trường xuất khẩu của công ty chủ yếu là Ba lan...
Tuy nhiên, tại các khu vực miền Nam, Công ty cũng đã tiến hành thu gom được một lượng hàng hoá xuát khẩu tương đối lớn.
Việc tổ chức thu mua tạo nguồn của công ty đợc phản ánh qua sơ đồ
Sơ đồ 2:
Hàng hoá từ các hộ gia đình sản xuất có thể được thu gom qua các nhà buôn nhỏ địa phương, các chi nhánh của Công ty rồi về Công ty; hoặc có thể được đưa trực tiếp về công ty.
Hàng hoá từ các cơ sở sản xuất chế biến cũng có thể được đa trực tiếp về Công ty không qua khâu trung gian.
Có thể nói việc thua mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu của Công ty được thực hiện dưới rất nhiều hình thức khác nhau:
2. 2. Các hình thức tạo nguồn.
Thời gian qua việc thu gom hàng hoá ở các nguồn hàng của công ty được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau:
2. 2. 1 Thu mua tạo nguồn theo hợp đồng
Đây là hình thức thu mua chủ yếu của công ty, nó chiếm gần 80% giá trị hàng mua. Công ty dựa trên yêu cầu của các đơn hàng từ phía khách hàng nước ngoài để đưa ra các điều kiện phù hợp với hợp đồng thu mua về chất lượng, số lượng, mẫu mã, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn giao hàng. Sau khi cả hai bên công ty và người cung ứng đã thoả thuận song thì tiến hành ký kết hợp đồng. Thông thường công ty sẽ trả tiền cho người bán sau khi nhận đợc hàng hoá theo các điều khoản đã ghi trong hợp đồng. Trong những trờng hợp ký kết các hợp đồng lớn với các cơ sở sản xuất cung ứng đáng tin cậy đã có quan hệ truyền thống với công ty thì công ty ứng trớc một phần tiền cho họ và thường giữ lại trên 20% giá trị hợp đồng và sẽ được thanh toán khi kết thúc hợp đồng.
2. 2. 2. Thu mua tạo nguồn không theo hợp đồng.
Hình thức này được công ty áp dụng đối với việc mua bán thu gom hàng trôi nổi trên thị trường, hàng hoá của các hộ gia đình với khối lượng nhỏ, phân tán nó có tác dụng bổ sung cho các nguồn hàng khác cha đủ về số lượng. Tuy nhiên hình thức này có nhược điểm là chất lượng hàng mua không đồng đều và thường ở mức thấp.
Ngoài ra, công ty cũng áp dụng các hình thức thu mua tạo nguồn hàng khác nhưng với số lợng nhỏ, không thường xuyên, chỉ chiếm một tỷ lệ khoảng 2, 5% trong tổng giá trị thu mua của công ty chẳng hạn như hình thức thu mua tạo nguồn theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng, theo phương thức hàng đổi hàng.
Hoạt động xuất khẩu của xuất nhập khẩu Hà Tây chủ yếu là thị trường Ba Lan, mặc dù các năm 99, 2000 mặt hàng xuất khẩu của công ty đã lên tới trên 14 mặt hàng. Việc xuất khẩu nhiều mặt hàng này có ảnh hưởng không ít đến công tác thu mua, tuy đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường nhưng khó khăn cho việc hoạch định chiến lợc thu mua kế hoạch mặt hàng. Vì mỗi mặt hàng có những đặc tính hàng hoá riêng nên việc tổ chức thu mua phải có nghiệp vụ phù hợp.
Trong cơ chế thị trường hiện nay các hình thức mua hàng tạo nguồn cho xuất khẩu rất phong phú và đa dạng. Tuỳ theo từng trường hợp cung cầu cụ thể mà công ty có thể áp dụng các hình thức và biện pháp khác nhau sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
3. Tình hình xuất khẩu theo cơ cấu thị trường .
Thị trường xuất khẩu của công ty trong thời gian qua bị bó hẹp ở thị trường Ba lan. Đây là thị trường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu vì Ba lan là thị trường lớn nhất trong khu vực đồng thời cũng là thị trường lớn nhất thế giới. Thị trường này có nhu cầu đa dạng về hàng hoá được công ty khai thác một cách triệt để nhất. Ngoài ra, công ty cũng đã mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước khác trong khu vực và thế giới như: Hồng kông, liên bang Nga. . . đây cũng là những thị trường đầy triển vọng của công ty.
Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu theo cơ cấu thị trường của công ty
Đơn vị: USD
Stt Thị trường
xuất khẩu 1998 1999 2000
Trị giá % Trị giá % Trị giá %
1 Ba lan 1.936.231 23,98 2.363.471 24,26 4.783.010 31,07
2 Đài loan 1.325.871 16,42 1.637.583 16,81 2.781.236 18,06
3 LB Nga 1.237.286 15,32 1.507.210 15,47 2.470.140 16,04
4 Bungary 1.156.972 14,33 1.398.208 14,35 1.947.310 12,65
5 Đức 973.872 12,06 1.261.872 12,95 1.780.016 11,56
6 Tiệp 876.346 10,85 998.178 10,24 1.373.879 8,92
7 Hungary 321.678 3,98 421.536 4,32 847.213 5,5
8 Hồng kông 225.387 2,79 130.789 1,34 298.179 1,93
9 Các TT khác 17627 0,21 21032 0,21 112.612 0,73
Cộng 8.071.270 100 9.739.879 100 15.393.595 100
(Nguồn: Báo cáo xuất khẩu của công ty XNK Hà Tây)
Năm 1998, thị trường Ba lan đã chiếm tới gần 23,98% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty, tiếp đó là đến các thị trường Đài loan (16, 42%), Liên Bang Nga (15,32%). . .
Sang năm 1999, ngoài các thị trường truyền thống công ty đã mở rộng thị trường sang một số nước chẳng hạn Hồng kông, Lào. . .
Trong các năm cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo thị trường của công ty cũng có sự thay đổi: Năm 1999, xuất khẩu sang thị trường Ba lan đã tăng lên rõ rệt về tỷ lệ phần trăm 24,26%. Đến năm 2000, do nhu cầu trên các thị trường Bungary, Tiệp có sự thay đổi đã làm cho kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này giảm sút khá mạnh. Mục tiêu năm 2001 Công ty lấy lại các thị trường này và tiếp tục mở rộng thị trường sang các khu vực khác.
4. Tình hình xuất khẩu theo cơ cấu thị trường .
Mặt hàng xuất khẩu của công ty là những mặt hàng nông, lâm sản , thủ công mỹ nghệ ,hàng may mặc....Đặc điểm của nguồn hàng này là phân bố rời rạc , chất lượng không ổn định , so với tiêu chuẩn còn thấp hơn các nớc cạnh tranh rất nhiều.Vì vậy để hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì việc nghiên cứu tạo nguồn và cân đối các mặt hàng là rất quan trọng trong việc tạo ra được nguồn hàng ổn định, chất lượng đồng đều hơn.
Bảng 8: Tình hình xuất khẩu theo cơ cấumặt hàng năm 1998-2000
Đơn vị: USD
TT
Tên hàng
Trị giá
So sánh
1998
1999
2000
99/98
2000/99
S.tiền
TT
%
S.tiền
TT
%
1
Hàng mây tre
2.426.053
2.595.447
2.631.938
169.394
106
36.491
101
2
Gỗ mỹ nghệ
473.038
20.383
678.321
-452.700
4,3
657.938
332
3
Hoa quả khô
18.786
130.146
874.583
111.360
629,7
744.437
672
4
Tơ tằm
1.136.189
2.553.300
2.346.381
1.417.111
224
-206.919
91,89
5
Da thuộc
2.303.212
2.210.098
2.341.578
-93.114
95,95
131.480
105
6
Mành trúc
181.800
181.695
266.321
-105
99,94
84.626
146
7
Hoaquả tươi
47.476
121.142
2.837.189
73.666
259
2.716.047
234
8
Thảm len
837.296
591.785
1.323.833
-245.511
70,67
732.048
223
9
Thảm cói
746.370
132.883
281.346
-713.687
18,80
148.463
211
10
Thảm đay
82.760
232.695
687.326
149.935
281
454.631
295
11
Quầnáodệt
524.850
378.457
-146.393
72,1
12
Chè khô
143.251
572.382
429.131
399
13
Vánốp pơmu
411.869
37,37
14
Đường kính
457.879
33,61
Cộng
8.071.270
9.739.879
15.393.595
2.718.072
120
5.242.975
132
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1998 của công ty là 8.071.270 USD chiếm gần 63% tổng doanh thu .Đây là kết quả đáng mừng đối với một công ty vừa tham gia xuất khẩu được mấy năm .Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty nông, lâm sản , thủ công mỹ nghệ ,hàng may mặc.. (chiếm gần 23,98% tổng kim ngạch xuất khẩu).Mà đặc điểm của các mặt hàng này chỉ qua sơ chế , không phải là những hàng hoá có trình độ sản xuất cao .Tuy nhiên với 10 mặt hàng công ty đã phần nào khẳng định vị trí của mình.
Sang năm 1999 tình hình kinh doanh xuất khẩu của công ty khá phát triển , mặt hàng kinh doanh cũng đa dạng và phong phú hơn .Kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty có tiến bộ rõ rệt, xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước .Công ty đã mở rộng thêm 2 mặt hàng là quần áo dệt kim, chè khô.Nhưng với mức doanh thu hơn 186 tỷ đồng thì kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 72,5% tổng doanh thu.Điều đó chứng tỏ ngoài hoạt động xuất khẩu, công ty đã mở rộng các hình thức hoạt động khác và có kết quả. Điều này hoàn toàn hợp lý vì do các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu ngày càng tăng nên mức độ cạnh tranh ngày càng cao.
Đến năm 2000, ngoài các mặt hàng truyền thống công ty đã mở rộng thêm các mặt hàng khác như đường kính , ván ốp pơmu. Công ty đã biết tận dụng khả năng của mình thu mua các mặt hàng khác để phát huy hết khả năng xuất khẩu của mình
Xét về khả năng xuất khẩu, từ năm 1998-2000 công ty đầu tư mở rộng các mặt hàng kinh doanh như che ,quần áo, đường kính ,ván ốp pơmu
Tổng kim ngạch xuất khẩu từ năm 1998 là 8.071.270 USD đến năm 2000 là 15.393.595 USD tăng 1,9% với số tuyệt đối là 7.322.325 USD. Có thể nói mặt hàng và giá trị xuất khẩu của công ty đã từng bước phát triển rõ rệt, tuy nhiên tính cạnh tranh của các mặt hàng vẫn chưa cao .Vì vậy để nâng cao sức cạnh trang cho sản phẩm của mình, công ty phải nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, nghiên cứu mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu thị trường .
Mục tiêu năm 2001của công ty là tiếp tục mở rộng thị trường , mặt hàng xuất khẩu, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu.
5. Phân tích tình hình xuất khẩu theo hình thức xuất khấu.
Trong hoạt động xuất khẩu, Công ty XNK Hà Tây có chủ trương tận dụng mọi khả năng hiện có để thực hiên đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu nhằm tăng thu nhập cho Công ty. Thời gian qua, hoạt động xuất khẩu của Công ty chủ yếu diễn ra theo hai hình thức: Xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác.
Bảng 9: Kim ngạch xuất khẩu của Công ty theo hình thức xuất khẩu
Đơn vị: USD
Năm
1998
1999
2000
99._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0063.doc