lời nói đầu
Bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại, phát triển thì yêu cầu hàng hoá của họ phải có sức cạnh tranh cao. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang phát triển kinh tế thị trường với xu thế hội nhập, các hãng sản xuất ngày một nhiều, nhu cầu của người tiêu dùng thì không ngừng nâng cao, các doanh nghiệp càng phải liên tục không ngừng nghiên cứu tìm biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình. Doanh nghiệp có làm như vậy trước là để tồn tại và phát triển sau là để góp
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần tăng mức hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá.
Trong mọi thời kỳ, khả năng cạnh tranh được coi là nguồn năng lượng thiết yếu để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy nguyên nhân dẫn đến nguy cơ phá sản hay thành công trong kinh doanh dù ít dù nhiều đều có liên quan đến khả năng cạnh tranh.
Ngành dệt may, một ngành được coi là có lợi thế nhất Việt Nam .Sự phát triển của ngành có vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước ta. Với sản phẩm đa dạng, nhiều chủng loại đồng thời nhu cầu liên tục tăng lên cùng với xu thế tăng trưởng kinh tế. Mức sống cao nhu cầu ăn mặc cũng tăng, đó là điều tất yếu, hơn nữa sở thích thị hiếu ăn mặc mỗi người một khác nên có thể phát triển một cách phong phú.
Tuy nhiên trên thực tế, ngành dệt may hiện nay ở nước ta vẫn là một ngành hoạt động hiệu quả kinh tế chưa cao, sản xuất gia công là chính, công nghệ lạc hậu, mẫu mã chưa phong phú, phát triển chưa đồng bộ giữa dệt và may, nguồn lao động chưa được sử dụng hợp lý...trong khi ta đang ở bước đầu của thế kỷ 21, trước xu thế hội nhập và cạnh tranh gay gắt. Do đó việc phân tích, đánh giá đúng những yếu kém trong cạnh tranh của ngành dệt may, để từ đó có những biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may là việc có tính cấp thiết và có ý nghĩa.
Nhận thức được vấn đề đó, em mạnh dạn chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may” làm đề tài cho đề án môn kinh tế thương mại của mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề án gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về cạnh tranh.
Chương 2: Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành dệt may trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may.
Đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng song do thời gian nghiên cứu và trình độ bản thân còn nhiều hạn chế nên đề án sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô cùng các bạn để đề án của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Đặng Đình Đào đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành đề án này.
chương I:
lý luận chung về cạnh tranh
I.Bản chất và vai trò của cạnh tranh
1. Khái niệm cạnh tranh:
Trong nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, các đơn vị kinh tế được tự do kinh doanh hàng hoá trong khuôn khổ pháp luật và để thu được nhiều lợi nhuận thì doanh nghiệp phải làm sao bán được nhiều hàng mà mình sản xuất ra, mà trên thực tế có rất nhiều hãng sản xuất hàng như mình. Chính vì thế mà các hãng phải cạnh tranh với nhau, hãng nào có sức cạnh tranh lớn thì sẽ giành thắng lợi và thu được nhiều lợi nhất.
Trước tiên cần phải hiểu cạnh tranh là gì? Cạnh tranh là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, có thể coi như là một nguyên tắc tất yếu phải có trong cơ chế thị trường.
Kinh tế học định nghĩa cạnh tranh là sự giành thị trường để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp.
Cạnh tranh theo nghĩa rộng là sự đua tranh với nhau giữa những người theo đuổi cùng mục đích nhằm đánh bại đối thủ và giành cho mình lợi thế nhiều nhất.
Như vậy có thể hiểu cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà trong đó các chủ thể có sự so sánh, đấu tranh với nhau trong thực hiện sản phẩm để đạt các mục tiêu chiếm lĩnh thị trường, giành điều kiện tiêu thụ có lợi, tối đa hoá lợi ích.
Một doanh nghiệp trong cơ chế thị trường tất yếu phải cạnh tranh với các hãng sản xuất cùng mặt hàng hoặc có công dụng tương tự và để chiến thắng đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng hoá của mình. Vậy khả năng cạnh tranh là gì?
Cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về khả năng cạnh tranh cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của một ngành.
*Quan niệm của Fafchamps: Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản xuất của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn (Peters.G.H.khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, Dartmouch, 1995, trang 343).
*Quan niệm của Randall: Khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
*Quan niệm của Dunning: Khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó.
*Quan niệm khác cho rằng: Khả năng cạnh tranh là trình độ của công nghiệp có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường đồng thời duy trì được mức thu nhập thực tế của mình.
Có thể nhận thấy rằng các quan điểm trên đều xuất phát từ các góc độ khác nhau, nhưng đều có liên quan đến hai khía cạnh: chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận. Từ đó có thể hiểu khả năng cạnh tranh là năng lực nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy khả năng cạnh tranh được nâng cao. Quan niệm này có thể áp dụng đối với từng doanh nghiệp, một nền kinh tế cũng như đối với một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường nội địa, khu vực hay toàn thế giới.
2. Vai trò của cạnh tranh
Đối với doanh nghiệp bất kỳ thường có năm mục tiêu cơ bản, đó là: mục tiêu khách hàng, mục tiêu đổi mới, mục tiêu chất lượng, mục tiêu cạnh tranh, mục tiêu lợi nhuận. Như vậy cạnh tranh là một trong những mục tiêu hàng đầu mà doanh nghiệp cần phải chú ý. Cạnh tranh là môi trường của kinh tế thị trường, nó có vai trò quan trọng mà nếu doanh nghiệp không tính đến thì sẽ bị thất bại. Đó là:
*Vai trò quan trọng nhất của cạnh tranh là làm cho giá thị trường bị giảm xuống. Trong độc quyền kinh tế thì bao giờ cạnh tranh cũng làm cho giá thành sản phẩm tăng lên nhưng trong cơ chế kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp làm cho giá giảm đi. Bởi lẽ, trong cạnh tranh không chỉ có một doanh nghiệp sản xuất hàng hoá mà còn có rất nhiều hãng cùng tham gia sản xuất và ai có thể đảm bảo rằng hàng hoá mình sản xuất ra sẽ bán hết và thu được nhiều lợi nhuận? Và chắc gì sản phẩm của mình đã tốt hơn đối thủ cạnh tranh kia? Và như vậy rất có thể khách hàng sẽ mua hàng của đối thủ cạnh tranh chứ không phải của mình. Để tránh tình trạng đó, thu hút khách hàng mua hàng hoá của mình thì doanh nghiệp phải sản xuất hàng hoá sao cho sản phẩm có sức thu hút cao. Điều đầu tiên mà khách hàng hướng tới đó là giá cả hàng hoá, dĩ nhiên hai hàng hoá như nhau về công dụng và mẫu mã, được bán với phương thức phục vụ như nhau thì khách hàng sẽ mua hàng hoá nào có thành sản phẩm rẻ hơn. Và như vậy thì doanh nghiệp phải tính sao cho giá thành sản phẩm của doanh nghiệp mình rẻ hơn đối thủ cạnh tranh. Việc các đối thủ cạnh tranh cùng đua nhau thu hút khách hàng mua hàng hoá của doanh nghiệp mình làm cho giá cả thị trường giảm xuống (doanh nghiệp bât chấp cả việc giảm lợi nhuận thu được tính trên từng sản phẩm).
*Cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp phải không ngừng áp dụng khoa học kỹ thuật. Không ai có thể phủ nhận vai trò của sự phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ. Nhờ sự phát triển đó mà ngày nay người ta mới có thể có được mức hưởng thụ như ngày nay, đạt được sự thoả mãn cao mà chi phí thấp.
Các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá không ngừng ứng dụng các tiến bộ khoa học nhằm có được những hàng hoá có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, cũng bởi sản xuất hàng hoá có sự giúp đỡ của khoa học công nghệ nên năng suất lao động cao. Tất cả các điều này làm cho chi phí để sản xuất ra một sản phẩm thấp từ đó làm cho giá thành sản phẩm thấp, nâng cao được năng lực cạnh tranh của sản phẩm, giá thành sản phẩm bán ra trên thị trường sẽ thấp hơn giá cả thị trường.
*Cạnh tranh là công cụ tước quyền thống trị về mặt kinh tế trong lịch sử. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ làm cho các doanh nghiệp phải cùng nhau nâng cao chất lượng hàng hoá và hạ giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp nào có được sản phẩm mới, dịch vụ mới mà tung ra thị trường đầu tiên thì doanh nghiệp đó có quyền hưởng lợi nhuận lớn nhất trong kinh doanh, sẽ thống trị về mặt kinh tế. Chính vì vậy bất cứ khi nào cũng có thể có lúc sản phẩm hàng hoá mình bán ra không phải là sản phẩm mới hoặc có nhiều ưu điểm tiến bộ. Vì vậy bất cứ khi nào một doanh nghiệp cũng có thể mất đi sự thống trị về mặt kinh tế.
3. Bản chất của cạnh tranh
Cạnh tranh là hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường để đạt được mục tiêu lợi nhuận. Sẽ không thể có doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh nếu chúng “sống” trong một môi trường không có cạnh tranh. Nói cách khác, một doanh nghiệp rất khó trở thành doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh nếu được dung dưỡng trong môi trường thiếu tính cạnh tranh.
Trên thực tế, không thể có một thị trường nào ở trạng thái cạnh tranh hoàn hảo hoặc hoàn toàn độc quyền. Theo quy luật chung cạnh tranh luôn có xu hướng dẫn đến độc quyền. Bản chất của cạnh tranh tự bản thân nó luôn có xu hướng dẫn đến độc quyền. Về nguyên tắc người ta coi một nền kinh tế cản trở sự cạnh tranh là một nền kinh tế thiếu tính cạnh tranh và ngược lại.
4. ý nghĩa của cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường ý nghĩa của cạnh tranh là không thể phủ nhận bởi vì:
*Thứ nhất, cạnh tranh tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế.
Trong xu thế ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia sản xuất và dĩ nhiên như vậy là có xu hướng ngày càng có thêm đối thủ cạnh tranh. Để tối đa hoá lợi nhuận thì doanh nghiệp phải bán hết hàng hoá do mình sản xuất ra với giá cao nhất có thể bán được. Tuy nhiên khách hàng thì luôn luôn tìm mua những hàng hoá có giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp có cùng sản phẩm sản xuất hoặc sản phẩm có công dụng tương tự cạnh tranh với nhau, cùng nhau tranh giành khách hàng, tìm mọi biện pháp để sao cho khách hàng mua hàng hoá của mình chứ không phải của đối thủ cạnh tranh. Trong xu thế đó, các doanh nghiệp cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá của mình bằng cách giảm giá thành, nâng cao chất lượng hàng hoá cũng như dịch vụ bán hàng. Doanh nghiệp nào mà chi phí trên một đơn vị hàng hoá càng thấp sẽ có lợi nhuận càng nhiều, đây là yếu tố tạo cho các doanh nghiệp một triết lý rằng lợi nhuận mà doanh nghiệp đã đạt được chưa phải đã là lợi nhuận cao nhất mà doanh nghiệp có thể đạt được. Chính vì lý do các doanh nghiệp tranh đua nhau như vậy đã tạo nên một động lực thúc đẩy sản xuất hơn, tiếp tục giảm chi phí một cách nhiều nhất các yếu tố đầu vào, cùng việc không ngừng đẩy mạnh áp dụng khoa học kỹ thuật để lợi nhuận thu được ngày một tăng cao.
*Thứ hai, cạnh tranh là cách hữu hiệu nhất để tối đa hoá lợi nhuận và lợi ích của cả người cung cấp lẫn người tiêu dùng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ.
Như đã nói ở trên, thông qua cạnh tranh người ta mới đua nhau sản xuất, kiếm lợi nhuận, qua cạnh tranh doanh nghiệp luôn nhận thấy lợi ích sẽ thu được trong tương lai hoàn toàn phụ thuộc vào chính doanh nghiệp, chứ không phải trông chờ vào một thế lực nào tạo hoá ra được. Vì vậy có thể nói thông qua cạnh tranh doanh nghiệp mới tối đa hoá lợi ích của mình một cách thực sự, hoàn toàn là sự thuận mua vừa bán giá cả hàng hoá giữa khách hàng và doanh nghiệp, chứ không phải như trong độc quyền chỉ dựa vào việc quyền mà ép giá đầu ra hoặc đầu vào.
Còn đối với người tiêu dùng, do được tự do lựa chọn hàng hoá mình định mua, số doanh nghiệp sẵn sàng đáp ứng loại hàng hoá mình mua thì rất nhiều nên hàng hoá mua được hoàn toàn tự làm hài lòng, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng là tối đa.
II. Những nội dung, công cụ của cạnh tranh và các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh
Để cạnh tranh với đối thủ trên thị trường, các doanh nghiệp đang sử dụng các công cụ phổ biến trong quá trình cạnh tranh sôi động hiện nay là:
*Thứ nhất, chất lượng của hàng hoá.
Trên thương trường nếu nhiều hàng hoá có công dụng như nhau, giá cả bằng nhau thì người tiêu dùng sẵn sàng mua hàng hoá nào có chất lượng cao hơn. Do đó, đây là công cụ đầu tiên và quan trọng mà các doanh nghiệp sử dụng để thắng các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, chất lượng hàng hoá phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật của từng đơn vị sản xuất, từng ngành, từng vùng và từng quốc gia.
*Thứ hai, giá cả hàng hoá.
Hai hàng hoá có cùng công dụng, chất lượng như nhau thì người tiêu dùng sẽ mua hàng hoá nào có giá rẻ hơn. Giá cả hàng hoá được quyết định bởi giá trị hàng hoá. Song sự vận động của giá cả còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Mức sống còn thấp, người tiêu dùng tìm mua những hàng hoá có giá rẻ. Thực tế cho thấy, phần lớn hàng hoá tiêu dùng của Trung Quốc được tiêu thụ mạnh tại Việt Nam. Các nhà sản xuất đã thực hiện một chiến lược kinh doanh là làm ra hàng hoá có khả năng thanh toán thấp về phía mình. Trong kinh doanh để cạnh tranh về giá, một số doanh nghiệp chấp nhận lời ít, bán với giá thấp nhưng dùng số nhiều để thu lại. Ngược lại, khi mức sống cao hơn người tiêu dùng sẽ quan tâm đến hàng hoá có chất lượng tốt, chấp nhận mức giá cao.
*Thứ ba, áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại.
Sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp sẽ tăng lên khi giá cả hàng hoá cá biệt của họ thấp hơn giá cả trung bình trên thị trường. Để có lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải tập trung các nguồn lực để tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hàng hoá nhằm làm cho giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn giá trị xã hội. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến công cụ lao động, hợp lý hoá sản xuất, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại vào trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thực tiễn đã chứng minh các doanh nghiệp tồn tại và phát triển được cần có dâu chuyền công nghệ mới, hiện đại có phương pháp tổ chức quản lý khoa học.
*Thứ tư là thông tin.
Thông tin là một công cụ cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp. Thông tin về thị trường mua bán, thông tin về tâm lý thị hiếu khách hàng, về giá cả, về đối thủ cạnh tranh ...có ý nghĩa quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Đủ thông tin và xử lý đúng thông tin, một mặtn giúp các doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong kinh doanh; mặt khác qua thông tin có thể tìm ra và tạo ra “lợi thế so sánh” của doanh nghiệp trên thương trường, chuẩn bị và đưa ra đúng thời điểm những sản phẩm mới thay thế để tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá. Thông tin đủ đúng hoặc bưng bít thông tin có thể thúc đẩy thị trường một cách tích cực hoặc tạo ra những nhu cầu giả tạo, hành vi cạnh tranh sai trái làm biến dạng thị trường. Vì thế, không ngạc nhiên khi tình trạng quảng cáo sản phẩm hiện nay ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, chi phí cho hoạt động quảng cáo, giới thiệu, trưng bày sản phẩm chiếm tỷ trọng nhất định trong chi phí chung của các doanh nghiệp.
*Thứ năm, phương thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phương thức phục vụ và thanh toán là công cụ cạnh tranh khá quan trọng. Ai nắm được công cụ này sẽ thắng trong cạnh tranh. Bởi vì, công cụ này tạo được sự tiện lợi cho khách hàng. Phương thức phục vụ và thanh toán trước hết được thể hiện ở ba giai đoạn của quá trình bán hàng: trước khi bán, trong khi bán và sau khi bán hàng.
Trước khi bán hàng, các doanh nghiệp thực hiện các động tác như quảng cáo, giới thiệu, hướng dẫn thị hiếu khách hàng, các hoạt động triển lãm, trưng bày hàng hoá. Những động tác này hấp dẫn, lôi cuốn khách hàng đến với sản phẩm cuảe doanh nghiệp mình.
Trong quá trình bán hàng, khâu quan trọng nhất là nghệ thuật chào mời khách hàng. Điều này đòi hỏi người bán hàng phải thật sự tôn trọng khách hàng, lịch sự, ân cần và chu đáo.
Sau khi bán hàng, phải có các dịch vụ như bao bì và giao hàng hóa đến tận tay người người mua, các dịch vụ bảo hành, sửa chữa hàng hoá...Những dịch vụ này tạo sự tin tưởng, uy tín của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng. Sau nữa, phương thức phục vụ trên sẽ phát huy tác dụng khi được đảm bảo các yêu cầu sau: các dịch vụ phải nhanh, chính xác...Phương thức thanh toán phải linh hoạt, đa dạng bao gồm các loại như: thanh toán một lần, thanh toán chậm (bán chịu), bán trả góp, bán có thưởng, thanh toán linh hoạt khi trả bằng ngoại tệ...
*Thứ sáu, tính độc đáo của sản phẩm .
Mọi sản phẩm khi xuất hiện trên thị trường đều mang một chu kỳ sống nhất định, đặc biệt “vòng đời” của nó sẽ rút ngắn khi xuất hiện sự cạnh tranh. Để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm , các doanh nghiệp dùng nhiều biện pháp trong đó có biện pháp là thường xuyên cải tiến mọi mặt sản phẩm , tạo ra nét độc đáo riêng, liên tiếp tung ra thị trường những sản phẩm thay thế sản phẩm cũ. Trong điều kiện doanh nghiệp chưa đủ sức tạo ra tính độc đáo của sản phẩm mới, thì có thể sử dụng nhãn hiệu của một sản phẩm đang được uy tín trên thi trường thông qua hình thức liên doanh. Sự thay đổi thường xuyên về mẫu mã, nhãn hiệu sản phẩm cũng như không ngừng nâng cao chất lượng, tính năng hàng hoá sẽ tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp hiện nay.
*Thứ bảy, chữ tín.
Chữ tín là công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp nhằm giành giật khách hàng về phía mình, đặc biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp đồng, thanh toán như: quy ước về giá cả, số lượng, kích cỡ, mẫu mã bằng văn bản hoặc bằng miệng, hay việc thanh toán với các hình thức như bán trả góp, bán chịu, bán gối đầu...Những hành vi này sẽ thực hiện được tốt hơn khi giữa doanh nghiệp và khách hàng có lòng tin với nhau. Do vậy, chữ tín trở thành công cụ sắc bén trong cạnh tranh, giúp cho quá trình buôn bán diễn ra nhanh chóng và tiện lợi. Mặt khác, công cụ này còn tạo cơ hộicho nhiều người ít vốn có điều kiện tham gia kinh doanh, do đó mở rộng thị phần hàng hoá..., tạo sức mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp. Ưu điểm đó giải thích tại sao trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường linh hoạt hơn, có nhiều bạn hàng hơn so với doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, sử dụng công cụ này đòi hỏi các chủ thể cạnh tranh phải có bản lĩnh. Bởi vì, có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh như tình trạng “chụp giật”, đối tác làm ăn có ý đồ đen tối.
*Thứ tám, sự mạo hiểm, rủi ro.
Trong kinh doanh, lợi nhuận của doanh nghiệp thường tỷ lệ thuận với sự mạo hiểm, rủi ro trong kinh doanh. Các chủ thể kinh doanh có khuynh hướng đầu tư kinh doanh (kể cả đầu tư nghiên cứu khoa học ) vào những mặt hàng mới, những lĩnh vực mới mà rủi ro ở đó thường cao. Đây cũng là khuynh hướng khách quan, vì nó có hy vọng thu được lợi nhuận cao trong tương lai. Mặt khác, nó giảm được áp lực từ phía các đối thủ cạnh tranh hiện tại. Sự mạo hiểm chấp nhận rủi ro nhằm thu được lợi nhuận lớn bằng cách đi đầu trong kinh doanh là công cụ cạnh tranh cực kỳ hiệu quả nhưng cũng cực kỳ nguy hiểm trong quá trình cạnh tranh. Việc sử dụng hiệu quả công cụ này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tài năng và bản lĩnh.
III. Những nhân tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của các ngành
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được phân theo nhiều cách. Theo Hội nghị liên hợp Quốc tế về thương mại và phát triển (UNCAD) thì các yếu tố đó có thể là công nghệ, nguồn nhân lực, vốn, chính sách thương mại, các đối thủ cạnh tranh mới. Còn đối với Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) lại đưa ra các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh là sự mở cửa của nền kinh tế, vai trò của nhà nước, khả năng tài chính, cơ sở hạ tầng, công nghệ, quản lý, lao động, thể chế.
Micheal Porter lại đề xuất cách khác để nói về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các ngành. Đó là: Các điều kiện về yếu tố đầu vào (nhân tố sản xuất ), các điều kiện về cầu, các ngành liên quan và các ngành hỗ trợ, chiến lược, cấu trúc thị trường và mức độ cạnh tranh. Ngoài các yếu tố nói trên, thời cơ và đặc biệt vai trò củ1 nhà nước được xem như những điều kiện tổng hợp thúc đẩy hoặc hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
1- Những nhân tố sản xuất
Yếu tố sản xuất là các yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất như lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn, cơ sở hạ tầng.
Các yếu tố sản xuất là đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh. Hệ thống các yếu tố sản xuất bao gồm các yếu tố sản xuất cơ bản như khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý và các yếu tố yếu tố sản xuất mới gồm cơ sở hạ tầng, thông tin, trình lao động, khả năng nghiên cứu phát triển, bí quyết công nghệ.
Bất cứ hãng sản xuất nào cũng được đặt trong một môi trường nhất định với các yếu tố cơ bản nhất định. Việc xác định để đặt hãng sản xuất của mình trong các yếu tố đó sao cho phù hợp rất có ý nghĩa, đặc biệt những ngành phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, chi phí vận chuyển cao như ngành sản xuất cà phê...
Điều kiện khí hậu có thể ảnh hưởng tới quá trình sinh học của nhiều loại sản phẩm đặc biệt sản xuất chế biến các loại sản phẩm từ nông nghiệp. Nếu hãng đặt ở nơi có khí hậu phù hợp thì sẽ có năng suất cao hơn nhiều so với nơi không phù hợp khí hậu. Bởi khí hậu phù hợp sẽ đỡ bị hỏng đi rất nhiều.
Còn điều kiện tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý nếu hãng đặt tại nơi sẵn có tài nguyên, lại gần nơi có nhu cầu tiêu thụ sẽ giúp hãng giảm chi phí vận chuyển đi rất nhiều, trong khi người ta ước tính chi phí vận chuyển trong giá thành sản phẩm chiếm từ 30% đến 80%.
Điều kiện khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý nếu được thuận lợi sẽ giúp cho hãng sản xuất giảm chi phí đi rất nhiều, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của hãng nhờ có giá thành sản phẩm đi rất nhiều. Song việc lựa chọn địa điểm không đơn giản, rất ít khi mà có được một cách trọn vẹn.
Yếu tố sản xuất cơ bản quyết định rất lớn đến khả năng cạnh tranh của hãng song yếu tố sản xuất mới còn quan trọng hơn trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh để nâng cao năng lực cạnh tranh. Không giống như yếu tố sản xuất cơ bản, các yếu tố sản xuất mới là kết quả của sự đầu tư của chính phủ, các công ty và các cá nhân.
Những yếu tố sản xuất cơ bản mọi công ty đều có thể sở hữu và do đó không xây dựng lợi thế cạnh tranh lâu dài được. Tuy nhiên những yếu tố sản xuất mới cần phải được đầu tư và duy trì mạnh mẽ. Chúng khó có thể sao chép được, chính điều này tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Cơ sơ hạ tầng có phát triển tạo ra một điều kiện cực kỳ thuận lợi cho các hãng, nhất là trong lĩnh vực vận chuyển giúp hãng có thể giảm được chi phí sản xuất đi rất nhiều. Điều kiện nay giúp khắc phục phần nào của yếu tố sản xuất cơ bản.
Nguồn lực khan hiếm thường giúp các hãng sản xuất có năng lực cạnh tranh hơn. Sự giàu mạnh về nguồn lực sẽ dẫn đến lãng phí và sự khan hiếm phát sinh tinh thần sáng tạo. Buộc những ngành, quốc gia này phải đổi mới để vượt qua trở ngại do khan hiếm nguồn lực.
Chính phủ với các khoản đầu tư của mình vào các lĩnh vực cơ bản như giáo dục, nâng cao trình độ dân trí, khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển, nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo sẽ có thể cải thiện được thực trạng không thuận lợi của yếu tố sản xuất mới.
Việc có cơ sở hạ tầng phát triển giúp hãng giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh, có điều kiện thuận lợi để phục vụ được nhiều khách hàng trên toàn đất nước và cả quốc tế. Trước hết, hãng phải tính sản phẩm làm ra bán cho khách hàng có đạt yêu cầu của khách hay không, điều đó còn phụ thuộc vào trình độ lao động. Đội ngũ lao động có tay nghề cao mới có thể tạo ra sản phẩm đạt yêu cầu với năng suất cao, có như thế sản phẩm của hãng mới bán được rộng rãi với khối lượng lớn, khả năng cạnh tranh hàng hoá mới cao, từ đó mới thu được lợi nhuận tối đa.
Để tăng hơn nữa khả năng cạnh tranh của mình thì hãng cần quan tâm tới vấn đề áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ. Hãng cần thu hút “chất xám” về cho mình, đầu tư nghiên cứu và phát triển tạo ra những bí quyết công nghệ để có được những sản phẩm ưu việt, hiện đại, mẫu mã đẹp với chất lượng cao đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng.
Qua phân tích trên ta nhận thấy các yếu tố sản xuất cơ bản tạo ra những lợi thế ban đầu và kết quả của nó là cung cấp khả năng đầu tư để mở rộng và phát triển các yếu tố sản xuất mới và ngược lại sự hạn chế về các yếu tố sản xuất cơ bản cũng có thể tạo ra áp lực để phát triển các yếu tố sản xuất mới. Đây là mối quan hệ phức tạp giữa các yếu tố sản xuất cơ bản và các yếu tố sản xuất mới. Việc cân nhắc thiên về yếu tố nào hơn là vấn đề không phải dễ dàng và tất yếu phải có bởi không phải tất cả mọi cái đều tuyệt đối. Cả hai yếu tố đó đều ảnh hưởng quan trọng quyết định đến năng lực cạnh tranh của hãng. Hãng muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thì trước hết hãng cần phải tạo ra được lợi thế về các yếu tố đó, những yếu tố trực tiếp tác động đến năng lực cạnh tranh của hãng.
2. Điều kiện của cầu
Các hãng trong một ngành còn phải cạnh tranh với các ngành sản xuất các sản phẩm thay thế. Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt ngưỡng tối đa cho mức giá mà các hãng trong ngành có thể kinh doanh có lãi. Khả năng lựa chọn về giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp dẫn thì ngưỡng chặn trên đối với lợi nhuận của ngành càng vững chắc hơn. Chính vì lý do đó, bất kỳ lúc nào khách hàng cũng có thể mua sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trong ngành và cả những sản phẩm thay thế nếu sản phẩm của công ty không đáp ứng yêu cầu của khách hàng hoặc chưa thoả mãn nhu cầu của họ.
Người mua tranh đua với ngành bằng cách bắt ép giá giảm xuống, mặc cả để có chất lượng tốt hơn và được phục vụ nhiều hơn. Hơn nữa, họ còn làm cho các đối thủ cạnh tranh chống lại nhau, tất cả đều làm tổn hao mức lợi nhuận ngành, làm khả năng cạnh tranh bị ảnh hưởng.
Thị trường nội địa khó tính và tinh tế sẽ là một nhân tố quan trọng tạo nên năng lực cạnh tranh của hãng. Những doanh nghiệp nào tồn tại trên những thị trường này sẽ có khả năng sản xuất và bán được những mặt hàng cao cấp và việc tiếp xúc với những khách hàng khó tính giúp cho doanh nghiệp hiểu biết tốt hơn nhu cầu và sở thích người tiêu dùng. Nếu giá trị riêng biệt của hàng nội địa được các thị trường ngoài nước chấp nhận, các doanh nghiệp trong nước sẽ có tính cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Tuy nhiên, hãng sản xuất sản phẩm để bán cho khách hàng, phải coi khách hàng là “thượng đế”, cần đáp ứng tốt nhu cầu của họ thì mới thu được nhiều lợi nhuận. Nhu cầu đóng vai trò quan trọng để tạo ra động lực để nâng cao khả năng cạnh tranh. Vì vậy, đặc tính của cầu là đặc biệt quan trọng trong việc hình thành các đặc tính sản phẩm và tạo ra những áp lực để phát triển sản phẩm mới hoặc cải tiến chất lượng sản phẩm mới. Mục đích của các hãng kinh doanh là thu được lợi nhuận qua việc phục vụ, đáp ứng nhu cầu khách hàng, chính vì thế, họ phải thoả mãn nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất nếu có thể. Nói như vậy có nghĩa là nếu như nhu cầu ở trình độ cao thì sẽ tạo áp lực buộc các công ty phải cải tiến lại mình, tiêu chuẩn hoá sản phẩm , tạo ra sản phẩm mới ngày càng đáp ứng tốt hơn hoặc tốt nhất nhu cầu mong muốn của khách hàng. Thông thường, một ngành có thể thu được lợi thế cạnh tranh hay có được năng lực cạnh tranh cao nếu cầu thị trường ở trình độ cao và phức tạp.
Hầu hết các ngành bán hàng không chỉ cho một loại khách hàng mà là cho nhiều loại khách hàng, thế nhưng rất ít khi nhóm khách hàng lại đồng nhất. Khách hàng tiêu dùng sản phẩm có thể khác nhau khá lớn về khối lượng mua, về thu nhập, về trình độ giáo dục và về nhiều tiêu thức khác.
Khách hàng khác nhau có thể đòi hỏi khác nhau về mức độ dịch vụ, chất lượng và độ bền sản phẩm, thông tin cần thiết trong việc chuẩn bị bán hàng...Nói chung là khác nhau về nhu cầu mua hàng. Những nhu cầu khác nhau là nguyên nhân tại sao khách hàng có những lựa chọn mua của hãng sản xuất khác nhau. Do sự tăng trưởng khối lượng hàng mua của mỗi khách hàng một khác hay nói cách khác đó là khách hàng sẽ mua tiếp với khối lượng sản phẩm lớn nữa hay không?
Do nhiều nguyên nhân mà chi phí cho việc phục vụ những khách hàng riêng biệt sẽ khác nhau, thường những khách hàng mua với khối lượng ít thì đắt hơn so với khách hàng có khối lượng mua nhiều do giảm được chi phí vận chuyển.
Chính tính hỗn hợp này việc lựa chọn những khách hàng mục tiêu rất quan trọng, hãng nên bán cho khách hàng thuận lợi nhất có thể. Hãng có khả năng tới đâu, có thể đáp ứng nhu cầu của nhóm khách hàng nào. Sự lựa chọn khách hàng, xem xét về cầu, có tác động mạnh tới khả năng cạnh tranh, tới tỷ lệ tăng trưởng của hãng. Có xem xét đúng năng lực của mình, lựa chọn đúng nhóm khách hàng mục tiêu thì mới phát huy được năng lực của hãng, tăng được khả năng cạnh tranh của hãng. Sự ăn khớp đó cho phép hãng đạt được mức khác biệt hoá sản phẩm cao nhất so với các đối thủ cạnh tranh trước con mắt của khách hàng, đồng thời nó cũng làm giảm đến mức tối thiểu những chi phí phục vụ khách hàng đó so với các đối thủ cạnh tranh. Đáp ứng được nhu cầu mong muốn khách hàng một cách tốt nhất, thu hút được khách hàng mua sản phẩm của mình, tạo ra uy tín cho hãng, củng cố lòng tin trong khách hàng về hãng để các lần mua tiếp theo khách hàng sẽ mua sản phẩm của hãng chứ không phải của đối thủ cạnh tranh.
3. Các ngành liên quan và hỗ trợ
Bất kỳ một đối tượng, sự việc nào tồn tại, phát triển cũng phụ thuộc một cách khách quan vào những đối tượng, sự việc khác.
Việc phát triển một ngành sản xuất cũng vậy, năng lực cạnh tranh của nó phụ thuộc rất lớn vào sự hiện diện của các ngành liên quan và hỗ trợ.
Ngành nào cũng thế, khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều được đặt trong điều kiện sự phát triển của các ngành liên quan và hỗ trợ nhất định. Khách quan mà nói, không có ngành nào phát triển một cách độc lập, riêng biệt, không liên quan tới một ngành nào khác.
Những ngành sản xuất thuộc lĩnh vực nông nghiệp không phải chỉ phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên mà còn phụ thuộc vào các ngành sản xuất vật chất khác như ngành sản xuất hoá học, thuốc trừ sâu...
Những ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ cũng phụ thuộc vào các ngành như: sự phát triển của trình độ dân trí( tức ngành giáo dục ), sự phát triển của cơ sở hạ tầng, của phương tiện thông tin đại chúng...
Còn những ngành thuộc lĩnh vực cô._.ng nghiệp thì còn phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các ngành như: nguồn nguồn nguyên, nhiên liệu, công nghiệp chế tạo máy móc...
Những ngành liên quan và hỗ trợ này có phát triển thuận lợi thì sự phát triển của hãng cũng thuận lợi và khả năng cạnh tranh của hãng mới cao. Ngược lại, nếu những ngành liên quan và hỗ trợ sản xuất của hãng kém phát triển thì hãng cũng bị ảnh hưởng lớn, khả năng cạnh tranh sẽ bị giảm nhiều.
Như vậy sự phát triển của một ngành còn bị tác động của rất nhiều ngành khác có liên quan, giữa các ngành có sự liên quan tới nhau, sản phẩm của ngành này là yếu tố đầu vào của ngành khác.
Để sản xuất với chi phí thấp mà hiệu quả, năng suất lao động lại cao, mẫu mã hấp dẫn, phong phú mà giá lại rẻ ngoài việc tạo điều kiện thuận lợi về các yếu tố sản xuất thì còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ tích cực của các ngành liên quan. Có như vậy mới nâng cao được khả năng cạnh tranh hàng hoá của hãng.
4.Cấu trúc thị trường, mức độ cạnh tranh, chiến lược của hãng và của đối thủ cạnh tranh
Môi trường cạnh tranh thúc đẩy sáng tạo, nâng cao khả năng cạnh tranh. Cạnh tranh gay gắt trên thị trường trong nước sẽ tạo ra những khách hàng tinh tế hơn, những người trông mong sự đổi mới và sáng tạo của doanh nghiệp.
Những đối thủ mới của ngành mang đến năng lực sản xuất mới, sự mong muốn chiếm lĩnh một thị phần nào đó và thường là những nguồn lực to lớn. Giá bán có thể bị kéo xuống hoặc chi phí của các hãng đi trước có thể bị tăng lên và kết quả là làm giảm mức lợi nhuận. Các công ty đa dạng hoá hoạt động của mình thông qua việc xâm nhập vào một ngành từ những thị trường khác thường sử dụng các nguồn lực của họ để tạo ra một cuộc cải tổ, sự xâm nhập vào một ngành với dự định xây dựng một vị trí trên thị trường kiểu đó được coi như một sự nhập cuộc của đối thủ mới mặc dù không có thực thể hoàn toàn mới nào được tạo ra. Sự nhập cuộc đó cần được xem xét dự báo trước bởi nó có ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của hãng về lâu dài.
Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ đang tồn tại sử dụng các chiến thuật như cạnh tranh về giá, các cuộc chiến về quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và tăng cường phục vụ khách hàng hoặc bảo hành. Cuộc tranh đua xảy ra bởi vì một hoặc nhiều đối thủ cảm thấy bị chèn ép hoặc lấy đó làm cơ hội để cải thiện vị trí. Trong đa số các ngành những nước đi của một hãng có những hiệu ứng rõ ràng đối với các đối thủ của nó và như thế có thể kích thích sự trả đũa hoặc những cố gắng chống trả lại có nghĩa là “ các hãng phụ thuộc lẫn nhau” . Mô hình hành động kiểu này có thể có hoặc không cho phép các hãng hoạt động một cách chủ động và toàn ngành, xét một cách toàn thể sẽ tôt lên. Nếu các nước đi và phản hồi đó cứ liên tục leo thang thì tất cả các hãng trong ngành đều giảm năng lực cạnh tranh, phải chịu tổn thất và yếu kém hơn trước.
Các hãng liên tục chiến đấu đối đầu trong cuộc cạnh tranh. Họ có thể mất một thời gian vất vả để thăm dò chính xác ý định của nhau và để đi đến “luật của cuộc chơi” cho toàn ngành. Một sự lựa chọn chiến lược đúng đối với đối thủ này có thể lại là sai đối với đối thủ khác.
Một khi các lực lượng ảnh hưởng tới cuộc cạnh tranh của ngành và các nguyên nhân sâu xa của chúng đã được dự báo thì nhiệm vụ của hãng là phải xây dựng điểm mạnh, yếu của mình xét trong mối tương quan với ngành đặc biệt là thế đứng của hãng. Hãng đứng ở đâu để chống chọi cuộc cạnh tranh từ phía các đối thủ đã chắc chân trong cuộc? Một chiến lược cạnh tranh hiệu quả sẽ dùng phương sách tấn công hoặc phòng thủ nhằm tạo một vị trí có thể bảo toàn được chống lại lực lượng cạnh tranh.
Hãng phải chấp nhận cấu trúc ngành như thực tế đang tồn tại và cố gắng sao cho những điểm mạnh, điểm yếu của hãng phải phù hợp với cấu trúc đó và tìm ra chiến lược cho mình trên cơ sở xem xét chiến lược của đối thủ cạnh tranh. Chiến lược ở đây được hiểu là việc xây dựng một hệ thống phòng thủ chống lại các lực lượng cạnh tranh hoặc tìm kiếm vị trí trong ngành mà tại đó các lực lượng cạnh tranh là yếu nhất. Một chiến lược đúng đắn mới phát huy năng lực công ty.
Sự hiểu biết về năng lực của hãng và những căn nguyên của các lực lượng cạnh tranh sẽ chỉ rõ xem điểm nào, chỗ nào hãng nên đối đầu với cuộc cạnh tranh và chỗ nào phải né tránh nó. Có thế mới nâng cao năng lực cạnh tranh. Chiến lược thị trường vốn nội địa ảnh hưởng đến chiến lược của doanh nghiệp. Nơi có tầm nhìn ngắn hạn về thị trường vốn thường có tính cạnh tranh cao hơn đối với ngành sử dụng đầu ngắn hạn như máy tính, còn những nơi có tâm nhìn dài hạn có tính cạnh tranh cao hơn trong lĩnh vực đầu tư dài hạn như sản xuất dược phẩm. Vídụ nếu hãng xuất phát từ lĩnh vực sản xuất hoặc kỹ thuật thì hãng phải tập trung vào các quy trình chế tạo hoặc thiết kế sản phẩm (hãng A), còn nếu hãng đi lên từ lĩnh vực tài chính thì chiến lược của hãng thường thiếu sự tập trung vào các vấn đề kỹ thuật mà tập trung quá mức vào vấn đề tài chính với các chỉ tiêu như lợi tức ngắn hạn( hãng B). Điều này dẫn tới hãng B bị mất đi lợi thế cạnh tranh ở một số ngành đòi hỏi kỹ thuật cao như công nghiệp chế tạo ô tô. Trong trường hợp này hãng B phải nhận rõ về mình không nên cố tình cạnh tranh với hãng A những sản phẩm có tính kỹ thuật cao mà nên tìm sản phẩm đòi hỏi có nguồn tài chính lớn để cạnh tranh.
Sự hiện diện của bốn nhóm yếu tố này sẽ có tác dụng tích cực trong việc tạo ra khả năng cạnh tranh cho một ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá. Lý thuyết cũng đã chỉ ra rằng chính phủ có thể ảnh hưởng đến bốn nhóm yếu tố này. Ví dụ, các yếu tố sản xuất mới có thể được tạo ra và phát triển bằng các chính sách trợ cấp, tín dụng và giáo dục. Nhu cầu thị trường nội địa cũng có thể bị ảnh hưởng do việc chính phủ đưa ra các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, hoặc các quy định khác ảnh hưởng tới hành vi và nhu cầu của khách hàng. Chính phủ có thể ảnh hưởng tới ngành công nghiệp hỗ trợ hoặc liên quan thông qua các quy định về cạnh tranh và thuế. Theo lý thuyết này thì doanh nghiệp muốn phát triển thì tập trung sản xuất các sản phẩm mà bốn yếu tố trên là thuận lợi nhất.
Chương II:
Đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may nhà nước trong giai đoạn hiện nay
I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam
1. Các nhân tố sản xuất và các ngành hỗ trợ liên quan
Trong sản xuất kinh doanh, nguyên liệu đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng quyết định chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất. Tại Việt Nam ngành dệt may sử dụng nguyên liệu chính là bông xơ, xơ sợi tổng hợp, len, đay, tơ tằm...trong đó quan trọng nhất là bông xơ và xơ sợi tổng hợp.
Hiện nay Việt Nam mới sản xuất được các loại xơ dệt chính là bông và tơ tằm. Chúng ta có điều kiện thuận lợi về trồng bông và có khả năng khai thác được 25.000 đến 30.000 hecta diện tích trồng bông cung cấp cho ngành dệt khoảng 10.000 tấn/năm. Diện tích trồng dâu trên cả nước hiện đạt khoảng 38.000 hecta, cho 1.500 tấn tơ kén.
Thực tế sản phẩm dệt tơ tằm trong nước không nhiều, chất lượng chưa cao, còn biến động lớn về cả chất lượng lẫn sản phẩm. Nguồn xơ sợi tổng hợp sử dụng hiện tại vẫn còn phải nhập 100%, hàng năm vẫn nhập khoảng 25.000 tấn xơ PE và 6.000 tấn sợi PETEX .
Những năm gần đây, sản xuất bông trong nước được chú ý quan tâm hơn nhưng cũng mới chỉ đáp ứng được khoảng3% đến 5% nhu cầu và bông vẫn chưa có vị trí xứng đáng trong những cây công nghiệp quan trọng ở nưóc ta.
Như vậy tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho ngành dệt may của Việt Nam khá thuận lợi về cả khí hậu, đất đai lại nhiều lao động thuộc ngành nông nghiệp song lại chưa đầu tư quan tâm đúng mức.Từ đó dẫn đến ngành dệt may phải nhập nhiều nguyên liệu từ nước ngoài làm cho ngành dệt may bị phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nước ngoài, giá thành sản phẩm lại có xu hướng tăng và từ đó khả năng cạnh tranh của dệt may Việt Nam bị giảm xuống.
Như đã biết, ngành dệt may của Việt Nam có lịch sử phát triển kéo dài hơn một thế kỷ nay bắt đầu từ nghề thêu dệt lụa. Đầu thế kỷ XX thực dân Pháp lập nhà máy dệt Nam Định song sản phẩm của nó lại dành cho xuất khẩu chứ không phải dành cho dệt may Việt Nam, dệt vải bằng nguyên liệu bông cho tiêu dùng nội địa. Hầu hết các doanh nghiệp dệt may đều có trang thiết bị lắp đặt từ thời đó và cho đến nay vẫn được sử dụng, trở nên quá lỗi thời, không đáp ứng được nhu cầu của thị trường về chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Tuy các doanh nghiệp cũng đã trang bị lại một số thiết bị, đổi mới công nghệ nhưng chỉ với quy mô nhỏ, lẻ tẻ không nằm trong một chiến lược chung toàn ngành. Chính vì vậy, sản phẩm đạt chất lượng không cao.
Về trình độ lao động, việc đầu tư để tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý đối với doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng, mà thực tế hiện nay chưa có trường nào có chuyên ngành đào tạo công nhân kỹ thuật, cán bộ quản lý cho ngành dệt may, chủ yếu trưởng thành trong quá trình làm việc.
Ngành dệt may sử dụng nhiều máy móc, song ngành công nghiệp sản xuất máy móc phục vụ cho nó lại chưa phát triển. Thiết bị máy móc còn lạc hậu so với thế giới, máy móc của ta lạc hậu so với các nước ASEAN từ 10 đến 20 năm phát triển. Các doanh nghiệp phải nhập máy móc từ nước ngoài. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
2. Điều kiện về cầu và các đối thủ cạnh tranh.
Với dân số trên 6 tỷ người, thế giới là một thị trường tiêu thụ rất nhiều
sản phẩm dệt may. Cùng với thu nhập của thế giới tăng lên, nhu cầu ăn mặc, mua sắm cũng tăng lên. Ngoài ra, hoạt động thời trang diễn ra mang tính chất xuyên quốc gia, sẽ là cơ hội lớn cho ngành dệt may phát triển rất mạnh trong thời gian tới. Điều kiện thời tiết, khí hậu mỗi nước một khác nhau, các doanh nghiệp dệt may có thể phát triển loại sản phẩm phù hợp khả năng của mình hoặc cung cấp những sản phẩm khác nhau thích ứng với tính mùa vụ trong năm. Đời sống khá lên, con người lại có xu hướng quay về với thiên nhiên. Do vậy, những sản phẩm dệt may có xuất xứ từ thiên nhiên như tơ tằm, lanh, thổ cẩm...sẽ là những sản phẩm được người tiêu dùng thế giới rất ưa chuộng mà Việt Nam ta lại có lợi thế về những mặt này.
Không nói đâu xa, Việt Nam có dân số gần 80 triệu người cũng đã là một thị trường tiềm năng cho tiêu thụ các loại hàng hoá nói chung và hàng hoá dệt may nói riêng. Trong tương lai, đời sống của tầng lớp dân cư ngày càng được cải thiện thì nhu cầu sử dụng hàng hoá dệt may ngày càng tăng thúc đẩy ngành dệt may ngày càng phát triển, mở rộng sản xuất.
Không những nhu cầu ăn mặc mua sắm tăng lên mà những đòi hỏi chất lượng, mẫu mã của sản phẩm đối với hàng dệt may ngày càng tăng. Người ta ưa sản phẩm của hãng nào chất lượng tốt, mẫu mã phong phú mà giá lại rẻ.
Như vậy, thị trường tiêu thụ của ngành dệt may rộng lớn, đâu đâu cũng có nhu cầu. Song với sự phát triển ngày càng lên cao của nhận thức con người, người ta hướng tới sản phẩm chất lượng, mẫu mã ngày một cao và phong phú hơn. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp dệt may ngày một nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Doanh nghiệp Việt Nam của ta ngoài việc cạnh tranh với nhau trên thị trường thì còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp dệt may nước ngoài. Họ có ưu thế là giá thành không cao lắm đặc biệt sau năm 1997 (khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực do sự mất giá của đồng tiền bản địa ) mà sản phẩm dệt may Việt Nam trở nên đắt hơn, họ tự túc nguyên liệu và phụ kiện chất lượng cao nên càng giảm giá thành sản phẩm , hơn nữa nhãn hiệu của họ quen thuộc với người tiêu dùng và có uy tín.
3. Những tác động của nhà nước
Ngày 14/11/1999, Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) được thành lập nhằm bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp dệt may, tránh tình trạng dẫm chân lên nhau, chèn ép nhau, tự mình làm hại mình như trước đây. Ngoài ra VITAS còn hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin, đầu tư, chuyển giao công nghệ, về thị trường và đào tạo nguồn nhân lực...
Ngành dệt may Việt Nam phát triển trên diện rộng và thuộc nhiều thành phần kinh tế. Song chưa có sự cân xứng giữa dệt và may:
Trong ngành dệt vai trò chủ đạo thuộc về xí nghiệp quốc doanh. Cụ thể:
Doanh nghiệp quốc doanh chiếm 60% tổng sản lượng toàn ngành
Doanh nghiệp tư nhân chiếm 25% tổng sản lượng toàn ngành
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15% tổng sản lượng toàn ngành
Trong ngành dệt may doanh nghiệp tư nhân lại có vị trí quan trọng chiếm 48% tổng sản lượng toàn ngành, tiếp theo là doanh nghiệp nhà nước chiếm 36%, cuối cùng là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài là 15%.
Nhìn chung, ở ngành dệt may đã có những chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng hoá các thành phần kinh tế, vai trò của các loại xí nghiệp quốc doanh ngày một tăng và quan trọng hơn, đặc biệt là loại hình công ty TNHH và vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời với điều đó là sự động viên và tạo điều kiện để có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong ngành dệt may Việt Nam , nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực cho ngành quan trọng này.
Trong thời kỳ đổi mới vừa qua nhà nước ta đã có nhiều chính sách kinh tế tài chính có tác động tích cực đến ngành dệt may như chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần; cho phép các doanh nghiệp được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp; luật đầu tư nước ngoài (ra đời tháng 12/1987) tạo điều kiện cho nganh thu hút số vốn đầu tư lớn...
Sự ra đời của tổng công ty dệt may Việt Nam mở rộng kịp thời thị trường dệt may sang Nhật Bản; Quyết định số 55/2001 /QĐ Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển và một số cơ chế chính sách hỗ trợ cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010. Theo đó, ngành dệt may sẽ được tạo điều kiện phát triển trở thành ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất nhập khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước.
So với nhiều ngành khác, vốn đầu tư để đổi mới thiết bị trong ngành dệt may nói chung tăng khá nhanh. Hiện nay vốn đầu tư của Tổng công ty dệt Việt Nam (VINATEX) 4.000 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên so với yêu cầu thì còn rất thấp. Theo tính toán của các nhà kinh tế thì đầu tư cho ngành dệt may Việt Nam phải ở mức từ 2 đến 4 tỷ USD mới đạt mục tiêu mà chính phủ đề ra.
Nhờ có vốn các doanh nghiệp có thể trang bị thêm cơ sở vật chất, đầu tư theo chiều sâu, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm . Tuy nhiên các doanh nghiệp nhà nước địa phương lại bị giảm sút về vốn đầu tư, còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có số vốn nhỏ.
II.Thực trạng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may nhà nước.
Như đã biết, ngành dệt may của Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời, xét toàn ngành nói chung, ngành dệt may đã đạt được những thành tựu đáng kể nhờ có những thuận lợi từ phía tự nhiên cũng như sự lỗ lực cố gắng của các doanh nghiệp, cộng với những điều kiện thuận lợi mà nhà nước tạo ra. Song bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế cùng những khó khăn cần được giải quyết.
1.Những thành tựu và những thuận lợi về khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may nhà nước Việt Nam
Chế độ bao cấp được xoá bỏ nhưng chính phủ vẫn thi hành chính sách cấp vốn và hỗ trợ đầu tư từ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung vào những dự án công trình đem lại hiệu quả đối với nền kinh tế. Doanh nghiệp dệt may của nhà nước nằm trong danh mục được ưu tiên hỗ trợ đầu tư của nhà nước.
Bên cạnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp
dệt may còn được ưu tiên trong việc vay vốn tín dụng đầu tư của nhà nước, kể cả nguồn vốn ODA. Nhờ có vốn lớn, các doanh nghiệp có thể trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tiến kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư theo chiều sâu.
Ngành dệt may thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, vươn tới xuất khẩu. Trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược này nhà nước thi hành chính sách bảo hộ thông qua các biện pháp như thuế...với mục tiêu này thuế nhập khẩu đối với ngành dệt may rất khác nhau nhằm khuyến khích sản xuất trong nước.
Hàng dệt may của Việt Nam khá tốt và rẻ hơn so với hàng nước ngoài. Ưu điểm này nằm trong bản chất ngành và thế so sánh giữa tiền lương nhân công Việt Nam với tiền lương nhân công nước ngoài. Ngành dệt may cần rất nhiều nhân công, mỗi nhân công dệt chỉ coi được một số máy dệt hạn chế, các nhân công may mặc cũng chỉ may được một số rất ít sản phẩm mỗi ngày. Giá nhân công rẻ là khâu quyết định rất lớn đến khả năng cạnh tranh của ngành dệt may:
Tại các nước công nghiệp phát triển giá nhân công 10 USD/giờ
Tại các nước công nghiệp mới giá nhân công 3 –5 USD/giờ
Tại Việt Nam giá nhân công là 0,14-0,42 USD/giờ
Do số cầu hàng may mặc có tính co giãn, số cầu không bao giờ tiến đến mức bão hoà.Vì mức sống càng được cải thiện thì con người càng có nhu cầu ăn mặc đẹp và đúng thời trang hơn.
Việt Nam có khí hậu phù hợp với việc trồng bông và có diện tích trồng bông, dâu lớn, hơn nữa lao động thuộc ngành nông nghiệp của ta lại rất lớn. Điều này thể hiện rằng chúng ta có khả năng đáp ứng nguyên liệu cho dệt may trong nước.
Chính nhờ những thuận lợi trên mà ngành dệt may đã thu được thành tựu đáng mừng. Thể hiện:
Ngành dệt may Việt Nam với lợi thế nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, có thị trường tiêu thụ và được chính phủ quan tâm, đã phát triển khá nhanh và đã tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường nội địa. Ngành dệt may đang giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước, chiếm 24% lao động trong khu vực công nghiệp (khoảng 1,6 triệu lao động); Góp 14,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; Góp 31% GDP của công nghiệp chế biến.
Trong 5 năm vừa qua mức độ tăng trưởng chung của hàng dệt may tăng bình quân hàng năm khoảng 11%.
Ngành dệt may không chỉ thực hiện mục tiêu đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn khai thác cả thị trường nước ngoài. Trong danh mục hàng xuất khẩu những năm gần đây hàng dệt may luôn chiếm ưu thế, kim ngạch hàng xuất khẩu hàng dệt may tăng lên nhanh chóng , tăng từ 1150 triệu USD (năm 1996) lên 1747 triệu USD (năm 1999) và tăng lên 2150 triệu USD (năm 2001), riêng 7 tháng đầu năm 2002 đã đạt 1249 triệu USD.
Một điểm nổi bật nhất của hàng dệt may Việt Nam là có đến 70% sản phẩm được xuất khẩu theo phương thức gia công.Việc xuất khẩu theo hình thức gia công tuy có kém lợi thế hơn so với xuất khẩu trực tiếp song ưu điểm của nó sử dụng nhiều lao động và đầu tư vốn không lớn.
Trong khoảng chục năm trở lại đây, gia công hàng may mặc xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may đạt được bước tiến đáng kể. Nhờ phát triển mạnh phương thức gia công hàng dệt may xuất khẩu mà vốn đầu tư cả trong và ngoài nước vào lĩnh vực đã và đang tăng mạnh. Tổng công ty dệt may trong giai đoạn 1996-1999 đầu tư khoảng 3.500 tỷ đồng, ngoài ra các đơn vị trong tổng công ty dệt may còn phối hợp với nhiều địa phương đầu tư hàng trăm tỷ đồng để xây dựng dây chuyền sản xuất.
Theo thông tin mới nhất tháng 10 năm 2002 nhiều công ty nhà nước cùng một số công ty khác đã kết hợp tổ chức luyện thi thợ giỏi, thao diễn kỹ thuật với chế độ nâng bậc hàng năm, nhờ đó mà tạo được năng suất lao động mới, chất lượng sản phẩm tăng, đồng thời tạo động lực khuyến khích đông đảo công nhân hăng hái tham gia. Đồng thời phong trào thi đua công nhân viên chức lao động đã phát huy 163 sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất với giá trị làm lợi là 1,68 tỷ đồng. Trong cuộc thi này các công tuy dệt may nhà nước như công ty dệt kim Hà Nội đã xây dựng và áp dụng thành công cùng một lúc hai hệ thống quản lý chất lượng là ISO 9000 và TQM, hay như nhà máy dệt 19-5 đã xây dựng và áp dụng các hệ thống ISO 9000, TQM và ISO-1400 cùng việc đăng ký đến năm 2003 tiến hành xây dựng hệ thống quản lý chất lượng SA 8000.
Các doanh nghiệp dệt may nhà nước đang ngày càng cố gắng góp phần vào công cuộc phát triển dệt may của toàn nền kinh tế, ngày một nâng cao khả năng cạnh tranh, không chỉ với các doanh nghiệp sản xuất hàng nội địa mà còn với cả các doanh nghiệp bán hàng nhập khẩu.
Xét trên toàn thể ngành dệt may nói chung, trong đó các doanh nghiệp dệt may nhà nước giữ vai trò then chốt, đã thu được những thành tựu đáng mừng. Xét trên toàn thể ngành dệt may nói chung, trong đó các doanh nghiệp dệt may nhà nước giữ vai trò then chốt, đã thu được những thành tựu đáng mừng.
Doanh nghiệp dệt may nhà nước, những năm vừa qua, trên cơ sở tận dụng các lợi thế sẵn có của mình, đang tham gia ngày càng sâu hơn vào lĩnh vực cạnh tranh. Tuy nhiên, không phải mọi việc đều suôn sẻ.
2. Khó khăn và những hạn chế cần khắc phục
Trong chất lượng phát triển các ngành thì ngành dệt may thuộc nhóm ngành có tính cạnh tranh cao và được ưu tiên hỗ trợ phát triển từ phía nhà nước. Và thực tế nhà nước đã thi hành một số chính sách hỗ trợ nhưng từ thực tế ngành đang gặp rất nhiều khó khăn.
Trước kia Việt Nam vốn là nước thuộc địa của Pháp, chỉ sản xuất các nông sản để bán cho Pháp và Pháp bán hàng công nghiệp của Pháp cho Việt Nam. Khi đó sản xuất công nghiệp Việt Nam rất kém phát triển thậm chí nói là ngừng phát triển, lương thực, thực phẩm không đủ ăn. Tiếp theo là 30 năm kháng chiến Việt Nam cũng không làm được gì nhiều vì phải dồn nỗ lực cho kháng chiến. Năm 1975 giành được độc lập, thống nhất đất nước thì nước ta lạc hậu hàng thế kỷ so với các nước phát triển và nhiều chục năm so với các nước láng giềng. Thêm vào đó là tình trạng cấm vận từ Mỹ. Trong thời gian từ 1975-1990 ta chỉ giao thương với các nước XHCN và sống với nền kinh tế bao cấp. Tình trạng thiếu hàng tiêu dùng rất gay gắt và các doanh nghiệp làm ra bao nhiêu hàng đều bán hết ngay lúc bấy giờ, chính vì vậy không cần đặt vấn đề chất lượng, giá thành vì hàng không có đủ bán và nếu bán thì bán theo giá quy định của nhà nước chứ không cần dựa trên giá thành của doanh nghiệp. Vả chăng đối với doanh nghiệp lời thì đóng cho nhà nước, lỗ thì nhà nước bao nên không cần chú ý tới việc hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm .
Vào cuối thập niên 90, nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự hoạt động của các thành phần kinh tế trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế đó.
Các doanh nghiệp không còn được bù lỗ và phải đứng trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, với 2 vấn đề nổi bật: một là, kỹ thuật sản xuất lạc hậu đưa đến giá thành cao trong khi hàng làm ra xấu; hai là, hàng bán không chạy và nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ. Hiện nay các nhà máy tiếp tục lạc hậu hơn so với nước ngoài, vì các doanh nghiệp không có đủ chi phí cho việc mở rộng sản xuất hay ít ra đầu tư để đổi mới.
Nguồn nguyên liệu phục vụ cho dệt may phần lớn là bông sợi. Song năng suất trồng bông Việt Nam còn thấp, nông dân chuyển diện tích trồng bông sang trồng các loại cây khác mang lại lợi ích kinh tế cao hơn. Chính vì vậy, nguồn nguyên liệu trong nước không đáp ứng cho sản xuất trong nước.
Không những vậy, giá bông trong nước cao hơn giá bông nhập khẩu, chất lượng lại xấu, không đủ tiêu chuẩn sản xuất hàng hoá chất lượng cao, tỷ lệ tỷ tiêu hao nguyên liệu bông nhiều. Và như vậy dệt may phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Vấn đề khó khăn là giá bông sợi không ổn định. Thể hiện : Chỉ trong 6 tháng năm 1995 tăng từ 1,7 USD/kg lên 2,6 USD/kg, sau rồi lại giảm còn 2,06 USD/kg. Điều này ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh về chi phí sản xuất.
Phải chịu sức ép nặng nề của việc tăng giá nguyên liệu trên thị trường trên thế giới. Mặt khác, nguồn nguyên liệu phụ thuộc nhập khẩu mà không thống nhất ở một vài đơn vị có chức năng nhập và do có nhiều đầu mối thậm chí không phải ngành dệt vẫn đứng ra nhập và phân phối bông sợi theo nhiều loại giá khác nhau, đầu cơ làm biến động giá đầu vào làm giá đầu ra không ổn định.
Trong đầu tư của nhà cho ngành dệt may hiện nay có một điều đáng lưu ý là có tình trạng đầu tư không lý, thiếu đồng bộ, nơi nhiều, nơi ít, những quy định về thời gian thu hồi vốn vay đầu tư phát triển cho ngành dệt từ7-10 năm, cho ngành may là 12-15 năm. Thực tế ở Việt Nam đầu tư vào dệt phải mất 12-15 năm, may là 10-12 năm mới thu hồi được vốn. Chưa có cơ chế chính sách cụ thể thích hợp để thu hồi vốn đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước vào ngành dệt may.
Điều này dẫn đến các doanh nghiệp nhà nước địa phương do không đủ vốn nên sử dụng hết công suất, có nơi lại thiếu vốn đầu tư mà không được đầu tư. Bên cạnh đó xu hướng chung là các doanh nghiệp nhà nước đầu tư về máy móc để sản xuất những mặt hàng quen thuộc, tiêu thu nhanh như áo sơ mi, jacket, quần áo ngủ ...mà không đầu tư vào những mặt hàng cao cấp như veston...Chính vì vậy dẫn đến dệt may không sử dụng hết bộ hàng mẫu mà bạn hàng giao cho, còn sản phẩm lại đơn điệu, tính cạnh tranh của sản phẩm rất thấp.
Vậy mà các doanh nghiệp dệt may nhà nước sản xuất chỉ một số ít kiểu hàng trong khi Các doanh nghiệp dệt may muốn cạnh tranh tốt thì mẫu mã phải phong phú, phải có hàng hoá thích hợp cho mọi lứa tuổi, khổ người từ đàn ông, đàn bà, trẻ em đến người lớn, từ công nhân áo xanh đến thuỷ thủ, sinh viên nữ sinh hoặc các em nhỏ...
Dù rằng tổ chức thiết kế mẫu mốt của các doanh nghiệp dệt may nói chung có một đội ngũ các nhà thiết kế mẫu trẻ, giầu năng lực, nhưng mẫu mã thiết kế chưa thực sự đi vào cuộc sốn, chủ yếu là trình diễn còn thời trang hàng ngày được sưu tầm từ các catalogue của nước ngoài, khâu thiết kế còn nhiều hạn chế, mẫu mã còn nghèo nàn.
Khả năng tiếp cận thị trường còn bị hạn chế, còn bị động về thị trường trong nước, những thông tin còn nắm bắt chậm. Hầu như chưa nắm bắt nhu cầu thị trường về sản phẩm
Đối với ngành may ít phải đầu tư đổi mới công nghệ mà chỉ là trang thiết bị nên ngành đòi hỏi vốn ít hơn so với ngành dệt. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay thì đầu tư ở các doanh nghiệp may nhà nước vẫn còn thấp, phần lớn có số vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng. Hơn nữa tỷ lệ chiếm dụng vốn vẫn còn cao , đây là biểu hiện thiếu lành mạnh về tài chính, nó có thể làm cho doanh nghiệp bị phá sản. Mặc dù doanh nghiệp dệt may nhà nước có thuận lợi hơn trong việc vay vốn từ khu vực tài chính chính thức xong trên thực tế không hoàn toàn như vậy. Theo kết quả điều tra các doanh nghiệp dệt may của Viện kinh tế học thì mức lãi suất trung bình cho vốn vay lưu động mà các doanh nghiệp dệt may nhà nước phải trả cao hơn mức lãi suất trần mà Ngân hàng nhà nước quy định, các doanh nghiệp dệt may nhà nước đôi khi cũng phải đi vay từ các nguồn tài chính không chính thức. Chính vì vậy mà số vốn bình quân một doanh nghiệp là rất nhỏ. Số vốn của doanh nghiệp nhà nước lại càng trở nên nhỏ bé và mỏng manh hơn khi đối chiếu giữa vốn chủ sở hữu và tình hình công nợ của doanh nghiệp. Vốn đã ít, công nợ lại nhiều, số nợ phải trả của doanh nghiệp dệt may nhà nước thường cao hơn số vốn của doanh nghiệp. Liệu có bình thường không khi số vốn thực có không bù đắp nổi số vốn âm rất khổng lồ này.(Hiện tại Tổng công ty dệt may có số nợ lớn hơn số vốn nhà nước là 2,5 lần, nợ khó đòi chiếm 30% số nợ phải thu).
Thực trạng về công nghệ, trang thiết bị của ngành dệt may mặc dù ngành đã có nỗ lực đầu tư đổi mới, song nhìn chung công nghệ trang thiết bị vẫn còn trong tình trạng lạc hậu so với các nước trong khu vực, Hầu hết công nghệ trang thiết bị sản xuất từ năm 1950, 1960, trên 70% đã hết khấu hao, thậm chí 37%trong số này ở dạng thanh lý. Điều này làm cho giá thành sản phẩm cao hơn giá nước ngoài. Chính vì vậy, trên thị trường trong nước, doanh nghiệp dệt may nhà nước ngoài việc phải cạnh tranh với các doanh nghiệp dệt may sản xuất trong nước thì phải cạnh tranh với hang hoá của các đối thủ nước ngoài tràn vào Việt Nam. Đặc biệt từ năm 2003 Việt Nam ta bỏ hạn ngạch định lượng nhập khẩu và từ ngày 1/6/2006 bỏ toàn bộ các biện pháp bảo hộ bằng phi thuế quan. Theo thống kê của VINATEX, những năm vừa qua tỷ trọng tiêu thụ nội địa trong tổng số hàng dệt may sản xuất trong nước chỉ chiếm khoảng 55-60%.Việt Nam thực thi chính sách bảo hộ đối với dệt may sản xuất trong nước song sự cạnh tranh với hàng ngoại còn rất mạnh, nhất là hàng của Trung Quốc, ngành dệt may nhập khẩu chiếm khoảng 9-10% tổng giá trị nhập khẩu của cả nước.
Điều này chứng tỏ rằng hàng dệt may Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước cả về số lượng và chất lượng. Do lạc hậu về công nghệ trang thiết bị nên chi phí về nguyên phụ liệu cao, chi phí trung gian lớn.
Đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may nhà nước không chỉ là các doanh nghiệp sản xuất trong nước mà còn cả với hàng nhập khẩu. Họ cũng có nhiều thuận lợi, như Trung Quốc vốn đã sản xuất và xuất khẩu tơ lụa từ hàng nghìn năm nay, hiện là nhà cung cấp lớn nhất về vải lụa tơ tằm trên thế giới. Trung Quốc có lợi thế giá nhân công, lại tự túc được nguyên liệu do diện tích trồng bông lớn. So với Việt Nam, giá cả lao động trong ngành dệt may thấp, hơn nữa mẫu mã sản phẩm đẹp được cải tiến liên tục nên hàng lậu Trung Quốc tràn ngập vào Việt Nam rất nhiều, làm cho hàng hoá dệt may Việt Nam nói chung và doanh nghiệp dệt may nhà nước nói riêng khó có thể cạnh tranh ngay trên sân nhà.
Việc đầu tư để tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn và năng lực quản lý cao đối với ngành dệt may là đặc biệt quan trọn. Mà trên thực tế hiện nay chưa có trường nào có chuyên môn đào tạo công nhân kỹ thuật, cán bộ quản lý cho ngành dệt may mà chủ yếu trưởng thành trong quá trình làm việc tức đào tạo tại chỗ. Hoạt động kỹ năng của người lao động không đồng đều nên dẫn đến năng suất lao động thấp.
Do nhận gia công cho nước ngoài với giá thấp nên quan hệ tiền lương với nhân công chưa được giải quyết thoả đáng. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau và chấp nhận mức giá thấp, việc này đưa đến việc ép công nhân làm việc nhiều giờ với mức lương thấp.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may nhà nước chưa cao còn thể hiện ở chỗ ngành mới được cung cấp bình quân tiêu dùng mỗi người chỉ được chưa đầy 5m2/người/năm. Mà thực ra, mức sử dụng hang dệt may theo bình quân đầu người (cho cả các nhu cầu sinh hoạt và sản xuất công nghiệp) của nước ta lớn hơn thế nhiều. Song một điều dễ giải thích là, bù lại sự thiếu hụt của sản xuất trong nước, một số lượng lớn vải được nhập khẩu bằng nhiều con đường khác nhau, trong đó có nhiều loại trong nước chưa sản xuất được.
Một thực tế khá phũ phàng là, mặc dù sản lượng vải do ta sản xuất còn ít, mới đạt 50%._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0002.doc