Biện pháp nhằm quản lý & sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị tại Nhà máy in Diên Hồng - NXBGD

Lời mở đầu Máy móc thiết bị đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, đó là sự thắng thế trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển và đứng vững bằng những sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ. Máy móc thiết bị là bộ phận lớn nhất, chủ yếu nhất trong tư liệu lao động và có ý nghĩa quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chính vì vậy công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị đang là vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm nghiên cứu bởi th

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện pháp nhằm quản lý & sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị tại Nhà máy in Diên Hồng - NXBGD, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh tồn tại những lãng phí lớn trong sử dụng máy móc thiết bị . Trải qua nhiều năm nghiên cứu và phát triển, Nhà máy in Diên Hồng - NXBGD, hiện nay là một doanh nghiệp lớn mạnh, lực lượng lao động có tay nghề cao, trình độ kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Đây là một thành tích to lớn, thành quả của quá trình gắn bó lao động bền bỉ của cán bộ công nhân viên nhà máy. Đồng thời sự lớn mạnh về cơ sở vật, chất kỹ thuật, trình độ quản lý kinh tế của nhà máy cũng được nâng cao. Bên cạnh đó, Nhà máy cũng còn tồn tại những hoạt động có hiệu quả chưa cao. Qua thời gian thực tập tổng hợp và thực tập tốt nghiệp tôi đã có điều kiện tìm hiểu về những vấn đề chung về nhà máy, trong đó tôi nhận thấy vấn đề quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của nhà máy tuy đạt được thành tích cao song vẫn còn những lãng phí trong sử dụng máy móc thiết bị vì vậy tôi đã làm chuyên đề này có đề tài là “Một số biện pháp cơ bản nhằm quản lý và sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị tại nhà máy in Diên Hồng - NXBGD”. Tôi hy vọng với chuyên đề này, tôi có thể góp phần cùng ban lãnh đạo Nhà máy tìm cách quản lý và sử dụng hiệu quả hơn máy móc thiết bị hiện có, góp phần nâng cao hiệu quả hơn nguồn vốn của nhà máy, tạo điều kiện tích luỹ, bảo toàn và phát triển nguồn vốn của Nhà máy Nội dung chuyên đề gồm ba phần: Phần I : Một số đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của nhà máy có ảnh hưởng tới công tác quản lý và hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị. Phần II : Phân tích thực trạng công tác quản lý và hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị tại nhà máy. Phần III: Một số biện pháp cơ bản nhằm tăng cường công tác quản lý và sử dụng có hiệu quả các máy móc thiết bị tại Nhà máy. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy Đỗ Văn Lư đã tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình hoàn thành chuyên đề này. Cháu cũng xin cám ơn cô chú phòng kế toán tài vụ, phòng kế hoạch vật tư đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho cháu trong suốt thời gian thực tập. Phần I: Một số đặc điểm kinh tế - Kỹ thuật của nhà máy có ảnh hưởng đến công tác quản lý và sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị. i. Quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy. Quá trình hình thành và phát triển Nhà máy Nhà máy Diên Hồng là đơn vị thành viên của NXBGD được giao nhiệm vụ in sách giáo khoa và các tài liệu giáo dục khác phục vụ cho công tác giáo dục và chính trị của NXBGD. Nhà máy có lịch sử ra đời từ rất lâu, trải qua nhiều gia đoạn phát triển sau. Thời kỳ 1954 -1968: Đây là thời kỳ dồn nhập các nhà in nhỏ - đấu tranh cải tạo công thương nghiệp, tư bản kinh doanh, sơ tán chốn chiến tranh. Từ năm 1953 trở về trước Nhà máy là nhà in tư nhân của pháp chuyên in báo, trụ sở chính đóng tại 15 Hai Bà Trưng - Hà Nội . Từ 1.10.1954, đổi tên thành Nhà máy in Kiến Thiết do nhà tư sản Việt Nam quản lý, chuyên in giấy tờ các việc vặt bằng phương pháp Typô - Trực thuộc sở Văn hoá thông tin Hà Nội. Năm 1958 đổi tên thành Liên xưởng in 9, gồm nhiều nhà in nhỏ gộp lại. Năm 1963 sát nhập với nhà máy in á Châu và đổi tên thành nhà in Diên Hồng. Nhà in được bàn giao sang cục xuất bản Bộ Văn hoá quản lý . Đến ngày 15.7.1967 Nhà in được Bộ văn hoá giao sang Bộ Giáo Dục theo quyết định của số 132 Ttg/vg của Thủ tướng. Thời kỳ 1969 -1991: Quyết định của Bộ Giáo Dục về việc thành lập Nhà máy in Diên Hồng Ngày14.1.1969 Bộ Giáo Dục ra quyết định số 39/QĐ thành lập chính thức nhà máy in Diên Hồng, chia thành 2 cơ sở sản xuất. Trong thời gian này được sự giúp đỡ của Bộ văn hoá, Nhà máy được trang bị mới một số máy móc thiết bị in, đóng sách, ảnh, ảnh kẽm của cộng hoà liên bang Đức để thay thế các máy móc cũ của các nhà tư bản trước đây.Từ đó sản lượng được nâng dần lên từ 700 triệu trang in năm 1968 lên 981 triệu trang năm 1973. Khoảng thời gian từ năm 1069 - 1972, Nhà máy thực hiện đợt sơ tán đợt 2 thực hiện vừa sản xuất vừa chiến đấu. Ngày 9.5.1974 Bộ Giáo Dục ra quyết định số326/QD phân hạng Nhà máy vào loại xí nghiệp hạng 4. Từ thế sản xuất ổn định nên kế hoạch sản xuất ngày một phát triển.Với quy trình Typo tiên tiến chất lượng sản phẩm cao, lúc bấy giờ Diên Hồng đã được xếp vào loại nhà in thứ hai trong số các nhà in có sách in đẹp Sau năm 1975, Bộ Giáo Dục có chủ trương thu hẹp quy mô sản xuất của Diên Hồng. Hàng năm chỉ thực hiện in 1 sản lượng nhỏ sách giáo khoa, còn chủ yếu là in sổ sách, giấy tờ phục vụ trong ngành. Sản lượng hàng năm chỉ còn khoảng 350 - 400 triệu trang Ngày 20-4-1991 Bộ Giáo Dục có quyết định số 1015/QĐ đưa Nhà máy về trực thuộc NXBGD. Ngày 4-6-1991, Giám đốc NXBGD ký quyết định số 55/QĐ chuyển tên Nhà máy thành Xưởng chế bản - in NXBGD Thời kỳ 1991-1996: Thời kỳ củng cổ - xây dựng - phát triển Xưởng chế bản- in. Những vấn đề cơ bản trong thời kỳ này là: Đã thay đổi toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất từ phương pháp in Typo sang phương pháp in Offet với các thiết bị, chế bản in và hoàn thiện sách không ngừng được đổi mới theo hướng đồng bộ và hiện đại. Số lượng CBCNV tăng dần theo tốc độ phát triển của sản xuất, từ trên 80 năm 1991đến 250 người năm 1996 Việc đầu tư thiết bị trong thời kỳ này cũng được chú trọng, các thiết bị mới của CHLB Đức, Việt Nam, Nhật, Thụy Sỹ, Trung quốc … Đều là những máy móc thiết bị hiện đại, đầu tư đồng bộ cho tất cả các phân xưởng, các bộ phận. Do vậy sản lượng của Nhà máy đã tăng lên một cách đáng kể qua các năm từ 250 triệu trang in năm 1991 lên 1143 triệu trang năm 1992 và lên 1626 triệu trang năm 1996 Thời kỳ 1996- nay: Phát huy kết quả đầu tư - tin tưởng - đoàn kết thống nhất - trách nhiệm cao - đưa Nhà máy vào thời kỳ phát triển mới. Bộ Giáo dục và đào tạo quyết định giữ nguyên tên Nhà máy in Diên Hồng theo quyết định số 4943/GDĐT ngày 2-11-1996 Tiếp theo giám đốc NXBGD đã ký quyết định số 259/QĐ ngày 6-11-96 về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Nhà in Diên Hồng. Theo đó nhiệm vụ của Nhà máy là tổ chức in sách giáo khoa, các tài liệu dạy và học khác, các tạp chí phục vụ cho ngành Giáo khoa, các tài liệu dạy và học khác, các tài liệu dạy và học khác, các tạp chí phục vụ cho ngành Giáo dục và Đào tạo theo kế hoạch hàng năm của NXBGD. Ngoài ra, Nhà máy còn làm gia công in sách cho 1 số đơn vị khác ngoài NXBGD. Từ năm 2000, Nhà máy có đưa vào sản xuất, tạo thêm thu nhập cho cán bộ công nhân viên. Như vậy Nhà máy thực hiện sản xuất theo đơn đặt hàng là chủ yếu, còn sản xuất theo cataloge chỉ chiếm một phần nhỏ. Hiện nay Nhà máy vẫn trực thuộc NXBGD, có tư cách pháp nhân không đầy đủ, thực hiện hạch toán kinh tế. Có con dấu riêng được mở tài khoản tại Ngân Hàng, được quyền vay vốn và ký hợp đồng kinh tế… Đặc điểm của cơ cấu sản xuất và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Nhà máy Cơ cấu sản xuất phản ánh bố cục về chất và tính cân đối về lượng của các quá trình sản xuất. Việc xác định 1 cơ cấu sản xuất phù hợp rất quan trọng đối với hoạt động phát triển kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định bộ máy quản lý của doanh nghiệp. Với quy mô sản xuất vừa, Nhà máy in Diên Hồng có hai phân xưởng sản xuất chính, 3 tổ sản xuất phù trợ và 3 tổ phục vụ sản xuất. Cơ cấu sản xuất của Nhà máy được bố trí theo kiểu Doanh nghiệp - phân xưởng - nơi làm việc. Ta có thể xem sơ đồ sau: Sơ đồ 1:Cơ cấu sản xuất của nhà máy. Nhà máy Bộ phận sản xuất chính Bộ phận sản xuất phù trợ Bộ phận phục vụ sản xuất Phân xưởng in ofset Phân xưởng hoàn thiện tổ cơ điện Tổ cắt rọc Tổ chế bản Tổ bảo vệ Tổ bôc xếp Hệ thống kho Phân xưởng in offset: phân xưởng này có nhiệm vụ chỉ thục hiện 1 giai đọan công nghệ là từ các maket bình bản và đưa vào in. Vì vậy mà trong phân xưởng chủ yếu được bố trí các loại máy in, đây là các máy sản xuất bản tự động, điều này tạo điều kiện đơn giản hoá công tác quản lý máy móc. Thành quả của công đoạn này chính là các bản in theo mẫu và được chuyển sang phân xưởng hoàn thiện. Phân xưởng hoàn thiện: phân xưởng có nhiệm vụ là đóng quyển các sản phẩm in từ phân xưởng ofset. Tuy nhiên việc hoàn thiện cũng có nhiều quy trình: gấp máy hay gấp tay, khâu chỉ máy vào bìa, máy đóng ghim, khâu thép … Vì vậy mà thiết bị ở đây được bố trí tương đối đa dạng. Gồm máy gấp, máy khâu chỉ, máy vào bìa, máy đóng ghim, máy ép sách .. . Do vậy mà ở đây việc theo dõi quản lý các máy có phức tạp hơn, việc huy động công suất của các máy không được đồng bộ. Tổ cắt rọc: Bộ phận sản xuất phù trợ được hoạch toán độc lập chuyên cắt rọc giấy từ cuộn ra khổ giấy theo yêu cầu. Do vậy ở đây được bố trí 2 máy cắt, và 2 xe nâng hàng. Tổ chế bản: có nhiệm vụ sửa chữa làm maket bình bản để làm mẫu cho việc in. Trong tổ được bố trí 1 máy công tắc phin, 1 máy chụp 3 máy phơi bản, 2 máy sấy, máy sửa bản, máy vi tính. Các bộ phận phục vụ sản xuất có nhiệm vụ vận chuyển vật liệu tới các phân xưởng Mỗi đơn vị dù ở bộ phận sản xuất chính, hay sản xuất phụ trợ, phục vụ sản xuất đều có trách nhiệm quản lý máy móc thiết bị thuộc đơn vị mình, bảo quản sửa chữa máy thông thường. Như vậy mỗi bộ phận sản xuất đều quyết định tới vấn đề sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị. Bộ máy quản lý của Nhà máy được tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng. Theo mô hình này mỗi bộ phận chỉ nhận pháp lệnh từ một cấp trên trực tiếp, các phòng ban chức năng tham mưu cho Giám đốc về nghiệp vụ chức năng của mình. Với mô hình này cơ cấu đơn giản, dễ vận hành dễ theo dõi kiểm tra. Bộ máy được phân thành 4 phòng chức năng, 2 phân xưởng sản xuất chịu sự quản lý trực tiếp của Giám đốc và 2 Phó Giám đốc: Dưới đây ta có thể xem sơ đồ: Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức quản lý của Nhà máy. Giám đốc PGĐ sản xuất kỹ thuật PGĐ Tài chính Hậu cần P. Kế toán - tài vụ Phân xưởng hoàn thiện P. HC - LĐ - TL Phân xưởng in Offset P. Kế hoạch - vật tư Tổ Cơ điện Tổ cắt rọc Tổ chế bản Tổ bảo vệ P. Kinh doanh tiếp thị : Quan hệ chỉ đạo điều hành. : Quan hệ phối hợp. Ban Giám đốc: - Giám đốc: Là người đứng đầu Nhà máy, có quyền cao nhất quyết định, chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy và chịu trách nhiệm trước Nhà máy, NXBGD và trước pháp luật. - Phó Giám đốc sản xuất kỹ thuật: Điều hành về kỹ thuật sản xuất, là người chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực liên quan. - Phó Giám đốc Tài chính hậu cần: Điều hành về sản xuất và đời sống, là người chịu trách nhiệm về công tác cán bộ, tổ chức, tổ chức lao động. Các phòng ban gồm có: - Phòng kế toán tài vụ: Làm nhiệm vụ tổ chức ghi chép, tính toán, phản ánh chính xác, trung thực, kịp thời, đầy đủ sự thành vận động của toàn bộ tài sản. Trực tiếp giúp giám đốc trong việc thẩm định các loại vật tư, hàng hoá trước khi mua. Phối hợp với các phòng ban chức năng khác lập báo cáo tài chính và chịu trách nhiệm trực tiếp trước giám đốc. - Phòng hành chính lao động tiền lương: xây dựng kế hoạch và biên chế lao động hàng năm và từng thời kì. tổ chức về lao động, tiền lương, và tiền thưởng. Tham mưu cho ban lãnh đạo trong việc thành lập, giải thể các phòng ban, phân xưởng, tổ sản xuất. Bổ nhiệm vầ miễn nhiệm các chức vụ quản lý ... - Phòng kế hoạch vật tư: xây dựng kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính hàng năm trên cơ sở các nguồn lực hiện có. Tổ chức mua sắm quản lý sử dụng các loại vật tư, thiết bị, phụ tùng đảm bảo cho sản xuất, chủ động liên hệ với NXBGD và các đơn vị khác trong việc nhận in tài liệu và giao sản phẩm. Phối hợp với các phòng, ban, phân xưởng, và chịu trách nhiệm trước ban lãnh đạo. - Phòng kinh doanh tiếp thị : làm nhiệm vụ tìm kiếm thị trường, tiêu thụ sản phẩm mà chủ yếu là vở viết học sinh chất lượng cao. Thông qua nghiên cứu thị trường tìm kiếm nhu cầu mà tham mưu cho ban lãnh đạo trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. - Tổ bảo vệ: chịu sự quản lý trực tiếp của phòn HC - LĐ - TL, có nhiệm vụ trông coi tài sản của Nhà máy, quản lý việc ra vào tại Nhà máy. Các bộ phận sản xuất gồm có: - Phân xưởng in Ofset, phân xưởng hoàn thiện: có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch sản xuất định kì. Tổ chức thực hiện lệnh của giám đốc thông qua phiếu sản xuất. Chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ tài sản, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, bán thành phẩm…trong phạm vi phân xưởng. Phối hợp với các bộ phận khác lập và gửi kịp thời các báo cáo thống kê sản lượng cho ban lãnh đạo và các phòng ban liên quan. Ngoài các bộ phận sản xuất trên còn có tổ cơ điện, tổ chế bản và tổ cắt rọc. Các tổ chức đoàn thể của Nhà máy cũng phát triển mạnh góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần công nhân viên Nhà máy. Các phân xưởng sản xuất không có bộ máy quản lý riêng, quản đốc phân xưởng chịu trách nhiệm tổ chức sản xuất và trực tiếp điều hành quản lý lao động, vật tư sản phẩm, thiết bị … chịu trách nhiệm trước Giám đốc về chất lượng sản phẩm và mọi hoạt động của phân xưởng. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Nhà máy có ảnh hưởng đến công tác quản lý và hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị. 1. Đặc điểm về tính chất nhiệm vụ sản xuất Nhà máy in Diên Hồng là 1 đơn vị thành viên của NXBGD, từ khi thành lập Nhà máy có nhiệm vụ in các giấy tờ, việc vặt, bằng phương pháp in Tygô. Hiện nay nhà máy có nhiệm vụ là: Tổ chức in sách giáo khoa, các tài liệu dạy học khác, các tạp chí phục vụ cho ngành Giáo dục và Đào tạo theo kế hoạch hàng năm của NXBGD. Tổ chức in gia công cho các đơn vị khác để tận dụng công suất máy móc thiết bị để tạo thêm thu nhập cho công nhân viên chức. Thực hiện sản xuất kinh doanh vở học sinh chất lượng cao từ năm 2000. NXBGD có 4 đơn vị thành viên trong đó có 2 đơn vị ở miền Bắc là Nhà máy in Diên Hồng và Nhà máy in Đông Anh. Nhà máy in Diên Hồng có năng lực sản xuất bằng nửa năng lực sản xuất của nhà máy in Đông An. Hàng năm nhà máy in được NXBGD giao chỉ tiêu chiếm khoảng 70% sản lượng trang in, đặc biệt năm 2002 lên tới 90%. Việc giao chỉ tiêu cho Nhà máy được thực hiện thông qua việc ký kết hợp đồng kinh tế, tuỳ thuộc vào năng lực sản xuất và khả năng đáp ứng các chỉ tiêu sản lượng của Nhà máy, điều này tạo điều kiện cho Nhà máy ổn định sản xuất và tận dụng năng lực sản xuất của máy móc thiết bị. Tuy nhiên việc giao sản lượng không được thực hiện đều qua các thời kỳ, mà có những lúc sản xuất phải đi vào cao điểm, có những lúc thong thả cầm chừng. Việc giao chỉ tiêu không cân đối về cơ cấu màu trang in (Trang in 1 màu, trang in 2 màu, trang in 4 màu) gây lãng phí cho việc sử dụng máy (máy in 2 màu phải sử dụng vào in 1 màu). Để tận dụng công suất còn lại của mình, Nhà máy thực hiện in gia công cho các đơn vị khác. Tuy nhiên trong công tác này Nhà máy không có quan hệ ổn định lâu dài với 1 đơn vị nào khác, do vậy không tạo được thế chủ động cho Nhà máy, đôi khi vẫn không tận dụng hết năng lực sản xuất của mình. Từ năm 2000 Nhà máy đưa vào sản xuất kinh doanh vở học sinh chất lượng cao, và sản phẩm hiện nay được thị trường chấp nhận, tạo điều kiện tận dụng thời gian và công suất máy trong những thời điểm sản xuất nhàn rỗi, góp phần nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh cho Nhà máy. Với những nhiệm vụ trên, hệ thống máy móc thiết bị của Nhà máy cũng không hiện đại lắm, tất cả sản phẩm in của Nhà máy cũng chỉ cần có 1 quy trình công nghệ duy nhất. Vì vậy nó tạo ra điều kiện để đơn giản hoá công tác quản lý máy móc thiết bị, đồng thời số lượng và chủng loại máy móc thiết bị cũng đòi hỏi ít hơn. 2. Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật Nhân tố này phản ánh khả năng tiếp nhận và vận dụng thành công việc đưa máy móc thiết bị vào sản xuất. Điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật quyết định việc bố trí hệ thống máy móc thiết bị, cho phép đưa máy móc thiết bị vào áp dụng trên cơ sở vừa đảm bảo theo xu hướng phát triển đồng thời có thể tận dụng được một cách tối đa cơ sở vật chất hiện có. Đồng thời cũng tạo điều kiện cho công tác phục vụ việc vận hành máy móc thiết bị Kể từ khi thành lập đến nay Nhà máy đã thực hiện nhiều lần di chuyển địa điểm sản xuất cho phù hợp. Nhà máy cũng đã thực hiện nhiều cuộc thay đổi lớn về đầu tư máy móc thiết bị mới tiến, hiện đại. Đặc biệt năm 1991, Nhà máy đã thay đổi toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất từ phương pháp in Typô sang phương pháp in offset. Các thiết bị mới của cộng hoà liên bang Đức, Việt Nam, Nhật, Thuỵ sỹ, Trung Quốc … đều là máy móc thiết bị hiện đại. Các máy móc thiết bị được đầu tư đồng bộ cho các phân xưởng, các bộ phận. Các thiết bị phục vụ cho công nghệ chế bản, in hoàn thiện sách đều là máy móc tân tiến, có năng suất chất lượng cao và là những máy móc bán tự động. Các máy móc chủ yếu phục vụ cho công việc in và hoàn thiện sách gồm có : máy tính, máy in, in laze, máy chụp, máy phơi bản, máy tráng, máy sấy, máy con tắc, film, máy in, máy dao xén, máy cắt rọc… hầu hết là các máy móc thiết bị chuyên dùng. Toàn nhà máy có 2 phân xưởng, và 3 tổ, mỗi bộ phận này được trang bị một số máy móc thiết bị để thực hiện một hoặc một số các giai đoạn của công nghệ in và hoàn thiện sách. Đòi hỏi việc quản lý máy móc thiết bị phải được cụ thể hoá cho từng bộ phận. Nhà máy có một khu 5 tầng để phục vụ công tác quản lý nói chung và được trang bị những trang thiết bị cần thiết để phục vụ văn phòng… Ta có thể xem xét tình hình cơ sở vật chất, kỹ thuật của Nhà máy. Bảng 01: Cơ cấu tài sản cố định của Nhà máy theo giá trị tuyệt đối. Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu. Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 NG GTCL NG GTCL NG GTCL 1. TSCĐ đang dùng. - Nhà cửa, vật chất kiến trúc. - Máy móc thiết bị. - Phương tiện vận chuyển truyền dẫn. - Thiết bị dụng cụ quản lý. 17649,93 1636,53 15133,28 408,99 471,13 8516,8 935,98 7069.1 203,66 308,05 18850 2682 15197,5 708,99 561,5 7794,3 1964 5344,6 165,75 319,94 18895,6 2682 15.226 408,99 578,43 6376,2 1835 4133,6 129 278,6 2. Tài sản cố địng không dùng . 0 0 0 0 0 0 3. Tài sản cố định chờ thanh lý. 8,45 7,29 0 0 0 0 Tổng: 17658,4 8524,1 18850 7794,3 18895,6 6379,2 Nguồn: Phòng kế hoạch - vật tư. Nhìn vào bảng trên ta thấy TSCĐ đang dùng của nhà máy ngày càng tăng lên và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, TSCĐ không dùng và TSCĐ chờ thanh lý đã không có đó là do kế hoạch của Nhà máy. Theo đó giá trị của máy móc thiết bị chiếm trong tổng TSCD của nhà máy luôn chiếm một tỷ trọng lớn khoảng 80%- 85% theo nguyên giá và 70 - 83% theo giá trị còn lại. Đòi hỏi trong công tác quản lý TSCĐ tại Nhà máy, thì phải coi trọng quản lý máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất. Năm 1999 và năm 2000 theo chỉ đạo của NXBGD, các phân xưởng sản xuất, nhà văn phòng làm việc… của nhà máy được di chuyển, quy hoạch và sửa chữa và cải tạo thuận lợi trong việc bố trí dây chuyền sản xuất khoa học, hợp lý, tạo điều kiện làm việc được cải thiện hơn. Tuy nhiên từ năm 1991 trở lại đây, Nhà máy chưa thực hiện 1 cuộc đầu tư đổi mới thiết bị máy móc có quy mô lớn nào, do vậy phần lớn các máy móc sản xuất chính, thực hiện các công việc hiện đã cũ và lạc hậu, cơ cấu máy móc không đồng bộ… làm cho việc khai thác, tận dụng công suất gặp nhiều khó khăn và công tác sửa chữa, bảo dưỡng cũng phải được coi trọng để kịp thời phát hiện sự cố, sửa chữa kịp thời tránh để máy móc phải dừng hoạt động lâu. Đồng thời là hệ thống kho bãi, nhà xưởng của Nhà máy hiện nay đang tận dụng hết về mặt không gian do vậy gây khó khăn cho việc mua sắm thêm máy móc thiết bị. 3. Đặc điểm về lao động Hiện nay, Nhà máy có số lao động có tay nghề tương đối cao, được đào tạo, có trình phù hợp với công nghệ sản xuất của nhà máy. Hàng năm nhà máy đều có kế hoạch đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ quản lý cho nhân viên quản lý, kỹ sư, đào tạo về chính trị về chính trị. Đồng thời cũng tổ chức học, kiểm tra thi nâng bậc cho công nhân sản xuất đến thời hạn nâng bậc, bồi dưỡng nâng cao trình độ chung toàn Nhà máy tăng lên, làm tăng khả năng quản lý Nhà máy nói chung, khả năng quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của công nhân viên nói riêng cũng tăng lên, như là khả năng về sửa chữa, bảo dưỡng; khả năng vận hành máy đúng quy trình quy phạm tkkhả năng thích ứng nhanh chóng với máy móc thiết bị khi đầu tư đổi mới. Nhà máy có 1 bộ phận công nhân làm hợp đồng công nhật, với số lượng lao động này tăng hay giảm tuỳ khối lượng công việc từng thời kỳ. Số công nhân này không được làm việc thường xuyên nên việc sử dụng máy móc thiết bị có gặp khó khăn, và tăng thêm tính phức tạp trong việc quản lý họ. Số cán bộ công nhân hành chính, kinh tế, kỹ thuật, đều có trình độ từ trung cấp đến đại học theo chuyên môn. Số lượng lao động quản lý chuyên môn, nghiệp vụ chiếm khoảng 11-12%, đây là lao động không tham gia trực tiếp vào sản xuất và đối với nhà máy thực hiện nhiệm vụ sản xuất là chủ yếu thì đây là 1 tỷ lệ cao do vậy mà làm tăng chí phí quản lý nói chung, gián tiếp làm giảm hiệu quả quản lý và sử dụng máy móc thiết bị. Ta có thể xem xét tình hình cơ cấu lao động tại Nhà máy như sau: Bảng 2: Tình hình cơ cấu lao động tại Nhà máy Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số lượng (người) tỷ trọng(%) Số lượng (người) tỷ trọng(%) Sốlượng (người) tỷ trọng(%) I.Tổng số lao động 232 100 234 100 235 100 1.Lao động thường xuyên 198 85.34 196 83.76 198 84.25 -Viên chức quản lý cm nghiệp vụ 27 11.64 28 63.67 27 11.49 - Lao động công nghệ 152 65.1 149 8.12 152 64.68 - Lao động phù trợ 19 8.6 19 83.76 19 8.08 2. Lao động không thường xuyên 34 14.65 38 16.24 37 15.74 Nguồn: phòng Hành chính - Lao động - Tiền lương. Dưới đây ta có thể xem xét cụ thể hơn về trình độ người lao động trong nhà máy Bảng 3: Cơ cấu trình độ chuyên môn của nhà máy. Chỉ tiêu Số lượng (người) Tỷ trọng (%) 1. Lao động quản lý - Trên đại học - Đại học - Trung cấp và cao đẳng 30 1 22 7 12.82 0.43 9.4 2.99 2. Lao động trực tiếp sản xuất - Chuyên nghiệp - Bậc cao - Còn lại 173 39 52 85 73.93 16.67 22.22 36.32 3. Lao động phù trợ 31 13.25 Tổng số 234 100 Nguồn: Phòng Hành chính - lao động - tiền lương. Theo bảng trên ta thấy, tổng số 234 lao động của Nhà máy, số lao động quản lý chiếm 12,8% tổng số lao động, đây là điều bất lợi đối với Nhà máy. Tuy nhiên trong số đó có tới 23 người có trình độ Đại học và trên Đại học. Đây là thuận lợi để nâng cao hiệu quả công tác quản lý máy móc thiết bị nói riêng. Với trình độ cao, họ có khả năng đưa ra những cải tiến về máy móc thiết bị cho phù hợp, đưa ra các quy trình quy phạm 1 cách khoa học, phân công lao động đúng người đúng việc tạo động lực lao động cho công nhân vận hành máy. Trong số lao động trực tiếp sản xuất, số lao động chuyên nghiệp chiếm 16,67% lao động bậc cao chiếm 22,22% so với 36,22% số lao động bậc thấp, mùa vụ … đây cũng là tỷ lệ khá cao điều này làm tăng khả năng sử dụng thời giam làm việc có ích của máy móc thiết bị, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên số lao động bậc cao, số lao động có kỹ năng cao để đảm bảo việc in và hoàn thiện sản phẩm chất lượng cao còn thiếu, vì vậy mà nhiều khi không thực hiện được những hợp đồng in màu chất lượng cao, làm giảm khả năng huy động công suất và thời gian làm việc của máy móc thiết bị. Nhà máy có 3 hình thức trả lương có: 46 lao động hưởng lương thời giam chiếm 19,66%. 21 lao động hưởng lương sản phẩm tập thể chiếm 8,97%. 167 lao động hưởng lương sản phẩm cá nhân chiếm 71,47%. Như vậy khối lượng lao động hưởng lương sản phẩm cá nhân chiếm tỷ trọng lớn điều này góp phần tạo động lực kích thích sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nhưng nó cũng đồng thời làm cho người lao động có xu hướng chạy theo chỉ tiêu sản lượng, không quan tâm chú trọng đến bảo dưỡng máy móc, sửa chữa máy móc thiết bị. Do đó đòi hỏi Nhà máy phải tăng cường công tác bảo dưỡng, sửa chữa khắc phục sự cố của máy móc thiết bị để đảm bảo việc trả lương công bằng và là động lực kích thích sản xuất. Ngoài các mặt trên, Nhà máy còn chăm lo đời sống vật chất tinh thần và các điều kiện làm việc cho công nhân viên chức, người lao động. Điều đó tạo nên niềm tin cho người lao động vào Nhà máy, tạo nên sự gắn bó tinh thần trách nhiệm của người lao động đối với các mặt công tác của nhà máy trong đó công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị, làm cho người công nhân vận hành máy có trách nhiệm hơn trong việc bảo dưỡng, theo dõi tình trạng và vận hành máy theo đúng quy định. 4. Cung ứng nguyên vật liệu. Việc cung ứng kịp thời các loại nguyên vật liệu đảm bảo cho máy móc thiết bị được hoạt động đều đặn và liên tục. Chất lượng và chủng loại nguyên vật liệu đảm bảo cho sản xuất được đồng bộ, làm tăng thời gian làm việc có ích của máy (thời gian sản xuất sản phẩm hợp cách). Việc giảm chi phí nguyên vật liệu tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh . ở Nhà máy, chủng loại nguyên vật liệu cần đáp ứng cũng không cần nhiều lắm gồm: nguyên vật liệu chính (gồm giấy in và bìa các loại, mực in đen và màu, bản Diazo); vật liệu phụ (gồm bột, hồ, keo, ghim, dây thép đóng sách, chỉ khâu …) Việc cung cấp giấy in thì chủ yếu đó là do các đơn vị đi gia công cung cấp giấy khi ký hợp đồng, theo định mức và khối lượng sản xuất. Còn lại một phần thì do Nhà máy mua lấy thông qua việc thiết lập mối quan hệ mua bán lâu dài với nhà máy giấy Bãi Bằng, Nhà máy giấy Tân Mai Các loại nguyên vật liệu khác do nhà máy tự mua lấy. Mực in thì nhà máy chủ yếu dùng loại mực nhập ngoại của Trung Quốc, Singapore và Đức, các loại này đựơc Nhà máy mua thông qua công ty xuất nhập khẩu SCJ. Các loại ngyên vật liệu khác thì được Nhà máy mua trên thị trường, tuỳ theo từng trường hợp mà có quan hệ mua bán với các đối tác khác nhau. Các loại nguyên vật liệu này cũng đa dạng, phong phú trên thị trường chứ không khan hiếm và không có sự biến động lớn. Tạo điều kiện cho Nhà máy cung ứng kịp thời cho sản xuất, giảm thiểu thời gian ngừng máy do thiếu nguyên vật liệu. Việc cấp phát nguyên vật liệu của nhà máy được thực hiện theo hình thức hạn mức. Căn cứ vào định mức và khối lượng công tác mà cung cấp vật tư cho sản xuất, tuy nhiên nhiều khi xảy ra tình trạng thiếu thì phải xin quyết định của giám đốc mới được cấp tiếp và như vậy trong thời gian chờ quyết định thì phải ngừng máy. Nhưng trong nhà máy rất hiếm khi phải ngừng máy vì lí do thiếu nguyên vật liệu. Đây là một cố gắng, cũng là một điểm mạnh của Nhà máy, tạo điều kiện duy trì sản xuất ổn định và liên tục. Nhưng điều đó cũng chưa phải là thật sự tốt, và đem lại hiệu quả cao. Trong Nhà máy việc lập kế hoạch cung ứng vật tư chưa thật sự coi trọng. Nhiều khi vật tư hết thì mua chứ không theo kế hoạch định trước, việc tìm kiếm nguồn cung ứng nguyên vật liệu chưa được quan tâm. Điều này gây nên khả năng tăng chi phí mua sắm hoặc chi phí tồn kho do mua nhiều về. 5. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm của Nhà máy. Không giống như các doanh nghiệp khác sản phẩm do Nhà máy làm ra không phải thuộc về Nhà máy. Nhà máy chỉ thực hiện in gia công theo hợp đồng cho nhà xuất bản giáo dụcvà các đơn vị khác. Tuy nhiên đặc điểm về kết cấu kỹ thuật của sản phẩm này và tiêu thụ nó ảnh hưởng lớn đến quản lý và sử dụng máy móc thiết bị tại nhà máy. Hàng năm lượng tiêu dùng sách giáo khoa là khá lớn, đây là mặt hàng thiết yếu đối với lứa tuổi từ 6-18 tuổi. Hiện nay chỉ có NXBGD mới có quyền phát hành sách giáo khoa, vì vậy lượng cung cấp của nhà xuất bản là ổn định và tăng đều qua các năm, do vậy các chỉ tiêu sản lượng do NXBGD giao là ổn định có thể dự kiến chính xác, tạo điều kiện cho Nhà máy ổn định sản xuất, đơn giản hoá công tác quản lý máy móc thiết bị. Tuy nhiên việc tiêu dùng sách giáo khoa lại mang tính chất thời vụ, chủ yếu vào thời điểm nhập học (khoảng tháng 8-9) vì vậy làm cho sản xuất vào 1 số tháng trước đó trở nên dồn dập khẩn trương. Một thời gian sau đó Nhà máy lại thực hiện hợp đồng in sách tham khảo cho NXBGD và hợp đồng in cho các đơn vị khác vì vậy mà sản xuất của Nhà máy cũng được tiến hành đều đặn liên tục, chỉ có khoảng tháng 10 ,11 là thong thả cầm chừng hơn. Thời gian này tạo điều kiện cho Nhà máy đại tu lại, sửa chữa lại máy móc thiết bị. Nhà máy in gia công cho đơn vị nào thì thành phẩm đều là sách. Sách thì có kết cấu nhẹ giản đơn. Sách chỉ gồm 2 phầm là các trang in bên trong và bìa, chúng đều có quy trình in như nhau. Các trang in bên trong chủ yếu là in một màu, có một phần là 2 màu, và một phần nhỏ là 4 màu. Bìa thì có yêu cầu in 2 màu hoặc 4 màu. Vì vậy mà số lượng hoặc chủng loại máy móc yêu cầu huy động vào sản xuất ít, và công tác quản lý đơn giản hơn. Việc cân đối về số lượng giữa trang in một màu, 2 màu và 4 màu tạo điệu kiện để tận dụng hết công suất của máy móc thiết bị như có thể huy động hết công suất của máy in 4 màu hoặc không phải dùng máy in 2 màu cho việc in một màu tránh lãng phí. Dưới đây ta có thể xem xét cơ cấu trang in qua các năm tại Nhà máy. Bảng 4: Tình hình cơ cấu trang in tại nhà máy Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2001 Số lượng (tr trang) Tỷ trọng (%) Số lượng (tr trang) Tỷ trọng (%) Số lượng (tr trang) Tỷ trọng (%) - Trang in 1 màu. - Trang in 2 màu. - Trang in 4 màu. 1090,15 251,65 216 70 16,15 13,85 1.113,6 438,2 257,2 61.56 24,2 14,24 1.128,5 432,4 271,9 61,57 23,6 14,83 Tổng số trang in thành phẩm 1.557,8 100 1.808,97 100 1832,8 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2000- 2002. Theo như trên ta thấy tổng sản lượng toàn nhà máy tăng lên, đồng thời tỷ trọng trang in 4 màu tăng lên. Trên đây mới là giai đoạn in sách, sách còn phải qua một giai đoạn hoàn thiện, có thể qua khâu chỉ, đóng ghim, khâu thép rồi vào bìa. Năng lực sản xuất của phân xưởng hoàn thiện lớn hơn của phân xưởng in. Do vậy và trong phân xưởng này sản xuất còn cầm chừng, thong thả. 6. Đặc diểm về thị trường kinh doanh. Nhiệm vụ chính trị hàng đầu của Nhà máy là in SGK và các tài liệu dạy và học khác cho NXBGD. Vì vậy khách hàng lớn nhất và quan trọng nhất của Nhà máy là NXBGD. Trong mọi trường hợp, ưu tiên hành đầu phải dành cho NXBGD. Khối lượng in hàng năm cho NXBGD chiếm 1 tỷ lệ lớn, khoảng trên 50% tổng doanh thu hoặc trên 70% tổng sản lượng. Điều này cũng có những thuận lợi và cũng gây ra những khó khăn nhất định: hàng năm được NXBGD giao cho tỷ lệ sản lượng lớn tạo điều kiện cho Nhà máy ổn định sản xuất, chủ động trong việc huy động công suất, số lượng, thời gian máy móc thiết bị vào sản xuất. Tạo khả năng làm đơn giản công tác quản lý máy móc thiết bị. Nhưng đồng thời nó cũng gây ra những khó khăn như việc in cho NXBGD thì có giá công in thấp hơn ở bên ngoài do vậy mà làm cho các chỉ t._.iêu hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị không được nâng cao. Ngoài ra Nhà máy còn in cho các đơn vị khác như là các trường Đại học, 1 số Công ty … nhưng mối quan hệ với các dơn vị này lại không ổn định, và các khách hàng này lại không có nhu cầu thường xuyên nên khó có thể làm ăn lâu dài với họ. Việc kinh doanh vở học sinh chất lượng cao còn gặp nhiều khó khăn. vừa mới gia nhập thị trường thì đã có rất nhiều đối thủ cạnh tranh đã có uy tín trên thị trường, trong khi đó lực lượng nhân viên làm công tác này có trình độ còn yếu. 7. Tình hình tài chính Bảng 6: Tình hình tài chính tại Nhà máy. Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng doanh thu Trđ 14074 18354.8 14000 lợi nhuận sau thuế Trđ 267.6 273 256.9 Tổng tài sản Trđ 14542.6 13543.7 11489 TSCĐ Trđ 8524.1 7794.3 6379.2 TSLĐ Trđ 6018.5 5749.4 5109.8 Nợ phải trả Trđ 6504.9 5350.7 3351.4 Vốn CSH Trđ 8037.7 8193 8137.6 TSCĐ/TTS % 52.05 48.29 42.95 TSLĐ/TTS % 47.95 51.71 57.05 Nợ phải trả/Tổng nguồn % 44.73 39.7 29.17 Vốn CSH/Tổng nguồn % 55.27 60.3 70.83 Khả năng thang toán nhanh Lần 0.27 0.2 0.13 Khả năng thanh toán hiện hành Lần 2.24 2.52 3.43 Nguồn: Các báo cáo tài chính của Nhà máy. Theo bảng trên ta thấy, Nhà máy có hệ số nợ phải trả/tổng nguồn cũng còn nhỏ, vì vậy mà khả năng vay thêm vốn của Nhà máy để đầu tư máy móc thiết bị là còn có thể thực hiện được. Khả năng thanh toán hiện hành và thanh toán nhanh luôn đảm bảo vững chắc. Vì vậy mà Nhà máy có khả năng mua sắm cung tương đối, tạo điều kiện cho việc cung ứng vật tư cho sản xuất được kịp thời, không bị chậm trễ, giảm thiểu thời gian ngừng máy do thiếu nguyên vật liệu. Nhưng đối với 1 Nhà máy thực hiện sản xuất là chủ yếu thì tỷ lệ TSLĐ/TTS là tương đối lớn như vậy, và ngày một tăng (năm 2002 lên đến 57,05%) thì đây là một điều bất lợi đối với Nhà máy, trong đó tỷ lệ sản phẩm dở dang thường chiếm tới 50% TSLĐ, điều này gây ảnh hưởng đến vấn đề huy động công suất đồng bộ của máy móc thiết bị. Nó làm cho năng lực sản xuất của Nhà máy giảm xuống. Hàng năm nguồn vốn ngân sách cấp cho Nhà máy hầu như không đáng kể, hầu như là không có. Đồng thời nguồn vốn kinh doanh và các quỹ của Nhà máy cũng còn nhỏ, trong đó lại không có quỹ đầu tư xây dựng cơ bản, quỹ đầu tư phát triển với số dư hàng năm chỉ khoảng 200 (trđ), chính vì vậy mà hạn chế khả năng đầu tư đổi mới máy móc thiết bị ở Nhà máy, nó cũng giải thích vì sao trong những năm qua nguồn tài trợ cho đầu tư mua sắm máy móc thiết bị tại Nhà máy chủ yếu là nguồn đi vay. Phần II: Phân tích thực trạng về công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị ở Nhà máy in Diên Hồng- NXBGD. i. Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của Nhà máy thời kỳ 2000-2002. 1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất sản phẩm. Nhà máy in Diên Hồng là đơn vị trực thuộc NXBGD, hàng năm được NXBGD giao chỉ tiêu khoảng 70% sản lượng theo kế hoạch sản xuất sản phẩm của Nhà máy. Tuy nhiên Nhà máy không chỉ dừng lại ở đó, mà hàng năm còn khai thác thị trường bên ngoài NXBGD, thực hiện in sách cho các đơn vị khác, không ngừng nâng cao sản lượng sản xuất của khu vực này. Cụ thể ta có thể xem bảng trang sau (bảng 7) Theo bảng, Năm 2000 trang in thành phẩm đạt 1557,7 trang vượt kế hoạch đề ra là 4%, tuy nhiên vẫn chỉ đạt 63,6% công suất máy móc tiết bị. Sản lượng trang in thành phẩm vượt kế hoạch chủ yếu là do việc khai thác các sản phẩm in ngoài NXBGD đặc biệt là Nhà máy đã bắt đầu sản xuất vở học sinh chất lượng cao. Sản lượng trang in công nghiệp không đạt kế hoạch đặt ra do nhiều nguyên nhân như : công tác điều độ quản lý sản xuất vẫn còn nhiều thiếu sót bấp cập, chưa thật sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận và các giai đoạn công nghệ; một số máy móc thiết bị phải ngừng sản xuất để sửa chữa, bảo dưỡng; đội ngũ công nhân lành nghề, kỹ thuật để đảm đương việc in và hoàn thiện sản phẩm chất lượng cao còn thiếu; NXBGD đã giao việc cho Nhà máy nhưng cơ cấu trang in theo màu chưa gắn với năng lực thiết bị hiện có. Năm 2001, sản lượng trang in thành phẩm đạt 116,12% so với năm 2000, đạt 110,98% so với kế hoạch. Hệ số màu (trang in công nghiệp /trang in thành phẩm) là 1,67, trong đó hệ số màu của sách và các tài liệu của NXBGD là 1,72. Điều này cho thấy cơ cấu trang in 1 màu, 2 màu, 4 màu đồng bộ hơn năm 2000, hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị được phát huy làm tăng sản lượng, tăng doanh thu, tăng việc làm. Điều đó một phần là do, bước vào đầu năm 2001, NXBGD đã giao việc cho Nhà máy ngay từ đầu năm, tăng cường cơ cấu trang in 2 màu và 4 mầu tạo điều kiện thuận lợi, chủ động cho Nhà máy. Đồng thời năm 2001 sản phẩm vở học sinh chất lượng cao của Nhà máy đã được người tiêu dùng chấp nhận, thị trường tiêu thụ được mở rộng hơn làm cho sản lượng trang in vở học sinh tăng gấp 2,076 lần so với kế hoạch, gấp 2,4 lần so với năm 2000. Năm 2002, sản lượng trang in thành phẩm giảm 3% so với kế hoạch, tăng 1,32% so với năm 2001 do: Giám đốc NXBGD đã quan tâm giao sản lượng SGK sớm, khá phù hợp với công suất máy móc thiết bị, tỷ lệ màu thuận lợi ngay từ đầu năm. Sản lượng trang in thành phẩm khổ 14,5x20,5 SGK và các tài liệu của NXBGD tăng so với năm 2001 là 187.333.216 trang (vượt 13,2%) tăng 11,5% so với kế hoạch. Sản lượng trang in thành phẩm ngoài NXBGD đạt 51.803.414 trang, giảm so với năm 2001 là 65,1%, so với kế hoạch là 72.74%. Như vậy sang năm 2002 sản lượng in cho NXBGD đã chiếm lên đến 90% tổng sản lượng, tạo điều kiện cho Nhà máy tận dụng năng lực sản xuất, giảm thời gian nhàn rỗi chờ việc. 2. Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu Nhà máy in Diên Hồng có nhiệm vụ là thực hiện gia công cho các đơn vị khác, nên Nhà máy không phải lo khâu tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Sản phẩm sản xuất ra đến đâu thì trả lại cho khách hàng đến đó. Và doanh thu của Nhà máy được xác định ngay khi ký kết hợp đồng gia công. Ngoài ra, Nhà máy còn có một số khoản thu khác. Dưới đây là tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu của Nhà máy ( xem bảng trang sau) Theo bảng trên ta thấy: Năm 2000, theo kế hoạch thì tỷ lệ doanh thu từ kế hoạchNXBGD đưa xuống chiếm 72% doanh thu thuần, nhưng trên thực tế thì loại này chỉ chiếm 48,2% do doanh thu từ in khác và bán vở học sinh tăng đột biến. Trên thực tế thì doanh thu từ NXBGDchỉ đạt 92,57% so với kế hoạch do giá công in giảm và việc giao kế hoạch in cho Nhà máy chưa cân xứng. Doanh thu từ in khác đạt 275,72% so với kế hoạch, doanh thu vở học sinh chiếm 8,3% tổng doanh thu thuần, đây là con số đáng khích lệ vì đây là lần đầu tiên Nhà máy thực hiện sản xuất kinh doanh vở học sinh, Nhà máy có cố gắng trong việc khai thác các sản phẩm in ngoài NXBGD. Sang năm 2001, doanh thu kế hoạch từ NXBGD chiếm 48,87% và thực tế thì chiếm 43,43%. Tuy vậy thực hiện cũng vựơt kế hoạch 26,64%. Doanh thu từ vở học sinh đã chiếm đến 24,55%, đây là 1 tỷ lệ lớn, tăng đột biến so với năm 2000. Đồng thời thực hiện cũng đạt 362,08% so với kế hoạch, đây là bước tiến lớn của Nhà máy trong kinh doanh vở học sinh. Tuy nhiên, doanh thu từ in ngoài NXBGD không đạt kế hoạch điều này chứng tỏ việc khai thác các hợp đồng in ngoài Nhà Xuất Bản đã không được như mong muốn và cũng là do việc tăng doanh thu từ NXBGD và bán vở học sinh. Điều đó làm tổng doanh thu thuần đạt 138,95% so với kế hoạch và đạt 131,5% so với thực hiện. Đây là một thành tích lớn của Nhà máy. Sang năm 2002 tổng doanh thu chỉ đạt 75,785% so với kế hoạch, chỉ bằng 76,62% so với 2001. Mặc dù sản lượng có tăng nhưng do Nhà máy chỉ in cho NXBGD nên giá công in thấp hơn ngoài nhiều 3. Phân tích tình hình thực hiện kết quả sản xuất kinh doanh. Nhà máy in Diên Hồng là một đơn vị trực thuộc NXBGD thực hiện hạch toán độc lập, ngoài sự giúp đỡ từ phía NXBGD thì chủ yếu là sự cố gắng nỗ lực của tập thể cbcnv toàn Nhà máy. Trong những năm qua nhà máy luôn cố gắng hoàn thành nhiệm sản xuất và cố gắng thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển hơn nữa. Cụ thể ta có thể xem tình hình thực hiện kết quả sản xuất kinh doanh trong bảng trang sau (bảng 10) Theo bảng trên thì ta thấy năm 2000, doanh thu thuần đạt 138,58% so với kế hoạch, với thu nhập khác đạt 196,79% so với kế hoạch. Điều này đã làm cho tổng doanh thu và thu nhập đạt 139,11% so với kế hoạch. Tuy nhiên theo đó tổng chi phí sản xuất kinh doanh cung tăng 40,69%so với kế hoạch. Do vậy mà lợi nhuận sau thuế cũng tăng không đáng kể so với kế hoạch (chỉ bằng 100,07% so với kế hoạch). Các khoản nộp ngân sách chỉ bằng 83,6% so với kế hoạch đó là do thuế giá trị gia tăng được khấu trừ chỉ bằng 43,68% so với kế hoạch, thu sử dụng vốn đạt 92,87% so với kế hoạch. Còn lại là thuế thu nhập doanh nghiệp,thuê đất, thuế môn bài bằng kế hoạch. Sang năm 2001, doanh thu thuần đạt 18.273 triệu đồng, đạt 138,95% so với kế hoạch, đạt 131,5% so với năm 2000. Đây là một cố gắng lớn của Nhà máy, thu nhập khác chỉ bằng 87,04% so với kế hoạch và bằng 44,59% so với năm 2000.Tuy nhiên do giá vật tư, các yếu tố đầu vào như tiền lương, các khoản trích theo lương, tiền điện… đều có xu hướng tăng, trong khi đó giá công in thấp do cạnh tranh gay gắt nên lợi nhuận sau thuế chỉ đạt 101,9% so với kế hoạch, và bằng 102,03% so với năm 2000. Và cũng vì vậy mà tỷ suất lợi nhuận/doanh thu chỉ đạt 1,5% trong khi đó năm 2000 đạt 1,901%. Nhưng tỷ suất lợi nhuận/Tổng tài sản, tỷ suất lợi nhuận/Vốn chủ sở hữu, số vòng quay của vốn và thu nhập bình quân đầu người đề tăng so vơi năm 2000. Năm 2002, doanh thu lại có xu hướng giảm xuống và chỉ đạt 75,98% so với kế hoạch và bắng 76,62% so với năm 2001, đó là do tổng sản lượng có giảm xuống so với kế hoạch và tăng không đáng kể so với năm 2001. Và cũng là do sản lượng in ngoài NXBGD và in vở học sinh giảm mạnh, trong khi đó ở khu vực này thì đơn giá trang in lại cao hơn. Cũng do doanh thu giảm mà dẫn đến lợi nhuận sau thuế giảm, chỉ còn bằng 94,1% so với năm 2001, do vậy các khoản nộp ngân sách cũng chỉ bằng 91,37% so với năm 2001. Tỷ suất lợi nhuận /doanh thu tăng 034% so với năm 2001 và tỷ suất lợi nhuận / tổng tài sản và lợi nhuận/vốn chủ sở hữu đều tăng. Tuy nhiên số vòng quay của toàn bộ vốn và thu nhập bình quân đầu người lại giảm. Nói tóm lại, các chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của Nhà máy cưa cao do sản xuất kinh doanh trong ngành in trong những năm gần đây rất khó khăn, giá công in thấp, chí phí đầu vào tăng. II. Phân tích cơ cấu máy móc thiết bị của Nhà máy. Do chỉ thực hiện nhiệm vụ là in, nên chủ yếu máy móc thiết bị được trang bị tại Nhà máy chủ yếu là để làm việc in và hoàn thiện sách. Ta có thể xem tình hình trang bị máy móc thiết bị tại Nhà máy như sau. Bảng11 : Tình hình trang bị máy móc thiết bị tại Nhà máy. Tên máy móc thiết bị Nước sản xuất Năm đưa vào sd Nguyên giá (đ) GTCL (đ) PX.in ofset Máy in 16 tr 1 màu HEIDELBERG Đức 1990 358.622.918 0 Máy in 16 tr2 màu KOMORY Nhật 1991 669.738.000 94.269.512 Máy in 8 tr 2 màu HEIDELBERG Đức 1995 2.381.244.983 57.504.289 Máy in 8 tr 2 màu HEIDELBERG Đức 1995 2.520.470.290 526.962.02 Máy in 16 tr 2 màu KOMORY Nhật 1995 809.970.200 0 Máy in 8 tr 1 màu HEIDELBERG Đức 1988 28.561.000 0 Máy in 8 tr 1 màu HEIDELBERG Đức 1988 28.561.000 0 Máy in 8 tr 1 màu HAHADA Nhật 1988 284.000.000 0 Máy in 16 tr 4 màu MIITSUBITSHI Nhật 1998 1.516.000.000 606.400.004 Máy rửa lô VN 1998 18.400.000 7.053.338 Máy dao 1 mặt MAXIMA Tiệp 1998 257.197.350 124.312.064 Máy dao 1 mặt POLAR Đức 1996 720.400.968 150.083.559 Máy nén khí ABC ý 2001 728.569 4.414.288 Cộng nhóm 9.598.309.566 1570999074 PX hoàn thiện sách Máy gấp 570 Đức 1992 37.000.000 758.424 Máy gấp STALL Đức 1995 489.130.000 52.989.092 Máy gấp MBOT Đức 1996 696.699.784 111.252.579 Máy khâu chỉ BREHMER Đức 1991 604.553.057 0 Máy khâu chỉ BREHMER Đức 1994 453.021.235 3.775.184 Máy khâu chỉ BREHMER Đức 1994 453.021.235 3.775.184 Máy khâu chỉ A4 Đức 1969 14.111.000 0 Máy vào bìa PONY Thụy Sĩ 1996 982.519.934 200.308.898 máy dao 3 mặt PERFECTA Đức 1968 11.147.000 0 Máy đóng gim 2 đầu Nhật 1997 86.000.000 32.966.662 Máy mạ vàng thuỷ lực VN 1998 27.000.000 10.350.000 Máy cán vàng láng bóng VN 1998 32.700.000 12.535.000 Máy ép sách nghiêng VN 1998 10.700.000 4.101.662 Máy ép sách đứng TQ 1998 16.000.000 6.133.338 Máy sấn gân bìa TQ 1998 30.500.000 11.691.662 Máy ép sách thuỷ lực VN 1998 25.000.000 9.583.338 Máy bắt liên hoàn YOSINO Nhật 1998 1.118.814.000 475.128.659 Máy đóng sách TQ TQ 2000 15.238.095 9.904.765 Máy đóng sách TQ TQ 2000 15.238.095 9.904.765 Máy hấp phụ hơi khí độc VN 2000 13.714.286 8.914.285 Máy hấp phụ hơi khí độc VN 2000 13.714.286 8.914.285 Máy nén khí ABC ý 2001 5.142.857 4.414.288 Cộng nhóm 5.150.917.442 977.402.069 Tổ cắt rọc Máy cắt cuộn Đài Loan 1998 131.322.300 0 Máy dao một mặt PC - 49 TQ 1993 82.000.000 0 Cộng nhóm 213.322.300 0 Tổ chế bản Máy công tắc phim VN 1993 5.500.000 595.826 Máy chụp + ổn áp Đức 1993 6.500.000 659.999 Máy phơi bản + bộ nguồn VN 1991 26.200.000 0 Máy phơi bản MONTAKOP Đức 1998 150.811.160 58.648.783 Máy rửa bản VN 1998 9.050.000 3.469.162 Máy sấy VN 1993 13.861.000 1.501.604 Máy sấy bản VN VN 2001 18.300.000 15.097.500 Cộng nhóm 230.222.160 79.972.874 Tổ cơ điện Máy mài dao 1997 27.000.000 12.105.000 Cộng nhóm 27.000.000 12.105.000 Tổng cộng 15.219.771.468 2640479017 Nguồn: Phòng Kế hoạch - vật tư Từ năm 1991, Nhà máy đã thay đổi hàng loạt các máy móc thiết bị, chủ yếu là các máy móc tiên tiến hiện đại, có năng suất, chất lượng cao, phần lớn là máy móc bán tự động. Các máy móc thiết bị được đầu tư đồng bộ cho tất cả các phân xưởng, bộ phận, chủ yếu là để phục vụ cho việc in và hoàn thiện sách. Tính đến tháng 3 năm 2003, toàn bộ giá trị máy móc thiết bị hiện có của Nhà máy theo nguyên giá là 15.219.771.468 (đồng), theo giá trị còn lại là 2.640.479.017 (đ). Trong đó đầu tư từ ngân sách là 930.132.918 (đ) (chiếm 6,11% tổng giá trị máy móc thiết bị theo nguyên giá); đầu tư bằng nguồn vốn tự có là 5.706.591.864 (đ) (chiếm37,49% tổng giá trị máy móc thiết bị ); đầu tư bằng nguồn khác là 8.583.046.686 (đ) (chiếm56,4% tổng giá trị máy móc thiết bị) Ngân sách tài trợ cho Nhà máy trong việc mua sắm máy móc thiết bị rất ít, còn các nguồn vốn tự có chỉ tài trợ được một phần nhỏ đối với những máy móc thiết bị có giá trị lớn hoặc toàn bộ cho những máy móc thiết bị có giá trị dưới 100 triệu đồng Chất lượng trang in phụ thuộc trực tiếp vào công đoạn in được thực hiện ở phân xưởng in Offset. Vì vậy mà những máy móc trong phân xưởng này dùng cho việc in đều được mua từ Nhật và Đức và là những máy móc hiện đại có năng suất chất lượng cao và chủ yếu được mua cách đây 10 năm. Còn lại các máy móc khác đều được mua từ Nhật, Đức, Trung Quốc, Việt Nam… Hiện tại Nhà máy có một số máy móc đã cũ, một số máy móc đã khấu hao hết nhưng vẫn được sử dụng. Những máy móc đã khấu hao hết có tổng giá trị theo nguyên giá là 2.592.370.775 (đ) (chiếm 17.03% giá trị máy móc thiết bị theo nguyên giá). Đây là một tỷ lệ khá lớn đòi hỏi Nhà máy phải xem xét lại để có kế hoạch đầu tư mua sắm thêm hoặc có kế hoạch thanh lý, loại bỏ một số máy móc thiết bị. ở Nhà máy tất cả các máy móc thiết bị đều là chuyên dùng, được thiết kế để đảm nhiệm 1 hay 1 vài công việc nào đó. Các thiết bị này thường là bán tự động nên có thể giảm bớt nhu cầu về thợ, nhưng lại đòi hỏi trình độ lành nghề của người thợ. Đồng thời nó có thể đảm bảo tính liên tục của sản xuất do không phải dừng máy để thay đổi dụng cụ, đồ gá lắp. Tuy nhiên trong Nhà máy còn có một phần máy móc phải sử dụng nhiều lao động thủ công và chúng được trang bị cho phân xưởng hoàn thiện sách và các tổ sản xuất phù trợ. Số máy móc thiết bị trong Nhà máy hiện nay đã được sử dụng 100%, số máy móc thiết bị dó đều cần dùng và đã được lắp đặt toàn bộ. Có được điều đó là do Nhà máy đã có kế hoạch trong việc trang bị máy móc cho sản xuất, những máy nào cần thì mới mua và mua về là đưa vào sử dụng ngay, đồng thời Nhà máy cũng có kế hoạch thanh lý những máy móc thiết bị không còn sử dụng được nữa. Tại 2 phân xưởng sản xuất chính giá trị máy móc thiết bị được trang bị tương đối lớn, theo nguyên giá là 14.956.544.868 (đồng) chiếm 98,27% ; theo giá trị còn laị là 23.548.401.143 (đ) chiếm 96,5% tổng giá trị. Đây là một tỷ lệ khá lớn. Còn lại các máy móc thiết bị cho công tác phụ trợ chiếm một phần nhỏ và được trang bị cho các tổ phụ trợ theo nguyên giá là 263.226.600 (đ) chiếm 1,73 % tổng giá trị máy móc thiết bị, theo giá trị còn lại là 920.770.874 (đ) chiếm 3,5%. Hiện nay đang có xu hướng tăng tỷ trọng của sản xuất chính về mặt năng lực sản xuất vì vậy ở Nhà máy tỷ trọng máy móc thiết bị ở 2 phân xưởng sản xuất chính lớn thì cũng có nghĩa là như vậy. Tuy nhiên xu hướng nâng cao trình độ cơ giới hoá của sản xuất phụ trợ lại không được thực hiện, ở các tổ sản xuất phù trợ ta có thể thấy máy móc đã cũ và phải sử dụng nhiều lao động thủ công. III. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt số lượng, thời gian, công suất. Phân tích tình hình sử dụng về mặt số lượng. Có thể nói xét về vấn đề sử dụng số lượng máy móc thiết bị thì Nhà máy đang tận dụng triệt để số lượng máy móc thiết bị hiện có. Kể từ năm 2000 trở đi toàn bộ TSCĐ của Nhà máy không có loại nào đang chờ thanh lý hay không sử dụng. Như vậy, máy móc thiết bị của Nhà máy phải thật cần thiết thì mới được đầu tư và khi mua về thì được lắp đặt và đưa vào sử dụng ngay. Và Nhà máy cũng có kế hoạch thanh lý những máy móc không còn sử dụng được. Đo đặc điểm và tính chất của ngành sản xuất công nghiệp, sản xuất sản phẩm tiêu dùng nên trong quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện bởi hệ thống dây chuyền công nghệ. Trong đó lại có nhiều giai đoạn công nghệ nhỏ, nên máy móc thiết bị của Nhà máy mang tính chuyên dùng, có nhiều chủng loại khác nhau. Mặt khác, nhiệm vụ của Nhà máy là ổn định theo thời gian và chỉ thực hiện theo một quy trình công nghệ duy nhất. Do vậy mỗi khi ký kết hợp đồng in gia công thì sau đó toàn bộ máy móc thiết bị đều được huy động vào sản xuất. Điều này không giống như các công ty xây dựng, vì sản phẩm của họ mang tính đơn chiếc, đặc thù không giống nhau nên có những loại máy chỉ được dùng cho một số công trình đặc thù, Và do vậy mà trong một khoảng thời gian khá dài chúng có thể không được huy động vào sản xuất. Còn ở Nhà máy trong những năm gần đây luôn có hệ số sử dụng số lượng của máy móc thiết bị là 1. Trong nhiều trường hợp Nhà máy đã từ chối ký hợp đồng in gia công với lý do máy móc thiết bị đã hoạt động gần hết công suất thiết kế. ở phân xưởng in Offset hầu hết các máy móc đã hoạt động đến 80% công suất thiết kế, do đó trong thời gian tới Nhà máy có xu hướng đầu tư thêm để tăng năng lực cho phân xưởng này. Tuy nhiên hệ số sử dụng số lượng trên vẫn chưa nói lên được nhiều điều, ta còn cần phải xem xét nó trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt công suất Việc sử dụng công suất máy móc thiết bị ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tận dụng tối ưu công suất của máy móc thiết bị. Để đánh giá trình độ sử dụng công suất máy móc thiết bị ta có thể sử dụng hệ số huy động công suất thiết kế theo sản lượng x 100% KSL = Tổng sản lượng sản phẩm thực hiện trong kỳ Tổng sản lượng theo thiết kế Hệ số này phản ánh mức huy động công suất của máy móc thiết bị. Hệ số này càng tiến đến 1 thì hiệu quả sử dụng công suất của máy móc thiết bị càng cao. Nó là cơ sở để doanh nghiệp xác định hướng đầu tư cho máy móc thiết bị. Dưới đây ta có thể xem tình hình huy động công suất máy móc thiết bị của Nhà máy theo bảng 12 trang sau. Theo trình tự sản xuất sản phẩm của Nhà máy thì việc in được thực hiện bắt đầu từ Tổ chế bản, tiếp theo được in bằng các máy in tại phân xưởng in Offset, sau đó sẽ được tiếp tục được đưa vào các máy hoàn thiện ở phân xưởng Hoàn thiện. Vì vậy mà công suất của toàn Nhà máy phụ thuộc vào khâu in, tức là vào công suất thực tế của các máy in. Thành phẩm của các máy in ra đến đâu thì các máy hoàn thiện sách đều có thể đáp ứng. Vì vậy việc nâng cao công suất của các máy hoàn thiện và từ đó nâng cao hệ số huy dộng công suất thiết kế theo sản lượng là phụ thuộc vào việc nâng cao công suất của các máy in Từ bảng trên, ta thấy trong 3 năm qua hệ số huy động công suất thiết kế theo sản lượng tương đối cao và tăng năm sau cao hơn năm trước. Hệ số này thay đổi qua các năm và theo các loại máy. Năm 2000 hệ số huy động công suất tương đối cao. Đặc biệt các máy in nói chung, hệ số huy động công suất bằng 59,4%. Nhưng hệ số này lại không đồng đề giữa các loại máy. Máy in 2 màu công suất thực tế chỉ bằng 21,82% so với năng lực sản xuất. Trong khi đó máy in 1 màu lại tương đối cao và bằng 91,42% còn máy in 4 màu cũng đạt 77,57%. Các máy còn lại hệ số này cũng không cao lắm và lại không đồng đều giữa các máy. Điều đó là do năng lực sản xuất được xây dựng giữa các máy là không cân đối. Vì vậy mà trong khi 1 số máy có hệ số huy động công suất thiết kế là tương đối cao (Máy gấp bằng 80,87%; máy bắt sách đạt 81,65%) một số máy khác hệ số này lại tương đối thâp, đặc biệt là máy khâu thép chỉ đạt 41,1 %, máy xén 3 mặt bằng 50,03% . Sang năm 2001, tình hình này được thiện hơn. Tuy hệ số huy động công suất vẫn không đồng đều giữa các máy nhưng hệ số này đã tăng 1 cách đáng kể so với năm 2000. Hệ số huy động chung của các máy in đạt 68,93% tăng so với năm 2000 là 11,53%, đây là mức khá lớn. Đạt được điều đó là do công suất của các máy in tăng, tạo điều kiện tăng công suất thực tế của các máy hoàn thiện. Năm này công suất của máy in một màu tăng không đáng kể so với năm 2000, đó là do mức công suất này đa rất cao, gần bằng với công suất thiết kế do vậy mà tốc độ tăng chậm. Công suất thực tế của máy in 2 màu cũng tăng nhiều vì vậy mà hệ số huy động công suất thiết kế so với năm 2000 tăng 16,18%. Tuy nhiên hệ số này vẫn con rất thấp ( mới chỉ bằng 38%). Máy in 4 màu hệ số này rất cao (bằng 92,36%) tăng so với năm 2000 là 14,9%. Còn lại các máy hoàn thiện sách có công suất thực tế tăng theo cũng tương đối lớn . Vì vậy mà hệ số huy động công suất tăng tương đối cao so với năm 2000. Nhất là máy gấp và máy bắt sách hệ số này đã lên 93,91% và 94,81% tăng so với năm 2000 là 13,04% và 13,16% . Máy khâu thép và máy xén 3 mặt có hệ số này cũng tăng cao( khoảng 6,61% và 8,07%.) tuy nhiên các hệ số này còn thấp và chỉ bằng 47,71% và 58,1%. Đạt được thành tích trên là do năm 2001, NXBGD đã quan tâm giao chỉ tiêu sản lượng cho nhà máy ngay từ đầu năm và cơ cấu trang in đã hợp lý hơn. Sản phẩm in ngoài NXBGD của Nhà máy đã được chấp nhận, công tác điều độ sản xuất được hoàn thiện hơn. Sang năm 2002 tình hình không thay đổi nhiều. Hệ số huy động công suất đã tăng chậm lại đó là do hệ số huy động công suất của các máy in chỉ bằng 69,84%, chỉ tăng 0,91% so với năm 2001. Cụ thể là do: Máy in 1 màu và 4 màu công suất đã lên tới qua cao ( hệ số huy động công suất đã bằng 94,63% và 97,65%) nên không thể tăng nhiều được. Trong khi đó máy in 2 màu công suất thực tế lại giảm. Chính vì vậy hệ số này của các máy in chỉ đạt 64,84% và chỉ tăng 0,91%. Điều đó làm cho hệ số huy động của các máy hoàn thiện sách tăng không đáng kể. Nhưng trong đó hệ số này của máy gấp và máy bắt sách cũng rất cao( bằng 95,15% và 96,06%) và máy khâu chỉ cũng tương đối cao bằng 85,63%. Tóm lại, ta thấy hiện nay hệ số huy động công suất thiết kế của Nhà máy tương đối cao đó là máy in 1 màu và 4 màu, máy gấp và máy khâu thép. Vì vậy mà Nhà máy nên có những biện pháp để đầu tư thêm những máy móc loại này. Còn máy in 2 màu thì có công suất thực tế tương đối thấp so với năng lực sản xuất vì vậy cần phải có kế hoạch khai thác các sản phẩm có trang in 2 màu, đôi khi bắt buộc phải sử dụng để in 1 màu. Như vậy sẽ làm tăng công suất máy. Cũng từ đó mà làm tăng hệ số huy động công suất của máy in và kéo theo sự tăng thêm hệ số này của các máy hoàn thiện sách. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian. Để đánh giá tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian ta dùng hệ số sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian. Ta sử dụng các hệ số sau: HTG = Thời gian làm việc thực tế Thời gian làm việc theo chế độ Hệ số này cho biết trong 1 năm máy móc thiết bị hoạt động bao nhiêu giờ, phải ngừng hoạt động bao nhiêu giờ. Hệ số này càng tiến tới 1 thì hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị càng cao. Trong thời gian qua, do tính chất sản xuất ổn định, sản xuất được tiến hành liên tục vì vậy mà thời gian làm việc của thực tế của máy móc thiết bị ở Nhà máy có điều kiện nâng cao. Cụ thể ta có thể xem xét tình hình sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị tại Nhà máy ở bảng 13 trang sau. Theo chế độ, Nhà máy quy định chung là mỗi máy làm việc 2 ca/ngày và một năm làm 273 ngày, trong đó 1 ca làm việc 8 tiếng. Không giống như các doanh nghiệp xây dựng có thời gian làm việc thực tế rất thấp so với thời gian làm việc theo chế độ. ở Nhà máy do tính chất sản xuất liên tục nên thời gian làm việc thực tế tương đối cao, và không có sự biến động lớn giữa các loại máy. Nhìn vào bảng trên, ta có thể thấy năm 2000 hệ số sử dụng thời gian cũng khá cao ở một số máy như máy in offset 1 màu, 4 màu, máy gấp và máy khâu chỉ (bằng 0,8; 0,58; 0,71; 0,79). Tuy nhiên máy in 2 màu có hệ số này rất thấp (chỉ bằng 0,19). Đó là do lượng đặt hàng về trang in 2 màu rất thấp so với năng lực sản xuất. Sang năm 2001, hệ số sử dụng thời gian của tất cả các loại máy đều tăng lên đáng kể và hệ số này của các loại máy là tương đối cao, đặc biệt là máy in 1 màu, máy gấp và máy khâu chỉ (bằng 0,82; 0,82; 0,92). Do vậy mà sang năm 2002, hệ số này cũng tăng nhưng không đánh kể. Nhìn chung 3 năm qua, ta thấy máy in 1 màu, 4 màu, máy gấp, máy khâu chỉ có hệ số sử dụng thời gian tương đối cao, do vậy mà hệ số huy động công suất của các máy này cũng rất cao (như đã phân tích ở phần trước). Có được nhữnh tình hình như trên là do 1 số nguyên nhân sau: Sản phẩm SGK tuy là có tính chất mùa vụ, nhưng lại có khả năng lưu kho nên Nhà máy có thể sản xuất từ tháng 11 năm trước cho đến hết tháng 8 năm sau. Đồng thời vào tháng 9, tháng 10. Nhà máy có thể thực hiện in sách tham khảo. Do vậy mà có thể làm giảm tính mùa vụ của sản xuất, làm cho sản xuất được tiến hành liên tục, nâng cao thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị. Vào những lúc sản xuất cao điểm, thao chế độ thì Nhà máy chỉ làm việc 2 ca một ngày, nhưng lại huy động làm 3 ca 1 ngày, do vậy cũng tăng thời gian làm việc thực tế. Việc cung ứng nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất được thực hiện tương đối tốt. Hầu như các máy móc thiết bị của Nhà máy chưa từng phải ngừng máy do thiếu nguyên vật liệu. Điều này cũng tạo điều kiện cho máy móc thiết bị được hoạt động liên tục. Công tác bảo dưỡng máy hàng ngày, hàng tuần tạo điều kiện cho việc duy trì sự lâu bền của máy móc thiết bị và có thể kịp thời phát hiện sự cố và hỏng hóc để kịp thời sửa chữa, tránh để máy ngừng lâu. Tuy nhiên, ở Nhà máy lại không có công tác sửa chữa dự phòng, mà chỉ có sửa chữa khi phát hiện sự cố nên nhiều khi bị động và quá tải trong sửa chữa, làm cho thời gian ngừng máy kéo dài. Chế độ bảo dưỡng máy hàng ngày hàng tuần tốn khá nhiều thời gian gây nên thời gian ngừng máy dài. Đặc biệt lại với biên chế chỉ có 6 người trong tổ Cơ điện thì không tránh khỏi việc không hoàn thành nhiệm vụ sửa chữa nhanh chóng. Điều đó đã làm cho thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị giảm xuống. Năng lực sản xuất được bố trí không đồng đều giữa các máy trong một dây chuyền sản xuất, gây nên tình trạnh một số máy thì làm việc khẩn trương còn một số máy thì không có việc để làm. Do vậy cũng ảnh hưởng đến sự không đồng đều giữa các máy về việc huy động thời gian làm việc theo chế độ. Trên đây là một số nguyên nhân chung cơ bản ảnh hưởng đến tình hình huy động máy móc thiết bị về mặt thời gian. Và trong mỗi năm lại có những nguyên nhân, lý do riêng cho sự tăng giảm hệ số huy động thời gian của mỗi loại máy móc thiết bị. IV. Phân tích công tác quản lý, bảo quản và sửa chữa, hiện đại hoá máy móc thiết bị tại Nhà máy. 1. Công tác quản lý máy móc thiết bị. 1.1. Phân tích hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị Hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị ở Nhà máy được chia làm các cấp. Ta có thể xem qua sơ đồ sau: Sơ đồ 2: Hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị. Công nhân vận hành máy PGĐ sản xuất - kỹ thuật P. kế hoạch vật tư Tổ Cơ điện Các phân xưởng sản xuất Tổ sản xuất P. kế toán tài vụ Như vậy, ở cấp Nhà máy hệ thống tổ chức quản lý gồm: PGĐ sản xuất - kỹ thuật, phòng kế hoạch vật tư, phòng kế toán tài vụ và tổ Cơ điện. Cấp này đóng vai trò chính trong việc quản lý máy móc thiết bị về mặt tài chính, kỹ thuật, thời gian huy động cũng như kế hoạch sửa chữa. PGĐ sản xuất kỹ thuật có trách nhiệm quản lý máy móc thiết bị, bổ sung và quản lý các quy trình quy phạm kỹ thuật liên quan đến sản xuất, an toàn lao động, quy định việc kiểm tra và nghiệm thu sản phẩm của từng công đoạn. Phòng kế hoạch vật tư có nhiệm vụ lập kế hoạch, quản lý việc mua sắm, đổi mới hệ thống máy móc thiết bị trên cơ sở đó phòng cũng thực hiện quản lý tiến độ huy động công suất vào sản xuất, có kế hoạch cung ứng vật tư cho sản xuất theo tiến độ. Phòng kế toán tài vụ có nhiệm vụ quản lý về mặt số lượng, giá trị từng loại máy. Quản lý việc tính và trích khấu hao, phân bổ chi phí khấu hao máy móc thiết bị. Tổ Cơ điện quản lý hồ sơ lý lịch của từng máy, có trách nhiệm thực hiện toàn bộ các hoạt động sửa chữa lớn, vừa, nhỏ máy móc thiết bị toàn Nhà máy, cung cấp điện cho sản xuất. Tại các phân xưởng, hoạt động quản lý và sử dụng máy móc thiết bị được thực hiện bởi chính các phân xưởng sản xuất đó thông qua các tổ sản xuất. Các quản đốc có nhiệm vụ nắm vững tình trạng kỹ thuật máy móc thiết bị mình quản lý, khai thác tối đa năng lực máy, tổ chức khắc phục, sửa chữa nhanh các hư hỏng bất thường; cunng cấp các thông tin, thông số kỹ thuật về máy móc thiết bị cho công nhân vận hành máy. Các tổ trưởng đôn đốc công nhân tuân thủ nghiêm túc nội dung, chất lượng bảo dưỡng ca kíp; tổ chức thực hiện đúng các quy trình, quy phạm về an toàn sử dụ._.ó sự thường xuyên trao đổi, bồi dưỡng, rút kinh nghiệm giữa công nhân trực tiếp đứng máy với nhau và với công nhân kỹ thuật, áp dụng các hình thức khen thưởng, kỷ luật thích đáng trong quá trình sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị. Lên kế hoạch mua sắm đầy đủ phụ tùng cần thiết cho quá trình sửa chữa và sửa chữa dự phòng, đảm bảo luôn có sẵn những phụ tùng, chi tiết mà thường xuyên hỏng để có thể cung cấp kịp thời cho hoạt động sửa chữa, đặc biệt là với những thiết bị đặc chủng cần phải chuẩn bị 1 cách chu đáo để đảm bảo cho hoạt động sửa chữa nhanh chóng, kịp thời. Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa phân xưởng sản xuất với tổ Cơ điện và PGĐ sản xuất kỹ thuật trong công tác xây dựng lịch xích, lập kế hoạch sửa chữa chi tiết đầy đủ để có thể phân bổ xuống từng đơn vị chính xác, hợp lý phát huy tối đa hiệu quả công tác sửa chữa. Việc thành lập các tổ kỹ thuật ở các phân xưởng sản xuất phải được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo tay nghề công nhân kỹ thuật bậc cao đủ khả năng thực hiện các công tác sửa chữa trong phân xưởng. 2.Biện pháp thứ 2 : Nâng cao hệ số thời gian làm việc của máy móc thiết bị. 2.1 Cơ sở lý luận. Khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong quá trình sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong dó có thời gian hoạt động của máy móc thiết bị. Khối luợng sản phẩm tạo ra tỷ lệ thuận với thời gian máy hoạt động. Do đó sử dụng tốt thời gian làm việc của máy có 1 ý nghĩa hết sức quan trọng. Hệ số thời gian làm việc thực tế phản ánh trình độ sử dụng máy móc thiết bị của mỗi doanh nghiệp. Thông qua hệ số này ta có thể thấy được khả năng huy động công suất thiết bị cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Nó cho biết trong năm máy móc thiết bị của doanh nghiệp hoạt động được bao nhiêu giờ, phải ngừng hoạt động bao nhiêu giờ. hệ số này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị càng lớn. Bên cạnh đó thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị còn có tác dụng giúp các cán bộ quản lý trong doanh nghiệp có thể nhanh chóng nắm bắt được tình trạng hoạt động thừa, thiếu máy móc thiết bị ở từng bộ phận sản xuất để có kế hoạch đều chỉnh kịp thời do vậy đối với mỗi doanh nghiệp nếu có thể nâng cao hệ số thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị thì cũng đồng nghĩa với việuc nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng máy móc thiết bị nói riêng va hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung. 2.2 Cơ sở thực tiễn: Trong những năm qua hệ thống máy móc thiết bị của nhà máy chưa thực sự làm việc đúng với năng lực của chúng, mức độ đóng góp trong quá trình sản xuất, còn nhiều hạn chế. Nhìn chung mức độ huy động về mặt thời gian của máy móc thiết bị còn thấp. Nguyên nhân do công việc công việc không có đều trong năm do trình độ người công nhân sử dụng không đúng với quy trình, quy phạm, và do máy móc thiết bị quá cũ, hàng năm phải sửa chữa những hỏng hóc bất thường nhiều. Do vậy đã ảnh hưởng tới thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị. Vì vậy nâng cao hệ số thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị là một biện pháp hết sức cần thiết đối với Nhà máy trong giai đoạn hiện nay. Theo biện pháp này Nhà máy cần phải thực hiện tốt các công việc sau: 2.3. Phương thức tiến hành Tiếp tục hoàn thiện công tác cung ứng nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất, đặc biệt là nguyên vật liệu đầu vào. Hàng tháng Nhà máy phải có kế hoạch mua vật tư dựa vào số liệu báo cáo, tình hình sản xuất thực tế tại các phân xưởng và đảm bảo nguyên vật liệu được cung ứng đều đặn, liên tục, đúng chất lượng, số lượng, kịp thời. Tích cực tìm kiếm các nguồn cung ứng, tránh cho việc chỉ mua của một người hay mua trên thị trường, gây nên tình trạng không kiểm soát chất lượng nguyên vật liệu, làm cho chất lượng không đồng đều, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Thực hiện việc tiếp thị, mở rộng thị trường của Nhà máy trong việc in gia công hoặc bán vở học sinh chất lượng cao. Điều này sẽ tạo điều kiện cho Nhà máy có khối lượng công việc nhiều hơn, phát huy hết công suất và thời gian làm việc của máy móc thiết bị. Đặc biệt là vở học sinh chất lượng cao, năm 2001 Nhà máy đã có khả năng phát triển lớn loại sản phẩm này, nhưng năm 2002 thì lại giảm sút. Như vậy, khả năng phát triển loại sản phẩm này là có thể , Nhà máy cũng cần khai thác các sản phẩm in có chất lượng cao như tờ rơi quảng cáo Panô, áp phích .. . Để có thêm công việc vào những lúc nhàn rỗi, tận dụng hết công suất và thời gian làm việc của máy móc thiết bị. Nâng cao trình độ ý thức làm việc của người công nhân trực tiếp đứng máy bằng cách tạo môi trường trao đổi thuận lợi giữa những người công nhân để họ có thể trao đổi kinh nghiệm trong quá trình sử dụng vận hành máy móc, làm tốt công tác quản lý máy móc thiết bị, giáo dục ý thức người lao động, tránh tình trạng các tổ sản xuất, các phân xưởng sản xuất báo cáo không đầy đủ về tình trạng hoạt động cuả máy móc thiết bị. Đồng thời, phải thực hiện tốt biện pháp tăng cường công tác bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng thì sẽ thực hiện được một phần biện pháp này. 2.4 Hiệu quả thực hiện biện pháp Nếu thực hiện tốt biện pháp này, hiệu quả mang lại sẽ bao trùm lên toàn bộ mục tiêu chung của Nhà máy, bởi vì máy móc thiết bị là một lực lượng sản xuất quan trọng và chủ yếu của doanh nghiệp. Các hệ số sử dụng máy móc thiết bị sẽ gián tiếp phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn vốn cố định của Nhà máy. Hiện nay số ngày làm việc chung của máy móc thiết bị của Nhà máy mới chỉ đạt 20 ngày/tháng. Thời gian làm việc thực tế mới chỉ đạt khoảng 12h/ ngày. Như vậy, hệ số thời gian làm việc thực tế trong toàn Nhà máy là: HTG = 12 x 20 x 12/ 273 x 16 = 0,66 Với thời gian huy động thực tế của máy móc thiết bị trong toàn Nhà máy là 66% thì doanh thu năm 2002 đạt 14 tỷ đồng. Nếu Nhà máy thực hiện đúng biện pháp này kết hợp với biện pháp 1 và các biện pháp sau nữa thì có thể nâng số giờ làm việc thực tế lên 15 giờ / ngày khi đó hệ số thời gian làm việc của máy móc thiết bị là 0,8 và doanh thu sẽ tăng lên khoảng 18 tỷ đồng. 2.5. Điều kiện thực hiện biện pháp Qua phân tích trên ta thấy hoạt động quản lý, sử dụng máy móc thiết bị của Nhà máy hiện nay đang gặp phải những khó khăn nhất định điều này chủ yếu là do Nhà máy chưa có đủ việc làm để có thể huy động hết công suất máy móc thiết bị. Vì vậy trong những năm tới Nhà máy cần: Kiện toàn công tác điều độ sản xuất, quản lý kỹ thuật. Tích cực khai thác sản lượng trang in ngoài NXBGD nhằm đảm bảo nguồn công việc, đảm bảo cho việc huy động máy móc thiết bị vào sản xuất được liên tục. Tiếp tục đổi mới phương thức nhận, kí kết hợp đồng kinh tế, tạo thuận lợi và yên tâm cho khách hàng trong toàn bộ quá trình in và hoàn thiện sản phẩm theo hợp đồng. Quản lý chặt chẽ việc mua bán nguyên vật liệu, đặc biệt chú trọng khâu kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu, tiến độ cung ứng nguyên vật liệu. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc bán phế liệu phế phẩm, thực hành tiết kiệm các chi phí sản xuất, cắt giảm tối đa các chi phí gián tiếp. Chú trọng đầu tư hơn nữa cho công tác sửa chữa, tránh tình trạng có hỏng hóc quá lâu và không có phụ tùng thay thế. 3. Biện pháp thứ ba: Đầu tư cải tiến, nâng cao năng lực của máy móc thiết bị. 3.1. Cơ sở lý luận Máy móc thiết bị là tài sản cố định của doanh nghiệp, nó là cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp, phản ánh năng lực sản xuất cũng như quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Nó quyết định số lượng sản phẩm làm ra. Máy móc thiết bị là một bộ phận trong cơ cấu vốn cố định nói riêng và vốn kinh doanh nói chung. Nó chiếm một tỷ lệ lớn trong cơ cấu vốn. Trước khi thành lập, mỗi doanh nghiệp đều phải xác định cho mình mục tiêu, nhiệm vụ và từ đó xây dựng cho mình một cơ cấu sản phẩm. Và doanh nghiệp cần phải đầu tư máy móc thiết bị để có cơ cấu sản phẩm đó. Trong quá trình sử dụng, máy móc thiết bị sẽ giảm dần giá trị sẽ giảm dần giá trị theo thời gian, sự giảm dần này do máy móc thiết bị tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và giá trị của chúng được chuyển dần vào trong giá trị sản phẩm, mặt khác do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, dặc biệt là hiện nay khi tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng mạnh mẽ thì sự hao mòn vô hìng ngày càng tăng lên do vậy giá trị máy móc thiết bị giảm đi ngày càng nhanh. Máy móc thiết bị là một bộ phận trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp cho nên cũng như những loại vốn khác, nó cần được bảo toàn và phát triển. Máy móc thiết bị trong quá trình hoạt động chịu ảnh hưởng của 2 loại hao mòn. Hao mòn hữu hình làm giảm giá trị sử dụng của chúng, đòi hỏi phải được cải tiến để duy trì tình trạng hoạt động tốt của chúng. Hao mòn vô hình làm giảm giá trị của máy móc thiết bị do vậy để đảm bảo hiệu quả quản lý và sử dụng máy móc thiết bị cần phải đầu tư đổi mới, thay thế hệ máy móc thiết bị khác mang lại hiệu quả cao hơn. Do vậy mà đối với một hệ thống máy móc thiết bị bất kỳ đều đòi hỏi có sự đầu tư đổi mới, cải tiến một cách thường xuyên thì mới có thể phục vụ kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh và mang lại hiệu quả cao. 3.2. Cơ sở thực tiễn: Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, trong những năm tới là những sản phẩm in có chất lượng đẹp, có màu đẹp… Đồng thời với nhiệm vụ là in SGK cho NXBGD thì hiệu quả sản xuất kinh doanh không được cao lắm, lợi nhuận hàng năm rất thấp. Vì vậy để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,tăng lợi nhuận Nhà máy còn cần phải tìm kiếm thêm thị trường bên ngoài. Và với nhu cầu phong phú đa dạng, ngày cang cao của thị trường đòi hỏi Nhà máy phải đầu tư cải tiến nâng cao năng lực máy móc thiết bị. Với tình trạng máy móc thiết bị không đồng bộ, lại có 1 số lớn đã cũ và lạc hậu, cùng với việc không tiến hành đại tu sửa chữa lớn, kết hợp với hiện đại hoá thì trong những năm tới Nhà máy cần phải đầu tư mới toàn bộ một số máy móc thiết bị. Có như vậy thì máy móc mới có thể hoạt động tốt được. Một số máy móc của Nhà máy đã hoạt động gần hết công suất như máy in 1 màu, 4 màu, máy gấp. Trong khi đó một số máy khác lại có hệ số huy động công suất rất thấp. Vì vậy để cân đối năng lực sản xuất giữa các bộ phận trong 1 dây chuyền sản xuất thì cần phải đầu tư đổi mới thêm máy móc thiết bị. 3.3. Phương thức tiến hành: Để có thể đầu tư, cải tiến năng lực của máy móc thiết bị theo tôi Nhà máy cần làm một số công việc sau đây: Công việc trước tiên đó là phải tiến hành phân loại máy móc thiết bị. Công việc này có thể dựa trên một cuộc đièu tra toàn Nhà máy nhằm xác định ại số lượng máy móc thiết bị, năng lực thực tế, trình độ công nghệ.Việc phân loại máy móc thiết bị có thể tiến hành theo 2 cách: phân loại theo chủng loại và phân loại theo trình độ công nghệ. Việc phân loại theo chủng loại cho phép xác định chủng loại máy móc thiết bị hiệc có của Nhà máy qua đó đánh giá được tính hợp lý trong cơ cấu để có kế hoạch đầu tư đúng. Phân loại theo trình độ công nghệ cho phép dánh giá năng lực thực tế của máy móc thiết bị của Nhà máy, qua đó có thể so sánh tương quan với các doanh nghiệp khác trong nghành. Dựa trên các số liệu thống kê vê tình hình sử dụng máy móc thiết bị trong thời gian qua để từ đó cân đối lại nhu cầu về máy móc thiết bị, đánh giá tình hình thừa, thiếu, tình hình lãng phí công suất máy. Để xác định nhu cầu, Nhà máy cần dựa trên cơ sở nhiệm vụ kế hoạch trung và dài hạn nhằm đầu tư đúng hướng. Kết quả của công việc này cho phếp Nhà máy đưa ra 1 cách chính xác nhu cầu về máy móc thiết bị. Đồng thời trên cơ sở máy móc thiết bị hiện co sẽ cho phép hoạch định đúng nhu cầu đầu tư, cải tiến năng lực máy móc thiết bị, tránh hiện tượng đầu tư dàn trải, hiệu quả không cao. Việc xác định sẽ mua máy móc thiết bị của ai và bằng phương thức nào là việc làm cũng không kém phần quan trọng. Nhà máy nên ưu tiên lựa chọn mua máy móc thiết bị của những nước có truyền thống, uy tín trong sản xuất loại thiết bị Nhà máy đang có nhu cầu. Coi trọng các chào hàng đến từ các nước đi tiên phong như : Nhật, Đức, Mỹ … Nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi là nguồn vốn quan trọng của Nhà máy, nhưng lại chưa đủ lớn. Vì vậy vốn vay ngân hàng dài hạn, nguồn tự tài trợ sẽ là những nguồn quan trọng nhất mà Nhà máy nên tập trung khai thác. Với nguồn nội bộ, Nhà máy có thể khai thác từ nguồn quỹ đầu tư phát triển, quỹ khấu hao máy móc thiết bị. Sau khi máy móc, thiết bị được đầu tư mua sắm việc quan trọng tiếp theo là nhanh chóng đưa chúng vào khai thác, sử dụng, nhằm mau chóng khấu hao, tận dụng tối đa sự đóng góp của máy. 3.4. Dự kiến kết quả mang lại Sự đầu tư máy móc thiết bị đúng hướng sẽ tạo ra cho Nhà máy có một cơ cấu máy móc thiết bị hợp lý, tránh tình trạng máy thì thừa việc, máy thì thiếu việc. Sự đầu tư đúng hướng sẽ làm giảm đáng kể hao mòn vô hình máy móc thiết bị. Máy móc thiết bị tốt là điều kiện quan trọng đảm bảo khả năng thắng lợi trong việc chiếm lĩnh thị trường mới ngoài NXBGD, đảm bảo tiến độ thực hiện hợp đồng, đảm bảo tiết kiệm chi phí do giảm tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng, do sửa chữa, tiết kiệm thời gian và góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ta có thể xem tình hình đổi mới như sau: Bảng 18: Danh mục đầu tư máy móc thiết bị. Chỉ tiêu Đơn vị Máy in 1 màu Máy in 4 màu Máy gấp Máy bắt sách Chi phí đầu tư Tỷ 1,5 2,4 1 1,4 Thời gian khấu hao Năm 10 10 10 10 Mức khấu hao Tỷ 0,15 0,24 0,1 0,14 Nước sản xuất Đức Nhật Đức Đức Công suất thiết kế Tỷt/năm 1 0,5 1 1 Sản lượng thực tế tỷt/năm 0,6 0,4 0,9 0,9 Với tình hình trên thì doanh thu hàng năm của Nhà máy sẽ tăng thêm là 13 tỷ đồng. Do năng lực sản xuất nên Nhà máy có thể thực hiện thêm các hợp đồng in với NXBGD và tăng cường tìm kiếm các hợp đồng ngoài NXBGD để tăng thêm thu nhập. Đồng thời tránh tình trạng quá phụ thuộc vào NXBGD, gây lên tâm lý trông chờ ỷ lại của công nhân viên Nhà máy. 3.5. điều kiện thực hiện biện pháp. Qua nghiên cứu tình hình đầu tư đổi mới hệ thống máy móc thiết bị của Nhà máy trong thời gian qua thì vấn đề vốn đầu tư luôn là vấn đề gặp khó khăn nhất. Đặc biệt là đối với các loại máy móc thiết bị hiện đại thường có giá thành cao nên nhiều khi nguồn vốn đầu tư của Nhà máy không đủ để trang trải. Trong khi đó nguồn vốn ngân sách cấp cho Nhà máy hàng năm là rất ít, kể từ năm 1995 đến nay thì hầu như là không có. Do vậy để thực hiện biện pháp này 1 cách có hiệu quả trong thời gian tới Nhà máy cần phải huy động mọi nguồn vốn, tập trung vào việc đầu tư mua sắm các công nghệ hiện đại cần thiết và thực hiện một số vấn đề sau: Phải có dự án đầu tư khả thi đề nghị NXBGD phê duyệt và cấp vốn cho Nhà máy thực hiện nhiệm vụ đầu tư như trên. Trích quỹ đầu tư phát triển sản xuất và quỹ khấu hao cơ bản của Nhà máy cho hoạt động đầu tư đổi mới máy móc thiết bị. Đồng thời phải tiến hành đào tạo, chuẩn bị cho công tác tiếp nhận và sử dụng máy. 4. Biện pháp thứ 4: Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ người cán bộ quản lý và người công nhân vận hành máy. 5.1. Cơ sở lý luận: Trong các tư liêu lao động thì máy móc thiết bị được chế tạo gồm nhiều bộ phận phức tạp và không phải lúc nào con người cũng sử dụng một cách thành thạo và sử dụng hết các tính năng của nó. Máy móc thiết bị có nhiệm vụ chuyền dẫn sự tác động của con người vào đối tượng lao động, làm thay đổi hình thái tự nhiên của nó để biến chúng thành những sản phẩm thoả mãn nhu cầu của con người. Do vậy giữa con người và máy móc thiết bị có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tác động qua lại. Trong mối quan hệ đó, con người chế tạo ra máy móc thiết bị làm chủ máy móc thiết bị và tiêu dùng những sản phẩm do chúng tạo ra. Ngược lại, máy móc thiết bị chỉ có thể hoạt động bình thường được, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao mẫu mã phong phú, đa dạng, hấp dẫn nếu nó được điều khiển bởi con người có kỹ năng có trình độ hiểu biết .mặt khác, máy móc thiết bị ngày càng trở nên tinh vi , phức tạp hơn con người chỉ đóng vai trò điều khiển quá trình hoạt động cuả nó do vậy mà đòi hỏi người công nhân trực tiết điều khiển máy cũng như những cán bộ quản lý, phải thường xuyên được đào tao, cập nhật kiến thức khoa học mới có thể làm chủ được máy móc thiết bị đảm bảo cho chúng hoạt động đúng quy trình, quy phạm kỹ thuật, tạo ra sản phẩm mong muón và đảm bảo an toàn lao động. máy móc thiết bị và con người là 2 bộ phận của công nghệ trong đó máy móc thiết bị là phàn cứng đống vai trò xương cốt của quá trình sản xuất, con người là phần mềm do vậy việc đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý và công nhân trực tiếp vận hành máy là cực kỳ quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp. 4.2 Cơ sở thực tiễn Đến nay, số lượng lao động của Nhà máy là 234 người. Trình độ tay nghề của công nhân ở trong Nhà máy chỉ đạt mức trung bình khá, bậc thợ bình quân là 3,5/7, trong đó có một số lượng lớn lao động mùa vụ thuê hàng năm do vậy có một sự hạn chế trong vấn đề sử dụng máy móc thiết bị. Đồng thời do Nhà máy vẫn còn trực thuộc NXBGD, nên vẫn còn thói quen dựa dẫm, nề lối làm việc còn chậm phát triển, chưa lấy thước đo hiệu quả làm thước do cho mọi công việc, còn chưa bắt nhịp được với nền kinh tế thị trường năng động.Việc đào tạo một lớp người quản lý mới, đào tạo nguồn nhân lực nhất là đội ngũ lao động kỹ thuật của Nhà máy vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Trong những năm qua Nhà máy đã có nhiều lượt cán bộ được đào tạo, đào tạo lại nhưng vẫn chưa qua lớp đào tạo chính quy, cơ bản; việc đào tạo chỉ được tiến hành khi có nhu cầu chứ chưa mang tính chiến lược lâu dài. Nếu việc đầu tư, hiện đại hoá máy móc thiết bị diễn ra nhanh chóng thì với đội ngũ lao động hiện tại là chưa đáp ứng được. Hiện nay với thực trạng máy móc thiết bị của Nhà máy đồi hỏi người công nhân vận hành máy và những cán bộ quản lý không chỉ sử dụng sao cho có hiệu quả mà phải biết cách cải tiến chúng thích nghi với tình hình mới. Nhưng Nhà máy lại thiếu 1 đội ngũ công nhân bậc cao và 1 đội ngũ công nhân kỹ thuật để có thể sửa chữa nhanh máy móc thiết bị. 4.3. Phương thức tiến hành Đối với cán bộ quản lý: Cần làm tốt ngay từ công tác tuyển chọn cán bộ với tiêu chuẩn cán bộ cấp phòng ban có trình độ Đại học còn cán bộ quản lý cấp phân xưởng có trình độ từ cao đẳng trở lên. Tiếp tục đào tạo theo các hình thức tự đào tạo hoặc gửi đi học tại các trường, lớp kết hợp với việc đào tạo lại cho cán bộ quản lý cấp phòng ban, phân xưởng và các đội. Từ nay đến năm 2005 phải đảm bảo cho 23% cán bộ quản lý còn lại của cấp phòng ban có trình độ Đại học và 100% cán bộ quản lý cấp phân xưởng có trình độ từ Cao đẳng trở lên. Đối với các cán bộ quản lý kỹ thuật hiện đang phụ trách hệ thống máy móc thiết bị cần được đào tạo nâng cao, bổ túc kiến thức thường xuyên về đặc tính kỹ thuật và những tiến bộ khoa học mới được áp dụng vào máy móc thiết bị. Mỗi năm cần tổ chức ít nhất một khoá đào tạo ngắn hạnkhoảng từ 7 đến 10 ngày về quản lý cho các cán bộ quản lý là trưởng, phó các phòng ban, phân xưởng bằng cách thuê giáo viên các trường Đại học về giảng dạy, nhằm mục đích bổ sung những kiến thức mới về quản lý đặc biệt là lĩnh vực quản lý thiết bị. Sau đó mỗi phòng ban, phân xưởng sẽ có trách nhiệm truyền bá, bồi dưỡng cho các cán bộ quản lý của mình. Kinh phí cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý theo phương thức gửi đi học tại các trường, lớp và kinh phí cho các khoá đào tạo tại Nhà máy do Nhà máy chi trả hoàn toàn. Đối với công nhân trực tiếp vận hành máy: Đối với công nhân thuộc biên chế chính thức, Nhà máy cần phải quan tâm đến việc đào tạo và đào tạo lại nhằm mục đích nâng cao tay nghề để họ có thể đảm nhận được các công việc mang tính kỹ thuật cao đối với máy móc thiết bị mới. Riêng đối với công nhân được thuê theo hợp đồng hàng năm chưa qua đào tạo thì chỉ giao những công việc ít liên quan đến máy móc thiết bị. Hoặc chỉ giao cho những máy móc thiết bị đơn giản, thông thường nhưng cũng cần phải có sự hướng dẫn, kèm cặp thường xuyên của các công nhân lành nghề. Hình thức đào tạo có thể là gửi đi học tại trường trung cấp in. Hàng năm Nhà máy phải phân bổ kinh phí đào tạo cho mỗi phân xưởng dựa vào khả năng thực tế của mỗi phân xưởng. Bên cạnh đó, hàng năm các phân xưởng đều phải tổ chức thi nâng bậc, lên lương nhằm nâng cao tay nghề cho người lao động. Để làm tốt điều này, Nhà máy có thể thường xuyên mở các khoá đào tạo ngắn hạn cho toàn bộ công nhân trong Nhà máy hoặc cũng có thể giao cho từng phân xưởng tự làm trên cơ sở người có tay nghề cao kèm cặp người có tay nghề thấp hơn. Cần trang bị nhũng kiến thức cơ bản về máy móc thiết bị cho người công nhân sử dụng hiểu được tính năng, tác dụng và các điều kiện kỹ thuật của máy móc thiết bị mà bản thân đang sử dụng. Khi vận hành máy, phải theo đúng quy trình thao tác, quy trình theo hướng dẫn ghi trên từng thiết bị và những điều cần thiết mà cán bộ kỹ thuật hướng dẫn. Tuyệt đối chấp hành những quy tắc về an toàn máy móc thiết bị theo đúng quy định chung và các quy định riêng của từng loại máy móc thiết bị. Phải giáo dục cho người công nhân ý thức trách nhiệm cũng như tinh thần tự giác trong việc bảo quản, lau chùi máy móc thiết bị sau mỗi ca máy làm việc, tránh hư hỏng mất mát phụ tùng, chi tiết. Mỗi công nhân vận hành máy phải ghi rõ thời gian hoạt động thực tế vào sổ hồ sơ lý lịch của máy nhàm giúp cho cán bộ quản lý kỹ thuật biết được chính xác thời gian hoạt động của từng máy để có kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa kịp thời. Cán bộ kỹ thuật phụ trách máy móc thiết bị của phân xưởng phải thường xuyên đôn đốc, kiểm tra khả năng vận hành máy của từng công nhân để kịp thời khắc phục sự cố. Cán bộ tổ Cơ điện Nhà máy cũng phải thường xuyên kiểm tra tình hình hoạt động của máy móc thiết bị ở các phân xưởng, tập hợp số liệu báo cáo kịp thời với GĐ về năng lực thực tế của máy móc thiết bị trong toàn Nhà máy và có kế hoạch mua sắm, sửa chữa hợp lý. 4.4. hiệu quả thực hiện biện pháp Với việc thực hiện biện pháp này đến năm 2005 Nhà máy sẽ có được một đội ngũ cán bộ quản lý đủ mạnh với 100% cán bộ quản lý cấp phòng ban có trình độ Đại học và trên Đại học và 100% cán bộ quản lý cấp phân xưởng có trình độ từ cao đẳng trở lên có thể đảm nhận các công việc về quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý máy móc thiết bị, đảm bảo cho hệ thống máy móc thiết bị phát huy hết công suất, tránh được những lãng phí trong quá trình quản lý, sử dụng. Thông qua đào tạo trình độ tay nghề của công nhân sẽ được tăng lên đáng kể bảo đảm cho Nhà máy có thể sử dụng các loại máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại đòi hỏi kỹ thuật cao, từ đó mà nâng cao chất lượng sản phẩm in, tăng lợi nhuận cho Nhà máy và thu nhập cho người lao động. 4.5. Điều kiện thực hiện biện pháp Nhà máy phải làm cho mọi người hiểu dược sự cần thiết phải nâng cao trình độ sử dụng máy móc thiết bị để mỗi người có thể nhận thức được tác dụng của điều đó đối với sự phát triển chung của toàn Nhà máy và với cơ hội thăng tiến cải thiện đời sống của chính bản thân người lao động. Đơn vị cử người đi học và tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn tại Nhà máy, Nhà máy cần mạnh dạn trích ra 1 tỷ lệ hợp lý từ các quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng phúc lợi để làm kinh phí cho vấn đề đào tạo. Nhà máy cần áp dụng thưởng phạt rõ ràng, đặc biệt khen ngợi xứng đáng cho những cá nhân có thành tích xuất sắc và nghiêm khắc phạt những người có hành vi vụ lợi cá nhân…. Trên đây là một số biện pháp cơ bản góp phần quản lý và sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị tại Nhà máy, các biện pháp trên phải được thực hiện đồng thời thì mới có kết quả tốt được và đồng thời cũng đề nghị NXBGD tạo điều kiện cho Nhà máy trong một số việc sau: Đề nghị NXBGD tạo điều kiện giao in đủ kế hoạch và giao ngay từ đầu năm để Nhà máy chủ động thực hiện, đồng thời cần cân đối cơ cấu giữa các loại trang in. Chỉ đạo và hỗ trợ kinh phí để Nhà máy thực hiện công tác thuê đất, đầu tư mua sắm thiết bị và phương tiện đi lại. Quan tâm chỉ đạo thường xuyên hơn nũa trên các mặt: sản xuất, lao động, tổ chức cán bộ, tài chính, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công nhân viên chức. Kết luận Nhà máy in Diên Hồng trải qua quá trình phát triển lâu dài, đã có những đóng góp lớn trong sự nghiệp dạy và học ở nước ta thông qua việc sản xuất những sản phẩm mang tính giáo dục cao. Nhà máy đã đạt được những thành tích lớn trên nhiều mặt. Qua những phân tích trên ta thấy, trong công tác quản lý máy móc thiết bị Nhà máy cũng đạt được những thành tích quan trọng góp phần đưa Nhà máy phát triển đến tận ngày nay. Ta thấy máy móc thiết bị đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhận thức được điều đó, Nhà máy đã có những quan tâm, cố gắng lớn trong quản lý và sử dụng máy móc thiết bị. Nên Nhà máy đã đạt được một số thành tích về huy động thời gian và công suất làm việc thực tế của máy móc thiết bị, hệ thống quản lý máy móc thiết bị được hoàn thiện … Tuy nhiên, bên cạnh đó còn rất nhiều tồn tại cần khắc phục, đòi hỏi toàn bộ CNV Nhà máy phải có nhữnh cố gắng hơn nữa, thay đổi cách nhìn nhận, quan điểm. Qua thời gian thực tập tại Nhà máy tôi đã đi sâu tìm hiểu vấn đề quản lý và sử dụng máy móc thiết bị nên cũng đã hiểu rõ thực trạng của vấn đề ở Nhà máy. Kết hợp với kiến thức lý luận được trang bị trong quá trình học tập, tôi đã hoàn thành bản chuyên đề này. Trong đó tôi có đề ra một số biện pháp với hy vọng là bằng những giải pháp này tôi có thể góp phần cùng Nhà máy quản lý và sử dụng hiệu quả hơn số máy móc thiết bị hiện có, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho Nhà máy. Với thời gian nghiên cứu không dài, cùng với kiến thức thực tế chưa có nhiều vì vậy chuyên đề này khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn cho tôi được hoàn thiện hơn nữa chuyên đề này. Danh sách tài liệu tham khảo 1. Giáo trình “Quản trị doanh nghiệp” Chủ biên: PGS - TS Lê Văn Tâm Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1996. 2. Giáo trình “Kinh tế và quản lý công nghiệp” Chủ biên: GS - TS Nguyễn Đình Phan Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1999 3. Giáo trình “Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp” Chủ biên: PGS - TS Phạm Hữu Huy Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1998 4. Giáo trình “Quản trị sản xuất và tác nghiệp” Chủ biên: Ths Trương Đoàn Thể Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1999 5. Giáo trình “Quản trị hoạt động thương mại trong doanh nghiệp công nghiệp” Chủ biên: PGS - TS Nguyễn Kế Tuấn Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1996. 6. Giáo trình “ Thống kê doanh nghiệp” Nhà xuất bản thống kê 7. Giáo trình “ Phân tích hoạt động kinh doanh” Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1996. 8. Tạp chí công nghiệp 2001, 2002 9. Thời báo Kinh tế 2001, 2002 10. Các báo cáo tài chính và một số tài liệu có liên quan của Nhà máy in Diên Hồng - NXBGD Lời mở đầu 1 Phần I: Một số đặc điểm kinh tế - Kỹ thuật của nhà máy có ảnh hưởng đến công tác quản lý và sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị. 3 i. Quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy. 3 1. Quá trình hình thành và phát triển Nhà máy 3 1.1. Thời kỳ 1954 -1968: 3 1.2. Thời kỳ 1969 -1991: 3 1.3. Thời kỳ 1991-1996: 4 1.4. Thời kỳ 1996- nay: 4 2. Đặc điểm của cơ cấu sản xuất và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Nhà máy 5 ii. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Nhà máy có ảnh hưởng đến công tác quản lý và hiệu quả sử dụng 9 1. Đặc điểm về tính chất nhiệm vụ sản xuất 9 2. Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật 10 3. Đặc điểm về lao động 12 4. Cung ứng nguyên vật liệu. 15 5. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm của Nhà máy. 16 6. Đặc diểm về thị trường kinh doanh. 17 7. Tình hình tài chính 18 Phần II: Phân tích thực trạng về công tác 20 quản lý và sử dụng máy móc thiết bị ở 20 Nhà máy in Diên Hồng- NXBGD. 20 i. Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của Nhà máy thời kỳ 2000-2002. 20 1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất sản phẩm. 20 2. Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu 20 3. Phân tích tình hình thực hiện kết quả sản xuất kinh doanh. 21 II. Phân tích cơ cấu máy móc thiết bị của Nhà máy. 23 III. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt số lượng, thời gian, công suất. 26 1. Phân tích tình hình sử dụng về mặt số lượng. 26 2. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt công suất 27 3. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian. 29 IV. Phân tích công tác quản lý, bảo quản và sửa chữa, hiện đại hoá máy móc thiết bị tại Nhà máy. 32 1. Công tác quản lý máy móc thiết bị. 32 1.1. Phân tích hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị 32 1.2. Phân tích tình hình quản lý hồ sơ, lý lịch máy móc thiết bị 33 1.3. Công tác tính và trích khấu hao máy móc thiết bị 34 2. Phân tích công tác bảo quản và sửa chữa máy móc thiết bị. 35 3. Phân tích công tác đổi mới máy móc thiết bị 37 V. Phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu hiệu quả trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị 39 1. Chỉ tiêu sức sản xuất của máy móc thiết bị 39 2. Chỉ tiêu khả năng sinh lợi và nộp ngân sách của máy móc thiết bị. 40 3. Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí khấu hao máy móc thiết bị. 41 VI. Đánh giá chung về công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị tại Nhà máy in Diên Hồng - NXBGD. 42 1. Một số thành tích đã đạt được. 42 2. Những tồn tại 44 3. Một số nguyên nhân của tình trạng trên 45 3.1. Một số nguyên nhân khách quan: 45 3.2. Một số nguyên nhân chủ quan 46 Phần III: Một số biện pháp cơ bản nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị 48 tại Nhà máy in Diên Hồng 48 1. Biện pháp thứ nhất: Hoàn thiện công tác bảo dưỡng,sửa chữa dự phòng theo kế hoạch 48 1.1. Cơ sở lý luận 48 1.2. Cơ sở thực tiễn: 48 1.3. Phương thức tiến hành: 49 1.4. Hiệu quả thực hiện biện pháp. 51 1.5. Điều kiện thực hiện biện pháp. 52 2.Biện pháp thứ 2 : Nâng cao hệ số thời gian làm việc của máy móc thiết bị. 53 2.1 Cơ sở lý luận. 53 2.2 Cơ sở thực tiễn: 53 2.3. Phương thức tiến hành 54 2.4 Hiệu quả thực hiện biện pháp 54 2.5. Điều kiện thực hiện biện pháp 55 3. Biện pháp thứ ba: Đầu tư cải tiến, nâng cao năng lực của máy móc thiết bị. 55 3.1. Cơ sở lý luận 55 3.2. Cơ sở thực tiễn: 56 3.3. Phương thức tiến hành: 57 3.4. Dự kiến kết quả mang lại 58 3.5. điều kiện thực hiện biện pháp. 59 4. Biện pháp thứ 4: Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ người cán bộ quản lý và người công nhân vận hành máy. 59 5.1. Cơ sở lý luận: 59 4.2 Cơ sở thực tiễn 60 4.3. Phương thức tiến hành 60 4.4. hiệu quả thực hiện biện pháp 62 4.5. Điều kiện thực hiện biện pháp 63 Kết luận 64 Danh sách tài liệu tham khảo 65 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0104.doc
Tài liệu liên quan