Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế

Lời nói đầu Quá trình mở cửa hội nhập và phát triển nền kinh tế đất nước trong khu vực và quốc tế trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nền kinh tế đã có dấu hiệu tăng trưởng và phát triển. Đời sống người dân ngày càng cải thiện và nâng cao hơn nữa. Hàng hoá Việt Nam đa dạng, phát triển theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế, mẫu mã và chất lượng hàng Việt Nam được nâng cao và không ngừng cải tiến, sánh ngang với các hàng ngoại nhập về giá cả và chất lượng, mẫu mã. Thị trường hà

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng hoá Việt Nam được mở rộng không những trong khu vực mà còn phát triển trên toàn thế giới, có chân trong các thị trường nội tiếng khó tính như: Nhật Bản, Anh, Mỹ và một số nước Đông Âu, Tây Âu. ASEAN Chính vì vậy mà việc nghiên cứu “Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế” là một hướng nghiên cứu hết sức quan trọng không những ở cấp độ vi mô (Doanh nghiệp) mà còn ở cấp độ vĩ mô giúp chúng ta hiểu về thực trạng chất lượng, mẫu mã, giá cả của hàng Việt Nam hiện nay, từ đó giúp đề ra các chính sách hỗ trợ phát triển nhằm mục đích nâng cao hơn nữa chất lượng của hàng Việt Nam, tăng khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương này đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về xuất khẩu. Để thực hiện được chủ trương của Đảng cùng với việc đẩy mạnh tiến trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta cần phải tăng cường mở rộng thị trường xuất khẩu, đây là việc làm cần thiết và cấp bách hiện nay. Do vậy việc nghiên cứu “Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế” chúng tôi tập chung vào một số nội dung sau: * Thứ nhất là: Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của hành hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế * Thứ hai là: Thực trạng của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế * Thứ ba là: Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Chương I Những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế I. Khái quát về cạnh tranh và các loại hình cạnh tranh Cạnh tranh là một vấn đề xuất hiện ngay, khi nền kinh tế chuyển từ hình thức nền kinh tế tập chung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Có thể nói cạnh tranh là một vấn đề gắn liền với nền kinh tế thị trường, với cơ chế thị trường. Chúng ta có thể hiểu cạnh tranh trên thị trường là trong đó cả người mua lẫn người bán đều không có sức mạnh thị trường. Cạnh tranh trên thị trường sẽ bao gồm nhiều hãng và không hãng nào chiếm phần quan trọng trong tổng sản lượng. Các sản phẩm đều đồng nhất, sản phẩm của một hãng hầu như không khác biệt với sản phẩm của các hãng khác. Tất cả các hãng cạnh tranh sẽ tìm cách mở rộng sản lượng cho tới khi chi phí cận biên bằng giá cả bởi vì giá cả và doanh thu cận biên là như nhau đới với các hãng này. Các trở ngại đối với việc gia nhập thị trường là không đáng kể. Nếu có thể thu được lợi nhuận kinh tế thì nhiều hãng sẽ muốn ra tham gia kinh doanh. Xu hướng mở rộng sản xuất và cung cấp trên thị trường khi có lợi nhuận cao sẽ gây ra sức ép lớn đối với giá và lợi nhuận trong các ngành cạnh tranh. Lợi nhuận kinh tế sẽ tiến tới không, khi giá giảm xuống mức chi phí bình quân tối thiểu. Khi nhìn thấy lợi nhuận, nhiều nhà kinh doanh sẽ nhảy vào cạnh tranh sự xuất hiện thêm các nhà kinh doanh mới sẽ làm tăng cung, và kết quả là đường cung dịch chuyển về bên phải, mức cân bằng mới được thiết lập, giá bán giảm xuống. Các giá đó là giá cạnh tranh được hình thành thông qua cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. * Các loại hình cạnh tranh. Có thể nói áp lực cạnh tranh của thị trường là động lực cho sự phát triển cạnh tranh sẽ dẫn đến giảm chi phí, tăng cung, giảm giá bán, cải tiến công nghệ, chất lượng sản phẩm. Người tiêu dùng sẽ được lộc trong thị trường cạnh tranh. Họ sẽ có nhiều sản phẩm hơn mức họ mong muốn với giá ngày càng giảm. Bởi vậy, việc xác lập các tiêu chí phân loại các hình thái thị trườngluôn có một ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt. Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công quyền vào đời sống kinh tế, người ta phân thị trường thành hai hình thái: Cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước. * Cạnh tranh tự do là một hình thái thị trường thoát khỏi mọi sự can thiệp của Nhà nước. Dây là một quy luật đặc thù của phương thức sản xuất tư bản thế kỷXIX đầu thế kỷ XX, khi mà giá cả tự do vận động lên xuống theo sự chi phối của quan hệ cung cầu, của các thế lực trên thị trường. Đây là thời kỳ mà tư tưởng tự do kinh tế đang thắng thế tạo điều kiện tích tụ và tập trung tư bản trên nền tảng “tự do được nuôi dưởng bởi chính tự do”. Xuất phát trên nền tảng tư tưởng ấy, học thuyết “Bàn tay vô hình” của Adam Smith đã chỉ ra rằng: trong khi chạy theo tư lợi thì có một ”Bàn tay vô hình” buộc con người kinh tế đồng thời phải thực hiện một nhiệm vụ không nằm trong dự kiến là đáp ứng lợi ích xã hội và đôi khi họ còn đáp ứng lợi ích xã hội tốt hơn ngay cả khi họ có ý định làm điều ddoá từ trước . “Bàn tay vô hình”đó chính là các quy luật kinh tế tự phát, chi phối hoạt động của con người. Do đó, việc Nhà nước can thiệp vào kinh tế sẽ làm giảm bớt sự tăng trưởng của cải và sử dụng không hợp lý tài nguyên. Nói khác đi, trong thời kỳ này Nhà nước và pháp luật là kẻ thù của cạnh tranh, của đời sống kinh tế mà K. Marx mô tả là “từ đầu đến chân đều vấy máu”, vì khi đó không có “Bàn tay hữu hình”, không có sự điều tiết nên mọi “khuyết tật”của thị trường tha hồ mà hoành hành và gây tác hại. Như vậy, nền kinh tế lúc đó không có sự kiểm soát và điều tiết cạnh tranh và vì vậy chưa thể có pháp luật cạnh tranh. * Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước là hình thái thi trường của các nền kinh tế thị trường hiện đại. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 đã chứng kiến sự sụp đổ của hình thái thị trường cạnh tranh tự do và học thuyết “Bàn tay vô hình” của Adam Smith. Trong giai đoạn này, cạnh tranh tự do đã bộc lộ những mặt trái của nó: thất nghiệp, sự phá sản hàng loạt, sự lãng phí tài nguyên.... Có thể nói, khuyết tật, mặt trái và thiếu định hướng tổng thể là căn bệnh cố hữu của quy luật giá trị . Bởi vậy, bản thân cơ chế thi trường hiểu theo nghĩa văn minh và nhân đạo, có nhu cầu được điều tiết. Trên tinh thâ f đó dã đến lúc Nhà nước không thể đứng trên và đứng ngoài đời sốnga kinh tế – xã hội. Quyền lực Nhà nước đã xuất hiện để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, để bảo vệ tự do cạnh tranh - động lực phát triển kinh tế, để thực hện mục tiêu kinh tế của bản thân Nhà nước và giai cấp thoóng trị. Điều cần nhấn mạnh là, tự do cạnh tranh trong hình thái thị trường này được bảo vệ, nuôi dưỡng và giới hạn bởi các thể chế, chính sách và pháp luật của Nhà nước. - Căn cứ và cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung trong một ngành, lĩnh vực kinh tế, người ta phân thị trường thành các hình thái: Cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo, độc quyền * Cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường, trong đó cả người mua và người bán đều cho rằng các quyết định mua bán của họ không ảnh hưởng gì đến giá cả thị trường. Như vậy, cạnh tranh hoàn hảo chỉ có thể diến ra khi hội tụ đầy đủ các điều kiện sau: Thứ nhất là, sản phẩm của mỗi doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo phải trùng hợp với sản phẩm của bất kỳ một doanh nghiệp nào khác đến mức không thể phân biệt được. Nói cách khác, sản phẩm của mỗi doanh nghiệp là đồng nhất hay được têu chuẩn hoá hoàn hảo. Thứ hai là, mỗi doanh nghiệpk trong ngành phải chiếm một thị phần rất nhỏ. Điều đó có nghĩa là sự thay đổi sản lượng của một hãng hoàn toàn không có ảnh hưởng gì đến giá thị trường. Tương tự, người mua cũng quá nhỏ để có thể đòi hỏi người bán những điều như phải giảm giá khi mua nhiều hay bán chịu...... Thứ ba là, mọi yếu tố đầu vào của sản xuất đều tự do dịch chuyển để phản ứng nhanh chóng với những thay đổi để không có một đầu vào nào là sản phẩm độc quyền: về lâu dài, các sản phẩm, hàng hoá đều có thể gia nhập và đi khỏi thị trường một cách dễ dàng. Thứ tư là, người tiêu dùng và các doanh nghiệp có kiến thức hoàn hảo về giá hiện tại, giá tương lai, chi phí và những cơ hội kinh tế. Bởi vậy, giá cả hàng hoá trong thị trường này như đã được định trước. * Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở đó các cá nhân bán hàng hoặc các nhà sản xuất có đủ sức mạnh để chi phối giá cả sản phẩm của mình trên thị trường. Điều cần nhấn mạnh là, cạnh tranh không hoàn hảo chứ không phải là hình thái chính trong các ngành kinh tế của các quốc gia có nề kinh tế thị trường. Sở dĩ có thực trạng này là vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận của các doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh đã thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư bản, phân bố các doanh nghiệp diễn ra không đều ở các ngành và lĩnh vực kinh tế khác nhau. Trước điều kiện về chi phí nhập nghành và yêu cầu công nghệ cao đã làm cho sản phẩm một nghành chỉ do một số ít các doanh nghiệp cung cấp. Trong cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại: Độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính độc quyền. * Độc quyền nhóm là hình thái thị trường mà trong đó chỉ có một số ít các nhà sản xuất, mỗi người nhận thức được rằng giá cả của mình không chỉ phụ thuộc vào năng suất của chính mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của các nhà cạnh tranh quan trọng trong ngầnh đó. Như vậy, tình trạng độc quyền nhóm chỉ xuất hiện ở một số ngành công nghiệp mà công nghệ của nó đòi hỏi quy mô tối thiểu có hiệu quả lớn đến mức chỉ có một số lượng nhỏ các doanh nghiệp có thể tham gia đaàu tư. ở các nước tư bản phát triển, hình thái này thường gặp ở các ngành: sản xuất ôtô, cao xu, xi măng, thép. v.v.. * Cạnh tranh mang tính độc quyền là hình thái thị trường có nhiều người bán sản xuất ra những sản phẩm có thể dễ dàng thay thế cho nhau. Mỗi hãng chỉ có khả năng hạn chế ảnh hưởng tới giá cả sản phẩm của mình. So với hình thái cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh mang tính độc quyền cũng có nhiều hãng mới đi vào thị trường không hạn chế. Nhưng nó khác với cạnh tranh hoàn hảo ở chỗ sản phẩm được phân hoá cao độ - mỗi hãng đều có một loại sản phẩm khác nhau về hình dáng, kích thước, nhãn mác, chất lượng và danh tiếng, mỗi hãng là người duy nhất sản xuất loại hàng hoá riêng của mình. Lượng thế lực độc quyền mà hãng có phụ thuộc vào mức thành công của nó trong lĩnh vực phân hoá sản phẩm của mình với sản phẩm của hãng khác. Hình thái thị trường này thường thấy ở các ngành kinh tế như: Thuốc đánh răng, bột giặt, nước hoa... * Độc quyền: Là hình thái thị trường trong đó một doanh nghiệp duy nhất bán một sản phẩm mà không có ssản phẩm thay thế gần giống với nó. Việc thâm nhập vào ngành sản xuất sản phẩm này rất khó khăn hoặc không thể được. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh gay gắt tất yếu dẫn đến tình trạng độc quyề, mặt khác do mục đính tối đa hoá lợi nhuận cũng hinmhf thành nên các tổ chức, thế lực độc quyền.Khi mới xuất hiện độc quyền cũng có những ý nghĩa tích cực nhất định. Để dành được vị trí độc quyền, các doanh nghiệp phải cải tiến tổ chức, quản lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuât, tập trung mọi nguồ lực, tạo sức mạnh để dành vị trí độc quyền. Bởi vậy, độc quyền có những tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung các nguồn lực để pháat triển các ngành kinh tế mũi nhọn, luôn đi đầu về mặt kỹ thuật và công nghệ. Sau khi đã giữ vững vị trí thì các doanh nghiệp độc quyền lại tìm các duy trì địa vị độc tôn của mình bằng cách thôn tính tiêu diệt các đối thủ, hoặc ngăn cản sự nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng bằng các thủ pháp không chính đáng, mà không chú trọng cải thiện các điều kiện cạnh tranh của chính mình như: giảm chi phí sản xuất, tận dụng lao động, cải tiến kỹ thuật.... Mặc dù độc quyền gây nhiều hậu quả tiêu cực cho xã hội, ở một số ngành đặc biệt (sản xuất hàng hoá và dịch vụ công cộng, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia) nhiều nước đã phải duy trì tình trạng độc quyền ở mức độ nhất định để đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng và chi phí sản xuất xã hội ở mức hợp lý do tính kinh tế cuả quy mô sản xuất lớn. Ngoài nguyên nhân cạnh tranh khốc liệt dẫn đến độc quyền có thể chỉ ra ba nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng độc quyền: đó là đặc thù của công nghệ sản xuất sản phẩm, sự thông đồng ngầm giữa các doanh nghiệp ở trong ngành và những cản trở đối với việc nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng. Độc quyền tự nhiên xuất hiện thoát ly ý thức chủ quan của nhà kinh doanh. Tự nhiên ở đây nói lên rằng, cơ cấu độc quyền là do đặc điềm công nghệ và nhu cầu đối với sản phẩm của ngành tạo ra chư không phải là yếu tố lịch sử hay ảnh hưởng của cơ chế chính sách kinh tế. Hay nói cách khác, trong nhuiững điều kiện về công nghệ và nhu cầu như vậy, sự tồn tại của độc quyền là khách quan và do đó biện pháp duy nhất mà nhà nước có thể làm là điều tiết những độc quyền đó. Hình thái độc quyền tự nhiên thường gặp trong các ngành công nghệ như: điện, khí đốt, nước sạch, viễn thông .. . Độc quyền còn xuất hiện với tính các là hậu quả của thủ pháp thông đồng ngầm giữa các doanh nghiệp về giá, sản lượng, khách hàng hoặc vùng tiêu thụ nhằm tối đa hoá lợi nhận của mình. Điều đáng lưu ý là, các doanh nghiệp tham gia Cartel ngầm nói chung là không bền vững, trừ phi mỗi doanh nghiệp đều có một kế hoạch làm ăn lâu dài trên thị trường đó, coi trọng lợi nhuận thu được trong tương lai và Cartel phải có một cơ chế trừng phạt thích hợp đối với việc thành viên bí mật vi phạm thoả thuận ngầm. Bởi vậy, để chống lại những Cartel ngầm, một mặt Chính phủ phải có những biện pháp phạt nặng nếu phát hiện ra sự tồn tại của chúng mặt khác, phải tạo ra một cơ cấu ngành mềm dẻo với khả năng nhập cuộc của các doanh nghiệp mới và khả năng bỏ cuộc của các doanh nghiệp đã có mặt trên thị trường được dễ dàng. Cần nhấn mạnh là, việc phát hiện Cartel ngầm là rất khó khăn, do đó biện pháp chủ yếu mà chính phủ có thể sử dụng để chống lại nó là những biện pháp gián tiếp, đặc biệt là những biện pháp mang tính cơ cấu. Độc quyền còn xuất hiện do sự tồn tại của những vật cản đối với khả năng nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng. Đó là những vật cản mang tính pháp lý, hành chính và những vật cản mang tính kinh tế. Những vật cản mang tính pháp lý chính là những điều luật loại bỏ hoàn toàn sự nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng vào một ngành kinh tế trong một giai đoạn nhất định. Một ví dụ phổ biến nhất trong thực tế là lĩnh vực bảo hộ việc độc quyền khai thác các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp của chủ văn bằng bảo hộ. Việc làm này, một mặt khuyến khích đầu tư cho khoa học kỹ thuật, mặt khác lại gây ra sự thiệt hại cho xã hội do có sự độc quyền. Bởi vậy, pháp luật phải tìm được thời hạn tối ưu cho việc khai thác độc quyền các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp của chủ văn bằng bảo hộ. * Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh, người ta phân nhóm các hành vi cạnh tranh trên các hình thái thị trường gồm hai loại: Cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. * Cạnh tranh lành mạnh: là hình thức cạnh tranh đẹp và trong sáng, cạnh tranh bằng những tiềm năng vốn có của bản thân doanh nghiệp. Đó là những hoạt động nhằm thu hút khách hàng mà pháp luật không cấm và phù hợp với tập quán thương mại và đạo đức kinh doanh truyền thốnga như: đăng ký nhãn hiệu thương phẩm, hạ giá bán hàng hoá trên cơ sở đổi mới công nghệ, giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, liên tục đổi mới phương thức giao tiếp với khách hàng... * Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể của một chủ thể kinh doanh nhằm mục đích cạnh tranh, luôn thể hiện tính không lành mạnh (chứ không phải trái pháp luật) và vô tình hay cố ý gây thiệt hại cho một đối thủ cạnh tranh hay một đối thủ cụ thể. Trong những năm gần đây một số nhà nghiên cứu Trung quốc đã cho rằng trình độ bình đẳng trong cơ hội cạnh tranh là tiêu chí đánh giá mức độ chín muồi của kinh tế thị trường. Trên nền tảng này, họ dã đưa ra khái niệm “thể chế cạnh tranh bình đẳng” thể chế cạnh tranh bình đẳng với tiền đề thừa nhận có sự chênh lệch ở khởi điểm cạnh tranh nhưng đòi hỏi bình đẳng trong hoạt động, công bằng trong quy tắc, minh bạch trong quá trình, có hiệu quả trong cạnh tranh. Tham gia trong cạnh tranh là quyền lợi của mỗi chủ thể vi mô. Quyền lợi này có thể bị chủ thể từ bỏ xong trước hết chủ thể đó phải được hưởng quyền lợi đó II. Những biện pháp chung về nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế Nói đến cạnh tranh là chúng ta có thể nghĩ tới: Chất lượng và giá cả của sản phẩm. Một hàng hoá khi đem giao bán trên thị trường, muốn có chỗ đứng trên thị trường, chiếm lĩnh thị trường đòi hỏi hàng hoá đó phải có chất lượng tốt, giá cả hợp lý và được người tiêu dùng chấp nhận. Một doanh nghiệp khi sản xuất sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Điều đầu tiên họ nghĩ tới là chất lượng và giá cả, mong tìm cho mình một vị trí trên thương trường, thị trường quyết định sự sống còn của hàng hoá. Một hàng hoá được sản xuất ra ngay từ đầu đã phải đói phó với sự cạnh tranh của cùng loại hàng hoá đó nhưng do hãng khác sản xuất. Muốn được thị trường người tiêu dùng chấp nhận nó phải cạnh tranh để tìm cho mình một vị trí. Có thể nói sự cạnh tranh diễn ra là vô cùng khắc nghiệt quyết định sự sống còn của sản phẩm. Chính vì vậy mà một sản phẩm chất lượng tốt giá cả hợp lý, chắc chắn nó sẽ được người tiêu dùng chấp nhận từ đó, nó sẽ dễ dàng có được sức mạnh thị trường, đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm khác. Vì vậy, để có khả năng cạnh tranh, từng doanh nghiệp sản xuất hàng hoá phải tự vươn lên nhằm đạt lợi nhuận cao và nắm được thị phần trong nước, từng bước đột phá, đặt chân vào thị trường thế giới cụ thể là doanh nghiệp Việt Nam cần khai thác tốt những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế, có tính độc đáo, đặc sắc và có chất lượng cao, phải tính toán sao cho giá thành hợp lý đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thương trường, phải có sự chuyên môn hoá cao để có sự lựa chọn sản phẩm mà không cạnh tranh triệt tiêu nhau: Phải đầu tư đổi mới nhanh thiết bị công nghệ đi đôi với xây dựng và thực hiện chiến lược nghiên cứu triển khai để sản xuất sản phẩm đạt chất lượng cao phù hợp với thị hiếu của khách hàng, phải coi đào tạo nguồn nhân lực sử dụng thành công mới như một yếu tố quyết định để tăng sức cạnh tranh. Cuối cùng tập chung giải quyết khâu tiếp thị - khâu yếu nhất hiện nay. Về giá quản lý vĩ mô, điều cần thiết là cải thiện môi trường kinh doanh để ai cũng có thể kinh doanh theo pháp luật một cách thuận lợi và được hưởng các dịch vụ công rõ ràng. Đặc biệt, Nhà nước hỗ trợ tích cực doanh nghiệp về nghiên cứu triển khai tiếp thị, xuất khẩu và đạo tạo nguồn lực con người. Tóm lại, chỉ có phát huy sức mạnh tổng hợp từ 2 phía (Nhà nước và doanh nghiệp) thì mới tăng được sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Đó là đòi hỏi của cuộc sống để chủ động hội nhập kinh tế thắng lợi. III. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới Hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới chịu sự ảnh hưởng hai chiều của các yếu tố khi tham gia thị trường thế giới cũng như sự cạnh tranh của các loại hàng hoá khác trên thị trường quốc tế. Chúng ta có thể kể ra rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hàng hoá Việt Nam khi gia nhập thị trường quốc tế nhưng nhìn chung lại, có 3 nhân tố chính tác động trực tiếp lên khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới: Đó là: + Môi trường kinh tế + Chính sách hỗ trợ của nhà nước + Khoa học công nghệ Cả ba yếu tố trên đều tác động trực tiếp đến chất lượng, giá cả và khả năng cũng như sự thuận lợi của hàng hoá Việt Nam khi gia nhập thị trường quốc tế, làm tăng hay giảm khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam. Một doanh nghiệp sản xuất hàng hoá nếu biết trú trọng, tận dụng những thuận lợi của 3 yếu tố trên chắc chắn sẽ thành tronng việc chiếm lĩnh thị trường, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá. Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế trước hết phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế chung về cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng. Tình hình đó có thể tạo nên tính hấp dẫn về thị trường và sức mua khác nhau đối với cc thị trường hàng hoá khác. Môi trường kinh tế cũng bao gồm các yếu tố ảnh hưởng đến sức mua và cơ cấu chi tiêu của ngưòi tiêu dùng. Các nhà hoạt động thị trường đều quan tâm đến sức mua và việc phân bổ thu nhập để mua sắm các loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Tổng số sức mua lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập hiện tại, giá cả hàng hoá dịch vụ, các khoản tiết kiệm, tín dụng. Khi nền kinh tế ở vào giai đoạn khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cũng như thuế khoá tăng ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá và sức mua của người tiêu dùng. Tình trạng trái ngược lại làm cho nhịp và chu kỳ kinh doanh trở nên phồn thịnh. Nền kinh tế thế giới vẫn đã và đang diễn ra xu hướng vận động nhiều chiều, sự phân hoá giầu nghèo giữa các quốc gia chậm phát triển và các quốc gai phát triển theo hướng “Dịch vụ hậu công nghiệp ” xu thế toàn cầu hoá, những nổ lực cạnh tranh và hợp tác đang làm thay đổi bộ mặt đời sống kinh tế từng vùng, từng khu vực. Chính vì vậy, việc nắm bắt tình hình kinh tế thế giới sẽ gặp cho các nhà hoạt động thị trường có nhiều cơ hội trong lĩnh vực kinh doanh sản xuất hàng hoá, chiến lược Marketing toàn cầu, đa quốc gia, xuyên quốc gia là một đòi hỏi tất yếu, một thành thực đối với các nhà hoạt động thị trường nhằm mục đích tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá khi gia nhập thị trường quốc tế và các nước trong khu vực. + Những chính sách hỗ trợ của nhà nước ở góc độ Công ty, cơ sở sản xuất, chúng ta đều biết rằng vị thế cạnh tranh tuỳ thuộc một phần vào quy mô sản xuất, một phần vào khả năng về vốn dồi dào để vòng quay vốn liên tục. Trong quan hệ quốc tế cạnh tranh gay gắt đặt ra nhiều vấn đề cạnh tranh quốc tế ở những khía cánhau hàng chục Công ty đa quốc gia cạnh tranh với tất cả sứ mệnh của họ các ngành kinh tế mõi nhọn tham gia cạnh tranh khai thác những thành tựu mới nhất về khoa học kỹ thuật để thắng trong cạnh tranh các Ngân hàng quốc tế, thị trường, chứng khoán, thị trường quốc tế trong hàng chục Mỹ Kim vào chiến tranh thương mại, chiến tranh lãi suất, chiến tranh hồi suất (phá giá tiền lôii cuốn tiền tế khai phá giá theo) lập các khối thị trường chung EU, Nam Mỹ và ASEAN … các biện pháp bảo vệ mậu dịch, phân biệt đối xử, bảo vệ xuất nhập khẩu. Trong bối cảnh này các quốc gia cần huy động tối đa tài chính để nâng đỡ Công ty, xí nghiệp của mình tập chung thúc đẩy sản xuất lập các khu chế xuất để tạo ra sức mạnh, ký kết các hiệp ước về xuất nhập khẩu để giành chỗ đứng trên thị trường cho các hàng hoá của nước mình. Thị trường cho hàng hoá của Việt Nam trên thế giới cũng như nhiều nước khác luôn khó khăn. Vấn đề thị trường không phải chỉ là vấn đề của một nước riêng lẻ nào mà trở thành vấn đề trọng yếu của nền kinh tế thị trường. Vì vậy việc hình thành một hệ thống các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá trở thành một công cụ quan trọng nhất để chiếm lĩnh thị trường cũng như việc nhằm mục đích nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá của nước mình so với hàng hoá cùng loại của các nước khác. Nhà nước cần hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu, nâng cao chất lượng hình thức, mẫu mã, bao bì với chi phí thấp, tạo điều kiện cho những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá tự do cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. Ngoài ra, nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách. Nhà nước tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình trong nước và cam kết quốc tế, đơn giản hoá các sắc thuế, thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cung cầu ngoại tê. Tăng cường mở rộng thêm thị trường ở nước ngoài, xác định thời hạn bảo hộ hợp lý và có hiệu quả đối với một số sản phẩm quan trọng, tích cực chuẩn bị, mở rộng, hội nhập thế giới. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. + Khoa học – kỹ thuật Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, việc áp dụng các tiến độ của khoa học kỹ thuật là một bước đột phá lớn trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu của thị trường. Việc áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật không những làm cho năng suất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm được đảm bảo, sản phẩm mang tính đồng nhất cao. Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện tại tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp với các hàng nông sản là chính, sản phẩm nông nghiệp mang đặc tính nhiệt đới, thế mạnh của hàng hoá Việt Nam chủ yếu là nông sản. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất làm tăng năng suất lao động xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, chất lượng hàng nông sản được chế biến một cách kỹ càng và đồng nhất thông qua một hệ thống các dây chuyền sản xuất, tinh chế: cafe, chè…khoa học kỹ thuật giúp doanh nghiệp sản xuất hàng hoá tăng năng suất lao động, giảm đáng kể sức lao động của người công nhân dẫn đến chi phí sản xuất giảm, giá cả của hàng hoá từ đó cũng giảm theo tạo ra lợi thế cạnh tranh cho hàng hoá khi gia nhập thị trường quốc tế với những sản phẩm cùng loại. Đối với những nước đi sau như nước ta, tình hình không giống như các nước tư bản ở thế kỷ 18,19 khi mà mọi công nghệ cần thiết cho công nghiệp hoá đều phải chỗ những phát minh khoa học làm cơ sở cho sự phát triển công nghệ đó hoặc phải có thời gian dài đúc kết và hoàn thiện dần trong thực tiễn sản xuất. Ngày nay, hầu hết các công nghệ cần thiết cho công nghiệp tiền tệ, thậm chí còn thay đổi rất nhanh, buộc họ phải chuyển giao các công nghệ đã lạc hậu của họ cho các nước đi sau vấn đề ngày nay không còn là phải tự mình sáng tạo mà là phải nắm bắt được những công nghệ tiên tiến nhất mà là công nghệ đem lại hiệu quả kinh tế xã hội và có điều kiện tiếp nhận chuyển giao công nghệ. Điều kiện quốc tế mới đã mở ra cho chúng ta con đường đi tắt tới việc cho phép thực hiện công nghiệp hoá trong một thời gian rất ngắn không phải trải qua tuần tự các bước như của các nước đã đi trước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải động viên các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tích cực tham gia đầu tư phát triển xử lý tốt mối quan hệ trên thị trường. Việc xây dựng các chiến lược phát triển công nghệ trong lĩnh vực sản xuất phải xuất phát từ những yêu cầu của sản xuất sản phẩm và định hướng phát triển, chiếm lĩnh thị trường thế giới. Giá cả phần lớn hàng hoá, dịch vụ được hình thành trên thị trường phản ánh nhu cầu xã hội nhu cầu về hàng hoá. Từ những phân tích trên và thực tế cho thấy yếu tố khoa học kỹ thuật trong sản xuất hàng hoá là rất cần thiết đối với thị trường quốc tế, hàng hoá trên thị trường của các doanh nghiệp, hãng, Công ty sản xuất hàng hoá cung cấp trên thị trường, họ đều áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất, chất lượng sản phẩm cao, mẫu mã đẹp, sản phẩm đồng nhất, tính cạnh tranh cao. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hàng hoá khi tham gia thị trường quốc tế là phải không ngừng đổi mới sản xuất, thiết bị, dây chuyền sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Để cạnh tranh thắng lợi, chiếm lĩnh được tỷ phần thị trường thế giới trước hết cần trú trọng đến chất lượng và giá cả của sản phẩm tham gia cạnh tranh. Để sản phẩm có chất lượng tốt cần chú ý đến khâu sản xuất. Cạnh tranh trên thị trường quốc tế luôn diễn ra rất gay gắt quyết liệt chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp luôn không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng nghĩa với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tóm lại: Khi một hàng hoá gia nhập thị trường thế giới phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt của các hãng có sản phẩm cùng loại, chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố. Bên cạnh các yếu tố chính nên trên. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố khác liên quan đến người tiêu dùng sản phẩm, vào các yếu tố khác liên quan đến người tiêu dùng sản phẩm, như, tâm lý, thu nhập, sở thích của đối tượng, khách hàng trên thị trường cạnh tranh, đặc biệt là thị trường của các nước tư bản Âu, Mỹ và một số nước trong khu vực có nền kinh tế phát triển. Nhu cầu đòi hỏi về sản phẩm của họ luôn ở mức độ cao và hoàn thiện. Chính vì vậy muốn cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải nghiên cứu vận dụng, kết hợp linh hoạt tất cả các yếu tố làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng loạt hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Chương II Thực trạng về khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới I. Đặc điểm tình hình kinh tế và hàng hoá Việt Nam trong xuất - nhập khẩu Nền kinh tế Việt Nam từ khi bước vào thời kỳ đổi mới đã phát triển mạnh. Từ một nền kinh tế bao cấp, trí tuệ bước sang nền kinh tế thị trường năng động với cơ chế thị trường, cơ cấu nền kinh tế đã được chuyển dịch rõ nét, cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nền kinh tế bước đầu đã có bước tăng trưởng rõ rệt. Đời sống người dân được cải thiện quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Nền kinh tế phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá mọi hoạt động kinh tế được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, mội trường, quốc phòng và an ninh, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh gắn nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước. Tạo thêm sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đầy mạnh xuất khẩu. Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tiếp tục đưa nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ sinh học, quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích. Đẩy mạnh thuỷ lợi hoá cơ giới hoá, điện khí hoá, giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá. Đầu tư nhiều hơn nữa cho phát triển kết cấu hạ tầng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0099.doc