Tài liệu Biện pháp phát triển ngành dịch vụ Logistics ở Việt Nam: Phần mở đầu
Cách đây vài thế kỷ, thuật ngữ Logistics đã được sử dụng trong quân đội và được hoàng đế Napoleon nhắc đến trong câu nói nổi tiếng "Kẻ nghiệp dư bàn về chiến thuật, người chuyên nghiệp bàn về logistics".
Ngày nay, thuật ngữ logistics được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế như một ngành mang lại nhiều nguồn lợi to lớn không những cho các doanh nghiệp mà cho cả nền kinh tế quốc dân.
Dịch vụ logistics là ngành dịch vụ xuyên suốt quá trình sản xuất, phân phối lưu thông hàng hoá, dịch... Ebook Biện pháp phát triển ngành dịch vụ Logistics ở Việt Nam
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1869 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Biện pháp phát triển ngành dịch vụ Logistics ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ trong nền kinh tế. Đây là một công cụ hữu hiệu hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thương trường.Với vai trò rất quan trọng và tác dụng to lớn của nó mà ngày nay trên thế giới dịch vụ logistics đã trở nên phổ biến và rất phát triển, được các doanh nghiệp coi là một thứ vũ khí cạnh tranh mới hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao.
Trong vài thập niên trở lại đây, dịch vụ logistics đã phát triển nhanh chóng và mang lại những kết quả rất tốt đẹp ở nhiều nước trên thế giới, điển hình như: Hà Lan, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Mỹ...
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng của hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư, dịch vụ logistics tại Việt Nam đang có bước phát triển mạnh mẽ và là một trong những ngành có tiềm năng phát triển rất lớn.Tỷ trọng dịch vụ logistics chiếm khoảng 15% trong kim ngạch xuất khẩu. Trong mười năm tới, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 200 tỉ USD/năm và do đó tiềm năng phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam là rất lớn.Gia nhập WTO, bước vào sân chơi toàn cầu, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics sẽ có cơ hội phát triển nhanh. Tuy nhiên cũng sẽ có những khó khăn, thách thức bởi hiện nay quy mô của phần lớn các doanh nghiệp logistics Việt Nam còn nhỏ, tiềm lực tài chính yếu nguồn nhân lực cũng hạn chế nhiều mặt, thiếu kinh nghiệm thương trường...đồng thời theo cam kết gia nhập WTO, các công ty 100% vốn nước ngoài sẽ được phép hoạt động tại Việt Nam.Vì vậy, trong thời gian tới trong ngành dịch vụ logistics ở nước ta sẽ hứa hẹn sự cạnh tranh rất gay gắt.
Thấy rằng đây là một vấn đề còn khá mới ở Việt Nam và có tiềm năng phát triển lớn trong thời gian tới đồng thời được sự hướng dẫn tận tình của GS-TS Đặng Đình Đào nên trong đề án môn kinh tế thương mại em chọn đề tài:
"Biện pháp phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam"
Việc nghiên cứu về các dịch vụ logistics ở Việt Nam sẽ giúp em trang bị thêm kiến thức về lĩnh vực này, nắm được các vấn đề cơ bản về dịch vụ logistics cũng như thấy được sự phát triển của dịch vụ này ở Việt Nam như thế nào.Từ đó có thể đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam.
Nội dung của bản đề án bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lí luận cơ bản về các dịch vụ logistics.
Chương II: Thực trạng phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam.
Chương III: Phương hướng và một số biện pháp phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam trong thời gian tới.
Do trình độ và điều kiện nghiên cứu có hạn chế nên bản đề án không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em mong được sự giúp đỡ và góp ý của các thầy cô để bài đề án được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phần nội dung
Chương I: Những vấn đề lí luận cơ bản về các dịch vụ logistics.
Bản chất, vai trò và tác dụng của các dịch vụ logistics.
Bản chất của các dịch vụ logistics.
1.1 Các quan niệm về logistics và các dịch vụ logistics.
Thuật ngữ logistics đã có từ khá lâu trong lịch sử.Lần đầu tiên logistics được phát minh và ứng dụng không phải trong hoạt động thương mại mà là trong lĩnh vực quân sự.Logistics được các quốc gia ứng dụng rất rộng rãi trong hai cuộc Đại chiến thế giới để di chuyển lực lượng quân đội cùng các vũ khí có khối lượng lớn và đảm bảo hậu cần cho lực lượng tham chiến.Sau khi chiến tranh thế giới kết thúc, các chuyên gia logistics trong quân đội đã áp dụng các kỹ năng logistics của họ trong hoạt động tái thiết kinh tế thời hậu chiến. Trải qua dòng chảy lịch sử, logistics ngày càng được nghiên cứu và áp dụng sâu vào lĩnh vực kinh doanh.Có rất nhiều khái niệm khác nhau về logistics cũng như dịch vụ logistics được đưa ra bởi các tổ chức, cá nhân nghiên cứu về lĩnh vực này.
Theo Hội đồng quản trị Logistics của Mỹ (CLM) thì "Quản trị logistics là quá trình hoạch định, thực hiện và kiểm soát một cách hiệu quả chi phí lưu thông, dự trữ nguyên vật liệu, hàng tồn kho trong quá trình sản xuất sản phẩm cùng dòng thông tin tương ứng từ điểm xuất phát đầu tiên đến điểm tiêu dùng cuối cùng nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu của khách hàng".
Dưới góc độ quản trị chuỗi cung ứng, thì logistics là quá trình tối ưu hoá về vị trí, lưu trữ và chu chuyển các tài nguyên/yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát đầu tiên là nhà cung cấp, qua nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ, đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế (xem logistics and supply chain management, tác giả Ma Shuo, tài liệu giảng dạy của World Maritime University, 1999).
Theo ông Nguyễn Hùng, Phó Tổng Giám Đốc Công ty Kho vận miền Nam (Sotrans): Logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện, kiểm soát một cách hiệu quả những luồng lưu thông và khối lượng tồn kho của hàng hóa, dịch vụ và những thông tin liên quan đến chúng.
Theo quan điểm "5 đúng" thì :"Logistics là quá trình cung cấp đúng sản phẩm đến đúng vị trí, vào đúng thời điểm với điều kiện và chi phí phù hợp cho khách hàng tiêu dùng sản phẩm".Còn theo giáo sư David Simchi-Levi (MIT, USD) thì hệ thống Logistics là một nhóm các cách tiếp cận được sử dụng để liên kết các nhà cung cấp, nhà sản xuất, kho, cửa hàng một cách hiệu quả để hàng hóa được sản xuất đúng số lượng, đúng địa điểm và đúng thời điểm nhằm mục đích giảm thiểu chi phí trên toàn bộ hệ thống đồng thời đáp ứng được các yêu cầu về mức độ phục vụ".
Theo luật Thương mại Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 và Nghị định 140/2007NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics có đưa ra khái niệm: Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại. Theo đó, thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao.
Quá trình sản xuất
(sản xuất và lắp ráp)
Đóng gói
Kho lưu trữ thành phẩm
Bến bãi chứa
T.T phân phối
Khách hàng
Nguyên vật liệu
Phụ tùng
Máy móc, thiết bị
Bán thành phẩm
Dịch vụ
Đầu vào khác
Cung ứng Quản lý vật tư
Phân phối
Logistics
Dòng chu chuyển vận tải
Dòng thông tin lưu thông
Hình 1: Các hoạt động cơ bản của chuỗi dịch vụ logistics
Qua sơ đồ trên có thể thấy dịch vụ logistics là một chuỗi các dịch vụ xuyến suốt từ quá trình sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
Qua các quan niệm ở trên có thể chia khái niệm dịch vụ logistics thành hai nhóm như sau:
Thứ nhất, nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa của Luật Thương mại 2005, coi logistics gần tương tự với giao nhận hàng hoá. Tuy nhiên trong đó có tính mở, thể hiện trong đoạn "hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá". Theo nhóm này, bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Theo đó, dịch vụ logistics mang nhiều yếu tố vận tải, người cung cấp dịch vụ logistics không có nhiều khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức(MTO).
Thứ hai, nhóm định nghĩa dịch vụ logistics theo phạm vi rộng, có tác động từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hoá tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Theo nhóm định nghĩa này, dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên, nhiên vật liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hoá và đưa vào các kênh lưu thông, phân phối để tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Nhóm định nghĩa này về dịch vụ logistics góp phần phân định rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ như dịch vụ vận tải, giao nhận, khai thuê hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ sản xuất, tư vấn quản lý...với một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, người sẽ đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hoá tới tay người tiêu dùng cuối cùng.Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp đòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để cung cấp dịch vụ "trọn gói" cho các nhà sản xuất. Đây là một công việc mang tính chuyên môn hoá cao. Ví dụ, khi một nhà cung cấp dịch vụ logistics cho một nhà sản xuất thép, anh ta sẽ chịu trách nhiệm cân đối sản lượng của nhà máy và lượng hàng tồn kho để nhập phôi thép, tư vấn cho doanh nghiệp về chu trình sản xuất, kỹ năng quản lý và lập kênh phân phối, các chương trình marketing, xúc tiến bán hàng để đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của các dịch vụ logistics trong kinh tế thị trường
1.2.1.Chức năng
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các dịch vụ logistics có các chức năng sau:
Các dịch vụ logistics thực hiện chức năng hỗ trợ cho quá trình sản xuất cũng như quá trình phân phối lưu thông hàng hoá tới người tiêu dùng cuối cùng cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Muốn sản xuất ra các sản phẩm thì phải cần đến các yếu tố đầu vào như nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, nhân công...Trong điều kiện kinh tế hiện nay, các nguồn cung cấp các yếu tố này thì nhiều vô kể. Nhưng làm thế nào để có thể mua được những yếu tố đầu vào đảm bảo về số lượng, chất lượng, chủng loại, quy cách?
Dịch vụ logistics hoặc cung cấp trực tiếp cho các doanh nghiệp những yếu tố này hoặc tư vấn cho các doanh nghiệp các nguồn hàng đảm bảo, đáp ứng các yêu cầu của các doanh nghiệp, tư vấn cho khách hàng về lượng vật tư tồn kho là bao nhiêu để vừa đảm bảo cho việc sản xuất lại vừa hạn chế được các chi phí không cần thiết. Trong quá trình sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ logistics sẽ tư vấn cho các doanh nghiệp về qui trình sản xuất, lượng hàng hoá cần sản xuất, lượng hàng dự trữ bao nhiêu...Các nhà cung cấp dịch vụ logistics cũng tư vấn cho các doanh nghiệp các kênh phân phối, các chương trình marketing và xúc tiến bán hàng. Đặc biệt, các nhà kinh doanh dịch vụ logistics cung ứng các dịch vụ vận tải, đảm bảo hàng hoá đến với người tiêu dùng đúng thời gian và địa điểm, chi phí thấp nhất đảm bảo uy tín cho các doanh nghiệp đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Như vậy, trong cả quá trình từ tiền sản xuất, sản xuất, phân phối lưu thông đều có sự góp mặt của các dịch vụ logistics, hỗ trợ cho các hoạt động của các doanh nghiệp sao cho với những chi phí thấp nhất, hiệu quả kinh doanh lớn.
Thông qua các hoạt động cung ứng các yếu tố đầu vào, đầu ra, các dịch vụ tư vấn... các dịch vụ logistics thực hiện chức năng gắn sản xuất với thị trường, gắn nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế.
Để có thể cung cấp cho các doanh nghiệp các yếu tố đầu vào, đầu ra, các dịch vụ tư vấn...thì các nhà cung ứng dịch vụ logistics phải nghiên cứu và nắm nhu cầu thị trường, huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực nhằm cung ứng cho các doanh nghiệp các dịch vụ logistics có chất lượng tốt nhất,đảm bảo cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các sản phẩm phù hợp, đáp ứng nhu cầu thị trường. Các dịch vụ logistics cũng thiết lập hợp lý các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, các quan hệ kinh tê thế giới thông qua việc tìm kiếm các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất ở nước ngoài rẻ hơn ở trong nước,vận chuyển hàng hoá qua các nước trên thế giới...từ đó gắn nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế.
1.2.2.Nhiệm vụ của các dịch vụ logistics
Nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp bằng cách thoả mãn đầy đủ, kịp thời và thuận lợi các yếu tố đầu vào, đầu ra cũng như trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Khi có nhu cầu từ phía các doanh nghiệp, các nhà cung ứng dịch vụ logistics phải đảm bảo sao cho cung cấp đầy đủ, kịp thời,có chất lượng đáp ứng các yêu cầu để thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp trong sản xuất cũng như hoạt động phân phối sản phẩm đến với người tiêu dùng, đồng thời giúp doanh nghiệp cắt, giảm các chi phí không cần thiết.
Phát triển dịch vụ logistics,đảm bảo quá trình sản xuất, phân phối lưu thông hàng hoá trên thị trường được thông suốt, dễ dàng.
Góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng của đất nước: Vốn, việc làm, công nghệ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế quốc dân.
Góp phần hoàn thiện bộ máy quản lý và kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các hoat động tư vấn quản lý, tư vấn sản xuất kinh doanh.
Phát triển lĩnh vực thương mại quốc tế với các quốc gia trên thế giới thông qua các các hoạt động vận tải ngoại thương, tư vấn ngoại thương...
2.Vai trò của các dịch vụ logistics.
Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Nhật và Mỹ logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát triển thì tỷ lệ này có thể hơn 30%. Sự phát triển dịch vụ logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng tiết giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Dịch vụ logistics ở Việt Nam chiếm khoảng từ 15-20% GDP.Mặc dù dịch vụ logistics còn khá mới mẻ ở Việt Nam nhưng nó có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn có vai trò rất lớn đối với toàn nền kinh tế quốc dân.
Đối với nền kinh tế quốc dân, logistics đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu trong sản xuất, lưu thông, phân phối. Các nghiên cứu gần đây cho thấy, chỉ riêng họat động logistics đã chiếm từ 10 đến 15% GDP của hầu hết các nước tại Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu á Thái Binh Dương.Vì vậy nếu nâng cao hiệu quả họat động logistics sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước.
Đối với các doanh nghiệp, các dịch vụ logistics đóng vai trò to lớn to trong việc giải quyết bài toán đầu vào và đầu ra một cách hiệu quả. Logistics có thể thay đổi nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ…logistics còn giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Như vậy dịch vụ logistics đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, lưu thông, phân phối của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt trong sản xuất kinh doanh nhập khẩu.
Logistics giữ vai trò cầu nối,là động lực thúc đẩy lưu chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng trên phạm vi toàn cầu.Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa, dịch vụ logistics ngày càng đóng vai trò hết sức quan trọng thể hiện ở những điểm sau:
- Logistics có vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa chu trình lưu chuyển của sản xuất kinh doanh từ khâu đầu vào nguyên vật liệu, phụ kiện,... tới sản phẩm cuối đến tay người tiêu dùng.Từ thập niên 70 của thế kỷ XX, liên tiếp các cuộc khủng hoảng năng lượng buộc các doanh nghiệp phải quan tâm tới chi phí, đặc biệt là chi phí vận chuyển. Trong nhiều giai đoạn, lãi suất ngân hàng cũng cao khiến cho các doanh nghiệp có nhận thức sâu sắc hơn về vốn, vì vốn bị đọng lại do việc duy trì quá nhiều hàng tồn kho.Chính trong giai đoạn này, cách thức tối ưu hóa quá trình sản xuất, lưu kho, vận chuyển hàng hóa được đặt lên hàng đầu.Và với sự trợ giúp đắc lực của công nghệ thông tin, logistics chính là công cụ đắc lực để thực hiện điều này.
- Dịch vụ logistics hỗ trợ cho các nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhà quản lý phải giải quyết nhiều bài toán hóc búa về nguồn nguyên liệu cung ứng (số lượng bao nhiêu, chất lượng thế nào, chủng loại ra sao, nguồn từ đâu...), dự trữ bao nhiêu nguyên vật liệu và thành phẩm, vận chuyển tới người tiêu dùng như thế nào...sao cho chi phí thấp nhất nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Để giải quyết vấn đề này một cách hiệu quả không thể thiếu vai trò của dịch vụ logistics.Vì dịch vụ logistics cung ứng nguyên vật liệu cho doanh nghiệp,tư vấn cho doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh để sản xuất sản phẩm cũng như tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho doanh nghiệp.Từ đó, nhà quản lý kiểm soát và ra quyết định chính xác về các vấn đề trên để giảm tối đa chi phí phát sinh , đảm bảo hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Dịch vụ logistics đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo yếu tố đúng thời gian và địa điểm ( just in time).
Ở đây không chỉ là giao hàng đến với người tiêu dùng đúng thời gian và địa điểm mà còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp đúng lúc, kịp thời,đảm bảo khống chế hàng tồn kho ở mức tối thiểu.Việc đảm bảo đúng thời gian và địa điểm giúp doanh nghiệp giảm được chi phi không cần thiết trong sản xuất, dự trữ cũng như phân phối tới tay người tiêu dùng.Đặc biệt trong quá trình toàn cầu hóa như hiện nay hàng hóa và sự vận động của chúng ngày càng phong phú và phức tạp hơn, nhu cầu của người tiêu dùng cũng đa dạng và có những yêu cầu khá cao trong việc đảm bảo hàng hóa được giao đúng thời gian và địa điểm. Việc giao hàng đúng thời gian và địa điểm có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp. Có giao hàng đúng thời gian và địa điểm, đáp ứng nhu cầu khách hàng thì doanh nghiệp mới giữ được chữ tín đối với khách hàng, từ đó mới giữ chân được khách hàng. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics giúp doanh nghiệp vận chuyển hàng hóa đến với người tiêu dùng, đảm bảo đúng thời gian và địa điểm, từ đó cũng giúp doanh nghiệp giảm được chi phi, tạo uy tín đối với khách hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Qua các vai trò trên của dịch vụ logistics có thể thấy rằng dịch vụ logistics có tầm quan trọng rất lớn trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, lưu thông, phân phối không chỉ của từng doanh nghiệp nói riêng mà còn của cả nền kinh tế nói chung.Là cầu nối, là động lực thúc đẩy quá trình sản xuất, lưu chuyển hàng hóa đến nơi tiêu dùng, hiện nay dịch vụ logistics được các doanh nghiệp sử dụng ngày càng nhiều.
3. Tác dụng của dịch vụ logistics:
Đối với mỗi doanh nghiệp cũng như toàn nền kinh tế quốc dân, dịch vụ logistics có tác dụng rất lớn. Không những thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp mà còn mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Có thể khái quát một số tác dụng của dịch vụ logistics như sau:
-Dịch vụ logistics góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Theo thống kê của một số tổ chức quốc tế nghiên cứu về logistics cũng như Viện nghiên cứu logistics của Mỹ cho biết, chi phí cho hoạt động logistics chiếm khoảng 10-13%GDP ở các nước phát triển, 15-20% ở các nước đang phát triển. Hoạt động logistics trên thị trường Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ bình quân là 33%/1 năm, và ở Brazil là 20%/1 năm.Điều này cho thấy chi phí cho hoạt động logistics là rất lớn.Sự có mặt của các dịch vụ logistics giúp giảm các chi phi này cho các doanh nghiệp cũng như cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân
Dịch vụ logistics tham gia vào quá trình sản xuất cũng như phân phối hàng hóa của các doanh nghiệp. Nó cung cấp các dịch vụ đầu vào cho quá trình sản xuất như cung ứng nguyên nhiên vật liệu đầu vào, cung ứng lao động cho quá trình sản xuất, tư vấn số lượng chủng loại nguyên nhiên vật liệu, hàng hoá cho doanh nghiệp để việc sản xuất diễn ra liên tục và có hiệu quả, lượng nguyên vật liệu, hàng hoá tồn kho ở mức vừa phải nhằm tiết kiệm các chi phi trong quá trình lưu kho, bảo quản hàng hóa…từ đó giúp các nhà quản lý giải quyết tốt bài toán đầu vào cho sản xuất kinh doanh, giảm chi phí trong sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
-Dịch vụ logistics có tác dụng tiết kiệm và giảm chi phí trong hoạt động lưu thông phân phối.
Giá cả hàng hoá trên thị trường chính bằng giá cả ở nơi sản xuất cộng với chi phí lưu thông. Chi phí lưu thông hàng hoá, chủ yếu là chi phí vận tải chiếm một tỷ trọng lớn và là bộ phận cấu thành giá cả hàng hoá trên thị trường, đặc biệt là hàng hoá trong buôn bán quốc tế. Vận tải là yếu tố quan trọng của lưu thông. C.Mác đã từng nói:”lưu thông có ý nghĩa là hành trình thực tế của hàng hoá trong không gian được giải quyết bằng vận tải”. Vận tải có nhiệm vụ đưa hàng hoá đến nơi tiêu dùng và tạo khả năng để thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá. Vận tải là yếu tố quan trọng của hệ thống logistics cho nên dịch vụ logistics ngày càng hoàn thiện và hiện đại sẽ tiết kiệm cho chi phí vận tải và các chi phí khác phát sinh trong quá trình lưu thông dẫn đến tiết kiệm và giảm chi phí lưu thông. Nếu tính cả chi phí vận tải, tổng chi phí logistics(bao gồm đóng gói, lưu kho, vận tải, quản lý…) ước tính chiếm khoảng 20% tổng chi phí sản xuất ở các nước phát triển, trong khi đó nếu chỉ tính riêng chi phí vận tải có thể chiếm tới 40% giá trị xuất khẩu của một số nước không có đường bờ biển.
-Dịch vụ logistics góp phần gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải giao nhận.
Dịch vụ logistics là loại hình dịch vụ có quy mô mở rộng và phức tạp hơn nhiều so với hoạt động vận tải giao nhận hàng hoá thuần tuý. Trước kia người kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận chỉ cung cấp cho khách hàng những dịch vụ đơn giản, thuần tuý và đơn lẻ. Ngày nay, do sự phát triển của sản xuất, lưu thông, các chi tiết của sản phẩm có thể do nhiều quốc gia cung ứng và ngược lại một loại sản phẩm của doanh nghiệp có thể tiêu thụ ở nhiều quốc gia, nhiều thị trường khác nhau, vì vậy dịch vụ mà khách hàng yêu cầu từ người cung ứng dịch vụ logistics cũng đa dạng và phong phú hơn. Người vận tải giao nhận ngày nay đã triển khai cung cấp dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế của khách hàng. Họ trở thành người cung cấp dịch vụ logistics( logistics service provider).Rõ ràng, dịch vụ logistics đã góp phần làm gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp giao nhận vận tải.
-Logistics phát triển góp phần mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế.
Sản xuất có mục đích là phục vụ tiêu dùng, cho nên trong sản xuất kinh doanh, vấn đề thị trường luôn là vấn đề quan trọng và luôn được các nhà sản xuất và kinh doanh quan tâm. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm lĩnh thị trường và mở rộng thị trường cho sản phẩm của mình phải cần sự hỗ trợ của các dịch vụ logistics. Dịch vụ logistics có tác dụng như chiếc cầu nối trong việc chuyển dịch hàng hoá trên các tuyến đường mới đến các thị trường mới đúng yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt ra. Dịch vụ logistics phát triển có tác dụng rất lớn trong việc khai thác và mở rộng thị trường kinh doanh cho các doanh nghiệp.
-Dịch vụ logistics phát triển góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn hoá chứng từ trong kinh doanh quốc tế.
Thực tiễn, một giao dịch trong buôn bán quốc tế thường phải tiêu tốn các loại giấy tờ, chứng từ. Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, chi phí về giấy tờ để phục vụ mọi mặt giao dịch thương mại trên thế giới hàng năm đã vượt quá 420 tỷ USD. Theo tính toán của các chuyên gia, riêng các loại giấy tờ, chứng từ rườm rà hàng năm khoản chi phí tiêu tốn cho nó cũng chiếm tới hơn 10% kim ngạch mậu dịch quốc tế, ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động buôn bán quốc tế. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ loogistics đã cung cấp các dịch vụ đa dạng trọn gói đã có tác dụng giảm rất nhiều các chi phí cho giấy tờ, chứng từ trong buôn bán quốc tế. Dịch vụ vận tải đa phương thức do người kinh doanh dịch vụ logistics cung cấp đã loại bỏ đi rất nhiều chi phí cho giấy tờ thủ tục, nâng cấp và chuẩn hoá chứng từ cũng như giảm khối lượng công việc văn phòng trong lưu thông hàng hoá, từ đố nâng cao hiệu quả buôn bán quốc tế.
Ngoài ra cùng với sự phát triển của logistics điện tử sẽ tạo ra cuộc cách mạng trong phát triển dịch vụ logistics, chi phí cho giấy tờ, chứng từ trong lưu thông hàng hoá càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ logistics ngày càng được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa cản trở về mặt không gian và thời gian trong dòng lưu chuyển nguyên vật liệu và hàng hoá. Các quốc gia sẽ xích lại gần nhau hơn trong hoạt động sản xuất và lưu thông.
Như vậy, dịch vụ logistics có tác dụng rất lớn đối với các doanh nghiệp cũng như toàn nền kinh tế. Theo kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, thông qua việc sử dụng các dịch vụ logistics trọn gói có tác dụng rất lớn và tốt hơn là các doanh nghiệp tự tổ chức các hoạt động logistics. Có một số lý do như sau: Thứ nhất, các công ty logistics chuyên nghiệp hơn. Thứ hai, doanh nghiệp không phải đầu tư vào hệ thống kho bãi và trang thiết bị vận tải. Thứ ba, tốc độ đưa hàng ra thị trường nhanh hơn. Thứ tư, doanh nghiệp không tốn kém chi phí đầu tư cho hệ thống thuê bãi và vận tải. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp giảm bớt chi phí nhân công mà còn cả về phương diện quản lý nhân sự…
Thông qua việc sử dụng dịch vụ logistics trọn gói, các doanh nghiệp sản xuất có thể rút ngắn thời gian từ lúc nhận đơn hàng cho đến lúc giao hàng cho khách hàng từ 5-6 tháng xuống còn 2 tháng. Kinh doanh dịch vụ này có tỷ suất lợi nhuận cao gấp 3-4 lần sản xuất và gấp từ 1-2 lần các dịch vụ ngoại thương...
II. Hệ thống các dịch vụ logistics ở Việt Nam.
Dịch vụ logistics bao gồm rất nhiều hoạt động, dựa trên các tiêu thức khác nhau có thể phân hệ thống dịch vụ logistics như sau:
Theo toàn bộ quá trình cung ứng dịch vụ logistics, các dịch vụ logistics bao gồm:
+ Dịch vụ logistics đầu vào
+ Dịch vụ logistics đầu ra
+ Dịch vụ logistics ngược
Mỗi loại hàng hoá có các dịch vụ logistics tương ứng:
+ Dịch vụ logistics cho hàng tiêu dùng có thời hạn sử dụng ngắn:quần áo, giầy dép, thực phẩm...
+ Logistics cho ngành ôtô
+ Logistics cho ngành hoá chất
+ Logistics cho ngành điện tử.
+ Logistics cho ngành dầu khí...
Theo nghị định số 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ, dịch vụ logistics được phân thành 3 nhóm:
+ Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:
Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hoá, bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hoá;
Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hoá trong suốt cả chuỗi logistics; hoạt động xử lý lại hàng hoá bị khách hàng trả lại, hàng hoá tồn kho, hàng hoá quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hoá đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container.
+ Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
Dịch vụ vận tải hàng hoá
Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa;
Dịch vụ vận tải hàng không;
Dịch vụ vận tải đường sắt;
Dịch vụ vận tải đường bộ;
Dịch vụ vận tải đường ống;
+ Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;
Dịch vụ bưu chính;
Dịch vụ thương mại buôn bán;
Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hoá, phân phối lại và giao hàng.
Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
- Theo phạm vi hoạt động
Dịch vụ logistics nội địa;
Dịch vụ logistics quốc tế.
III.Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ logistics.
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ logistics là tập hợp những điều kiện, những yếu tố bên ngoài và bên trong có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc cung ứng các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics chính là các nhân tố sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của các dịch vụ logistics.
Có thể phân các nhân tố ảnh hưởng đến các dịch vụ logistics thành hai nhóm nhân tố: nhóm các nhân tố bên ngoài và nhóm các nhân tố bên trong thuộc các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics.
Nhóm các nhân tố bên ngoài.
Đây là các nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics, và do đó có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các dịch vụ logistics. Các nhân tố này bao gồm: Yếu tố chính trị, pháp luật; yếu tố kinh tế; yếu tố khoa học-công nghệ; yếu tố hạ tầng và điều kiện tự nhiên; sự cạnh tranh trong ngành kinh doanh dịch vụ logistics;yếu tố khách hàng (các doanh nghiệp thuê các dịch vụ logistics)...
1.1. Yếu tố chính trị, pháp luật.
Trong kinh doanh hiện đai, các yếu tố chính trị, pháp luật ngày càng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước hiện nay là nền kinh tế phổ biến trên thế giới. Khi tham gia vào kinh doanh, để thành công trên thương trường thì các doanh nghiệp phải không những nắm vững pháp luật trong nước mà còn phải hiểu và nắm vững pháp luật quốc tế tại thị trường mà mình kinh doanh. Đồng thời với việc nắm vững luật pháp thì các doanh nghiệp cũng phải chú ý tới môi trường chính trị. Chính trị có ổn định thì sẽ giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Các yếu tố cơ bản thuộc môi trường chính trị, pháp luật là:
- Sự ổn định về chính trị và đường lối ngoại giao.
- Sự cân bằng của các chính sách của Nhà nước.
- Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội.
- Hệ thống pháp luật và mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật...
Trước năm 2005, luật pháp Việt Nam chưa hề có quy định về việc kinh doanh dịch vụ logistics cũng như các hình thức dịch vụ logistics. Đến tận khi luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 và nghị định 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ mới có quy định chi tiết về các dịch vụ logistics và điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics.
Trước kia, các dịch vụ logistics mà chủ yếu là dịch vụ vận tải, giao nhận thì Nhà nước nắm quyền chi phối.Gần đây, việc kinh doanh dịch vụ logistics được Nhà nước cho phép mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia kinh doanh. Điều này tạo nên sự cạnh tranh gay gắt trong ngành cung ứng dịch vụ logistics đồng thời cũng tạo nên sự đa dạng, phong phú của các dịch vụ logistics, chất lượng dịch vụ cũng tốt hơn.
1.2. Yếu tố kinh tế.
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics nói riêng.Các yếu tố kinh tế bao gồm một phạm vi rất rộng từ các yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics và các yếu tố liên quan đến việc huy động và sử d._.ụng các nguồn lực của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics để cung ứng các dịch vụ logistics cho khách hàng. Các yếu tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics và các dịch vụ logistics là: Tốc độ tăng trưởng của GDP; lãi suất tiền vay, tiền gửi ngân hàng; tỷ lệ lạm phát; tỷ giá hối đoái; mức độ thất nghiệp; cán cân thanh toán; chính sách tài chính, tín dụng; kiểm soát về giá cả, tiền lương tối thiểu; tiềm năng phát triển và gia tăng đầu tư...Các yếu tố này ảnh hưởng đến phương thức và cách thức kinh doanh của các doanh nghiệp. Sự thay đổi của các yếu tố này và tốc độ thay đổi, chu kỳ thay đổi đều tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ đối với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thậm chí còn có thể làm thay đổi cả mục tiêu, phương hướng và cả chiến lược của doanh nghiệp.
Trong thời gian vừa qua, tốc độ tăng trưởng hàng năm của nước ta đều đạt trung bình trên 8%. Chính vì vậy càng kích thích việc đầu tư và mở rộng quy mô của các doanh nghiệp khiến cho nhu cầu sử dụng các dịch vụ logistics không ngừng tăng, đây là cơ hội cho phép các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics mở rộng quy mô, sản phẩm dịch vụ logistics cũng như thị trường của mình, cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp mới có thể ra nhập thị trường.
1.3. Yếu tố công nghệ.
Trong thời đại khoa học-công nghệ phát triển như vũ bão, việc áp dụng các tiến bộ này vào sản xuất kinh doanh làm cho hiệu quả ngày càng cao hơn. Các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ không những cho chính doanh nghiệp mình mà còn nhằm thực hiện dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Sự phát triển của thương mại điện tử đã đưa các doanh nghiệp tiên tiến đến việc ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh của mình. Điều đó đã làm cho chất lượng dịch vụ logistics của các doanh nghiệp cung ứng tăng lên rõ rệt và sẽ mang lại sức cạnh tranh cao cho các doanh nghiệp có ứng dụng dịch vụ mới vào kinh doanh.
1.4. Yếu tố cơ sở hạ tầng và điều kiện tự nhiên.
Đối với sự phát triển của các dịch vụ logistics thì yếu tố cơ sở hạ tầng và điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn. Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống giao thông vận tải ( đường, phương tiện, bến bãi...), hệ thống thông tin, hệ thống bến cảng nhà kho, điện nước...hệ thống cơ sở hạ tầng tốt là điều kiện thuận lợi cho phát triển dịch vụ logistics, đặc biệt là dịch vụ vận tải. Điều kiện tự nhiên là yếu tố cần được các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics đặc biệt quan tâm. Bởi các yếu tố như nắng, mưa, hạn hán, lụt, dịch bệnh...ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung ứng dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ vận tải đường biển vì nếu điều kiện không thuận thì sẽ không thực hiện được dịch vụ này, thậm chí còn gây thiệt hại lớn bởi rủi ro trong vận tải biển là rất cao. Bên cạnh đó cũng phải kể đến ảnh hưởng của sự khan hiếm của các nguyên,nhiên vật liệu, sự gia tăng của chi phí năng lượng...
1.5. Sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ logistics.
Cạnh tranh trong ngành dịch vụ logistics càng gay gắt thì loại hình dịch vụ logistics càng phong phú, chất lượng dịch vụ logistics càng được nâng cao. Khi đề cập đến vấn đề cạnh tranh, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics phải xem xét xem đối thủ của mình là ai, số lượng bao nhiêu, mức độ cạnh tranh thế nào. Trong thời gian qua cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế trong nước là định hướng mở cửa kinh doanh dịch vụ logistics. Số lượng các doanh nghiệp logistics được mở ngày càng nhiều và dẫn đến cạnh tranh trong ngành ngày một gay gắt hơn không chỉ các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics trong nước mà còn có sự góp mặt của nhiều doanh nghiệp logistics nước ngoài.
1.6. Yếu tố khách hàng
Khách hàng chiếm vị trí trung tâm trong mọi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics, để hoạt động có hiệu quả thì các doanh nghiệp phải bán được hàng tức là phải có khách hàng thuê dịch vụ logistics. Khách hàng của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics chủ yếu là các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này có nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics lớn thì ngành dịch vụ logistics mới phát triển được. Hiện nay không ít doanh nghiệp tự mình thực hiện các hoạt động logistics mà không thuê dịch vụ ngoài. Vì vậy, ngành dịch vụ logistics muốn phát triển thì phải cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thấy được lợi ích to lớn của việc sử dụng dịch vụ logistics.
Nhóm các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
Đây là những yếu tố chủ quan mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được, bao gồm các nhân tố: tiềm lực doanh nghiệp, hệ thống thông tin, nghiên cứu và phát triển...
2.1. Tiềm lực doanh nghiệp.
Tiềm lực doanh nghiệp thể hiên ở nhiều mặt: qui mô của doanh nghiệp; cơ sở vật chất kĩ thuật; cơ cấu tổ chức bộ máy lãnh đạo; tài năng, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm quản lý của các nhà lãnh đạo; trình độ tay nghề, sự thành thạo kỹ thuật, nghiệp vụ của lao động; tiềm lực tài chính, khả năng huy động vốn...
Doanh nghiệp có qui mô lớn thì có khả năng cung ứng các dịch vụ logistics với nhiều loại hình dịch vụ, đảm bảo chất lượng của dịch vụ, có thể hoạt động trên phạm vi thị trường lớn, cung ứng dịch vụ cho nhiều khách hàng khác nhau cùng lúc.
Cơ sở vật chất kĩ thuật của doanh nghiệp có đầy đủ, đảm bảo thì mới có thể cung cấp cho khách hàng những dịch vụ mà khách hàng yêu cầu với chất lượng tốt. Với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics thì các cơ sở vật chất kĩ thuật phải kể đến là: phương tiện vận tải, kho bãi, máy móc thiết bị phục vụ cho đóng gói, bảo quản hàng hoá...
Người lãnh đạo doanh nghiệp có tài năng, trình độ quản lý sẽ dẫn dắt doanh nghiệp đi lên, ngày càng phát triển. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ ngày càng đi xuống thậm chí dẫn đến phá sản.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics, các nhân viên là những người trực tiếp cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Vì vậy, đây là yếu tố rất quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển của dịch vụ logistics.
Tài chính có thể coi là yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp logistics cũng như sự phát triển của các dịch vụ logistics. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics cần một nguồn tài chính lớn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng: phương tiện vận tải, kho bãi...Có nguồn tài chính lớn doanh nghiệp mới có thể mở rộng quy mô, đa dạng các dịch vụ cung ứng cho khách hàng.
2.2. Hệ thống thông tin
Doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống thu thập thông tin về các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, nguồn hàng...Đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics thì yếu tố thông tin là quan trọng.Thu thập được thông tin thiết thực, kịp thời giúp doanh nghiệp nắm bắt được nhiều cơ hội tốt trong kinh doanh. Cũng từ đó có các quyết định, các chính sách và chiến lược kinh doanh thích hợp.
2.3. Nghiên cứu và phát triển
Việc đầu tư vào nghiên cứu và phát triển tuy chi phí tốn kém song hoạt động nay đem lại kết quả ngoạn mục nhất. Nó giúp doanh nghiệp: đổi mới, đa dạng hoá và phát triển các loại hình dịch vụ logistics;hiện đại hoá dây chuyền công nghệ và phương thức cung ứng dịch vụ cho khách hàng; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho lao động...Các doanh nghiệp cần nắm vững được tầm quan trọng của yếu tố này để đầu tư thích đáng và thu được thành công trong hoạt động kinh doanh của mình.
Như vây, qua nghiên cứu tổng thể các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics, chúng ta cũng thấy được ảnh hưởng của các nhân tố này đến sự phát triển của các dịch vụ logistics. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics càng phát triển thì các dịch vụ logistics cũng ngày càng phát triển.
Chương II: Thực trạng phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam
I. Đặc điểm kinh tế kĩ thuật và quá trình phát triển của ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam.
1. Đặc điểm kinh tế kĩ thuật của các dịch vụ logistics.
- Dịch vụ logistics là một hệ thống các hoạt động nhằm tối ưu hoá mọi công việc, mọi thao tác từ khâu cung ứng , sản xuất, phân phối và tiêu dùng sản phẩm chứ không phải chỉ là "kho" và "vận", "giao" và "nhận" như một số người lầm tưởng. Đây là một chuỗi các dịch vụ chứ không phải là một dịch vụ đơn thuần.
- Dịch vụ logistics hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp: dịch vụ logistics hỗ trợ toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp từ cung ứng các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất cho tới phân phối các sản phẩm đầu ra, ngay cả khi sản phẩm đã ra khỏi dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp và đến tay người tiêu dùng. Doanh nghiệp cung ứng có thể kết hợp bất cứ yếu tố nào của các dịch vụ logistics với nhau hay tất cả các yếu tố logistics tuỳ theo yêu cầu của khách hàng.
- Dịch vụ logistics là sự phát triển cao, hoàn chỉnh của dịch vụ vận tải giao nhận, vận tải giao nhận gắn liền và nằm trong logistics.
Cùng với quá trình phát triển của mình, các dịch vụ logistics đã làm đa dạng hóa khái niệm vận tải giao nhận truyền thống. Từ chỗ chỉ thay mặt khách hàng để thực hiện các khâu rời rạc như nhận hàng, bao gói, bảo quản, làm thủ tục thông quan, vận chuyển hàng hoá...cho đến cung cấp dịch vụ trọn gói. Từ chỗ đóng vai trò đại lý, người uỷ thác trở thành một chủ thể chính trong các hoạt động vận tải giao nhận với khách hàng, chịu trách nhiệm trước các nguồn luật điều chỉnh. Ngày nay, người giao nhận vận tải trở thành người cung ứng dịch vụ logistics thực hiện một loạt các nghiệp vụ, quản lý một hệ thống đồng bộ từ giao nhận tới vận tải, cung ứng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo quản hàng hoá trong kho, phân phối hàng hoá đúng nơi, đúng lúc, sử dụng thông tin điện tử để theo dõi kiểm tra...
- Các dịch vụ trong chuỗi dịch vụ logistics là một chuỗi công việc có tính chất liên hoàn, số lượng công việc nhiều, tính chất công việc phức tạp, thời gian thực hiện kéo dài.
2.Quá trình phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam.
Logistics được phát minh và ứng dụng đầu tiên không phải trong hoạt động thương mại mà là lĩnh vực quân sự. Chỉ đến sau chiến tranh thế giới thứ hai, hoạt động logistics mới thực sự được ứng dụng và triển khai trong lĩnh vực thương mại. Trải qua dòng chảy lịch sử, logistics được nghiên cứu và áp dụng ngày càng nhiều vào sản xuất kinh doanh và mang lại những kết quả cao trong kinh doanh của các doanh nghiệp trên thế giới tiêu biểu như: Nhật Bản, Mỹ, Hà Lan, Thuỵ Điển, Đan Mạch...
Những kiến thức về logistics và các hoạt động logistics mới thâm nhập vào Việt Nam trong những năm gần đây, trước hết và chủ yếu thông qua hoạt động của các công ty vận tải giao nhận nước ngoài và một số người được đào tạo tại nước ngoài.
Ban đầu, các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực giao nhận vận tải là chủ yếu. Các doanh nghiệp này đều là các doanh nghiệp Nhà nước. Số lượng các doanh nghiệp trong lĩnh vực này là rất ít. Cho đến Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII đề ra nghị quyết về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, một loạt các doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện chủ trương cổ phần hóa và có thêm rất nhiều các doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực này ra đời. Số lượng các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ giao nhận vận tải ngày càng nhiều ở mọi thành phần kinh tế. Vài năm trở lại đây, nhiều doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải do ảnh hưởng xu thế phát triển các công ty dịch vụ logistics trên thế giới đã và đang xâm nhập vào thị trường Việt Nam đã mở rộng thêm kinh doanh các dịch vụ logistics đáp ứng nhu cầu cung ứng các dịch vụ logistics đồng thời cũng và đổi tên thành công ty kinh doanh dịch vụ logistics.Năm 2005, cả nước có khoảng 500 doanh nghiệp logistics. Năm 2006, cả nước có khoảng 700-800 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics. Và đến năm 2007, cả nước có gần 1000 doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này. Đến nay, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics của Việt Nam đã và đang cung ứng các dịch vụ logistics cho khách hàng nhưng chưa hình thành một chuỗi các dịch vụ logistics. Các dịch vụ cung ứng còn nhỏ lẻ, gián đoạn. Thực tế, ngành dịch vụ logistics của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện và vẫn đang ở giai đoạn phôi thai, chưa thực sự có được dịch vụ logistics của riêng mình, chưa trở thành ngành dịch vụ theo đúng nghĩa là chuỗi dịch vụ logistics.
II. Thực trạng phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện nay.
1. Khái quát thực trạng ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam trong thời gian qua.
Mặc dù dịch vụ logistics đã và đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới nhưng ở Việt Nam còn khá mới mẻ. Cùng với quá trình hội nhập, logistics và dịch vụ logistics đã theo chân những nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hàng loạt các công ty, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics ở Việt Nam đã ra đời và cung ứng các dịch vụ logistics cho các khách hàng trong và ngoài nước. Thời gian qua, ngành dịch vụ logistics của Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ bên cạnh đó cũng còn những hạn chế, những khó khăn cần khắc phục. Để có những biện pháp hữu hiệu nhằm phát triển ngành dịch vụ logistics của Việt Nam trong thời gian tới thì trước hết cần thấy được thực trạng của ngành dịch vụ logistics trong thời gian qua.
Do nhận biết dịch vụ logistics là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt, có thể mang lại lợi nhuận siêu ngạch, nên thời gian gần đây, ở Việt Nam, đặc biệt ở các thành phố lớn, đã xảy ra hiện tượng" nhà nhà đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics, người người đăng ký kinh doanh logistics". Theo sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh, trung bình mỗi tuần có một công ty kinh doanh dịch vụ logistics được cấp phép hoạt động hoặc bổ sung chức năng dịch vụ logistics. Chính sự đăng ký ồ ạt đã tạo nên ảo tưởng ngành dịch vụ logistics Việt Nam phát triển nhanh chóng: từ một vài doanh nghiệp giao nhận quốc doanh vào cuối thế kỷ XX đến cuối năm 2007, cả nước đã có khoảng gần 1000 công ty kinh doanh dịch vụ logistics, nhưng chỉ có khoảng 800-900 doanh nghiệp thực sự có tham gia hoạt động. Số lượng các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics thì tăng lên nhanh chóng nhưng nếu xét về chất lượng thì các doanh nghiệp logistics Việt Nam còn rất nhỏ yếu.
Về cơ cấu thành phần kinh tế, theo ông Nguyễn Thâm- Phó Chủ tịch Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam, hiện nay ở mọi thành phần kinh tế đều có các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics, trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 20%; công ty TNHH, doanh nghiệp cổ phần chiếm khoảng 70%; còn 10% là các gia đình, tư nhân làm nhỏ lẻ, tham gia làm từng phần, từng công đoạn...
Quy mô các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp kinh doanh logistics Việt Nam ngoại trừ một số doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần tương đối lớn thì hầu hết đều có qui mô vừa và nhỏ , thậm chí có doanh nghiệp chỉ đăng ký 300-500 triều đồng( tương đương 18.750-31.250 USD), vốn trung bình chỉ đạt 1,5 tỷ VND.Một số doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoá đã nâng được mức vốn điều lệ lên 5 tỷ VND(312.500 USD), một số thì đi ngược lại qui luật "tích tụ vốn" và phát triển. Kể cả những doanh nghiệp nhà nước trước đây đã được đầu tư vốn, trang bị kĩ thuật, đất đai, nhà kho, tài chính và nhân lực...Chỉ có một số công ty lớn như: Vietrans, Viconship, Vinalines, Vinatrans, Vinafco, Vinashin, hãng hàng không Việt Nam Airlines,...nhưng cũng chưa có năng lực đủ mạnh để tham gia hoạt động logistics toàn cầu.
Qui mô doanh nghiệp còn thể hiện ở số nhân viên của công ty. Ngoại trừ vài chục doanh nghiệp quốc doanh và cổ phần tương đối lớn có từ 200-300 nhân viên như Vinafco, Vinashin, Sotrans, Vinalines,…số còn lại trung bình có dưới 100 nhân viên, chủ yếu là từ 30-40 nhân viên, thậm chí có những doanh nghiệp chỉ có 3-5 nhân viên đáp ứng những công việc đơn giản của khách hàng, khi khách hàng hết việc , doanh nghiệp cũng hết việc làm và phải đóng cửa là điều tất yếu.
Về tổ chức bộ máy, do vốn và nhân lực ít nên việc tổ chức bộ máy của các doanh nghiệp này rất đơn giản, tính chuyên sâu của các doanh nghiệp trong dịch vụ logistics không có. Hầu hết các doanh nghiệp logistics Việt Nam chưa có văn phòng đại diện của chính công ty mình đặt tại nước ngoài. Các thông tin từ nước ngoài, công việc phải giải quyết ở nước ngoài của một số công ty lớn đều do hệ thống đại lý thực hiện, cung cấp.
Về các lĩnh vực dịch vụ logistics được thực hiện ở các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam có thể thấy rằng: Ở Việt Nam dịch vụ logistics chưa được các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics cung cấp đầy đủ như đúng bản chất của nó( một chuỗi các dịch vụ ) mà chỉ mới cung cấp một số dịch vụ trong chuỗi dịch vụ logistics mà thôi. Các dịch vụ logistics chủ yếu mà các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam cung ứng cho khách hàng là dịch vụ kho bãi, vận tải hàng hoá, giao nhận hàng hoá, bốc xếp, dịch vụ phân loại, đóng gói bao bì, lưu kho...còn các dịch vụ khác trong chuỗi dịch vụ logistics mặc dù cũng có một số doanh nghiệp cung ứng nhưng số lượng không nhiều và chưa thực sự được quan tâm phát triển.
Trong các dịch vụ logistics chủ yếu được cung ứng bởi các doanh nghiệp logistics của Việt Nam thì dịch vụ giao nhận vận tải và kinh doanh kho bãi là phát triển nhất.
- Dịch vụ vận tải giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu.
Kể từ khi đất nước mở cửa cùng với quá trình “ container hoá” trong vận tải biển, hoạt động kinh doanh vận tải giao nhận xuất nhập khẩu thực sự phát triển mạnh. Ở Việt Nam hiện nay, vận tải giao nhận chủ yếu phát triển trên lĩnh vực đường biển và đường hàng không, trong đó vận tải đường biển chiếm ưu thế tuyệt đối hơn cả vì hàng hoá xuất nhập khẩu chủ yếu đi bằng đường biển. Lượng hàng hoá thông qua các cảng biển ngày càng gia tăng và trải rộng ở nhiều cảng, nhiều cửa khẩu khác nhau chứ không chỉ được thực hiện ở một số cảng chính như trước kia, trong đó có nhiều cảng mới, cảng chuyên dụng được xây dựng. Tại các cảng hiện nay, ngoài dịch vụ vận tải giao nhận đơn thuần còn có các dịch vụ trợ giúp như: lưu kho bảo quản hàng hoá, tái chế, đóng gói, kẻ ký mã hiệu, thu gom hàng hoá xuất khẩu...Cơ sở vật chất kĩ thuật tại các cảng biển được tăng cường đặc biệt là hệ thống cầu cảng, trang thiêt bị xếp dỡ và hệ thống kho bãi...đây là những yếu tố cơ bản làm tăng chất lượng dịch vụ vận tải giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu tại cảng. Theo cục hàng hải Việt Nam, năm 2007 là năm hàng hoá thông qua các cảng biển tăng mạnh nhất trong 10 năm trở lại đây. Cả năm có 88.619 lượt tàu biển ra vào cảng với tổng dung tích là 320,176 triệu GT, tăng 18,02% so với năm 2006. Sản lượng hàng hoá thông qua các cảng biển Việt Nam đạt 181,116 triệu tấn, bằng 117,23% so với năm 2006, trong đó hàng container đạt 4.489.165 TEUs, tăng 31,24%; hàng khô đạt 79,444 triệu tấn, tăng 17,24%; hàng qua cảnh đạt 17,113 triệu tấn, tăng 16,13%. Đội tàu biển Việt Nam đã vận tải được 61,350 triệu tấn, tăng gần 20%. Những khu vực kinh tế trọng điểm, khối lượng hàng hoá tăng rất nhanh như: Hải Phòng tăng 47,3%, TP. HCM tăng 17,4%...Giai đoạn 2001-2005, khối lượng hàng hoá thông qua cảng Việt Nam đạt 575.286.000 tấn, trong đó hàng container là 10.452.870 TEUs, hàng lỏng là 170.962.000 tấn, hàng khô là 244.481.000 tấn.
Dịch vụ vận tải hàng hoá bằng đường hàng không cũng tăng mạnh tại các cửa khẩu Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng...Các mặt hàng được vận chuyển chủ yếu là mặt hàng có giá trị cao, hàng điện tử, máy vi tính...Mạng lưới vận tải bằng đường hàng không từ Việt Nam tới các quốc gia ngày càng được mở rộng tới các nước Châu Âu, Nhật Bản, Úc và New Zeland...
Hoạt động kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường sắt, đường ôtô cũng dần được phát triển nhưng với sản lượng không nhiều và chủ yếu là hàng hóa ra vào Việt Nam từ các nước lân cận như Trung Quốc, Lào, Campuchia.
- Dịch vụ vận tải giao nhận nội địa và phân phối hàng.
Vận tải giao nhận nội địa ở Việt Nam thời gian qua chủ yếu là đường sắt và đường ôtô vì đường sắt và đường ôtô có cơ sở hạ tầng, hệ thống bến bãi tương đối hoàn chỉnh. Hàng hoá vận chuyển nội địa chủ yếu là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, nông sản, hàng rời, nguyên vật liệu cho sản xuất và xây dựng...nên xe thùng được sử dụng phổ biến hơn cả. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải đều có đội xe để tham gia vận tải nội địa, đồng thời để vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu từ các cảng, các sân bay về kho của khách hàng và ngược lại từ kho của khách hàng ra cảng, sân bay để bắt đầu hành trình. Những năm qua, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải được cải thiện cho nên vận tải giao nhận hàng hoá bằng container nội địa cũng được phát triển.Ngoài các đội xe chuyên dụng truyền thống thông thường, các doanh nghiệp đã trang bị xe chuyên dụng chở container từ Hải Phòng đi các tỉnh phía Bắc, Đà Nẵng đi các tỉnh miền Trung và Sài Gòn đi các tỉnh đồng bằng Nam bộ. Ngoài ôtô, ngành đường sắt cũng tổ chức chuyên chở hàng hoá học tuyến Bắc Nam tạo sự liên kết chặt chẽ các địa phương, các vùng, các miền trong lưu thông hàng hoá và tích cực tham gia chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ chỗ chưa có toa xe chuyên dụng chở container đến nay xe chuyên dụng của đường sắt đã đáp ứng yêu cầu vận chuyển container của khách hàng trên toàn tuyến.
Về phân phối hàng hoá, các doanh nghiệp lớn có thế mạnh trong việc cung ứng dịch vụ vận chuyển hàng hoá có khối lượng lớn, hàng theo kế hoạch, hàng siêu trường, siêu trọng thì các doanh nghiệp nhỏ lại có lợi thế trong cung ứng dịch vụ vận chuyển hàng thông thường như hàng bách hoá, hàng rời, hàng container có khối lượng nhỏ và đặc biệt là thầu việc phân phối các sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ trong nội địa cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hoặc vận chuyển máy móc, thiết bị, hàng công trình ra vào các cảng Việt Nam theo yêu cầu của khách hàng.
- Dịch vụ phân loại và đóng gói bao bì hàng hóa
Dịch vụ phân loại và đóng gói bao bì hàng hoá cũng là một trong các dịch vụ thuộc chuỗi dịch vụ logistics mà các doanh nghiệp logistics Việt Nam cung ứng cho khách hàng. Khi các doanh nghiệp có nhu cầu thuê dịch vụ phân loại và đóng gói bao bì thì doanh nghiệp logistics sẽ triển khai thực hiện sao cho tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp khách hàng. Đối với hàng phi mậu dịch, hàng hội chợ, triển lãm, hàng có khối lượng nhỏ, nguồn hàng không thường xuyên, hàng của các văn phòng đại diện hay các cơ quan ngoại giao, sứ quán...các doanh nghiệp logistics thường sử dụng các nguyên vật liệu phục vụ đóng gói bao bì bằng những thứ có sẵn trong nước như: giấy, gỗ, bao nylon, nhựa tái chế...dể giảm chi phí. Ngoài ra tuỳ theo yêu cầu cũng như đặc điểm của hàng hoá, các nguyên liệu cao cấp sản xuất tại chỗ cũng được đưa vào sử dụng: bao xốp khí, kệ xốp...để đóng gói những sản phẩm có giá trị cao như hàng công nghiệp, hàng điện tử của các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đối với hàng mậu dịch có khối lượng lớn, nhu cầu xuất nhập khẩu thường xuyên, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các khu công nghiệp, khu chế xuất thường sử dụng trọn gói các dịch vụ logistics do các doanh nghiệp logistics cung cấp, từ việc đóng gói bao bì, kiểm đếm cho đến việc làm thủ tục hải quan hàng hoá.
- Dịch vụ kinh doanh kho bãi.
Hệ thống kho bãi của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam phần lớn tập trung ở các doanh nghiệp lớn thuộc nhà nước hay các bộ, còn các doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp cổ phần cũng có nhưng rất nhỏ và hạn chế. Các kho bãi này chủ yếu tập trung ở các cảng biển lớn, phần còn lại có thể nằm sâu trong đất liền. Các chủ hàng xuất nhập khẩu rất ít có kho bãi cho riêng mình để thực hiện lưu trữ hàng hoá, vì vậy thường phải thuê kho bãi của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kho bãi. Hệ thống kho bãi ở các cảng lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng... là phát triển nhất, còn các cảng khác quy mô kho bãi còn rất khiêm tốn.Theo tạp chí hàng hải Việt Nam số 10/2007 thì đến hết năm 2006 cả nước đã có tổng diện tích đất dành cho kho bãi và hoạt động cảng lên tới 14 triệu m2.
Loại hình kho bãi kinh doanh ở Việt Nam cũng khá đa dạng và phong phú, điển hình là một số loại như:
+ Bãi container: nơi tập kết container để xếp hàng xuống tàu vận chuyển hoặc giao cho chủ hàng. Tại đây, người ta tiến hành làm thủ tục cho hàng hoá xuất nhập khẩu. Ngoài ra còn là nơi lưu giữ container.
+ Kho hàng lẻ: hiện nay ở Việt Nam có khoảng gần 25 doanh nghiệp kinh doanh loại hình này. Đây là nơi làm kho lưu trữ, thực hiện nghiệp vụ gom hàng lẻ để chuyên chở bằng container hoặc phân phối hàng lẻ cho chủ hàng...
+ Kho ngoại quan: Việc thành lập và kinh doanh kho ngoại quan phải được Tổng cục hải quan cho phép. Kho ngoại quan là nơi chứa và bảo quản hàng hoá khi thủ tục cho hàng xuất nhập khẩu chưa hoàn tất, hoặc hàng hoá quá cảnh, hàng tạm tái xuất...góp phần giảm những chi phí do lưu tầu, lưu container quá hạn...Kho ngoại quan ở Việt Nam hiện nay chủ yếu bố trí tại các cửa khẩu lớn như: Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng...hay ở một số ga đường sắt liên vận quốc tế.
+ Các loại hình kho bãi khác: đó là các loại hình kho bãi truyền thống như kho hàng rời, kho hàng bách hoá, kho chuyên dụng hay kho đặc biệt...
Ngoài các dịch vụ điển hình trên, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics còn cung ứng một loạt các dịch vụ khác thuộc chuỗi dịch vụ logistics như: cung ứng nguyên vật liệu đầu vào; tư vấn quy trình sản xuất, công nghệ sản xuất, kênh phân phối, xúc tiến bán hàng...; ghi ký mã hiệu, dán nhãn...nhưng các dịch vụ này chưa được quan tâm phát triển mà mới chỉ là các dịch vụ đi kèm những dịch vụ chính ở trên mà thôi.
Về thị trường của ngành dịch vụ logistics Việt Nam: Theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành dịch vụ logistics Việt Nam thì ngành dịch vụ logistics Việt Nam mới giới hạn ở thị trường nội địa, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics Việt Nam hầu như mới chỉ giới hạn đáp ứng nhu cầu logistics cho các doanh nghiệp khách hàng trong nước chứ hầu như chưa có khả năng đáp ứng nhu cầu logistics thế giới. Một số doanh nghiệp logistics Việt Nam có cung ứng dịch vụ logistics ra thị trường thế giới nhưng đó cũng chỉ là làm thuê cho các đại lý logistics nước ngoài chứ chưa thực sự tự mình cung ứng, nếu là tự mình cung ứng thì cũng chỉ sang thị trường Lào, Campuchia, Trung Quốc chứ chưa vươn được xa hơn.
Theo nghiên cứu của viện Nomura - Nhật Bản, các doanh nghiệp logistics Việt Nam mới chỉ đáp ứng được khoảng 25% nhu cầu thị trường logistics trong nước. Trong đó theo tính toán mới nhất của cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực quan trọng nhất trong dịch vụ logistics là vận tải biển thì doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng chuyên chở được 18% tổng lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, phần còn lại đang bị chi phối bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này cho thấy thực trạng ngành dịch vụ logistics của Việt Nam còn yếu kém bởi có đến 90% hàng hoá xuất nhập khẩu vào Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển.
Mặc dù giá cả dịch vụ logistics của Việt Nam tương đối rẻ hơn so với một số nước khác, nhưng chất lượng chưa cao và phát triển chưa bền vững. Cạnh tranh về giá cả của những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ logistics không lành mạnh. Có trường hợp cùng một khách hàng nhưng mỗi công ty về logistics lại chào với những mức giá khác nhau. Hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ khá manh mún, chụp giựt và hạ giá dịch vụ để lôi kéo khách hàng, trong khi chất lượng dịch vụ không rõ ràng, tạo nên tiền lệ xấu trong hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics.
Một điều đáng nói nữa là hiện nay, cơ sở hạ tầng của ngành dịch vụ logistics Việt Nam còn nghèo nàn, qui mô nhỏ, bố trí bất hợp lý. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam bao gồm trên 17.000Km đường nhựa, hơn 3.200 Km đường sắt, 42.000 Km đường thuỷ, 266 cảng biển và 20 sân bay. Tuy nhiên chất lượng của hệ thống này là không đều, có những chỗ chưa đảm bảo về mặt kĩ thuật. Các trục đường bộ không được thiết kế theo đúng tiêu chuẩn để có thể kết hợp tốt giữa các phương tiện vận tải bằng đường biển, đường sắt, đường sông, đường hàng không.Chẳng hạn các quốc lộ chỉ được thiết kế cho xe tải trọng tải không quá 30 tấn lưu thông, trong khi đó theo tiêu chuẩn quốc tế trọng lượng 1 container 40 feet đầy hàng đã là 34,5 tấn. Hiện tại, chỉ có khoảng 20 cảng biển có thể tham gia việc vận tải hàng hoá quốc tế, các cảng đang trong quá trình container hoá nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và chưa trang bị được các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm trong điều hành xếp dỡ container. Cho tới hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có cảng trung chuyển quốc tế mà vẫn phải qua các cảng trung chuyển của nước ngoài. Về thực trạng đội tàu của Việt Nam ông Nguyễn Vũ Hải- Trưởng phòng Tàu biển Cục đăng kiểm cho biết, tính đến ngày 31/8/2007 Việt Nam đã có 1.194 tàu biển với tổng dung tích hơn 2,5 triệu tấn đăng ký và trọng tải toàn phần hơn 4 triệu tấn; trong đó có 432 tàu hoạt động tuyến quốc tế với tổng dung tích gần 1,95 triệu tấn đăng ký và trọng tải toàn phần gần 2,86 triệu tấn. Tuy nhiên, chất lượng đội tàu biển Việt Nam còn nhiều bất cập. Tuổi trung bình của cả đội tàu là 14,5 năm. Tàu lớn tuổi nhất hoạt động tuyến quốc tế của Việt Nam hiện nay là 45 tuổi. Và hệ quả của vấn đề này dẫn đến nhiều tàu Việt Nam bị lưu giữ ở nước ngoài.
Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng (máy bay) cho việc vận chuyển hàng hoá trong mùa cao điểm. Chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là đón được các máy bay chở hàng quốc tế. Các sân bay quốc tế như Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng vẫn chưa có nhà ga hàng hoá, khu vực hoạt động cho đại lý logistics thực hiện gom hàng và khai quan như các nước trong khu vực đang làm. Khả năng bảo trì và phát triển đường bộ còn thấp, đường không được thiết kế để vận chuyển container, các đội xe tải chuyên dùng hiện đang cũ kĩ, năng lực vận tải đường sắt chưa được hiện đại hoá. Theo số liệu của tổng cục thống kê, lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường sắt chiếm khoảng 15% lượng hàng hoá lưu thông.Tuy nhiên, đường sắt Việt Nam vẫn đang sử dụng 2 loại khổ ray khác nhau (1.000 và 1.435mm) với trọng tải thấp.
Theo đánh giá của VIFFAS, trình độ công nghệ logistics của Việt Nam so với thế giới còn nhiều yếu kém: đa số các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam mới chỉ thực hiện việc mua bán cước tàu biển, cước máy bay, đại lý khai quan và dịch vụ vận tải, dịch vụ kho bãi. Trong vận tải đa phương thức vẫn chưa thể k._.ạt động logistics.
Ở Việt Nam hoạt động của các dịch vụ logistics đã được điều chỉnh bởi luật Thương mại Việt Nam năm 2005 với 8 điều ( từ điều 233 đến điều 240) quy định về dịch vụ logistics. Cần tiếp tục triển khai chi tiết để thực hiện, ra các văn bản hướng dẫn thực hiện các điều khoản trong luật đã quy định. Giải thích và cụ thể hoá các nội dung: khái niệm dịch vụ logistics, người kinh doanh dịch vụ logistics, hợp đồng dịch vụ logistics, thời hạn trách nhiệm , cơ sở trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh dịch vụ logistics…để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển dịch vụ logistics.
+ Các văn bản pháp luật cho những lĩnh vực hỗ trợ cho phát triển dịch vụ logistics như: luật về giao thông vận tải, thương mại điện tử, thủ tục hải quan…
Dịch vụ logistics chỉ phát triển hiệu quả trên cơ sở có sự hỗ trợ của luật pháp các lĩnh vực liên quan như luật lệ về giao thong vận tải, thương mại điện tử hay chữ kí điện tử…Vì vậy, để hỗ trợ tốt cho dịch vụ logistics phát triển thì ngoài việc xây dựng và ban hành luật về dịch vụ logistics nhà nước cần ban hành các luật lệ hỗ trợ để tạo môi trường thuận lợi cho phát triển dịch vụ logistics.
Nhà nước cần hoàn thiện hơn về luật trong lĩnh vực giao thông vận tải, cụ thể là luật về hàng hải, luật hàng không, luật giao thông đường bộ, luật đường sông, luật đường sắt …để có một bộ luật khá đầy đủ cho hoạt động vận tải nói chung và phát triển dịch logistics nói riêng. Bên cạnh đó, dịch vụ vận chuyển trong chuỗi dịch vụ logistics không chỉ là vận chuyển trong nội địa mà hơn thế nữa là dịch vụ vận chuyển hàng hoá quốc tế. Vì thế, bên cạnh xây dựng và hoàn thiện luật trong nước, Nhà nước cũng cần cung cấp cho các doanh nghiệp liên quan đến dịch vụ logistics những thông tin cần thiết về luật quốc tế về dịch vụ logistics và các luật hỗ trợ liên quan.
Về phát triển thương mại điện tử, nhà nước cần sớm ban hành các văn bản pháp lý để hỗ trợ cho thương mại điện tử phát triển nhằm tạo điều kiện phát triển dịch vụ logistics.Hệ thống pháp lý cho thương mại điện tử cần xây dựng trên cơ sở đạo luật mẫu về thương mại điện tử của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế nhằm tạo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam với Luật Quốc tế, bảo vệ hợp pháp quyền lợi trong các giao dịch điện tử. Về nội dung Luật Thương mại điện tử của Việt Nam, phải thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch thương mại điện tử( thông qua hệ thống Internet và hệ thống EDI), chữ kí điện tử và chữ kí số hoá, bảo vệ tính pháp lý của các hợp đồng thương mại điện tử, các hình thức , phương tiện thanh toán điện tử, đối với sở hữu trí tuệ lien quan đến mọi hình thức giao dịch điện tử, đối với mạng thông tin, chống tội phạm xâm nhập bằng thu thập tin tức mật, thay đổi các thông tin trên trang web, thâm nhập vào các dữ liệu, sao chép trộm các phần mềm, truyền virut phá hoại một cách bất hợp pháp, thiết lập hệ thống mã nguồn cho tất cả các thông tin số hoá.
Về thủ tục hải quan.
Để thủ tục hải quan cụ thể là thủ tục thông quan ngày càng có hiệu quả và góp phần hỗ trợ cho dịch vụ logistics được nhanh chóng và thuận tiện thì bên cạnh việc thực thi các qui định về Luật Hải quan, Nhà nước cũng cần nghiên cứu và ban hành một số chính sách để giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng luật.Việc phát triển công nghệ thông tin, xây dựng căn cứ pháp lý về khai hải quan điện tử và trao đổi dữ liệu điện tử trong việc làm thủ tục hải quan theo qui định của Luật Hải quan là một yêu cầu cấp bách và là khâu đột phá nhằm đảm bảo thủ tục hải quan thông thoáng, đơn giản, gọn nhẹ, tránh rườm rà làm hàng hoá thông quan khó khăn và chậm trễ, ảnh hưởng đến hợp đồng giao hàng cũng như chất lượng của dịch vụ logistics. Áp dụng công nghệ thông tin vào thủ tục hải quan sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động, giảm thời gian và chi phí trong việc làm thủ tục, tạo điều kiện cho thông quan hàng hoá. Để thực hiện được mục tiêu này, Nhà nước cần hỗ trợ ngành hải quan xây dựng hệ thống thông tin máy tính hải quan, đảm bảo cho việc truyền và nhận thông tin từ trung tâm thông tin dữ liệu tổng cục hải quan tới chi cục hải quan, các cơ quan nhà nước, tổ chức có lien quan để phục vụ cho nhu cầu quản lý, điều hành, trao đổi, sử dụng dữ liệu điện tử trong việc làm thủ tục hải quan, kiểm tra hàng hoá, quản lý thu nộp thuế với hàng hóa xuất nhập khẩu và yêu cầu hiện đại hoá quản lý hải quan cũng như đảm bảo việc kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu bằng phương thức thương mại điện tử. Cải cách hoạt động hải quan trong kiểm tra, giám sát sẽ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động logistics phát triển.
*Tăng cường thể chế quản lý dịch vụ logistics.
Kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy việc tăng cường quản lý dịch vụ logistics của nhà nước là hết sức cần thiết, góp phần tích cực cho dịch vụ logistics phát triển. Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công thương… phối hợp thành lập uỷ ban quốc gia về dịch vụ logistics hoặc giao nhiệm vụ cho một vụ hay cục quản lý về dịch vụ logistics , nói khác đi là phải có một cơ quan quản lý dịch vụ logistics. Cơ quan quản lý sẽ chịu trách nhiệm:
Hoạch định chính sách và đề xuất các biện pháp phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam trong điều kiện hội nhập.
Đề xuất việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho dịch vụ logistics.
Nghiên cứu và đề xuất các qui định pháp luật điều chỉnh hoạt động logistics cũng như các vấn đề giao dịch trong dịch vụ logistics.
Nghiên cứu và đề xuất ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là thương mại điện tử và công nghệ truyền dữ liệu áp dụng trong hoạt động logistics.
Xét đăng ký và cấp phép cho người kinh doanh dịch vụ logistics.
- Giúp đỡ và hỗ trợ việc thành lập và phát triển các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics.
- Phối hợp với các tổ chức trong khu vực và thế giới trong việc phát triển dịch vụ logistics.
5. Vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ logistics.
Nhân lực cho ngành dịch vụ logistics là một nhân tố vô cùng quan trọng quyết định sự phát triển của dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện nay.
Với thực trạng nguồn nhân lực cho dịch vụ logistics vừa thiếu vừa yếu như phân tích ở trên thì phát triển nguồn nhân lực là vấn đề bức thiết. Để có nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển của dịch vụ logistics thì cần triển khai các biện pháp sau:
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho dịch vụ logistics. Chiến lược này nằm trong chiến lược phát triển ngành dịch vụ logistics nói chung.
Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công thương… phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu đưa dịch vụ logistics vào chương trình giảng dạy tại các khoa quản trị kinh doanh của các trường đại học, hoặc thành lập các trường đào tạo nghề kinh doanh dịch vụ logistics.
Nội dung đào tạo cần tập trung vào nội dung logistics, tổ chức vận hành chuỗi dịch vụ logistics và quản lý sự vận động của chuỗi logistics cũng như các quy định pháp lý lien quan tới hoạt động logistics. Trong đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ logistics thì không thể thiếu kiến thức về tin học. Việc truyền, nhận, xử lý thông tin để ra được những quyết định đúng đắn sẽ đơn giản hoá thủ tục giấy tờ, xử lý kịp thời tình huống nâng cao được hiệu quả hoạt động.
Hình thức đào tạo có thể áp dụng nhiều hình thức như đào tạo trong nước hoặc hợp tác với nước ngoài trong đào tạo, tổ chức các hội thảo trao đổi kinh nghiệm và học tập kinh nghiệm của các nước ngoài hay khảo sát thực tế. Ngoài ra có thể thông qua hỗ trợ của các dự án đào tạo logistics của ASEAN, FIATA hay ESCAP và sự hỗ trợ kĩ thuật của các tập đoàn logistics quốc tế để phát triển nguồn nhân lực logistics của Việt Nam.
Tìm kiếm các nguồn tài trợ trong nước và quốc tế cho các chương trình đào tạo ngắn hạn trong và ngoài nước.
Nguồn nhân lực cho phát triển dịch vụ logistics là rất quan trọng. Vì vậy, cần phát triển nguồn nhân lực này theo hướng chính quy, chuyên nghiệp. Đào tạo và tái đào tạo, chương trình đào tạo phải được cập nhật, đổi mới. Có được nguồn nhân lực phục vụ ngành dịch vụ logistics chuyên nghiệp thì ngành dịch vụ này sẽ nhanh chóng phát triển và đạt hiệu quả cao.
6. Vấn đề liên kết và phát huy vai trò của các hiệp hội Logistics ở Việt Nam.
Trước thực trạng các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics ở Việt Nam như hiện nay thì vấn đề liên kết các doanh nghiệp đó lại với nhau là một vấn đề cấp thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics thế giới mà đặc biệt là các doanh nghiệp logistics nước ngoài hiện đang và sẽ kinh doanh dịch vụ này Việt Nam.
Chính phủ cần có các chính sách và biện pháp hướng dẫn, thúc đẩy sự liên kết các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics để có những doanh nghiệp có đủ quy mô, điều kiện cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng loại trong khu vực và trên thế giới.
Ở Việt Nam hiện nay, liên quan đến hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics có rất nhiều hiệp hội: Hiệp hội chủ tàu Việt Nam, Hiệp hội cảng biển Việt Nam, Hiệp hội đại lý và môi giới hàng hải, Hiệp hội bảo hiểm, Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam. Thời gian qua, các hiệp hội đã hoạt động tích bảo vệ quyền lợi của các hội viên trong kinh doanh.
Để phát huy vai trò của mình trong việc phát triển ngành dịch vụ logistics, các hiệp hội cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thiết lập các thủ tục và các tiêu chuẩn kinh doanh của các hội viên, trên cơ sở đó đảm bảo chất lượng của người kinh doanh dịch vụ logistics.
Đại diện lợi ích chính đáng cho các doanh nghiệp trong các quan hệ kinh doanh trong và ngoài nước. Làm cầu nối giữa nhà nước và doanh nghiệp trong việc đề ra các chính sách trong việc quy hoạch và phát triển ngành nghề.
Tư vấn cho các doanh nghiệp về luật pháp quốc tế, thông tin thị trường, mở rộng khách hàng và bảo vệ lợi ích của hội viên khi gặp rào cản hay tranh chấp thương mại quốc tế.
Xử lí tốt việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các hội viên, điều hoà quyền lợi giữa các hội viên, trên cơ sở đó đề xuất với chính phủ thoả thuận ban hành giá cả dịch vụ để tạo sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Tham gia ý kiến vào các văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động của các doanh nghiệp từ khi soạn thảo để đảm bảo tính khả thi của pháp luật.
Tư vấn cho các cơ quan nhà nước về biện pháp và chính sách quản lý và phát triển dịch vụ logistics.
Các hiệp hội ngành nghề nếu thực hiện tốt các nhiệm vụ trên đây sẽ hỗ trợ đắc lực cho nhà nước trong việc đào tạo và phát triển dịch vụ logistics cũng như việc xây dựng và ban hành luật lệ, chính sách liên quan đến dịch vụ logistics. Nếu liên kết chặt chẽ và phát huy tốt vai trò của hiệp hội ngành nghề trong cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics sẽ thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong việc cung ứng dịch vụ logistics và từ đó phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam.
7. Giải pháp đối với người cung ứng dịch vụ logistics.
Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics phát triển thì các dịch vụ logistics mới phát triển được. Để phát triển dịch vụ logistics thì không chỉ có các chính sách và hệ thống pháp luật từ phía Nhà nước mà bản thân các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này cũng phải có các giải pháp để phát triển. Các giải pháp của các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics cần tập trung vào một số vấn đề sau:
*Đầu tư và xây dựng hợp lý có hiệu quả hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật của doanh nghiệp.
Bên cạnh các hệ thống cơ sở hạ tầng mà nhà nước đầu tư xây dựng thì đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics cũng phải trang bị và đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật cho doanh nghiệp mình.
Để đảm bảo cơ sở vật chất kĩ thuật cho hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics , các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ này cần có kế hoạch đầu tư phát triển hệ thống kho bãi và các phương tiện vận tải hợp lý và có hiệu quả. Nên phát triển đa dạng các loại hình kho bãi để đáp ứng tính đa dạng của hàng hoá mà doanh nghiệp nhận bảo quản, đóng gói, vận chuyển…Các loại kho như: kho chứa hàng bao kiện, hàng rời có khối lượng lớn, kho hàng chuyên dụng như kho lạnh chứa hàng đông lạnh, kho chứa hàng sống; kho chứa hàng công nghệ có giá trị cao, nhất là sản phẩm kĩ thuật cao, cơ khí chính xác, thiết bị đồng bộ. Loại kho này cần có hệ thống ngăn kệ nhiều tầng để tối ưu diện tích. Mỗi tầng sẽ được chia thành nhiều ngăn, hàng sẽ được xếp dỡ vào mỗi ngăn bởi hệ thống Pallet bởi các xe nâng. Loại kho này ở Việt Nam hiện còn thiếu và trang thiết bị phục vụ chưa đảm bảo.
Các kho bãi cần được đặt ở những địa điểm thuận lợi; tiện cho việc lưu thông hàng hoá bằng các phương thức vận tải, và nên xây dựng ở những nơi khô ráo để đảm bảo an toàn cho hàng hoá trong những điều kiện khí hậu.
Cần xây dựng những kho trung tâm có sức chứa lớn ở một số điểm vận tải chính như các cảng, các sân bay quốc tế lớn để phục vụ việc lưu trữ, tập kết hàng, chờ xuất khẩu hoặc nhập hàng, chờ phân phối đi các tỉnh thành và các khu công nghiệp.
Doanh nghiệp mua sắm phương tiện vận chuyển sao cho hợp lý cả về lượng, loại hình phương tiện cũng như chất lượng phương tiện.Tuỳ vào loại hình dịch vụ và sản phẩm doanh nghiệp nhận chuyên chở mà các doanh nghiệp nên chọn loại phương tiện vận chuyển nào cho hiệu quả: tàu, ôtô tải, container…
* Mở rộng đa dạng các loại hình dịch vụ logistics cung ứng để dần hướng tới phát triển toàn diện mô hình dịch vụ logistics.
Mở rộng và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ logistics cung ứng cho khách hàng để dần hướng tới sự phát triển toàn diện dịch vụ logistics là giải pháp hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics của Việt Nam hiện nay. Các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ mà tổ chức tốt các dịch vụ của mình sẽ giúp cho các nhà sản xuất kinh doanh tiết kiệm được kho bãi, nhân sự , phương tiện vận chuyển, trong các công đoạn của dòng lưu chuyển hàng hoá (nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm). Các giai đoạn sản xuất được rút ngắn, sản phẩm nhanh chóng có mặt trên thị trường, đáp ứng được ý tưởng kinh doanh hiện đại “đúng thời điểm”.
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics của Việt Nam cung ứng dịch vụ vận chuyển là chủ yếu còn các dịch vụ logistics khác mặc dù cũng có nhưng hoạt động đều rất nhỏ lẻ, manh mún và không được chú trọng như dịch vụ vận chuyển. Nhưng nếu biết khai thác các dịch vụ này có hiệu quả thì lợi nhuận mang lại từ chúng cũng không nhỏ. Xu hướng đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cung ứng của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics mở rộng ra ở các lĩnh vực sau:
Đảm nhận việc cung ứng nguyên vật liệu đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics tìm kiếm các nguồn nguyên vật liệu đầu vào phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khách hàng và cung ứng cho các doanh nghiệp đó đúng thời gian và địa điểm ngay khi khách hàng có nhu cầu.
Đảm nhận việc đóng gói bao bì, phân loại hàng hóa và bảo quản hàng hoá cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Xu thế hợp tác và chuyên môn hoá cao, ngày nay nhiều doanh nghiệp sản xuất thuê ngoài các dịch vụ tương ứng mà bản thân doanh nghiệp có thể tự cung cấp như: đóng gói, bao bì, ký mã hiệu, nhãn mác cho hàng hoá, phân loại hàng hoá, bảo quản hàng hoá trong khi chờ phân phối…Các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics có thể cung ứng cho các doanh nghiệp sản xuất các dịch vụ này một cách hiệu quả: thực hiện các dịch vụ đóng gói phù hợp với trọng lượng, kích thước, giá trị hàng hoá, đánh ký mã hiệu, nhãn hiệu chính xác, phù hợp với yêu cầu, tiêu chuẩn quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xếp dỡ , giao nhận và vận chuyển hàng hoá. Dịch vụ này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên. Với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics thì sẽ đảm bảo an toàn hơn trong chuyên chở và giao nhận hàng, vì họ là người trực tiếp đóng gói, giao nhận và vận chuyển nên hiểu hơn ai hết cần phải bao bì đóng gói hàng hoá như thế nào cho phù hợp, tạo công ăn việc làm cho lao động cũng như lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đối với nhà sản xuất kinh doanh sẽ giải quyết được khó khăn về kho bãi, khắc phục được việc thiếu kinh nghiệm trong điều phối hàng hoá , giảm được chi phí trong việc thực hiện các dịch vụ trước khi hàng hoá được phân phối tới người tiêu dung hoặc xuất khẩu và được hưởng dịch vụ cung cấp có chất lượng cao.
Cung cấp dịch vụ kiểm kê, phân phối hàng hoá đến đúng địa chỉ tiếp nhận.
Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics thực hiện kiểm kê, phân phối hàng hoá sẽ giúp khách hàng tính đúng lượng dự trữ cần thiết, đảm bảo tiến độ sản xuất kinh doanh, tránh được tình trạng thiếu hụt hay tồn đọng nguyên vật liệu, hàng hoá quá định mức dự trữ.
Để thu hút các hàng hoá qua kho, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics nên tiến hành các giải pháp sau:
Áp dụng phí lưu kho hấp dẫn, không áp dụng phí luỹ tiến để có thể tồn trữ số lượng hàng nhiều thời gian lâu, nhất là hàng có khối lượng lớn như hàng nông sản, phân bón, vật liệu xây dựng, hoá chất phục vụ nông nghiệp.
Có chính sách ưu đãi đối với khách hàng thường xuyên thuê kho.
Đảm bảo an toàn về số lượng cũng như chất lượng của hàng hóa trong thời gian lưu kho, tạo long tin cho khách hàng.
Đầu tư tin học hoá hệ thống quản lý hàng trong kho phục vụ công tác kiểm đếm, chất xếp, di chuyển hàng hoá trong kho bảo đảm khoa học, nhanh chóng, kịp thời. Nắm chắc và cập nhật cho khách hàng tình trạng hàng hoá trong từng thời điểm từ lúc hàng xuất khỏi kho cho đến địa điểm nhận hàng cuối cùng.
* Nâng cao chất lượng dịch vụ logistics cung ứng cho khách hàng.
Cùng các giải pháp hỗ trợ phát triển của chính phủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics đáp ứng những yêu cầu mới của thị trường, bản thân các doanh nghiệp cũng phải có sự nỗ lực để đưa ra thị trường những sản phẩm đủ sức cạnh tranh. Hoạt động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt không có sự bảo hộ của Nhà nước, muốn đứng vững thì không có giải pháp nào hữu hiệu hơn là các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng dịch vụ mà mình cung ứng cho khách hàng, thu hút được nhiều khách hàng mới đồng thời giữ chân được những khách hàng hiện có. Để nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng thì các doanh nghiệp cần tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng đã có, hiện đại hoá các trang thiết bị phục vụ , mua sắm các trang thiết bị mới, đào tạo được đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp…để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các dịch vụ logistics.
* Đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực của doanh nghiệp.
Hiện nay nguồn nhân lực đào tạo cho ngành dịch vụ logistics của Nhà nước còn thiếu rất nhiều và chất lượng thì chưa đảm bảo. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics cần có các chính sách nhân lực cho riêng mình, quan trọng nhất là đào tạo và đào tạo lại đội ngũ nhân viên của mình để có một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp. Muốn vậy các doanh nghiệp có thể cử nhân viên theo học các khoá đào tạo chính quy, chuyên nghiệp về dịch vụ logistics ở trong nước hoặc ở nước ngoài, cho nhân viên tham gia các khoá khảo sát thực tế để có thêm kinh nghiệm và nâng cao nghiệp vụ của mình.
* Ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là thương mại điện tử vào quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics cần nhanh chóng thúc đẩy và áp dụng công nghệ thông tin và quá trình hoạt động kinh doanh của mình, trao đổi thông tin và các dữ liệu điện tử trong thương mại, khai quan điện tử để tận dụng ưu thế của công nghệ thông tin nhằm mang lại năng suất lao động cao, tiết kiệm chi phí, giảm thiểu tình trạng tiêu cực, gian lận trong thương mại, xuất nhập khẩu và hải quan. Nhiều trường hợp người ta cho rằng luồng thông tin là tài sản quan trọng nhất trong kinh doanh chứ không phải là luồng hàng hoá hay nguyên vật liệu. Khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics là không giới hạn, từ việc tìm nguồn nguyên vật liệu, theo dõi luồng vận chuyển của hàng hoá, đến việc sử dụng các thiết bị vận hành tự động trong các kho hàng, trong vận chuyển và xếp dỡ hàng hoá. Áp dụng thành tựu của công nghệ thông tin, trao đổi dữ liệu bằng hệ thống máy vi tính với sự hỗ trợ của mạng lưới thông tin liên lạc và công nghệ xử lý thông tin đóng vai trò quan trọng sống còn đối với việc quản lý cả quá trình hoạt động logistics, đặc biệt là quản lý sự di chuyển của hàng hoá và các chứng từ.
Ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là thương mại điện tử vào quá trình hoạt động logistics sẽ tiết kiệm được các chi phí, thông tin thông suốt đảm bảo cho quá trình hoạt động thuận lợi, nhanh chóng, đạt hiệu quả cao.
*Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp logistics trong và ngoài nước.
Thực tế ở Việt Nam chưa có một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics nào hoạt động như một doanh nghiệp logistics thực thụ. Sở dĩ như vậy chủ yếu là do nguồn lực của các doanh nghiệp còn yếu. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics của Việt Nam cần liên doanh, liên kết lại với nhau để có đủ năng lực và điều kiện cung ứng đầy đủ, trọn gói dây chuyền các dịch vụ logistics cho khách hàng. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics nên chọn các đối tác “đủ tầm”- năng lực, uy tín, kinh nghiệm, ưu tiên các công ty nước ngoài nổi tiếng. Qua liên doanh, liên kết dưới nhiều hình thức sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng tiếp thu, học hỏi được những kinh nghiệm của họ để phát triển ngành dịch vụ logistics nước ta một cách bền vững và hiệu quả, tạo điều kiện phát triển một cách độc lập, không chỉ ở thị trường trong nước mà còn vươn ra thị trường thế giới.
* Tăng cường hoạt động marketing nhằm thu hút khách hàng.
Thời gian qua, hoạt động marketing trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics chưa được quan tâm và phát triển thích đáng. Các hình thức triển khai còn đơn giản, tên doanh nghiệp , nội dung nghiệp vụ kinh doanh mới chỉ được đăng tải trên một vài kỳ của tạp chí ngành, báo…Vì vậy, phần nào hạn chế thu hút khách hàng cho doanh nghiệp. Để thu hút được khách hàng nhiều hơn, các doanh nghiệp cần tăng cường hoạt động marketing và phải chú trọng ưu tiên hàng đầu. Một mặt nâng cao được nhận thức cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thấy được vai trò, tác dụng của việc sử dụng dịch vụ logistics, mặt khác thu hút được khách hàng nội địa tham gia tích cực vào lĩnh vực này, ngoài ra còn tạo điều kiện cho việc mở rộng hoạt động của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài. Muốn vậy, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics vần thực hiện những công việc sau:
Thiết lập và mở rộng hơn nữa mối quan hệ với các văn phòng đại diện và các tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam.
Thường xuyên giữ mối liên hệ tốt với các cơ quan thương vụ và các tổ chức quốc tế của nước ngoài tại Việt Nam cũng như của Việt Nam tại nước ngoài để khai thác thông tin về các hợp đồng thương mại và đầu tư nhằm mục đích khai thác nhu cầu dịch vụ logistics.
Có kế hoạch tham quan, khảo sát để tìm tòi và học hỏi các kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng theo tiêu chuẩn quốc tế.
Nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc mở các văn phòng đại diện hoặc chi nhánh của doanh nghiệp ở nước ngoài để khai thác và mở rộng thị trường kinh doanh.
Xây dựng mạng lưới đại lý của doanh nghiệp tại các quốc gia có lượng hàng hoá lớn ra vào Việt Nam hay khu vực để thực hiện cung cấp khi cần thiết nhằm tạo điều kiện liên kết chặt chẽ luồng hàng hoá theo đúng yêu cầu mà khách hàng đặt ra.
Như vậy để phát triển dịch vụ logistics thì cần phải có sự hỗ trợ các điều kiện của Nhà nước, sự nỗ lực của mỗi doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này, sự ủng hộ và sử dụng dich vụ của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Kết hợp được các yếu tố này thì ngành dịch vụ logistics của Việt Nam sẽ nhanh chóng phát triển, không chỉ ở thị trường nội địa mà còn mở rộng ra thị trường khu vực và thế giới.
Phần kết luận
Dịch vụ logistics là một trong 12 ngành dịch vụ mà Việt Nam mở cửa khi hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tuy còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh của Việt Nam nhưng trong thời gian qua các dịch vụ logistics cũng đã thể hiện vai trò và tác dụng quan trọng của nó trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung khi nó đóng góp đến 15% vào tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Dịch vụ logistics không phải là dịch vụ đơn lẻ mà là một chuỗi các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp từ giai đoạn tiền sản xuất, trong quá trình sản xuất cho tới khi hàng hoá tới tay người tiêu dung. Dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên , nhiên vật liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hoá và đưa vào các kênh lưu thông, phân phối để đến tay người tiêu dung cuối cùng.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì dịch vụ logistics đóng vai trò to lớn trong việc giải quyết bài toán đầu vào và đầu ra một cách hiệu quả. Dịch vụ logistics có thể thay đổi nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hoá quá trình chu chuyển nguyên vật liệu,hàng hoá , dịch vụ…dịch vụ logistics còn giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế quốc dân, dịch vụ logistics không thể thiếu trong sản xuất, lưu thông, phân phối. Không những thế dịch vụ logistics mà đặc biệt là dịch vụ vận tải quốc tế còn tạo cơ hội cho Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, tạo cơ hội cho Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới, từ đó nắm bắt được các cơ hội cũng như học hỏi các kinh nghiệm của các công ty, doanh nghiệp nổi tiếng thế giới, sau đó vận dụng hợp lý vào hoạt động kinh doanh của Việt Nam, góp phần phát triển nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ logistics sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã, hội của đất nước.
Trong thời gian qua, dịch vụ logistics của Việt Nam tuy còn khá mới mẻ nhưng đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế cần khắc phục ngay để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics của Việt Nam. Đó là đồng vốn và nhân lực của doanh nghiệp còn khá ít ỏi nên việc xây dựng bộ máy doanh nghiệp còn đơn giản, qui mô nhỏ; nguồn nhân lực vừa thiếu vừa yếu, chưa có kinh nghiệm, nghiệp vụ chuyên sâu; các dịch vụ cung ứng thì mới nhỏ lẻ và chưa thực sự là cung ứng được chuỗi dịch vụ logistics theo đúng nghĩa của nó; điều kiện cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn; tổ chức quản lý chồng chéo…
Từ thực trạng trên cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, không bao lâu nữa Việt Nam sẽ mở cửa cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics 100% vốn nước ngoài vào kinh doanh tại thị trường Việt Nam. Điều này vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức lớn cho các doanh nghiệp kinh đoanh dịch vụ logistics của Việt Nam, hứa hẹn một sự cạnh tranh gay gắt trong ngành cung ứng dịch vụ logistics trên thị trường Việt Nam trong thời gian tới.
Với những khó khăn và thách thức như trên đề ra nhu cấp cấp thiết cho các doanh nghiệp là phải có các giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứn cho khách hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh. Muốn làm được điều đó ngoài những nỗ lực từ phía doanh nghiệp như đầu tư và phát triển hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật, mở rộng loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp thông qua đào tạo và đào tạo lại tại các trường, các trung tâm đào tạo dịch vụ logistics…; ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là thương mai điện tử vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiêp; liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp logistics khác ưu tiên các doanh nghiệp nước ngoài; tăng cường hoạt động marketing...mà cần phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước trong việc: đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng như hệ thống cảng biển, sân bay, đường xá...; xây dựng và ban hành một khung pháp lý hoàn thiện hơn; có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ logistics chuyên nghiệp; tăng cường nhận thức cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh về dịch vụ logistics, vai trò và tác dụng của nó đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thực hiện tốt các giải pháp đưa ra ở trên thị trong thời gian không xa nữa, ngành dịch vụ logistics của Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ, hiệu quả, có năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics trên thế giới.
Như vậy có thể thấy rằng dịch vụ logistics là ngành dịch vụ có vai trò quan trọng và tác dụng to lớn đối với các doanh nghiệp và cả nền kinh tế quốc dân. Đây đang là ngành rất có tiềm năng phát triển ở Việt Nam.Tận dụng tốt các cơ hội và khắc phục nhanh chóng các tồn tại cũng như các khó khăn và thách thức trong thời gian tới sẽ đưa ngành dịch vụ logistics của Việt Nam phát triển nhanh chóng, từ đó góp phần đưa nền kinh tế xã hội nước ta ngày càng phát triển.
Bài đề án môn kinh tế thương mại của em hoàn thành được là nhờ có sự hướng dẫn tận tình của GS-TS Đặng Đình Đào. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy đã giúp em hoàn thành bản đề án này và có thêm được những kiến thức bổ ích. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại-PGS.TS: Hoàng Minh Đường, PGS.TS:Nguyễn Thừa Lộc ( Đồng chủ biên), NXB Lao động xã hội,Hà Nội,2006.
Giáo trình Kinh tế thương mại – GS-TS Đặng Đình Đào,GS-TS Hoàng Đức Thân, NXB Thống kê, 2003.
Logistics- Khả năng ứng dụng và phát triển trong kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận Việt Nam; PGS-TS Nguyễn Như Tiến, NXB Giao thông vận tải,Hà Nội,2006
Quản trị Logistics- Đoàn Thị Hồng Vân, NXB Thống kê,2006.
Tạp chí Kinh tế và phát triển số 121( tháng 7/2007); số 128 (tháng 2/2008).
Tạp chí Phát triển kinh tế số tháng 8/2006
Tạp chí Thương mại số 15/2007; số 18/2007.
Tạp chí Kinh tế Việt Nam số tháng 7/2006.
Luật Thương mại Việt Nam 2005.
Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics.
Một số trang web:
của Cục Đường bộ Việt Nam
của Cục Hàng hải Việt Nam
của Tổng công ty đường sắt Việt Nam
của Tổng công ty hàng hải Việt Nam
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
của Bộ Thương mại
của công ty Vinafco Logistics.
của tổng cục thống kê Việt Nam
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10593.doc