Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành xi măng

Lời mở đầu Nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang hoạt động theo cơ chế thị trường mở ra một thời kỳ mới đầy cơ hội song cũng muôn vàn thách thức cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các ngành ở Việt Nam. Một tất yếu khách quan, một đòi hỏi cấp thiết trong nền kinh tế thị trường đối với mọi thành phần hoạt động kinh tế đó là cạnh tranh. Cạnh tranh giữa doanh nghiệp với doanh nghi

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp, cạnh tranh giữa các ngành rộng hơn nữa, cạnh tranh giữa các nước với nhau. Sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt hơn bởi các doanh nghiệp không bao giờ chỉ thoả mãn với phần thị trường đã chiếm lĩnh được vì như vậy đồng nghĩa với sự diệt vong mà luôn luôn tìm cách vươn lên để mở rộng thị trường. Để đạt được điều này các doanh nghiệp phải có sức cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả phải luôn luôn nỗ lực hết mình để xây dựng một chiến lược cạnh tranh với công cụ và biện pháp thích hợp nhằm tăng sức cạnh tranh. Trong điều kiện hội nhập nền kinh tế, nền kinh tế Việt Nam nói chung và từng ngành kinh tế cụ thể đang phải đương đầu với không ít khó khăn. Tại cuộc hội thảo về hội nhập thương mại toàn cầu tổ chức tháng 10/1999 tại thành phố Hồ Chí Minh học giả Kenichi Ohno thuộc viện nghiên cứu Ngân hàng phát triển Châu á đã chọn ngành xi măng Việt Nam làm một điển hình phân tích. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế mở cửa với sự đầu tư ồ ạt của nước ngoài vào Việt Nam ngành xi măng Việt Nam đang và sẽ phải chấp nhận sự cạnh tranh quyết liệt giữa một bên là Tổng công ty xi măng Việt Nam (chủ quản là Bộ xây dựng) một bên là các liên doanh nước ngoài tại Việt Nam và rộng hơn nữa là ngành xi măng của khu vực. Chính vì thế em đã chọn đề tài: "Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành xi măng" làm đề tài nghiên cứu của mình". Phần I Lý luận chung về cạnh tranh I-/ Tính tất yếu và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. 1-/ Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường ba vấn đề kinh tế cơ bản sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai được giải quyết thông qua thị trường. Thông qua các mối quan hệ cung cầu, giá cả và cạnh tranh mà quyết định nên sản xuất những mặt hàng gì, với số lượng bao nhiêu, kỹ thuật công nghệ nào và kết quả sản xuất ấy phân phối cho ai. Một điều tất yếu và là đặc trưng cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường đó là: bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia hoạt động kinh doanh một loại hàng hoá nào đó trên thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Theo Marx "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch". Theo từ điển kinh doanh cạnh tranh trong cơ chế thị trường định nghĩa là: "sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía mình. Có thể hiểu cạnh tranh theo một nghĩa chung nhất là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong giành giật thị trường và khách hàng. Thực chất của cạnh tranh là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị trường. Đối với người mua thì muốn mua được loại hàng hoá dịch vụ chất lượng cao, giá rẻ. Còn ngược lại các doanh nghiệp bao giờ cũng muốn tối đa hoá lợi nhuận của mình. Vì mục tiêu lợi nhuận, họ phải giảm chi phí và tìm cách giành giật khách hàng và thị trường về phía mình. Và kết cục là cạnh tranh xảy ra. Cạnh tranh là một điều tất yếu của thị trường, các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng linh hoạt sử dụng vũ khí cạnh tranh hữu hiệu. Nếu như lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh bắt buộc họ phải tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả nhằm thu được lợi nhuận tối đa Chính vì vậy cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường, là phương thức hoạt động của thị trường. Nói đến thị trường là nói đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế. Mọi quá trình sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp phải tuân theo quy luật cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trường hay có thể nói: cơ chế thị trường là vũ đài của cạnh tranh, là nơi gặp gỡ của các đối thủ cạnh tranh (các doanh nghiệp) mà kết quả là một doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường trong khi một số doanh nghiệp vẫn tồn tại và phát triển hơn nữa. Điều này đặt ra cho các doanh nghiệp đang yếu kém và lúng túng phải nhanh chóng thích nghi, nếu thích nghi được thì đó là cơ hội để phát triển và ngược lại, nếu không thích nghi được thì đấy là dấu hiệu của sự phá sản. Vì vậy trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đạt được một trình độ cạnh tranh cao là con đường đảm bảo chắc chắn cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối cao và duy nhất trong kinh doanh của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa vì đó là thu nhập hiện tại của mỗi doanh nghiệp và là tiền đề để hiện đại hoá và phát triển doanh nghiệp, tạo thu nhập trong tương lai cho họ. Bên cạnh đó trên thị trường có rất nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại hàng hoá, cạnh tranh trên thị trường là không tránh khỏi vì đó là cuộc cạnh tranh vì lợi ích vật chất giữa các doanh nghiệp với nhau. Cạnh tranh lành mạnh là một động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, tiến bộ khoa học kỹ thuật là điều kiên để phát triển tính tháo vát năng động nhạy bén và sáng tạo của các doanh nghiệp. 2-/ Vai trò của cạnh tranh đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh là một tất yếu trong nền kinh tế thị trường và là cơ chế vận động thị trường .Cơ chế thị trường là giải pháp tốt để giải quyết các vấn đề kinh tế vì nó có khả năng để lập lại trật tự kinh tế, nhất là nó tạo cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn luôn tìm cách để cải tiến lề lối làm việc, phát huy những kinh nghiệm thành công khắc phục những thất bại để phát triển xã hội. Kỹ thuật hệ thống thị trường có tính năng động uyển chuyển tự điều chỉnh được, tự sửa chữa được những yếu kém. Cơ chế thị trường thể hiện những mặt ưu việt đó một phần là do cạnh tranh giữ một vai trò quan trọng. - Thứ nhất cạnh tranh làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống. Khi đối đầu với cạnh tranh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có ý thức hạ giá bán của hàng hoá dịch vụ mà mình cung cấp thấp hơn hoặc bằng giá của đối thủ với mục đích, lôi kéo khách hàng và mở rộng thị trường. Cùng với hạ giá là sự tăng lên của chất lượng hàng hoá dịch vụ để ngày càng phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng. - Thứ hai, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh. Để giảm giá bán và tối đa hoá lợi nhuận các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào để sao cho chi phí sản xuất là thấp nhất. Trong điều kiện có cạnh tranh các nguồn lực được sử dụng một cách tốt nhất, tiết kiệm nhất, hiệu quả nhất để thu được sản phẩm đầu ra là hàng hoá dịch vụ có chất lượng cao nhất. - Thứ ba, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Để theo kịp và vượt lên đối thủ cạnh tranh các doanh nghiệp phải đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất bởi vì tiến bộ khoa học đóng vai trò là một lực lượng sản xuất quan trọng. Tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo thêm lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. - Thứ tư, cạnh tranh là công cụ để tước quyền thống trị về kinh tế. Cạnh tranh thủ tiêu sự độc quyền về kinh tế tạo môi trường để khai thác các nguồn lực và huy động các tiềm năng. 3-/ Các hình thái của cạnh tranh trên thị trường. Căn cứ vào mức độ cạnh tranh, thị trường có thể được phân loại như sau: a-/ Thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó có rất nhiều người bán mà không người nào có ưu thế có thể cung ứng một số lượng sản phẩm lớn ảnh hưởng đến giá cả. Các sản phẩm bán trên thị trường là đồng nhất, tức là nó rất ít khác nhau về quy cách, mẫu mã, phẩm chất. Điều kiện tham gia và rút khỏi thị trường một cách dễ dàng. Những người bán tham gia trên thị trường chỉ có cách thích ứng với giá thị trường. Họ không có khả năng định giá. Do đó các doanh nghiệp làm ăn trên thị trường này chủ yếu tìm biện pháp giảm chi phí tới mức thấp nhất. Tác dụng của thị trường này: - Thúc đẩy các doanh nghiệp phải cải tiến công nghệ, thay đổi sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. - Làm cho người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn cho mình những sản phẩm vừa ý với mức giá thấp. - Các tài nguyên và các nguồn lực được phân phối theo hướng có lợi nhất làm cho doanh nghiệp chuyển sang kinh doanh mặt hàng phù hợp với yêu cầu của xã hội. Tuy nhiên hình thái cạnh tranh này rất khó tìm thấy trong điều kiện hiện nay. b-/ Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Có thể nói thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là một thị trường cạnh tranh bình thường vì thực tế nó rất phổ biến trong điều kiện hiện nay. Đây là thị trường mà sức mạnh thị trường thuộc về một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trường này kinh doanh hàng hoá và dịch vụ này là ở nhãn hiệu. Mặc dù sự khác biệt chỉ là khác biệt trong tâm trí người tiêu dùng, những mối nhãn hiệu hàng hoá đều mang hình ảnh với những uy tín khác nhau. Có hai hình thái thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Độc quyền tập đoàn. Đây là một thị trường mà ở đó có một vài doanh nghiệp đáp ứng hầu hết nhu cầu về một loại hàng hoá dịch vụ cụ thể nào đó. Những doanh nghiệp này rất nhạy cảm với các hoạt động kinh doanh của nhau. Thế nhưng, điểm đáng chú ý là các doanh nghiệp phụ thuộc lẫn nhau trong định giá và lượng hàng bán ra. Bởi vì một doanh nghiệp trong nhóm độc quyền giảm giá hàng hoá bán ra thì họ không bao giờ cảm thấy tin tưởng rằng có thể đạt được kết quả lâu dài vì sẽ có một doanh nghiệp khác có thể sẽ giảm giá xuống mức thấp hơn và ngược lại khi một doanh nghiệp tăng giá trong khi doanh nghiệp khác không tăng giá sẽ dẫn đến doanh nghiệp tăng giá phải trở lại giá cũ nếu không sẽ có nguy cơ bị mất khách hàng. Cạnh tranh mang tính độc quyền. Trên thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền sản phẩm của các doanh nghiệp là khác nhau. Người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm của doanh nghiệp thông qua nhãn hiệu, quảng cáo bao bì và các dịch vụ khác. Trên thị trường này, doanh nghiệp có quyền định giá hàng hoá bán ra nhưng không hoàn toàn theo ý mình và điều kiện mua bán hàng hoá cũng khác nhau. Doanh nghiệp có thể có uy tín độc đáo khác nhau đối với khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trạng thái thị trường độc quyền hầu như khó đặt được và nếu nó xuất hiện thì xem xét nó như trạng thái cạnh tranh độc quyền để giải quyết. Và như vậy, mức độ khốc liệt của cạnh tranh giảm dần từ cạnh tranh hoàn hảo đến cạnh tranh độc quyền. c-/ Thị trường độc quyền. Thị trường độc quyền là thị trường mà ở đó có một người bán độc quyền nhất có thể kiểm soát trên thị trường. Điều kiện gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường độc quyền có rất nhiều trở ngại do vốn đầu tư lớn hoặc do độc quyền kỹ thuật công nghệ. Vì vậy mà thị trường này không có cạnh tranh về giá mà người bán hoàn toàn quyết định giá. Trên thị trường độc quyền, đường cầu của toàn xã hội về một loại hàng hoá dịch vụ chính là đường cầu của hãng độc quyền. Doanh nghiệp độc quyền có thể chi phối và quyết định giá cả và lượng hàng hoá bán ra trên thị trường bằng các biện pháp ứng xử của mình. Để bán hàng hoá với giá cao và thu được nhiều lợi nhuận doanh nghiệp độc quyền có thể tạo ra sự khan hiếm hàng hoá giả tạo. Do vậy nhiều nước đã có luật chống độc quyền. Bởi vì độc quyền không những gây ra sự thiếu hụt hàng hoá ảnh hưởng xấu đến người tiêu dùng mà còn gắn với sự trì trệ. Tuy nhiên độc quyền cũng có mặt tích cực của nó, đó là đem lại lợi ích cho xã hội nhờ đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển. Doanh nghiệp độc quyền thường có trình độ tập trung hoá sản xuất cao, mở rộng được quy mô sản xuất nên giảm được chi phí sản xuất trên một đơn vị sản xuất. II-/ Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và sự cần thiết khách quan phải tăng khả năng cạnh tranh: 1-/ Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn có vị trí vững chắc trên thị trường thì cần phải có tiềm lực đủ mạnh để cạnh tranh. Cạnh tranh là môi trường của kinh tế thị trường đồng thời là mục tiêu của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo thực hiện một mức lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Để duy trì và tăng khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp phải luôn luôn đưa ra các phương án, các giải pháp tối ưu để giảm chi phí sản xuất để từ đó giảm giá thành, giá bán áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức tốt mạng lưới bán hàng và biết chọn đúng thời điểm bán hàng nhằm thu hút được khách hàng, mở rộng thị trường. Chỉ tiêu tổng hợp nhất để đánh giá sức cạnh tranh của một doanh nghiệp là một thị phần mà doanh nghiệp chiếm được. Thị phần càng lớn càng thể hiện rõ sức cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Để tồn tại và có sức cạnh tranh, doanh nghiệp phải chiếm giữ được một phần thị trường bất kể nhiều hay ít, chính điều này đã phản ánh được quy mô tiêu thụ của doanh nghiệp. Qua đó ta cũng có thể đánh giá được sức cạnh tranh của mỗi một doanh nghiệp ưu thế cũng như các điểm mạnh, điểm yếu tương đối của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong ngành. Tăng sức cạnh tranh là một điều tất yếu của mỗi một doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, một doanh nghiệp nếu không tìm cách để vượt lên đối thủ thì nghĩa là doanh nghiệp đó đang thụt lùi. Bởi lẽ tất cả đều có ý thức phải vượt lên chính mình và vượt lên đối thủ. Không nỗ lực liên tục, không tìm mọi cách để tăng sức cạnh tranh thì đồng nghĩa với diệt vong. 2-/ Tại sao phải tăng khả năng cạnh tranh. Thực chất của tăng sức cạnh tranh là tạo ra ngày một nhiều hơn các ưu thế về mặt giá cả, giá trị sử dụng, chất lượng, uy tín của sản phẩm và doanh thu, nhằm giành được những ưu thế tương đối trong cạnh tranh đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan. Các doanh nghiệp tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh một mặt sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, mặt khác nó sẽ đào thải không thương tiếc những doanh nghiệp yếu thế không đủ sức cạnh tranh. Do vậy để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu tìm ra các giải pháp để giảm chi phí sản xuất giá thành, giá bán sản phẩm, tổ chức hệ thống tiêu thụ một cách tốt nhất, đúng lúc nhất mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Như vậy, cùng với cạnh tranh, tăng sức cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Để thắng thế trong các cuộc cạnh tranh, doanh nghiệp buộc phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh thông qua các yếu tố trực tiếp như giá thành, giá bán chất lượng sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp hay gián tiếp như các hoạt động quảng cáo, tham gia hội chợ.. 3-/ Một số công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp. a-/ Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm Điều quan trọng nhất đối với một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh là phải trả lời được câu hỏi cơ bản. Sản xuất cái gì ? cho ai? như thế nào? và như vậy có nghĩa là doanh nghiệp đã xây dựng cho mình một chính sách sản phẩm. Không một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị trường mà lại không có sản phẩm kinh doanh cho dù là hữu hình hay vô hình. Vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp là phải làm cho sản phẩm của mình thích ứng được với thị trường, mở rộng thị trường tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Để có thể cạnh tranh được với các đối thủ trên thị trường doanh nghiệp phải thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp phải luôn được thoả mãn không ngừng để theo kịp nhu cầu của thị trường bằng cách cải tiến các thông số chất lượng, mẫu mã, bao bì đồng thời tiếp tục duy trì các loại sản phẩm hiện nay đang là thế mạnh của doanh nghiệp. Như vậy sản phẩm và xác định cơ cấu sản phẩm tối ưu là một trong những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. b-/ Yếu tố giá cả. Giá của một sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu. Người bán và người mua thoả thuận mặc cả với nhau để đi tới mức giá cuối cùng đảm bảo hai bên cùng có lợi. Giá cả đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hay không mua của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp. "khách hàng là thượng đế" họ có quyền lựa chọn những gì mà họ cho là tốt nhất và cùng một loại sản phẩm với chất lượng đương đương nhau chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức giá bán thấp hơn, khi đó sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên. c-/ Chất lượng sản phẩm Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, một quan điểm mới về chất thông số có thể đo được hoặc có thể so sánh được, thoả mãn những điều kiện kỹ thuật và những yêu cầu nhất định của người tiêu dùng và xã hội. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố công nghệ dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động, trình độ quản lý Chất lượng sản phẩm thể hiện tính quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp ở chỗ: + Nâng cao chất sản phẩm sẽ làm tăng tốc tiêu thụ sản phẩm tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. + Sản phẩm chất lượng cao sẽ làm uy tín của doanh nghiệp kích thích khách hàng mua hàng và mở rộng thị trường. + Chất lượng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. d-/ Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm: Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, đây cũng là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhuận. Công tác tổ chức tiêu thụ tốt cũng là một trong những yếu tố làm tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Các hoạt động như quảng cáo tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng,... là hình thức tốt nhất để giới thiệu về sản phẩm và doanh nghiệp của mình giúp cho các doanh nghiệp tìm ra được nhiều bạn hàng mới, mở rộng thị trường nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. 4-/ Phương pháp đối phó với đối thủ cạnh tranh: Khi doanh nghiệp tìm các lợi thế cạnh tranh thì các nhà doanh nghiệp khác cũng có chiến lược cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh, nhà doanh nghiệp phải luôn luôn có giải pháp bảo vệ mình khỏi sự tấn công của các đối thủ cạnh tranh. Để giữ vững cạnh tranh nhà doanh nghiệp thường sử dụng những giải pháp sau làm giảm ý chí tấn công của các đối thủ cạnh tranh tạo lập hàng dào ngăn chặn sự tấn công của đối phương. Đồng thời doanh nghiệp cần có những giải pháp mới đối với hệ thống phân phối hàng hoá nhằm củng cố chặt chẽ mối quan hệ với bạn hàng nhận thấy nếu không làm ăn chặt chẽ với doanh nghiệp mà lại làm ăn với doanh nghiệp khác sẽ dẫn đến sự thiệt thòi. Trong các thủ pháp nhằm xây dựng hàng rào chắn với các đối thủ và tránh đối đầu với đối thủ cạnh tranh thì phương pháp hay được áp dụng nhất là chia tuyến thị trường ngăn cản sự ra nhập hợp tác. 5-/ Các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp: * Nhân tố khách quan a-/ Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế còn gọi là môi trường tổng thể của một doanh nghiệp bao gồm bốn nhân tố chính. ã Nhóm nhân tố kinh tế: ã Nhân tố chính trị và pháp luật. ã Các nhân tố khoa học công nghệ kỹ thuật. ã Các nhân tố về điều kiện tự nhiên. b-/ Môi trường ngành: - Tốc độ tăng trưởng của ngành sẽ quyết định mức độ cạnh tranh của ngành đó. - Số lượng các doanh nghiệp cạnh tranh và các đối thủ tiềm ẩn cũng là một nguyên tố tác động đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong một ngành, nếu như các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường sẽ trở nên gay gắt hơn và khi đó sức cạnh tranh của doanh nghiệp cao hơn hoặc thấp đi. - Sản phẩm thay thế cũng là nhân tố đe doạ tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khi tham gia thị trường bao giờ cũng phải tính đến mối đe doạ của sản phẩm thay thế. * Các nhân tố chủ quan: ã Nguồn nhân lực ã Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp ã Khả năng tài chính của doanh nghiệp Phần II Thực trạng ngành xi măng Việt Nam I-/ Thực trạng ngành xi măng Việt Nam: 1-/ Thực trạng về cơ cấu ngành và cơ chế quản lý: Trong công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, cùng với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nhu cầu xây dựng ngày càng tăng. Tất cả những công trình xây dựng trên khắp mọi miền đất nước như nhà cửa, đường xá, công trình thuỷ lợi, cầu cảng, thuỷ điện, trường học, khách sạn, nhà máy, công trường,... đều cần đến xi măng. Xi măng trở thành một ngành công nghiệp then chốt của đất nước. Trong những năm 1991-1997 nền kinh tế tăng trưởng nhanh đã làm cho nhu cầu xi măng ở Việt Nam tăng lên 3 lần từ 3 triệu tấn đến 9 triệu tấn. Đến năm 1999-2000 nhu cầu xi măng đã được dự đoán là từ 13 đến 15 triệu tấn. Vào thời kỳ 1991-1996 sản xuất xi măng ở Việt Nam luôn thấp hơn nhu cầu. Do điều hành nhập khẩu không kịp thời nên thị trường xi măng luôn trong tình trạng "sốt nóng". Nhà nước đã phải dùng nhiều biện pháp để làm dịu "cơn sốt" này đồng thời có kế hoạch tổng thể qui hoạch ngành xi măng trong tương lai. Hiện nay, Nhà nước thực hiện quản lý thị trường xi măng dưới hình thức giao cho Tổng công ty xi măng độc quyền quyết định giá bán buôn còn Ban vật giá Chính phủ lại khống chế giá bán lẻ ở những thành phố lớn. Đồng thời Nhà nước quản lý về nhập khẩu về xi măng và nguyên vật liệu chủ yếu để sản xuất xi măng là clinker. Điều kiện tự nhiên nước ta được đánh giá là rất thuận lợi cho phát triển xi măng. Hơn thế nữa, Việt Nam đang trong thời kỳ tăng trưởng nên thị trường tiêu thụ xi măng ngày càng phát triển. Xuất phát từ tình hình thị trường xi măng những năm 1991-1996 và những dự báo về nhu cầu xi măng những năm đó, Nhà nước đã phê duyệt việc đầu tư xây dựng hàng loạt các nhà máy xi măng trong cả nước. Trong 3 năm qua một làn sóng ào ạt đầu tư vào ngành sản xuất xi măng. Năm 1996, dây chuyền 2 của Nhà máy xi măng Hoàng Thạch đi vào sản xuất làm cho công suất của nhà máy tăng thêm 1,7 triệu. Năm 1997, Công ty xi măng Chinfon Hải Phòng bắt đầu hoạt động với công suất 1,4 triệu tấn/năm và có thể đạt 1,7 triệu. Năm 1998, nhà máy xi măng Bút Sơn (Hà Nam) công suất 1,4 triệu tấn đã hoàn thành và cho ra lò bao xi măng đầu tiên sau 2 tháng. Nhà máy Sao Mai (Kiên Giang) ra lò mẻ clinker đầu. Ngoài ra còn có 3 dự án xi măng đã được cấp giấy phép: Nhà máy xi măng Hải Long (Quảng Ninh), Phúc Sơn (Hải Dương) và nhà máy xi măng Hoàn Cầu (Quảng Ninh) với tổng công suất 4,5 triệu tấn. Dây truyền thứ 2 của Chinfon công suất 1,8 triệu tấn cũng chuẩn bị đưa vào sản xuất cùng với Lang Bang B 2 triệu tấn, Tràng Kênh 1,2 triệu tấn. Tham gia phân chia thị trường xi măng gồm: Thứ nhất: Đầu mối sản xuất và tiêu thụ xi măng lớn nhất trong cả nước là Tổng công ty Xi măng Việt Nam (chủ quản Bộ xây dựng) được Chính phủ giao cho nhiệm vụ nặng nề là phải "dự trữ, bình ổn và điều hoà cung - cầu xi măng". Những con chim đầu đàn của ngành xi măng ở ngoài Bắc phải kể đến Hoàng Thạch, Bỉm Sơn; ở miền Nam phải kể đến Sao Mai, Hà Tiên,... Trước đây những nhà máy thuộc Tổng công ty xi măng là nguồn cung cấp chủ yếu cho nhu cầu xi măng của cả nước thị phần 55%. Thứ hai: các nhà máy liên doanh với nước ngoài. Đây là một bộ phận tham gia phân chia thị trường và cạnh tranh với những nhà máy thuộc Tổng công ty. Hiện nay đã có 7 liên doanh xi măng với tổng số vốn đầu tư 1,52 tỉ USD, tổng công suất dự kiến 9 triệu tấn/năm. Đến năm 2001 con số này được dự báo là sẽ tăng gấp rưỡi và thị phần của Tổng công ty sẽ bị co hẹp đáng kể. Điều này chứng tỏ giai đoạn tới sẽ là giai đoạn cạnh tranh quyết liệt giữa Tổng công ty xi măng và các liên doanh để phân chia thị trường. Thứ ba: là các nhà máy xi măng ở địa phương. Các nhà máy này chiếm thị phần nhỏ (15-10%) chủ yếu để đáp ứng nhu cầu giao thông thuỷ lợi ở địa phương. Đây cũng là một giải pháp để cân đối xi măng của nền kinh tế. Xi măng ở các nhà máy địa phương là xi măng lò đứng, giá thành hạ, công suất đầu tư thấp, phụ tùng thiết bị không phức tạp và ít nhập ngoại, tiêu thụ nội vùng nên chi phí vận chuyển thấp. Do đó xi măng lò đứng có ưu thế hơn xi măng lò quay về giá cả. Tuy nhiên hiệu quả đầu tư thấp, nếu xét trên bình diện hiệu quả kinh tế vi mô của cả nền kinh tế và hiệu quả khai thác sử dụng các nguồn lực của toàn xã hội. Hiện nay xi măng lò đứng ở địa phương đang gặp nhiều khó khăn do phải đối đầu với cạnh tranh nên thị phần càng thu hẹp. Ngoài ra, là nguồn nhập khẩu. Cách đây 3 năm một cơn sốt xi măng có một không hai ở Việt Nam bùng lên. Nguyên nhân là do cung trong nước còn thấp rất xa so với cầu. Để làm dịu cơn sốt này Nhà nước phải nhập khẩu xi măng. Năm 1995 tổng sản lượng sản xuất là 5,854 triệu tấn, nhập khẩu 1,320 triệu tấn. Năm 1996 tổng sản lượng sản xuất là 6,835 triệu tấn, nhập khẩu 1,350 triệu tấn. Năm 1997 tổng sản lượng sản xuất là 9,120 triệu tấn, nhập khẩu 0,88 triệu tấn. Năm 1998 tổng sản lượng sản xuất là 11 triệu tấn, nhập khẩu 0,35 triệu tấn. Năm 1999 tổng sản lượng sản xuất là 12,5 triệu tấn, nhập khẩu 0,2 triệu tấn. Lượng nhập khẩu xi măng ngày càng giảm. Trong khi cung về xi măng ngày càng tăng đuổi kịp và vượt cầu trong thời gian gần đây thì vẫn có lượng xi măng nhập khẩu đáng kể. Nguyên nhân là do giá xi măng nhập rẻ hơn giá xi măng sản xuất trong nước mà chất lượng lại ngang bằng hoặc tốt hơn. Đây cũng là một yếu tố làm cho thị trường xi măng cạnh tranh ngày càng gay gắt. Bốn nguồn trên là bốn nguồn cung ứng xi măng cho thị trường tiêu thụ nội địa trong đó giữ vị trí then chốt vẫn là Tổng công ty xi măng. Theo dự báo đến năm 2000, tổng sản lượng xi măng ở Việt Nam có thể đạt tới 20 triệu tấn/năm nhưng nhu cầu xi măng Việt Nam đến năm 2000 được dự báo chỉ đạt tối đa khoảng 16-17 triệu tấn. Từ 1/6/1999 cả 6 doanh nghiệp là thành viên của Tổng công ty xi măng đều sản xuất xi măng theo tiêu chuẩn mới để hoà đồng với quốc tế và khu vực. Đó là hệ thống tiêu chuẩn chất lượng xi măng Pooclăng hỗn hợp. Việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng này sẽ giúp cho xi măng Việt Nam có ưu thế hơn trên thị trường quốc tế và khu vực. Hiện tại các nước xung quanh như Inđonexia, Thái Lan, Malaysia,... đều thừa xi măng tạm thời chỉ có thể xuất sang Lào và Campuchia - hai thị trường được đánh giá là nhiều triển vọng với xi măng Việt Nam. 2-/ Thực trạng thị trường: cung vượt quá cầu. Từ cơn sốt năm 1995 đến nay cung đã vượt quá cầu. Đầu những năm 1990 mức tăng trưởng cao của nền kinh tế nói chung và của ngành xây dựng nói riêng đã làm cho cầu về xi măng tăng mạnh, vượt xa cung. Mức tiêu thụ xi măng năm 1990 là 2,755 triệu tấn, đến năm 1995 đã tăng lên 7,113 triệu tấn. Mức tăng bình quân hàng năm là 21%. Sự thiếu hụt và áp lực tăng giá bắt đầu lan rộng từ năm 1993-1994 để lên tới đỉnh điểm là cơn sốt xi măng đầu năm 1995, với giá có lúc lên tới 173 USD/tấn trong khi giá qui định chỉ là 80-90 USD/tấn. Nhu cầu xi măng vẫn tiếp tục tăng lên đến 9,5 triệu tấn vào năm 1997. Từ năm 1995 đến 1997 nhu cầu có giảm nhưng vẫn còn tăng 12%/năm. Nhập khẩu xi măng chủ yếu từ Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc và Singapore bù vào chỗ thiếu hụt. Thêm vào đó đầu tư của Tổng công ty xi măng và các liên doanh đã tăng mạnh trên cơ sở dự đoán nhu cầu thị trường sẽ còn tăng lâu dài. Việc định giá chuẩn xi măng rất cao của Nhà nước ta trong những năm vừa qua là một yếu tố rất quan trọng tạo ra động lực to lớn thúc đẩy việc gia tăng mạnh mẽ tốc độ đầu tư vào ngành công nghiệp xi măng nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng mất cân đối cung cầu. ã Năm 1998 sản lượng xi măng sản xuất trong nước đạt hơn 9 triệu tấn (kể cả các liên doanh), nhập khẩu 880.000 tấn. Tồn kho cuối năm 1997 chuyển sang năm 1998là 600.000 tấn. Tổng nguồn xi măng cung ứng năm 1998 là 10,5 triệu tấn, tổng nhu cầu tiêu thụ là 9,5 triệu tấn. Như vậy cuối năm lượng xi măng thừa lên tới 1 triệu tấn. ã Năm 1999 sản lượng sản xuất trong nước đạt 11 triệu tấn. Tồn kho năm 1998 chuyển sang 1 triệu tấn, nhập khẩu xi măng trắng, xi măng chuyên dùng khoảng 0,4 triệu tấn và như vậy tổng nguồn cung cấp là 12,5 triệu tấn. Nhu cầu xi măng năm 1998 chỉ đạt được gần 10 triệu tấn. Con số xi măng thừa là hơn 2 triệu tấn. ã Năm 2000, trong 6 tháng đầu năm các nhà máy thuộc tổng công ty xi măng sản xuất 2.723.000 tấn mới tiêu thụ 2.485.000 tấn. Các nhà máy xi măng lò đứng sản xuất trên 1 triệu tấn, tiêu thụ 997.000 tấn. ở các công ty liên doanh tình hình cũng không mấy khả quan. Xi măng Chinfon sản xuất 684.760 tấn, chỉ tiêu thụ được 653.100 tấn, xi măng Sao Mai sản xuất 470.000, tiêu thụ 450.000. Chỉ có một số ít các công ty xi măng lớn như Bỉm Sơn, Hà Tiên II,.. đạt được hoặc vượt kế hoạch đề ra. Hết ngày 30/6/2000 các công ty xi măng trung ương còn tồn kho trên 1 triệu tấn clinker. Xi măng cả nước có tổng công xuất 11,5 triệu tấn (công suất tối đa lên đến 18 triệu tấn) mà nhu cầu tiêu thụ chỉ khoảng 13 triệu tấn. Có một nghịch lý đang diễn ra là trong khi miền Bắc thừa hơn 1 triệu tấn thì ở miền Trung và miền Nam lại thiếu. Nói là thừa nhưng cũng không phải thừa và cũng không phải thiếu. Và điều quan trọng nhất bây giờ là phải điều hoà được cung cầu giữa hai miền. Nên việc này được thực hiện tốt sẽ giảm phần nào tình trạng mất cân đối trên và giảm thiểu xi măng thừa. Nhiệm vụ quan trọng này được giao cho Tổng công ty xi măng. Hiện nay việc điều hoà xi măng đang gặp nhiều khó khăn. Nếu đưa xi măng từ Bắc vào Nam là chắc chắn lỗ. Mỗi tấn xi măng phải chịu thêm một khoản chi phí khoảng 170-180.000 đồng (chưa kể chi phí vào kho ra kho). Trong khi đó xi măng Bắc lại không hợp thị hiếu miền Nam. Chẳng hạn nếu ở Bắc, xi măng Hoàng Thạch là nhất bẳng thì vào miền Nam lại không thể "đọ" được với si măng Sao Mai, Hà Tiên,... nên bán chẳng ai mua nếu có trót đưa vào thì giá thấp cũng bán. Vào thời điểm này thì xi măng Bắc được bán giữa hai miền giá cả thống nhất thậm chí trong Nam còn thấp hơn mặc dù chi phí vận chuyển gấp đôi. Như vậy là lỗ, phần lỗ này đương nhiên Tổng công ty phải gánh chịu, dù lỗ vẫn phải làm. Giá xi măng trong nước do Ban vật giá Chính phủ Bộ xây dựng và Bộ thương mại qui định nhằm ổn định thị trường trong nước. Giá trần được qui định cho chủng loại xi măng phổ biến nhất PC 30 tại thị trường Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Cả Tổng công ty xi măng, các doanh nghiệp và các nhà máy qu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35064.doc
Tài liệu liên quan