Mục lục
LờI NóI ĐầU
Lời nói đầu.
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Thời gian qua, Việt Nam đã đứng vững được trước những sóng gió biến động lớn bất lợi của tình hình thế giới và trong nước, nền kinh tế Việt Nam vẫn đứng trước nhiều thử thách.
Sau một thời gian thực hiện chủ trương đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có dáng dấp của một nền kinh tế thị trường. Những quan hệ hàng hoá, tiền tệ đang dần dần thay thế quan hệ phân phối hiện vật của thời kỳ tậ
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biện pháp tăng cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh trong các Doanh nghiệp nhà nước của nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p trung quan liêu bao cấp. Bộ mặt kinh tế của đất nước đã có những thay đổi cơ bản, những nguồn lực quý báu của đất nước đã được sử dụng hiệu quả hơn. Quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước đã đi vào chiều sâu là cơ hội để Việt Nam hội nhập tốt hơn vào nền kinh tế thế giới. Mức sống của nhân dân được cải thiện, tốc độ tăng trưởng ở mức cao, trong điều kiện phải đối phó với muôn vàn khó khăn từ bên trong và từ bên ngoài, đã phần nào khẳng định được tính chất đúng đắn của con đường cải cách, từ đó cho phép đặt niềm tin vững chắc vào khả năng “cất cánh” của Việt Nam trong tương lai.
Kinh nghiệm thành công của các nước đi trước đã để lại nhiều bài học quan trọng. Có nước đã sử dụng nguồn vốn bên ngoài làm nguồn vốn chủ lực cho sự phát triển, còn nguồn vốn tích luỹ trong nước chỉ có tính chất bổ trợ cho nguồn vốn bên ngoài. Ơ một số nước khác, với ý thức tự lập tự chủ cao và không muốn từ chỗ lệ thuộc về kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị đã lựa chọn nguồn vốn nội địa làm nguồn vốn chủ đạo để phát triển. Tuy phương thức lựa chọn nguồn vốn chủ đạo có khác nhau và sự thành công của các nước cũng khác nhau theo nhiều góc độ, nhưng nhìn chung ở mỗi loại đều có một ưu thế nhất định.
Để bắt nhịp cùng với đà đi lên của đất nước. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đua nhau để phát triển. Trong mỗi doanh nghiệp vốn cũng là điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất để doanh nghiệp có thể tồn tại phát triển và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, vấn đề để huy động vốn từ những phương thức nào là rất quan trọng nó luôn gắn chặt với tiến trình phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Doanh nghiệp Nhà nước là một trong những thành phần kinh tế được Nhà nước ưu tiên phát triển và giữ một vai trò chủ đạo nhất trong nền kinh tế đất nước ta. Việc đưa ra được một phương thức huy động vốn tối ưu nhất là mối quan tâm hàng đầu của mỗi doanh nghiệp
Xuất phát từ đòi hỏi trên và cũng là phù hợp với chuyên ngành Tài Chính Doanh Nghiệp của em . Vì vậy, em quyết định chọn đề tài : “Biện pháp tăng cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh trong các Doanh nghiệp nhà nước của nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài của em bao gồm 2 chương
Chương I : Vốn và tầm quan trọng của vốn đối với các doanh nghiệp
Chương II : Biện pháp tăng cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở nước ta hiện nay.
Chương I
Vốn và tầm quan trọng của vốn đối với các doanh nghiệp
1.1 Tổng quan về vốn của doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhận thức được điều đó đã có nhiều quan niệm khác nhau về vốn mà các nhà kinh tế học đã đưa ra. Dưới đây là một số khái niệm về vốn
1.1.1 Các khái niệm về vốn
Theo quan điểm của Marx, ông cho rằng : dưới góc độ các yếu tố sản xuất, vốn đã được khái quát hoá thành phạm trù tư bản trong đó nó đem lại giá trị thặng dư và là “một đầu vào của quá trình sản xuất”
Định nghĩa về vốn của Marx có một tầm khái quát lớn vì nó bao hàm đầy đủ cả bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn chính là giá trị, cho dù nó có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như đất đai, nhà cửa, máy móc… vốn là gía trị đem lại giá trị thăng dư vì nó tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất – kinh doanh. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ kinh tế lúc bấy giờ, Marx chỉ bó hẹp khái niệm về vốn trong khu vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ có kinh doanh sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Paul Samuelson, người đại diện cho trường phái tân cổ điển đã thứa kế quan niệm về các yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và phân chia các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất ra thành ba loại chủ yêú là đất đai lao động và vốn. Theo ông vốn là “ các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất rất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp”, vốn có thể là máy móc, trang thiết bị, vật tư …
Tuy nhiên, trong quan niệm về vốn của mình, Samuelson lại không đề cập tới các tài sản tài chính, những giấy tờ có giá có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ông đã đồng nhất vốn với tài sản cố định của doanh nghiệp
Theo David Begg, tác giả cuốn “kinh tế học” thì vốn bao gồm vốn hiện vật và vốn tài chính doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hoá đã sản xuất để sản xuất ra hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp
Marx mới định nghĩa được về vốn một cách khái quát
Paul Samuelson và David Begg thì đã đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất là biểu hiện bằng tiền của tất cả tài sản của doanh nghiệp dùng trong sản xuất kinh doanh. Vốn của doạnh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định để thực hiện những khoản đầu tư cần thiết như chi phí thành lập doanh nghiệp, mua sắm nguyên vật liệu, trả lãi vay nộp thuế và nhiều khoản khác đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục. Ngoài ra còn phải kể đến chi phí mua công nghệ và máy móc thiết bị mới… để tái sản xuất mở rộng. Do vậy, vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có nhiều hình thái vật chất khác nhau để từ đó tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường vốn được coi là một loại hàng hóa. Nó giống các hàng hoá khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, nhưng nó lại có đặc điểm khác vì người sở hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Cái giá của quyền sử dụng vốn chính là lãi suất. Chính nhờ có sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh và có thể sinh lời. Với doanh nghiệp, vốn là một trong nhứng điều kiện vật chất cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình sản xuất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất tiêu thụ, suốt cả thời gian tồn tại của doanh nghiệp
Quan niệm về vốn trong nền kinh tế thị trường đã được đúc kết lại như sau : “ vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp tạo ra giá trị thặng dư”.
1.1.2 Các nguồn vốn của doanh nghiệp và phương thức huy động
Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp có thể có các phương thức huy động vốn khác .Trong điều kiện kinh tế thị trường , các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp đượng đa dạng hoá nhằm khai thác mọi nguồn vốn trong nên kinh tế . Tuy nhiên , cần lưu ý rằng, trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam do thi trường tài chính chưa phát triển hoàn chỉnh nên việc khai thác vốn có nhiều nét đặc trưng nhất định . Sự phát triển nhanh chóng và thị trường tài chính sẽ sớm tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng khả năng thu hút vốn vào kinh doanh.
1.1.2.1 Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận.
*Vốn góp ban đầu.
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông –chủ sở hữu góp.Khi nói đến nguồi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xết hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó ,vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp.
Đối với DNNN,vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước . Chủ sở hữu của các DNNN là Nhà nước. Hiện nay cơ chế quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn của doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế.
*Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Quy mô vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên, thông thường, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia, nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn rất quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng lợi nhuận từ tái đầu tư để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu doanh nghiệp đã và đang hoạt động có hiệu quả, được phép tiếp tục đầu tư. Đối với các DNNN thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước.
Tuy nhiên đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần (cổ tức) nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty.
Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt, khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt (ngắn hạn) do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể giảm sút.
*Phát hành cổ phiếu
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới
Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Chúng ta sẽ xem xét một số yếu tố cơ bản liên quan đến phát hành các loại cổ phiếu khác nhau. Có hai loại cổ phiếu được phát hành
** Cổ phiếu thường
Là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán, điều đó cũng đủ để chứng minh tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác
**Cổ phiếu ưu tiên
Cổ phiếu ưu tiên chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên là cách thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó có cổ tức cố định. Người chủ cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu lãi chỉ đủ trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thương sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó.
1.1.2.2 Nợ và các phương thức huy động nợ của doanh nghiệp
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất – kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn : tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu.
* Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân mỗi doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của mỗi doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn.
Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là có đủ vốn đảm bảo cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Về mặt thời hạn vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay, bao gồm: vay dài hạn (thường tính từ 3 năm trở lên ), vay trung hạn ( từ 1 năm đến 3 năm) và vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Tiêu chuẩn và quan niệm về thời hạn để phân loại trong thực tế không giống nhau giữa các nước và có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương mại.
Tuỳ theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại cho vay thành các loại như: cho vay đầu tư tài sản cố định, cho vay đầu tư tài sản lưu động, cho vay để thực hiện dự án. cũng có những cách phân chia khác như: cho vay theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức bảo đảm tiền vay.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm nhưng nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn
Đối với doanh nghiệp tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là nguồn tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh, hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác trong kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký kết hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Chi phí cho sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại thể hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hoá trả chậm, chi phí này có thể “ẩn” đưới hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc vào quan hệ thoả thuận cụ thể giữa các bên. trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới các hình thức tín dụng ngày càng được đa dạng hoá và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn; do đó, các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
*Phát hành trái phiếu công ty
trái phiếu là tên chung của các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn, bao gồm: trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Trái phiếu còn được gọi là trái khoán. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì nó liên quan đến chi phí trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trước khi quyết định phát hành cần hiểu rõ đặc điểm ưu và nhược điểm của mỗi loại trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước hiện nay thường lưu hành các loại trái phiếu doanh nghiệp như sau:
- Trái phiếu có lãi suất cố định
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi
- Trái phiếu có thể thu hồi
- Chứng khoán có thể chuyển đổi
1.2 Tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với mọi doanh nghiệp, dù thuộc bất kỳ thành phần nào, với bất kỳ quy mô nào thì vốn vẫn là điều kiên tiên quyết không thể thiếu được. Để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh vốn chính là tiền đề là cơ sở cho sự mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
Vốn quyết định mức độ trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất kinh doanh, quyết định khả năng đổi mới máy móc thiết bị, quy trình công nghệ, phương pháp quản lý mới trong doanh nghiệp. Theo đó doanh nghiệp có thể liên tục đổi mới, nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm, tăng năng suất lao động.
Việc đảm bảo đủ nguồn vốn sẽ giúp doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất một cách thường xuyên và liên tục, doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh và lợi thế trong cạnh tranh.
Vốn được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn phải có sẵn trước khi hoạt động này phát sinh. Đó chính là khoản vốn mà doanh nghiệp phải ứng trước cho quá trình sản xuất kinh doanh. Về nguyên tắc: sau một chu kỳ kinh doanh, vốn phải được thu hồi để tiếp tục chu kỳ sản xuất kinh doanh khác, nếu không doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn có khi dẫn tới phá sản… vì vậy, doanh nghiệp phải có biện pháp quản lý vốn sao cho hiệu quả cao đảm bảo luôn đủ vốn đầu tư đúng lúc, đúng chỗ cho sản xuất kinh doanh. Tóm lại, doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp của mình.
Chương II
Biện pháp tăng, cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp Nhà nước
2.1 Thực trạng vốn tại các doanh nghiệp Nhà nước.
Đối với bất kỳ loại doanh nghiệp nào, dù là DNNN hay doanh nghiệp tư nhân, sự tồn tại và phát triển của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động tài chính của bản thân chúng, hay nói cách khác, sự sống còn của mỗi doanh nghiệp đều phụ thuộc vào hiệu quả của việc huy động và sử dụng vốn.
Hiện nay, DNNN năng lực quá yếu, quy mô vốn còn rất nhỏ bé. Điều này làm doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất – kinh doanh, khả năng thanh toán kém, dễ gặp rủi ro. Tính đến tháng 5 năm 2001 vốn chủ sở hữu bình quân mỗi DNNN ước khoảng 22 tỷ đồng. Trong đó, số DNNN có số vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm 59.8% ( số doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống chiếm 18.2%); số doanh nghiệp có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng chiếm 15.2% ; số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 25% . Các tổng công ty 90, 91 là những DNNN có mức vốn cao nhất hiện nay, nhưng vẫn là thấp so với các doanh nghiệp trên thế giới. Năm 2000 vốn bình quân của một công ty 91 khoảng 3885 tỷ đồng, nếu tính theo tỷ giá 15000 đ/USD thì nó vào khoảng 259 triệu USD ( trong đó có 5 tổng công ty có mức vốn dưới 1000 tỷ đồng là Công nghiệp tàu thuỷ; cà phê; Lương thực miền Nam; Lương thực miên Bắc; Thuốc lá). Vốn bình quân của một tổng công ty 90 khoảng 284 tỷ đồng, nếu tính theo tỷ gía 15000đ/USD thì vốn bình quân đó khoảng 18.9 triệu USD. Trong khi đó nếu so với các công ty nhỏ ( 6 đến 50 lao động) ở các nước công nghiệp phát triển hiện nay đang có số vốn từ 3 đến 50 triệu USD ( nếu tính theo tỷ giá 15000đ/USD thì số vốn đó là 45 tỷ đồng đến 750 tỷ đồng), còn công ty có từ 200-500 lao động của họ có vốn hàng trăm triệu USD, các tập đoàn xuyên quốc gia và các công ty lớn trên thế giới thì có số vốn lên tới hàng chục, trăm tỷ USD . Như vậy, trong thời gian tới khi Việt Nam hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị bất lợi so với các doanh nghiệp ở các nước công nghiệp phát triển về mặt tài chính. Đây là mối đe doạ đối với các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam.
2.2 Các phương thức huy động vốn của DNNN
Trên cơ sở phân tích thực trạng về tình hình vốn trong các DNNN hiện nay, vấn đề đặt ra cần phải giải quyết là các DNNN cần phải bổ sung và huy động vốn để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp mình như thế nào? Dưới đây em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để huy động vốn trong các DNNN ở nước ta hiện nay.
2.2.1 Nguồn vốn huy động từ ngân sách Nhà nước
Bất cứ doanh nghiệp nào khi thành lập phải có vốn điều lệ. Về nguyên tắc, số vốn theo điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng tổng mức vốn pháp định mà Nhà nước dã quy định cho các ngành nghề. Vì thế, ngay từ khi có quyết định thành lập, DNNN phải được Nhà nước cấp vốn điều lệ theo đúng điều lệ thành lập DNNN ( không trễ hơn 30 ngày kể từ ngày có quyết định thành lập) Vốn cấp có thể bằng tiền hoặc bằng quyền sử dụng đất, bằng các tài sản hữu hình, vô hình khác được đánh giá theo thời giá nhằm đảm bảo cho DNNN có thể sản xuất kinh doanh bình thường và phải cạnh tranh được trên thị trường. Trong quá trình kinh doanh, nếu thiếu vốn, doanh nghiệp nhà nước phải tự xoay sở trên thị trường vốn, nhà nước không cấp thêm.
Tuy nhiên, việc cấp phát vốn của nhà nước cho các DNNN đã phạm phải một số hạn chế nhất định
Thứ nhất là cơ chế cấp vốn từ ngân sách nhà nước cho DNNN trong thời gian qua ở Việt Nam, cơ chế này có nhiều nhược điểm. Đó là cấp theo lối bình quân, chia đều cho mọi doanh nghiệp trong đó có nhiều doanh nghiệp không đáng được cấp. Mặt khác, do vốn ngân sách có hạn và không phải lúc nào cũng có sẵn, nên việc cấp cho doanh nghiệp nào trước, doanh nghiệp nào sau và cấp cho doanh nghiệp nào đủ mức quy định, doanh nghiệp nào không đủ mức quy định là vấn đề nan giải, vừa tạo khe hở lớn cho các hành vi tiêu cực cho cả hai phía cán bộ cấp phát và doanh nghiệp.
Nhược điểm khác nữa, đó là Nhà nước chưa xác định đúng đội tượng các doanh nghiệp cần được ngân sách cấp. Thực tế, cơ chế cấp vốn của ngân sách cho các doanh nghiệp rất lỏng lẻo nhiều khi còn đồng nghĩa với “cho không”. điều này thể hiện ở cơ chế “cho vốn, xin vốn”. Vốn đầu tư đi từ ngân sách nhà nước và trở về nơi xuất phát với khối lượng ít hơn, thậm chí như không trở về đối với các doanh nghiệp thuộc các ngành kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. Trong suốt thời kỳ bao cấp tình trạng “lãi giả, lỗ thật” của các doanh nghiệp là phổ biến.
Thứ hai là thực chất từ nhu cầu vốn của DNNN hiện nay. DNNN có thiếu vốn không? Đây là vấn đề rất phức tạp cần được xem xét thận trọng để phân biệt doanh nghiệp nào thiếu vốn thực sự, doanh nghiệp nào “cố tình” thiếu vốn?
Từ thực tế trên, đòi hỏi cần đưa ra một cơ chế cấp vốn cho DNNN một cách hợp lý hơn. Em xin nêu ra đề xuất của kỹ sư Phạm Tuân – Tổng giám đốc tổng công ty xây dựng công trình giao thông 5 về giải pháp cải tiến cơ chế cấp vốn cho DNNN đã được đánh giá là có tính khả thi. Theo đề xuất, Chính phủ không cấp vốn tản mạn cho DNNN mà khẩn trương dồn vốn cho bốn Ngân hàng thương mại quốc doanh. Sau đó, các ngân hàng này cấp cho các DNNN với lãi xuất bằng tỷ lệ thu sư dụng vốn ngân sách trước đây cộng với phí ngân hàng. Số vốn ngân hàng cho DNNN vay ưu đãi cũng bằng cấp vốn của bộ tài chính và các bộ liên quan cho DNNN. Điều này sẽ buộc các DNNN phải tính toán, quản lý và sử dụng đồng vốn vay có hiệu quả nhất. Vốn Nhà nước không những có điều kiện được bảo toàn mà hiệu quả kinh doanh của DNNN sẽ được nâng lên. Đồng thời, khi ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn, các Ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ có khả năng bảo lãnh hoặc cho các DNNN vay các hợp đồng kinh tế, mọi dự án khả thi được các cấp có thẩm quyền phê duyệt không làm lỡ cơ hội kinh doanh của các DNNN như trước đây
Bên cạnh đó, thực hiện phương thức đầu tư và quản lý vốn tại doanh nghiệp thông qua Công ty đầu tư tài chính Nhà nước cũng là một giải pháp hay. Công ty đầu tư tài chính nhà nước là một tổ chức tài chính của Nhà nước có chức năng kinh doanh vốn của Nhà nước qua phương thức đầu tư vốn vào doanh nghiệp, nhằm mục đích: chuyển từ cơ chế nhà nước cấp vốn sang cơ chế Nhà nước đầu tư vốn vào doanh nghiệp ; xác lập rõ quyền sở hữu về vốn của nhà nước và quyền sử dụng vốn của DNNN; chuyển phương thức quản lý tài chính mang tính chất hành chính đối với doanh nghiệp có vốn Nhà nước sang phương thức kinh doanh vốn theo cơ chế thị trường góp phần thực hiện nhanh quá trình công ty hoá DNNN và xoá bỏ cơ chế chủ quan, cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp. Công ty đầu tư tài chính nhà nước có nhiệm vụ thực hiện quyền chủ sở hữu về vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, thông qua đó điều chỉnh cơ cấu vốn nhà nước theo mục tiêu quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kin doanh và sử dụng vốn của khu vực DNNN.
2.2.2 Huy động vốn thông qua hệ thống ngân hàng
Sau khi sử dụng hết nguốn chủ sở hữu, khi nhu cầu vốn tăng, DNNN được phép huy động tận dụng các nguồn vốn bên ngoài theo nguyên tắc có hoàn trả dưới hình thức tín dụng hoặc chiếm dụng hợp pháp. Tuyệt đối không phát hành cổ phiếu ra đại chúng. Điều đó có nghĩa là khi DNNN thiếu vốn thì có thể vay ở ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
Thực hiện nghị định số 49/CP ngày 6 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ, các Ngân hàng thương mại quốc doanh đã cho DNNN vay vốn mà không phải thế chấp tài sản. sau một thời gian dài ( từ tháng 6 năm 1997 đến tháng 4 năm 2000) được vay vốn tại các ngân hàng thương mại quốc doanh với những điều kiện ưu đãi, các DNNN vẫn không sử dụng vốn có hiệu quả và không phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhiều DNNN hoạt động kinh doanh không có hiệu quả (hoà vốn hoặc thua lỗ), nên khi nợ đến hạn, doanh nghiệp đã không có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng. Sự ưu đãi về vay vốn của DNNN tại các ngân hàng thương mại quốc doanh còn thể hiện ở chỗ: trong trường hợp DNNN còn nợ quá hạn và hoạt động kinh doanh thua lỗ những khoản nợ quá hạn chưa được xử lý, thì ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn cho doanh nghiệp vay vốn tiếp, nếu doanh nghiệp có phương án kinh doanh có hiệu quả và được Bộ (đối với doanh nghiệp Trung ương) hoăc uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ( đối với doanh nghiệp địa phương ) chấp thuận. Lợi dụng quy định trên một số DNNN đã “tô màu” phương án kinh doanh để được tiếp tục vay vốn, cho dù nợ cũ chưa trả hết và hoạt động kinh doanh không có lãi. Hậu quả là sự thua lỗ của một số DNNN trong những năm trước đây không những dẫn đến phải giải thể, pha sản hoặc chuyển đổi sang các hình thức kinh doanh khác ( khoán, cho thuê, cổ phần hoá) mà còn ảnh hưởng đến vốn kinh doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh do không thu hồi được vốn cho vay.
Rút kinh nghiệm từ thực tiễn và để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong quan hệ vay vốn với ngân hàng, ngày 29 tháng 12 năm 1999 Chính phủ đã ban hành nghị định số 178/1999/NĐ-CP về đảm bảo tiền vay cho các tổ chức tín dụng. Theo đó, tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định cho vay đảm bảo bằng tài sản và chịu trách nhiệm trước quyết định của mình. Vì vậy, việc vay vốn không phải thế chấp tài sản là một quyết định chủ quan của ngành ngân hàng nữa mà là quy định của luật các tổ chức tín dụng và nghị định số 178 nói trên của Chinh phủ. Do đó, các DNNN cũng như các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác phải có đủ những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật mới được vay vốn ngân hàng chứ không được vay vốn theo điều kiện ưu đãi (không phải thế chấp tài sản) như trước đây.
Quy định mới của Chính phủ đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhà nước tiếp cận vay vốn ngân hàng.
Khó khăn thứ nhất là : DNNN không đủ điều kiện để vay thế chấp
Đối với doanh nghiệp được vay vốn không có đảm bảo bằng tài sản thì doanh nghiệp phải đáp ứng được điều kiện sau : có tín nhiệm với tổ chưc tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi; có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi trong hai năm liền kề. Nếu xét theo những điều kiện này thì phần lớn các DNNN không được vay vốn ngân hàng bằng tín chấp, vì trong thời gian qua đa số các doanh nghiệp nhà nước đều hoạt động kinh doanh không có lãi và thường có dư nợ quá hạn tại các NHTM nhà nước.
Bên cạnh những khó khăn về việc vay vốn không có bảo đảm bằng tài sản thì các quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp thường bị các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự hoá nếu khách hàng vay không trả được nợ đến hạn và những người đứng đầu doanh nghiệp ( giám đốc, phó giám đốc và kế toán trưởng..) bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy, mặc dù nhiều Doanh nghiệp Nhà nước vẫn đang thiếu vốn để phát triển sản xuất kinh doanh và ngân hàng đang tồn đọng vốn huy động nhưng các lãnh đạo ngân hàng không dám mạo hiểm giải quyết cho DNNN vay vốn. Khi các doanh nghiệp này không đủ điều kiện được vay vốn bằng tín chấp và không có tài sản bảo đảm. Trong khí số lượng các DNNN có đủ điều kiện được vay vốn ngân hàng không có bảo đảm là rất ít.
Chính vì vậy mà tài sản bảo đảm được coi như một điều kiện tiên quyết để ngân hàng xem xét, quyết định cho vay vốn đối với các DNNN.
Thứ hai là thiếu cơ sở pháp lý về việc xác nhận tài sản của DNNN được thế chấp cầm cố.
Trước đây, việc thế chấp cầm cố tài sản của DNNN để vay vốn ngân hàng được thực hiện theo thông tư liên bộ số 01/TT-LB ngày 3 tháng 7 năm 1996 của NHNN, Bộ tư pháp, Bộ tài chính. Theo thông tư này, thì khi thế chấp, cầm cố tài sản để vay vốn ngân hàng, DNNN lập danh mục các tài sản để thế chấp cầm cố theo mẫu quy định để được cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Trên cơ sở xác nhận của cơ quan quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước mới được dùng một và / hoặc nhiều tài sản trong số danh mục tài sản đã được xác nhận để thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng và cơ quan công chứng mới có cơ sở xem xét, chứng nhận hợp đồng thế chấp. Nhưng kể từ ngày 19 tháng 4 năm 2000 , thông tư số 26/2000/TT/NHNN1 ngày 4/4/2000 của NHNN có hiệu lực thi hành và thay thế Thông tư liên bộ số 01 nói trên, nên DNNN thiếu những cơ sở pháp lý cần thiết để làm thủ tục thế chấp tài sản vây vốn ngân hàng.
Thực tế, khi ngân hàng và DNNN yêu cầu cơ quan công chứng nhận hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản thì không cơ quan công chứng nào công chứng hợp đồng thế chấp theo yêu cầu của các bên vì tài sản Nhà nước được dùng để thế chấp cầm cố chưa có sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan ra quyết định thành lấp doanh nghiệp. Hiện nay, mặc dù nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ đã cho phép các bên được thoả thuận việc công chứng, chứng thực hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản chứ không quy định bắt buộc như trước đây nữa, nhưng các ngân hàng vẫn đề nghị khách hàng vay phối hợp với mình để làm thủ tục công chứng, chứng thực hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản.
Trước những bức xúc về vốn vay của các DNNN và vốn còn tồn đọng tại các NHTM , ngày 20/9/2001 vừa qua, Bộ tư pháp dă chủ trì một cuộc họp có sự tham dự của các cơ quan liên quan để bàn bạc, tháo gỡ những vướng mắc về thế chấp, cầm cố tài sản của DNNN nói trên. Sau khi trao đổi và lắng nghe ý kiến đề xuất giải quyết của từng người, ông Hà Hùng Cường thứ trưởng bộ tư pháp đã thống nhất ý kiến với đại diện các Bộ, cơ quan ngang Bộ như sau : kiến nghị lên Chính phủ sửa đổi bổ sung Nghị đinh số 59 và Nghị định số 27 nói trên cho phù hợp với quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước. Trên cơ sở đó, đề nghị chính phủ giao cho các cơ quan quản lý ngành kinh tế- kỹ thuật ban hành các văn bản hướng dẫn về cách xác định thiết bị, nhà xưởng quan trọng; đồng thời phân cấp cho các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ hoặc của Bộ quản lý chuyên ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố xem xét, giải quyết khi DNNN xin thuê, thế chấp, cầm cố tài sản để vay vốn ngân hàng.
Thứ ba: Không công chứng hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất và quyền sủ dụng đất.
Hiện nay, trong số tài sản thế chấp, cầm cố còn tồn đọng chưa được xử lý tại các NHTM thì có đến 70 đến 85% tổng số giá trị tài sản là giá trị quyền sử dụng đất và gắn liền với đất. Do đó, nếu giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của DNNN hội đủ các điều kiện về tài sản thế chấp để đảm bảo vay vốn ngân hàng thì các DNNN sẽ không còn lo thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Tuy nhi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28882.doc