bộ giáo dục và đào tạo
trường đại học kinh tế quốc dân
đề án
kinh tế thương mại
Đề tài: biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm việt nam trên thị trường.
Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện :
Lớp :
Hà Nội 11- 2001
Lời nói đầu
Những năm qua thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo ngành thương mại đã cùng các ngành các địa phuơng nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá và dịch vụ, gó
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p phần tạo nên những biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và vị thế mới trên thị trường ngoài nước.
Chuyển việc mua bán hàng hóa từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mua bán theo cơ chế thị trường giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu.
Chuyển thị trường từ trong thế chia cắt khép kín theo địa giới hành chính kiểu “tư sản tự tiêu” sang tự do lưu thông theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, bước đầu đã huy động được các tiềm năng về vốn, kỹ thuật vào lưu thông hàng hoá làm thị trườngtrong nước phát triển sống động, tổng mức lưu chuyển hàng hoá xã hội tăng nhanh. Thị trường ngoài nước mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Hoạt động thương mại đã góp phần đảm bảo các nhu cầu vật tư, hàng hoá cho nền kinh tế quốc dân, quốc phòng và đời sống nhân dân. Hàng hoá trong nước phong phú, giá cả tương đối ổn định, lạm phát được kiềm chế, ngày càng có nhiều loại hàng hoá Việt Nam có mặt trên thế giới. Thương mại đã góp phần tích cực vào việc phát triển sản xuất, phân công lại lao động xã hội, thúc đẩy các ngành đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm làm cho từng bước gắn với nhu cầu thị trường bước đầu phát huy được lợi thế so sánh tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế cải thiện đời sống nhân dân.
Bên cạnh những thành tựu và kết quả trên thị trường và hoạt động thương mại của nước ta còn gặp phải nhiều khó khăn và khuyết điểm phát sinh những vấn đề phức tạp mới. Đất nước ngày một phát triển các loại hình doanh nghiệp- sản phẩm ngày một đa dạng, phong phú. Vì vậy, để tồn tại và phát triển được thì đòi hỏi phải có những biện pháp hữu hiệu, chính sách phù hợp, và có các thông tin về thị trường cập nhật...Ngoài ra chất lượng các sản phẩm của doanh nghiệp phải tốt, giá thành rẻ phù hợp với thu nhập của người tiêu dùng...thì mới có khả năng đứng vững trên thị trường, và có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài.
Khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN năm 1995, ASEM- 1996, APEC- 1998 và sắp tới gia nhập WTO đặt ra những thách thức mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Làm thế nào để tồn tại và phát triển? Làm thế nào để đạt được và duy trì việc xuất khẩu, bảo vệ thị trường trong nước? Hay làm sao nâng cao được sức cạnh tranh trong môi trường thương mại quốc tế? Vấn đề cốt lõi là làm sao xác định chính xác lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm trong doanh nghiệp, tập trung được các nguồn lực để có sức mạnh tổng hợp.
Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Đây cũng là vấn đề xúc tiến nhất, đáng quan tầm nhất của các loại hình sản xuất kinh doanh. Vì vậy mà “Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường” đang là một đề tài cập nhật hiện nay được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu để tìm ra những biện pháp hữu hiệu nâng cao được năng lực cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường...Cho nên trong lẫn nghiên cứu này em đã chọn đề tài “Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường”. Để từ đó xem những mặt nào đã đạt đượcmặt nào chưa đạt được? Nguyên nhân của chúng là gì? Và muốn khắc phục cần thực hiện những công việc như thế nào? Từ đó làm bài học cho mình. Nội dung chủ yếu của đề tài được chia ra làm ba chương:
Chương I. Khái quát về cạnh tranh- nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường.
Chương II. Thực trạng của khả năng cạnh tranh các sản phẩm
Chương III. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường.
Đây là đề tài mới và khó nên trong thời gian ngắn em không thể nghiên cứu kỹ hơn, sâu hơn được và còn rất nhiều thiếu sót của bài viết. Vậy em mong thầy chỉ bảo để bài viết sau của em được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy PTS. TS Đặng Đình Đào đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Hà Nội 2- 10- 2001.
chương I
Khái quát về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm.
I. các khái niệm về cạnh tranh.
Cạnh tranh là gì?
- Trong xã hội tư bản: Cạnh tranh là một hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
- Trong kinh tế thị trường:
+Cạnh tranh về mặt thuật ngữ là sự cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động có những mục tiêu và lợi ích giống nhau.
+ Trong kinh doanh, cạnh tranh được định nghĩa như là sự đua tranh giữa các nhà kinh doanh thị trường nhằm giành ưu thế trên một loại tài nguyên, sản phẩm hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình.
Quan niệm về khả năng cạnh tranh
Trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh và ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam và sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Yêu cầu này đặt ra không chỉ đối với khu vực công nghiệp tham gia vào thị trường thế giới, mà ngay cả đối với khu vực chỉ sản xuất hàng hoá cho thị trường nội địa, vì tính chất giao lưu quốc tế hiện nay không còn thuần tuý ở phạm vi người biên giới.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khả năng cạnh tranh, vì vậy ở đây xin được bàn đôi chút về “Khả năng cạnh tranh.”
Cho đến nay đã có nhiều tác giả đưa các cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp, của một nền công nghiệp cũng như một quốc gia.
Theo Fafchamps cho rằng: Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản xuất của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn sẽ được coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn.
Randall lại cho rằng khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Theo Dunning lập luận rằng khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó.
Một quan niệm khác cho rằng khả năng cạnh tranh là trình độ của công nghiệp có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường, đồng thời duy trì được mức thu nhập thực tế của mình.
Có thể thấy rằng các quan niệm nêu trên xuất phát từ các góc độ khác nhau, nhưng đều có liên quan đến hai khía cạnh: chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận. Theo tôi, khả năng cạnh tranh có thể hiểu là năng lực nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy khả năng cạnh tranh được nâng cao.
Quy luật về cạnh tranh.
Sự tự do trong sản xuất kinh doanh với nhiều thành phần kinh tế tham gia là nguồn gốc của sự cạnh tranh. Cạnh tranh là quy luật trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh về mặt kinh tế khác hẳn sự cạnh tranh để đoạt một giải thưởng. Nó là một cuộc chạy đua không phải một lần rồi thôi mà là một quá trình liên tục. Đó là một cuộc chạy “Maratông kinh tế” không có đích cuối cùng, ai cảm nhận thấy đích người đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ vượt lên phía trước. Chạy đua kinh tế phải luôn ở phía trước để tránh những trận đòn của người chạy phía sau. Đó là sự cạnh tranh về chất lượng, hiệu quả, về giá cả, về dịch vụ phục vụ khách hàng giữa người mua và người bán, giữa những người mua và những người bán với nhau. Không thể lẩn tránh cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng, linh hoạt sử dụng vũ khí cạnh tranh hữu hiệu.
II. Vai trò của cạnh tranh
Quá trình toàn cầu hoá thúc đẩy tự do mậu dịch trên toàn thê giới, điều này mang lại những lợi ích to lớn cho tất cả các quốc gia: Tự do trao đổi làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ phục vụ tốt hơn những nhu cầu của người tiêu dùng trên toàn thế giới, việc tiếp cận với các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh như vốn, công nghệ, lao động...cũng trở nên dễ dàng hơn. Tự do hoá mậu dịch cũng làm cho cạnh tranh trở nên khốc liệt hơn và là cạnh tranh toàn cầu.
Hàng ngày, chúng ta đều nghe, nhìn, đọc những thông tin quảng cáo của các công ty về những sản phẩm khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, các sản phẩm có thể giống nhau và cũng có thể thay thế cho nhau, trong khi người mua có quyền lựa chọn loại sản phẩm nào đem lại lợi ích tối ưu cho họ. Vì vậy mà sự cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng thực ra chỉ là sự đối đầu quyết liệt trong chiến lược phát triển giữa chính các công ty và quốc gia đó. Vậy vai trò và thực chất của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là gì?
Vai trò của cạnh tranh đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn ở nước ta. Cạnh tranh là mũi nhọn đột kích quan trọng, để phá vỡ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường.
+ Cạnh tranh thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chấn hưng các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Qua hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích đối với người sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá lớn. Phát triển thương mại cũng có nghĩa là phát triển các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Đó là con đường ngắn nhất để chuyển từ sản xuất tự nhiên thành sản xuất hàng hoá.
+ Cạnh tranh kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lợi nhuận là mục đích của hoạt động cạnh tranh thương mại. Người sản xuất sẽ tìm mọi cách để cải tiến công tác, áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, hạ chi phí để thu nhiều lợi nhuận. Đồng thời, cạnh tranh trong thương mại bắt buộc người sản xuất phải tính toán thực chất hoạt động kinh doanh, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất lao động. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản xuất phát triển.
+ Cạnh tranh kích thích nhu cầu và luôn tạo ra nhu cầu mới. Người tiêu dùng mua bán không xuất phát từ tình cảm mà bằng lý trí. Lợi ích của sản phẩm hay mức độ thoả mãn nhu cầu của sản phẩm sẽ tạo ra khả năng táI tạo nhu cầu. Cạnh tranh một mặt làm cho cầu trên thị trường trung thực với nhu cầu, mặt khác nó làm bộc lộ tính đa dạng, phong phú của nhu cầu. Cạnh tranh buộc các nhà sản xuất phảI đa dạng hoá về loạI hình, kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phẩm. Điều này tác động ngược lại người tiêu dùng, làm bật dậy các nhu cầu tiềm tàng. Tóm lại, cạnh tranh trong thương mại làm tăng trưởng nhu cầu và gốc rễ cho sự phát triển sản xuất kinh doanh.
+ Cạnh tranh góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, làm cho quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước khác không ngừng phát triển. Điều đó giúp chúng ta tận dụng được ưu thế của thời đại, phát huy được lợi thế so sánh, từng bước đưa thị trường nước ta hội nhập với thị trường thế giới, biến nước ta thành bộ phận của phân công lao động quốc tế. Đó cũng là con đường để kinh tế nước ta có bước phát triển nhảy vọt, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Như vậy: Cạnh tranh là bất khả kháng, là linh hồn sống của cơ chế thị trường. Nó là động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Sự cạnh tranh diễn ra giữa người bán với nhau, hoặc giữa những người mua với nhau.
Cạnh tranh là yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh. Để đạt được một lợi thế cạnh tranh trên thị trường là mục đích của mọi công ty đặc biệt là các công ty Việt Nam hiện nay đang trong tình trạng cạnh tranh sản phẩm yếu kém. Lợi thế cạnh tranh không phải luôn dễ dàng xác định được và để có được một lợi thế cạnh tranh không phải là dễ dàng. Do đó, việc nâng cao tính chiến lược đặt ra cho nền kinh tế và các doanh nghiệp là phải làm thế nào để đạt được cạnh tranh hiệu quả và biện pháp đại thể để đạt được mục tiêu này là gì?
III. Thị trường người tiêu dùng và các đặc đIểm hành vi người mua.
Thị trường người tiêu dùng.
Thị trường là gì?: Thị trường là một quá trình trong đó người bán và người mua tác động qua lạI lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng của một hay nhiều thứ hàng hoá khác nhau.
Thị trường người tiêu dùng là những cá nhân và hộ gia đình mua hay bằng một phương thức nào đó có được hàng hoá và dịch vụ để tiêu dùng cho cá nhân.
Người tiêu dùng rất khác nhau về tuổi tác, mức thu nhập và mức độ học vấn, thị hiếu và ý thích thay đổi chỗ ở. Các nhà hoạt động thị trường nên tách riêng nhóm người tiêu dùng ra và tạo ra những hàng hoá và dịch vụ riêng để thoả mãn những nhu cầu của nhóm này. Nếu như phần thị trường khá lớn thì một số công ty có thể soạn thảo những chương trình Marketing riêng để phục vụ phần thị trường đó.
Mục tiêu và đối tượng của người tiêu dùng.
Để đáp ứng thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của khách hàng thì việc “hiểu được khách hàng” là nhiệm vụ của những người làm Marketing song việc này không đơn giản. Có thể khách hàng nói ra nhu cầu của mình song không hành động hay làm một cách khác và cũng có thể không nắm được động cơ sâu xa của mình. Vì vậy, cần có được những đáp ứng bằng những tác động làm thay đổi suy nghĩ của họ trước khi họ quyết định.
Đối với mỗi sản phẩm để thoả mãn khách hàng thì chất lượng sản phẩm là vấn đề được ưu tiên, bên cạnh đó để duy trì và đạt được lòng tin của khách hàng vào sản phẩm thì người cung ứng sản phẩm phải chứng tỏ khả năng đảm bảo chất lượng của mình.
3. Những người tham gia vào hoạt động mua sắm và yếu tố tác động đến quyết định mua.
Trong Marketing phân biệt năm vai trò của mọi người trong quyết định mua sắm.
Người chủ xướng: Người đầu tiên nêu lên ý tưởng mua một sản phẩm hay một dịch vụ cụ thể.
Người ảnh hưởng: Người có quan điểm hay ý kiến có ảnh hưởng đến quyết định.
Người quyết định: Người quyết định mọi yếu tố trong quyết định, mua sắm, có nên mua không? mua cái gì? mua như thế nào? hay mụa ở đâu?
Người mua: Người thực hiện mua sắm thực tế.
Người sử dụng: Người tiêu dùng hay sử dụng sản phẩm hay dịch vụ. Trước đây các nhà hoạt động thị trường đã học để hiểu người tiêu dùng của mình trong qúa trình giao tiếp mua bán thường ngày với họ. Nhưng sự lớn mạnh của công ty và thị trường đã tước đi của nhiều nhà quản trị Marketing những quan hệ tiếp xúc trực tiếp với các khách hàng của mình. Các nhà quản trị ngày càng phải nghiên cứu khách hàng thường xuyên hơn. Họ chi phí nhiều hơn bao giờ hết cho việc nghiên cứu người tiêu dùng, cố gắng tìm hiểu xem ai mua, mua như thế nào, mua khi nào, mua ở đâu và tại sao lại mua?
Câu hỏi cơ bản: Người tiêu dùng phản ứng như thế nào với những thủ thuật kích thích của Marketing của công ty có thể vận dụng? Công ty sau khi thực sự hiểu rõ những người tiêu dùng phản ứng như thế nào với các tính năng khác nhau của hàng hoá, giá cả, các nội dung quảng cáo…sẽ có ưu thế to lớn trước các đối thủ cạnh tranh . Chính vì vậy mà các công ty và các nhà khoa học đã tốn nhiều công sức để nghiên cứu mối liên hệ giữa các yếu tố kích thích của marketing và phản ứng đáp lạI của người tiêu dùng.
mô hình chi tiết hành vi của người mua.
Lựa chọn
hàng hoá
Lựa chọn
nhãn hiệu
Lựa chọn nhà
kinh doanh
Lựa chọn
khối lượng mua
Những phản ứng đáp lại của người mua
Quá trình quyết định mua hàng
Các đặc tính của người mua
“ Hộp đen” ý thức của người tiêu dùng
MôI trường kinh tế
Khoa học kỹ thuật
Chính trị
Văn hoá
Hàng hoá
Giá cả
Phương pháp phân phối
Khuyến mãi
Các tác nhân kích thích khác
Các yếu tố kích thích của marketing
Những yếu tố kích thích có hai loại. Những yếu tố kích thích của marketing bao gồm phần tử: hàng hoá, giá cả, phương pháp phân phối và khuyến mãi. Những tác nhân kích thích khác bao gồm những lực lượng cơ bản và sự kiện trong môI trường xung quanh người mua; môI trường kinh tế, khoa học kỹ thuật, chính trị và văn hóa. ĐI qua “hộp đen” ý thức người mua, tất cả những tác nhân kích thích này gây ra một loạt những phản ứng của người mua có thể quan sát được và được trình bày ở ô phảI; lựa chọn hàng hoá, lựa chọn nhãn hiệu, lựa chọn nhà kinh doanh, lựa chọn khối lượng mua.
Nhiệm vụ của nhà hoạt động thị trường là hiểu cho được cáI gì xảy ra trong “hộp đen” ý thức của người tiêu dùng giữa lúc tác nhân kích thích đI vào và lúc xuất hiện những phản ứng của họ.
Những đặc tính của người mua.
Người tiêu dùng thông qua các quyết định của mình không phảI ở trong chân không. Các yếu tố văn hoá, xã hội, cá nhân và tâm lý có ảnh hưởng đến hành vi mua hàng mà họ thực hiện (hình bên).
Phần lớn những yếu tố này không chịu sự kiểm soát từ phía các nhà hoạt động thị trường, nhưng họ nhất thiết phảI chú ý đến chúng.
Những yếu tố trình độ văn hoá có ảnh hưởng to lớn và sâu sắc nhất đến hành vi của người tiêu dùng.
Những yếu tố mang tính chất xã hội
Các nhóm chuẩn mực
Gia đình
Vai trò địa vị
Những yếu tố trình độ văn hóa
Văn hoá
Nhánh văn hoá
Địa vị xã hội
Người mua
Những yếu tố mang tính chất cá nhân
Tuổi tác và giai đoạn của chu trình đời sống gia đình
Nghề nghiệp
Tình trạng kinh tế
Kiểu nhân cách và quan niệm về bản thân
Lối sống
Những yếu tố mang tính chất tâm lý
Động cơ
Tri giác
Lĩnh hội
Niềm tin và thái độ
Văn hoá là nguyên nhân đầu tiên, cơ bản quyết định nhu cầu và hành vi của con người. Hành vi của con người là một sự vật chủ yếu được tiếp thu từ bên ngoài.
Nhánh văn hoá: bất kỳ nền văn hoá nào cũng bao gồm những bộ phận cấu thành nhỏ hơn hay nhánh văn hoá đem lạI cho các thành viên của mình khả năng hoà đồng và giao tiếp cụ thể hơn với những người giống mình. Trong những cộng đồng lớn thường gặp những nhóm người cùng sắc tộc chẳng hạn như người Ailen, người Balan, người ý hay người Puectorico có những ham mê và mối quan tâm mang rõ nét dân tộc của mình. Những nhánh văn hoá riêng với những sở thích và điều cấm kỵ đặc thù là những nhóm tôn giáo như nhóm tín đồ thiên chúa giáo, nhóm tín đồ đạo Mócmôn, đạo CanVanh, đạo Do thái.
+ Những yếu tố mang tính chất xã hội:
Hành vi của người tiêu dùng cũng được quy định bởi những yếu tố mang tính chất xã hội những nhóm, gia đình, vai trò xã hội và các quy chế xã hội chuẩn mực.
Các nhóm tiêu biểu: rất nhiều nhóm chuẩn mực ảnh hưởng đặc biệt mạnh mẽ đối với hành vi của con người. Những nhóm có ảnh hưởng trực tiếp đến con người được gọi là những tập thể các thành viên.
Các nhà hoạt động thị trường cố gắng phát hiện tất cả những nhóm tiêu biểu của một thị trường cụ thể nơI họ bán hàng của mình. Các nhóm tiêu biểu ảnh hưởng đến mọi người ít nhất là theo ba cách sau:
Thứ nhất là cá nhân đụng chạm với những biểu hiện hành vi và lối sống mới đối với nó.
Thứ hai là nhóm tác động đến tháI độ của cá nhân và quan niệm của nó về bản thân mình.
Thứ ba là nhóm thúc ép cá nhân ưng thuận, do đó có ảnh hưởng đến việc cá nhân lựa chọn hàng hoá và nhãn hiệu cụ thể.
Các hình thái của thị trường cạnh tranh sản phẩm.
Theo cuốn từ đIển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một loạI nguồn lực sản xuất hoặc cùng loại khách hàng về phía mình”. Dưới góc độ thực chứng, người ta cho rằng có hai mức độ cạnh tranh.
Cạnh tranh hoàn toàn (hoặc thuần tuý) là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả một loại hàng hoá không thay đổi trong toàn bộ các địa danh của thị trường, bởi vì người mua người bán đều biết tường tận về các đIều kiện của thị trường. Cạnh tranh hoàn toàn xuất hiện khi có bốn đIều kiện sau đây:
+ Trên thị trường có nhiều người bán và người mua hàng hoá, hành vi kinh tế của bất kỳ ai cũng khống chế được cả thị trường mà chỉ có thể chấp nhận giá cả thị trường. Mỗi nhà cung ứng chỉ chiếm tỷ lệ rất ít trong tổng lượng hàng hóa cung cấp. Giá cả cân bằng của thị trường do quy luật cung cầu quy định.
+ Sản phẩm loạI của các doanh nghiệp trên thị trường là giống nhau về tính chất và chất lượng. Đứng về phía người tiêu dùng mà nói thì các sản phẩm đó không có sự khác biệt.
+ Các nguồn lực sản xuất trên thị trường có thể di chuyển tự do và có thể xâm nhập hoặc rút ra khỏi thị trường.
+ Người cạnh tranh hoàn toàn có tương đối đẩy đủ thông tin về thị trường và các diễn biến của thị trường.
Trong thị trường cạnh tranh hoàn toàn, giá cả của sản phẩm là cố định, lợi nhuận bình quân của đầu tư tư bản được xác định rõ. Trong đIều kiện cạnh tranh hoàn toàn, một doanh nghiệp sản xuất nhiều hay ít đều không thể làm thay đổi giá cả thị trường, cáI mà họ có thể làm là dựa vào giá cả đã được xác định ấy mà cung ứng cho thị trường sản phẩm của mình.
Cạnh tranh không hoàn toàn.
Là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở đó các nhà sản xuất hoặc người bán hàng có đủ sức và thế lực có thể chi phối giá cả sản phẩm của mình trên thị trường. Cạnh tranh không hoàn toàn chia làm hai loạI:
+ Độc quyền nhóm tồn tạI trong các nhà sản xuất mà ở đó chỉ có một số ít người sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả sản phẩm của mình không chỉ phụ thuộc vào sản lượng của mình, mà còn phụ thuộc vào hoạt động của các đối thủ cạnh tranh quan trọng trong ngành đó.
+ Cạnh tranh mang tính chất độc quyền là một hình thức cạnh tranh mà ở đó người bán tác động đến người mua bằng sự khác nhau của các sản phẩm của mình về hình dáng, kích thước, chất lượng, nhãn mác…Trong nhiều trường hợp, người bán có thể buộc người mua phảI chấp nhận giá cả của mình đưa ra.
Dựa vào mức độ cạnh tranh nêu trên, người ta chia thị trường thành hai loạI chủ yếu: thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
+ thị trường cạnh tranh hoàn hảo: là thị trường trong đó không một người bán hay người mua nào có vai trò lớn trong toàn bộ thị trường của một loạI hàng hoá nhất định, từ đó không có thể ảnh hưởng quyết định đến giá cả thị trường của hàng hoá đó.
Số người tham gia thị trường phảI tương đối nhiều, do đó mọi người mua, bán, chỉ có mối liên hệ, ảnh hưởng rất nhỏ so với toàn thể thị trường. Tức là nếu một hoặc một nhóm nhỏ người bán hay người mua rút ra khỏi thị trường thì tổng số cung hoặc tổng số cầu thay đổi không đáng kể, giá cả cũng không thay đổi.
Trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo giá cả thị trường hình thành và vận động độc lập với cả người mua và người bán. Họ chỉ được coi là “những người nhận giá”, cá nhân họ không có vai trò quyết định giá cả thị trường.
Hàng hoá mua bán trên thị trường phảI đồng nhất, không có nhiều sự khác biệt với nhau. Các yếu tố sản xuất cũng có thể di chuyển dễ dàng từ ngành này sang ngành khác; hàng hoá cũng có thể ở bất cứ đâu có giá cao hơn.
Không có những hạn chế giá tạo được gây ra trên số cầu, số cung và giá cả của các hàng hoá và tàI nguyên. Giá cả tự do thay đổi theo quan hệ cung- cầu, không bị hạn chế bằng các biện pháp hành chính của nhà nước, vì vậy, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả thị trường sẽ tiến gần đến mức chi phí sản xuất trung bình.
Tất cả người mua, người bán đều có sự hiểu biến hoàn toàn và được thông tin đầy đủ về tính cung- cầu, về đIều kiện mua- bán, về giá cả hàng hoá.
+ Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là thị trường trong đó khối lượng sản phẩm của người bán có nhiều sự khác nhau, dẫn đến vai trò cả mỗi người bán có ảnh hưởng nhiều đến lượng cung ứng và giá cả trên thị trường. Trên thực tế, rất ít sản phẩm thuộc loạI cạnh tranh hoàn hảo mà phần lớn sản phẩm thuộc loạI thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Trong thị trường này, phần nào các nhà doanh nghiệp có thể kiểm soát được giá cả. Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo thường có các dạng sau:
Thị trường độc quyền đơn phương. Đây là thị trường chỉ có một người, nói đúng hơn là một chủ thể bán không có sản phẩm khác có thể thay thế. Đó là hình tháI thị trường độc quyền của một người duy nhất bán hàng hay còn là độc quyền tự nhiên. ở các nước trên thế giới cũng như nước ta, hình tháI thị trường này chỉ tồn tạI trong một số ngành sản xuất nhất định như đIện, nước, bưu đIện…
Trong hình tháI thị trường này, nhu cầu về sản phẩm ít co dãn, nên người bán có thể kiểm soát hoàn toàn khối lượng hàng hoá, dịch vụ bán trên thị trường và tự quyết định giá, do đó giá cả thường cao hơn chi phí bình quân trong mọi thời kỳ và doanh nghiệp luôn bảo đảm được lợi nhuận. Tuy nhiên doanh nghiệp cũng phảI lựa chọn cho mình một mức giá bán phù hợp với một sản lượng nhất định để có thể đạt lợi nhuận tối đa.
Để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, nhà nước phảI tham gia quản lý vĩ mô đối với loạI thị trường này bằng những biện pháp chống độc quyền. Các nước thường sử dụng các biện pháp thuế, kiểm soát giá cả, kiểm soát tồn kho hàng hoá, quy định luật lệ cấm liên kết để hình thành độc quyền, bảo vệ tự do cạnh tranh.
thị trường độc quyền đa phương: là thị trường, trong đó số người bán vừa bán vừa đủ để cho những hoạt động của một người có ảnh hưởng đến lượng cung và giá cả của những doanh nghiệp khác (sản phẩm xi măng sắt, thép…).
Trên thị trường độc quyền đa phương, những người bán có quan hệ phụ thuộc tương hỗ lẫn nhau và có thể chia ra hai loạI:
+ Một số người sản xuất cùng một sản phẩm, nhưng số người bán ít nên mỗi người đều có thể ảnh hưởng lớn đến giá cả thị trường hoặc những người mua ít nên được quyền lựa chọn người bán hàng.
+ Những người bán hàng bán những sản phẩm có thể thay thế cho nhau.
Do trên thị trường độc quyền đa phương còn có cạnh tranh nên giá cả cũng thường biến đổi, các doanh nghiệp có thể tác động ít nhiều đến cung- cầu và giá cả thị trường sản phẩm.
thị trường cạnh tranh độc quyền: là thị trường trong đó có nhiều người bán cùng một sản phẩm, nhưng sản phẩm của mỗi người bán ít nhiều có sự khác nhau về chủng loạI, quy cách, chất lượng, dịch vụ cung ứng. Tức là các đIều kiện mua, bán hàng rất khác nhau, nên giá cả cũng khác nhau; mỗi người bán đều có thể tác động đến giá cả và sản lượng ở một mức độ nhất định. Tuỳ thuộc vào đặc trưng của mỗi sản phẩm bán được nên thị trường và thị hiếu của người mua mà giá cả có thể dao động trong phạm vi mức giá giới hạn tức là thị trường cạnh tranh độc quyền, giá cả luôn biến động nhưng với mức độ nhất định.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm việt nam trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp có thể cùng sản xuất một loạI sản phẩm giống nhau hoặc có thể sản xuất những loạI sản phẩm có thể thay thế được nhau. Trong khi đó, người mua có quyền lựa chọn loạI sản phẩm nào tối ưu cho họ. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho mỗi doanh nghiệp phảI có chiến lược cạnh tranh như thế nào để sản phẩm của họ có thể cạnh tranh được với sản phẩm cùng loạI, và các sản phẩm có thể thay thế của các đối thủ cạnh tranh hay nói cách khác là sản phẩm củahọ được người tiêu dùng chấp nhận và doanh nghiệp của họ có thể tồn tạI trên thị trường.
Mặt khác, bất kỳ doanh nghiệp nào tham gia kinh doanh trên thị trường đều chịu tác động trực tiếp và to lớn của những xu hướng biến động của tình hình thế giới hiện nay. Những xu hướng đó phản ánh đặc đIểm chủ yếu của môI trường kinh doanh hiện đạI đầy biến động và phức tạp đặt ra những thách thức mới buộc các doanh nghiệp phảI không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm được phân theo nhiều cách. Theo UNCTAD (Hội nghị Liên hợp quốc tế về thương mạI và phát triển) thì các yếu tố đó là: MôI trường vi mô và môI trường vĩ mô.
Môi trường vi mô.
Để các sản phẩm của doanh nghiệp cạnh tranh tìm được chỗ đứng trên thị trường, thì bộ phận marketing của doanh nghiệp phảI phối hợp hoạt động với các bộ phận khác của doanh nghiệp và cân nhắc sự ảnh hưởng của những người cung cấp, các đối thủ cạnh tranh, các trung gian marketing và khách hàng. Tất cả các lực lượng đó tạo thành môI trường vi mô (sơ đồ).
Khách hàng
Các trung gian marketing
Những người cung cấp
Doanh nghiệp
Những người cạnh tranh
Công chúng và các tổ chức công cộng
Các yếu tố thuộc môI trường vi mô.
Các yếu tố và lực lượng bên trong doanh nghiệp.
Nhiệm vụ ccơ bản của hệ thống marketing là sáng tạo ra các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ để cung cấp cho thị trường mực tiêu. Tuy nhiên, công việc đó có thành công hay không lạI chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố và lực lượng. Trước hết các quyết định marketing phảI tuân thủ nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu cụ thể, các chính sách và định hướng phát triển do ban lãnh đạo công ty vạch ra. Do đó ban lãnh đạo doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn tới hoạt động và các quyết định của bộ phận marketing. Bên cạnh đó, bộ phận marketing phảI làm việc đồn bộ, chặt chẽ với các bộ phận chức năng khác trong công ty như: tàI chính- kế toán, vật tư- sản xuất, kế hoạch, nghiên cứu và phát triển, bộ phận thiết kế, bộ phận nhân lực. Mỗi bộ phận có một nhiệm vụ cụ thể. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm thì mỗi doanh nghiệp phảI được sự đồng tình của các bộ phận với nhau thì mới tạo ra được ưu thế trên thị trường.
1.2. Những người cung ứng.
Những người cung ứng là các doanh nghiệp và các cá nhân đảm bảo cung ứng các yếu tố cần thiết cho công ty và các đối thủ cạnh tranh để có thể sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ nhất định.
Bất kỳ một sự biến đổi nào từ phía người cung ứng, sớm hay muộn, trực tiếp hay gián tiếp cũng sẽ ảnh hưởng tới hoạt động marketing của công ty. Nhà quản lý phảI luôn luôn có đầy đủ các thông tin chính xác về tình trạng, số lượng, chất lượng, giá cả…hiện tạI và tương lai của các yếu tố nguồn lực cho sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Thậm chí họ còn phảI quan tâm tới tháI độ của các nhà cung cấp đối với doanh nghiệp mình và các đối thủ cạnh tranh. Nguồn lực khan hiếm, giá cả tăng có thể làm xấu đI cơ hội thị trường cho việc kinh doanh những hàng hoá và dịch vụ nhất định, tồi tệ hơn có thể buộc doanh nghiệp phảI ngừng sản xuất.
1.3. Các trung gian marketing.
Đó là các tổ chức dịch vụ, các doanh nghiệp và các cá nhân giúp cho công ty tổ chức tốt việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của mình tới người mua cuối cùng.
Những người trung gian và các hãng phân phối chuyên nghiệp đóng vai trò rất quan trọng giúp cho doanh nghiệp tìm kiếm khách hàng hoặc là thực hiện công việc bán hàng cho họ. Đó là những đạI lý bán buôn, bán lẻ, đạI lý phân phối độc quyền, các công ty kho vận…
Lựa chọn và làm việc với người trung gian và các hãng phân phối là những công việc hoàn toàn không đơn giản. Nếu nền kinh tế càng phát triển, trình độ chuyên môn hoá càng cao thì họ không còn chỉ là các cửa hàng nhỏ lẻ, các quầy bán hàng đơn gi._.ản, độc lập. Xu thế đã và đang hình thành các siêu thị, các tập đoàn phân phối hàng hoá rất mạnh về tiềm lực và tiến hành nhiều loạI hoạtđộng đồng thời như vận chuyển , bảo quản làm tăng giá trị và phân phối hàng hoá dịch vụ một cách nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm… qua đó tác động đến uy tín, khả năng tiêu thụ sản phẩm của nhà sản xuất.
Các hãng dịch vụ marketing như công ty tư vấn, tổ chức nghiên cứu marketing, các công ty quảng cáo, đàI phát thanh, vô tuyến, báo, tạp chí…giúp cho công ty tập trung và khuyếch trương sản phẩm của mình đúng đối tượng, đúng thị trường, đúng thời gian. Lựa chọn và quyết định sẽ cộng tác với hãng cụ thể nào để mua dịch vụ của họ là đIều mà doanh nghiệp phảI cân nhắc hết sức cẩn thận; nó liên quan đến các tiêu thức như chất lượng dịch vụ, tính sáng tạo và chi phí…
1.4. Khách hàng.
Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ và là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bạI của doanh nghiệp. Bởi vì khách hàng tạo nên thị trường, quy mô khách hàng tạo nên quy mô thị trường. Khách hàng sẽ bao hàm nhu cầu, bản thân nhu cầu lạI không giống nhau giữa các nhóm khách hàng và thường xuyên biến đổi. Nhu cầu và sự biến đổi nhu cầu lạI chịu chi phối của nhiều yếu tố, đến lượt mình nhu cầu và sự biến đổi của nó lạI ảnh hưởng đến toàn bộ các quyết định marketing của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp phảithường xuyên theo dõi khách hàng và tiên liệu những biến đổi về nhu cầu của họ. Để việc nắm và theo dõi thông tin về khách hàng, doanh nghiệp thường tập trung vào năm loạI thị trường khách hàng sau:
+ Thị trường người tiêu dùng: cá nhân vàhộ tiêu dùng mua hàng hoá và dịch vụ cho mục đích tiêu dùng cá nhân.
+ Thị trường khách hàng doanh nghiệp là: các tổ chức và các doanh nghiệp mua hàng hoá và dịch vụ để gia công chế biến thêm hoặc để sử dụng vào một quá trình sản xuất khác.
+ Thị trường các cơ quan và tổ chức của Đảng và Nhà nước mua hàng hoá và dịch vụ cho mục đích sử dụng trong lĩnh vực quản lý và hoạt động công cộng hoặc để chuyển giao tới các tổ chức, cá nhân đang có nhu cầu sử dụng.
+Thị trường quốc tế: khách hàng nước ngoàI bao gồm người tiêu dùng, người sản xuất, người mua trung gian và chính phủ ở các quốc gia khác. Nhu cầu và các yếu tố tác động đến nhu cầu của khách hàng trên các thị trường trên là không giống nhau. Do đó tính chất ảnh hưởng đến hoạt động marketing của các doanh nghiệp cũng khác, bởi vậy chúng cần được nghiên cứu riêng tuỳ vào mức độ tham gia vào các thị trường của mỗi doanh nghiệp.
1.5. Đối thủ cạnh tranh.
Nhìn chung mọi công ty đều phảI đối đầu với các đối thủ cạnh tranh khác nhau. Quan đIểm marketing xem xét cạnh tranh trên bốn cấp độ.
Cạnh tranh mong muốn tức là với cùng một lượng thu nhập, người ta có thể dùng vào các mục đích khác nhau: xây nhà, mua phương tiện, đI du lịch…, khi dùng vào mục đích này có thể thôI không dùng vào mục đích khác, dùng cho mục đích này nhiều sẽ hạn chế dùng vào mục đích khác. Cơ cấu chi tiêu đó có thể phản ánh một xu hướng tiêu dùng, và do đó tạo ra cơ hội hay đe doạ hoạt động marketing của doanh nghiệp.
Cạnh tranh giữa các loạI sản phẩm khác nhau để cùng thoả mãn một mong muốn. Mong muốn về phương tiện đI lạI có thể gây ra sự cạnh tranh giữa các hãng bán xe con, xe gắn máy, các hãng vận tảI khách.
Cạnh tranh trong cùng loạI sản phẩm.
Cạnh tranh giữa các nhãn hiệu.
Đó là các đối thủ cạnh tranh có mặt hàng giống như mặt hàng của doanh nghiệp hoặc các mặt hàng có thể thay thế lẫn nhau.
Môi trường vĩ mô.
Môi trường nhân khẩu học.
Nhân khẩu học nghiên cứu các vấn đề dân số và con người như quy mô, mật độ, phân bố dân cư, tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tuổi tác, giới tính, sắc tộc, nghề nghiệp…môI trường nhân khẩu học là mối quan tâm lớn của các nhà hoạt động thị trường, bởi vì nó bao hàm con người- và con người tạo ra thị trường cho doanh nghiệp.
Từ môI trường nhân khẩu các doanh nghiệp nghiên cứu để phân phối các sản phẩm của mình cho phù hợp với nhu cầu của từng lớp người, từng lứa tuổi.
Sự thay đổi về cơ cấu tuổi tác trong dân cư sẽ dẫn đến tình trạng thay đổi cơ cấu khách hàng tiềm năng…
Môi trường công nghệ kỹ thuật.
MôI trường công nghệ kỹ thuật bao gồm các nhân tố gây tác động ảnh hưởng đến công nghệ mới, sáng tạo sản phẩm và cơ hội thị trường mới. Kỹ thuật công nghệ mới bắt nguồn từ thành quả của công cuộc nghiên cứu khoa học, đem lạI những phát minh và sáng tạo làm thay đổi bộ mặt thế giới và là một nhân tố quan trọng nhất tạo ra thời cơ và đe doạ các doanh nghiệp. Những phát minh từ sáng kiến khoa học công nghệ tạo ra xu thế mới trong người tiêu dùng, nhiều sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ. Công cuộc cạnh tranh về kỹ thuật công nghệ mới không chỉ cho phép các công ty chiến thắng trên phạm vi có tính toàn cầu mà còn làm thay đổi bản chất của sự cạnh tranh. Bởi vì chúng tác động mạnh mẽ đến chi phí sản xuất và năng suất lao động, ảnh hưởng đến việc thực thi các giảI pháp cụ thể của marketing.
Công nghệ sinh học và vật liệu mới sẽ thực sự giúp chúng ta tiến xa hơn nữa. Bên cạnh đó là việc tập trung vào cảI tiến và hoàn thiện các sản phẩm hàng hoá dịch vụ hiện có, dù chỉ là những chi tiết rất nhỏ bé tưởng chừng như ít được để ý. Chính những đIều như: thay đổi kiểu dáng, bao bì nhãn hiệu, thêm vào một số đặc tính mới, copy và cảI tiến sản phẩm của đối thủ cạnh tranh… đã làm kéo dàI vòng đời sản phẩm, đưa nó vào một pha phục hồi hay tăng trưởng mới, mở rộng được thị trường và thu về các khoản lợi nhuận không nhỏ.
Các doanh nghiệp cần phảI nắm bắt và hiểu rõ được bản chất của những thay đổi trong môI trường công nghệ kỹ thuật cùng nhiều phương thức khác nhau mà một công nghệ mới có thể phục vụ cho nhu cầu của con người; mặt khác họ phảI cảnh giác kịp thời phát hiện các khả năng xấu có thể xảy ra, gây ra thiệt hạI tới người tiêu dùng hoặc các khía cạnh đối lập có thể phát sinh.
2.3.Môi trường văn hoá xã hội
ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và hành vi của con người qua đó nó ảnh hưởng đến hành vi mua săms của khách hàng. Vì vậy văn hoá xã hội là công cụ sắc bén để các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh sản phẩm của mình trên thị trường, bao gồm:
+ Dân số và xu hướng vận động.
+ Các hộ gia đình và xu hướng vận động.
+ Sự di chuyển của dân cư.
+ Thu nhập của dân cư và xu hướng vận động: phân bố thu nhập giữa các nhóm người và các vùng địa lý.
+ Việc làm và vấn đề phát triển việc làm.
+ Dân tộc và các đặc đIểm tâm sinh lý.
Chính sách thương mại.
Đối với doanh nghiệp nhà nước: Nhà nước đầu tư về tàI chính, cơ sở vật chất- kỹ thuật, nhân lực để phát triển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh những mặt hàng thiết yếu nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động thương mạI, là một trong những công cụ của nhà nước để đIều tiết cung cầu, ổn định giá cả nhằm góp phần thực hiện những mục tiêu kinh tế- xã hội của đất nước.
Nhà nước có chính sách phát triển các doanh nghiệp công ích, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực không thu lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp mà các thành phần kinh tế khác không kinh doanh.
Đối với hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác khác trong thương mại.
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp khác của hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác khác trong thương mạI, có chính sách ưu đãI, hỗ trợ và tạo đIều kiện cho hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác khác đổi mới và phát triển, bảo đảm để kinh tế nhà nước cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Đối với thương nhân thuộc các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân.
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp khác của thương nhân thuộc các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân trong thương mạI; khuyến khích, tạo đIều kiện thuận lợi cho thương nhân thuộc các thành phần này hợp tác, liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức đạI lý hoặc hình thành các doanh nghiệp tư bản nhà nước, các hình thức sở hữu hỗn hợp nhằm phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, tạo nội lực cho các doanh nghiệp thương mạI Việt Nam phát triển, mở rộng thương mạI hàng hoá và dịch vụ thương mại.
Đối với nông thôn:
Nhà nước có chính sách phát triển thương mạI đối với thị trường nông thôn, tạo đIều kiện mở rộng và phát triển chợ nông thôn. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ lực cùng với hợp tác xã và các thành phần kinh tế khác thực hiện việc bán vật tư nông nghiệp, hàng công nghiệp, mua nông sản nhằm góp phần nâng cao sức mua của nông dân và tạo tiền đề thúc đẩyviệc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất hàng hoá , thực hiện công nghiệp hoá, hiện đạI hoá nông thôn.
Đối với miền núi, hảI đảo, vùng sâu vùng xa.
Nhà nước có chính sách phát triển thương mạI ở miền núi, hảI đảo, vùng sâu vùng xa, có chính sách tiêu thụ sản phẩm của địa phương; có chính sách và biện pháp ưu đãI về thuế, tín dụng đối với các thương nhân kinh doanh một số mặt hàng thiết yếu; trợ giá; trợ cuớc cho những doanh nghiệp được giao nhiệm vụ cung ứng các mặt hàng phục vụ việc thực hiện chính sách xã hội và có chính sách đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng để mở rộng giao lưu kinh tế ở các vùng này.
3.6. Chính sách lưu thông hàng hoá và dịch vụ thương mại:
Nhà nước khuyến khích, tạo đIều kiện mở rộng lưu thông hàng hoá, phát triển dịch vụ thương mạI mà pháp luật không hạn chế hoặc không cấm.
Trong trường hợp cần thiết nhà nước có thể sử dụng các biện pháp kinh tế, hành chính để tác động vào thị trường nhằm bảo đảm cân đối cung cầu hoặc thực hiện các chính sách kinh tế- xã hội.
Cấm lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ gây phương hạI đến quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam, môI trường sinh tháI, sản xuất và sức khỏe của nhân dân.
Cấm mọi hành vi cản trở lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ hợp pháp trên thị trường.
Chính phủ công bố danh mục hàng hoá cấm lưu thông, dịch vụ thương mạI cấm thực hiện, danh mục hàng hoá, dịch vụ hạn chế kinh doanh, kinh doanh ở đIều kiện.
3.7 Chính sách ngoại thương.
Nhà nước thống nhất quản lý ngoạI thương, có chính sách mở rộng giao lưu hàng hoá với nước ngoàI trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia xuất khẩu theo quy định của pháp luật; có chính sách ưu đãI để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo các mặt hàng xuất khẩu có sức cạnh tranh, tăng xuất khẩu dịch vụ thương mạI; hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và có khả năng đáp ứng nhu cầu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước; ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị công nghệ cao, kỹ thuật hiện đạI để phát triển sản xuất, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đạI hoá đất nước.
Chính phủ quy định các chinh sách cụ thể về ngoạI thương trong từng thời kỳ và chính sách đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoàI tham gia phát triển ngoạI thương.
“Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh nhứng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế; giảm trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm; nâng dần tỷ trọng dp có hàm lượngtrí tuệ, hàm lượng công nghệ cao, xây dụng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hoá sản xuất trong nước. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chon, có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước”.
Nhiệm vụ phát triển thương mạI dịch vụ trong những năm tới là : “Phát triển thương mạI cả nội thương và ngoạI thương, bảo đảm hàng hoá lưu thông thông suốt trong thị trường nội địa và giao lưu buôn bán với nước ngoài. Chú trọng công tác tiếp thị và mở rộng thị trường nông thôn, thị trường miền núi, tạo liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong nước. Củng cố thương mạI nhà nước, tăng cường vai trò đIều tiết của nhà nước. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trên thị trường tăng khoảng 11- 14%/năm.
chương II
thực trạng về khả năng cạnh tranh các sản phẩm việt nam trên thị trường.
Đặc đIểm kinh tế kỹ thuật về các sản phẩm Việt Nam trên thị trường.
Vai trò quản trị trong việc xây dựng lợi thế cạnh tranh của sản phẩm dựa trên công nghệ.
Ngày nay công nghệ được xem như là một tổng hợp của bốn thành phần: Thiết bị, con người, tổ chức và thông tin. Trong đó, thiết bị là phần cốt lõivà con người giữ vai trò quyết định. Bốn thành phần trên liên hệ mật thiết với nhau và tạo thành phương tiện chuyển đổi trong quá trình sản xuất vật chất như sau:
Công nghệ
Quá trình sản xuất.
Các yếu tố đầu vào Sản phẩm và dịch vụ
Trong sản xuất, công nghệ là nhân tố sống động mang tính chất quyết định nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt ở thị trường trong nước cũng như ngoàI nước, công nghệ đang là mối quan tâm sâu sắc của mọi quốc gia. Riêng đối với từng doanh nghiệp, công nghệ là vũ khí sắc bén để tạo lợi thế cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy một vàI công ty của Mỹ với tiềm lực công nghệ dồi dào, hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp có hàm lượng côngnghệ cao như chế tạo xe hơI, dụng cụ cơ khí, hàng đIện tử dân dụng, tự động hoá…lạI không thể tạo được lợi thế trước các đối thủ cạnh tranh mà lợi thế cạnh tranh chỉ đến với các doanh nghiệp có một chiến lược thích hợp trong sử dụng công nghệ; đIển hình như công ty Merek (Đức) tạo được lợi thế cạnh tranh trong ngành dược, Union Carbide và DowChemical (Mỹ) tạo được lợi thế cạnh tranh trong ngành hoá chất…đều là các công ty đã có chiến lược sử dụng công nghệ hợp lý.
Có nhiều yếu tố tác động đến sự hình thành lợi thế cạnh tranh dựa trên công nghệ của doanh nghiệp như yếu tố bên ngoàI gồm môI trường tàI chính- tiền tệ, cơ cấu công nghiệp chính sách của Nhà nước về kinh doanh và công nghệ; yếu tố bên trong như chu kỳ sống của sản phẩm, mức độ thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm…Tuy nhiên, yếu tố tác động cơ bản theo các nhà kinh tế đó là vai trò quản trị. Thực vậy, quản trị và công nghệ đã hình thành lợi thé cạnh tranh của doanh nghiệp biểu hiện trên ba mặt của sản phẩm- dịch vụ như giá thành hạ, nâng cao chất lượng và cung cấp đúng lúc cho thị trường. Các tác động trên được thể hiện qua ba sơ đồ sau:
Chi phí sản xuất thấp.
Công nghệ
áp dụng các công nghệ phù hợp, công nghệ tiên tiến…để sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào.
Nâng cao chi phí máy móc,
thiết bị để giảm:
Chi phí lao động
Chi phí năng lượng
Chi phí nguyên vật liệu
Quản trị
Phối hợp quản trị sản xuất với chiến lược sử dụng công nghệ nhằm giảm chi phí của quá trình sản xuất.
Giảm chi phí của quá trình
sản xuất nhằm giảm thiểu:
Chi phí về sản phẩm không đạt chất lượng
Chi phí về tồn trữ
Sơ đồ 1- Tác động của quản trị và công nghệ nhằm tạo giá thành sản phẩm thấp.
Công nghệ
Đổi mới công nghệ
Đổi mới cơ bản
Đổi mới từng phần
Đổi mới hệ thống
Nâng caođộ
tin cậy của
Lợi thế cạnh tranh.
Nâng cao chất lượng sản phẩm.
quá trình sản xuất.
Quản trị
Quản trị chất lượng
Quản trị theo ISO
Nâng cao hiệu
quả .sản xuất.
Sơ đồ 2- Tác động quản trị và công nghệ nhằm cung cấp sản phẩm- dịch vụ đúng lúc cho thị trường. Nâng cao độ tin cậy của quá trình sản xuất.
Công nghệ
Nâng cao năng lực công nghệ nội sinh.
Nâng cao năng
lực Lợi thế cạnh tranh.
Cung cấp năng lực
sản phẩm mới
nghiên cứu
và triển khai.
Quản trị
Huy động nguồn lực.
Đánh giá chiến lược sản phẩm mới.
Đổi mới
công nghệ
Sơ đồ 3- Tác động của quản trị và công nghệ nhằm cung cấp sản phẩm- dịch vụ đúng lúc cho thị trường.
Đối với các nước đang phát triển, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp còn lạc hậu so với các nước phát triển. Do đó để có thể tạo được lợi thế cạnh tranh dựa trên công nghệ, các doanh nghiệp phảI kết hợp chặt chẽ giữa quản trị công nghệ để hình thành chiến lược sử dụng công nghệ phù hợp. Thực chất, doanh nghiệp phảI biết kết hợp chặt chẽ giữa ba chiến lược: chiến lược nghiên cứu thị trường, chiến lược và phương án sản phẩm mới cùng chiến lược và phương án đổi mới công nghệ.
Từ nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp phát hiện ý tưởng về sản phẩm mới và trên nền tảng ý tưởng đó xây dựng phương án sản phẩm mới gồm các bước như sau:
ý tưởng về sản phẩm mới
Quản trị và công nghệ
Thị trường
Khám phá
Sản xuất
Phân phối
Quyết định
Triển khai
Trong giai đoạn khám phá, nhà quản trị cần có đủ thời gian, tiền bạc, nhân sự,… để tiến hành tìm hiểu “các đầu vào” của khách hàng làm cơ sở cho hoạch định phương án sản phẩm mới. Cụ thể gồm các công việc:
Liệt kê các nguồn lực cần sử dụng.
Thực hiện các cuộc tiếp xúc khách hàng của nhân viên tiếp thị.
Thực hiện các cuộc tiếp xúc khách hàng của các nhà chế tạo.
Thực hiện tốt các công tác quản trị tiếp thị.
Xác lập mục tiêu.
Dự thảo phương án sản phẩm mới.
Trên cơ sở phân tích dự thảo phương án sản xuất mới, nhà quản trị ra quyết định và cấp kinh phí cho giai đoạn triển khai. Trong giai đoạn này nhà quản trị thực hiện các phần việc:
Gia tăng các hoạt động tiếp xúc khách hàng đẻ thuthập ý kiến.
Hoàn thiện thiết kế chi tiết kỹ thuật cho sản phẩm mới để sản xuất.
Lựa chọn công nghệ thích hợp và cung cấp các nguồn lực phù hợp để triển khai dự án.
Sau khi sản phẩm được tung ra thị trường, nhà quản trị phảI tiếp tục thực hiện tốt công tác nghiên cứu tiếp thị gồm:
Đánh giá tiềm năng thị trường.
Các vấn đề về cảI tiến quy trình sản xuất mà trước đây chưa dự báo được.
Khách hàng tiềm năng.
Các vấn đề phát sinh khi sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường.
Từ các phân tích đánh giá đó doanh nghiệp cảI tiến quy trình sản xuất để chế tạo sản phẩm chất lượng cao, chi phí thấp hơn tạo lợi thế cạnh tranh.
Thực tế nghiên cứu một số doanh nghiệp hiện đạI hoá thành công ở thành phố Hồ Chí Minh (1991- 1997) của sở khoa học công nghệ và môI trường thành phố đã phát hiện nguyên tắc phát triển; “Việc hiệnđạI hoá không nhất thiết bắt đầu từ đổi mới công nghệ, thiết bị mà xuất phát từ đổi mới sản phẩm”. ĐIển hình công ty cao su Thống Nhất đã quyết định từ bỏ mặt hàng truyền thống là vỏ ruột xe đạp khi mà thị trường đã bị thu hẹp để chuyển sang sản phẩm mới là huyết áp kế , rồi đến sản phẩm coa su kỹ thuật và giày thể thao; công ty nhựa SàI gòn đã từ bỏ sản phẩm nhựa dân dụng khi mà thị trường ở đó cạnh tranh gay gắt để chuyển sang sản xuất sản phẩm nhựa công nghiệp như tấm lợp và rồi đến các sản phẩm mới, các công ty này cũng đã thực hiện theo các bước trên và khi đến giai đoạn triển khai, khi mà sản phẩm mới đã tạo ra được thế cạnh tranh thì doanh nghiệp mới tìm giảI pháp đổi mới công nghệ để tạo sản phẩm có chất lượng cao với chi phí thấp. Việc đổi mới công nghệ của doanh nghiệp phảI dựa trên cơ sở nhu cầu thị trường về sản phẩm dịch vụ và từ thực trạng cùng khả năng về vốn và công nghệ của doanh nghiệp mà xây dựng phương án đổi mới công nghệ.
Sự thành bạI của đổi mới công nghệ phụ thuộc rất nhiều vào các giảI pháp như lựa chọn hình thức đổi mới thích hợp tăng nguồn vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp.
Về hình thức đổi mới công nghệ”
+ Nhập một số thiết bị mới ở các khâu trọng đIểm trong toàn bộ dây chuyền sản xuất, hoặc nhập thiết bị đã qua sử dụng.
+ Từ nghiên cứu cảI tiến thiết bị hiện có, hoặc tự chế thiết bị mới, hoặc ứng dụng công nghệ tiên tiến của các doanh nghiệp cùng ngành ở trong nước.
+ Liên kết với các cơ quan nghiên cứu triển khai trong nước như các trường đạI học, các viện và trung tâm nghiên cứu để tiếp nhận công nghệ mới.
+ Bước đầu vay vốn để nhập thiết bị sản xuất mặt hàng mới, khi đã có chỗ đứng và có lực thì tiến hành liên doanh với nước ngoàI để có công nghệ hiện đạI và mở rộng quy mô sản xuất.
Về tăng nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ: Doanh nghiệp phảI đa dạng hoá và đổi mới các cơ cáu nguồn vốn cho đổi mới công nghệ. Cụ thể là kết hợp các nguồn vốn hiện có như vốn đầu tư từ ngân sách, vốn vay ngân hàng, vốn viện trợ, vốn tự có, vốn liên doanh- liên kết cùng các nguồn vốn khác. Vốn từ phát hành cổ phiếu, tráI phiếu, hoặc kiến nghị Nhà nước thành lập quỹ hỗ trợ cho đổi mới công nghệ.
Về nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp. Năng lực công nghệ của doanh nghiệp được đo bằng khả năng của đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật của doanh nghiệp có thể nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật- công nghệ và sản xuất và khả năng tiếp nhận, sử dụng và phát triển có hiệu quả công nghệ được chuyển giao từ nước ngoài. Do đó cần nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật, đặc biệt coi trọng công tác đào tạo và đào tạo lạI để từ chỗ phụ thuộc công nghệ, làm thích nghi công nghệ nhập, cảI tiến công nghệ nhập, phát triển công nghệ có liên quan và sau cùng phát triển công nghệ mới.
Các phân tích trên cho thấy quản trị đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lợi thế cạnh tranh cuả doanh nghiệp dựa trên cơ sở công nghệ; đặc biệt đối với các doanh nghiệp các nước đang phát triển khi mà trình độ công nghệ còn thấp. Để xây dựng lợi thế cạnh tranh dựa trên cơ sở công nghệ, các doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược sử dụng công nghệ thích hợp; đó là việc kết hợp chặt chẽ ba chiến lược: chiến lược nghiên cứu thị trường, chiến lược và phương án sản phẩm mới cùng chiến lược và phương án đổi mới công nghệ.
phân tích thực trạng cạnh tranh của các sản phẩm việt nam trên thị trường.
1. Tình hình kinh tế chung.
Nền kinh tế vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực.
Nổi bật là nông nghiệp phát triển liên tục, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung và giữ vững ổn định kinh tế- xã hội. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 5.7% so với mục tiêu đề ra 4.5- 5% trong đó nông nghiệp tăng 5.6%, lâm nghiệp 0.4%, ngư nghiệp 8.4%. Cơ cấu mùa vụ đã chuyển dịch theo hướng tăng diện tích lúa đông xuân và lúa hè thu có năng suất cao, ổn định. Các loạI giống lúa mới đã được sử dụng trên 87% diện tích gieo trồng. Sản lượng lương thực có hạt tăng bình quân hàng năm 1.6 triệu tấn; lương thực bình quân đầu người đã tăng từ 360kg năm 1995 lên 444kg năm 2000. Nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn với công nghiệp chế biến bước đầu được hình thành; sản phẩm nông nghiệp đa dạng hơn. So với năm 1995 diện tích một số cây công nghiệp tăng khá; cà phê gấp hơn 2.7 lần, cao su tăng 46%, mía tăng khoảng 35%, bông tăng 8%, thuốc lá tăng trên 18%, rừng nguyên liệu tăng 6%….Một số loạI giống cây công nghiệp có năng suất cao đã được đưa vào sản xuất đạI trà.
Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị đất nông nghiệp tăng từ 13.5 triệu đồng/ha năm 1995 lên 17.5 triệu đồng/ ha năm 2000.
Chăn nuôI tiếp tục phát triển sản lượng thịt lợn hơn năm 2000 ước trên 1.4 triệu tấn, bằng 1.4 lần so với năm 1995.
Nghề nuôI, trồng và đánh bắt thuỷ sản phát triển khá. Sản lượng thuỷ sản năm 2000 đạt trên 2 triệu tấn so với mục tiêu kế hoạch 1.6- 1.7 triệu tấn, xuất khẩu đạt 1.475 triệu USD.
Xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2000 đạt 4.3 tỷ USD, gấp hơn 1.7 lần so với năm 1995, bình quân hằng năm chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu cả nước, đã tạo được 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo (đứng thứ 2 thế giới), cà phê (đứng thứ 3 thế giới) và hàng thuỷ sản chiếm 35% trị giá kim ngạch xuất khẩu toàn ngành.
Thứ đến công nghiệp và xây dựng vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được nhiều tiến bộ.
Nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm 13.5%; trong đó công nghiệp quốc doanh tăng 9.5%, công nghiệp ngoàI quốc doanh tăng 11.5%, khu vực vốn đầu tư nước ngoàI tăng 21.8%.
Một số ngành công nghiệp tiếp tục tổ chức và sắp xếp lạI sản xuất, lựa chọn các sản phẩm ưu tiên và có lợi thế, có nhu cầu của thị trường để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, đạt chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Năng lực sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá: năm 2000 so với năm 1995, công suất đIện gấp 1.5 lần (tăng 2.715 MW); xi măng gấp 2.1 lần (tăng 8.7 triệu tấn); phân bón gấp trên 3 lần (tăng 1.5 triệu tấn); thép gấp 1.7 lần (tăng 1.0 triệu tấn); mía đường gấp hơn 5 lần (tăng hơn 60000tấn mía/ ngày).
Sản lượng một số sản phẩm quan trọng tăng nhanh. Năm 2000 so với năm 1995 sản lượng dầu thô gấp 2.1 lần, đIện gấp 1.8 lần, than sạch vượt ngưỡng 10 triệu tấn, trong đó xuất khẩu trên 3.0 triệu tấn, thép cán gấp 1.5 lần, giấy các loạI gấp 1.7 lần….
Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp (kể cả tiểu thủ công nghiệp) tăng nhanh. Năm 2000 đạt 10 tỷ USD, gấp hơn 3.4 lần năm 1995, chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuấtkhẩu cả nước.
Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất dịch vụ khai thác dầu khí chiếm khoảng 11.2% tổng giá trị sản xuất toàn ngành, công nghiệp sản xuất thực phẩm và đồ uống chiếm khoảng 20.0%, công nghiệp sản xuất và phân phối đIện, khí đốt, hơI nước chiếm khoảng 5.4%.
Ngành xây dựng đã tiếp nhận công nghệ xây dựng mới, trang thiết bị thêm nhiều thiết bị hiện đạI, đáp ứng được nhu cầu phát triển trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, có thể đảm đương việc thi công những công trình xây dựng cả trong và ngoàI nước được tăng cường.
Đáp ứng đủ nhu cầu xi măng, tấm lợp, cơ bản đáp ứng nhu cầu về thép xây dựng thông thường. Một số loạI vật liệu xây dựng chất lượng cao (gạch lát nền, gạch ốp lát) sản xuất trong nước đạt tiêu chuẩn Châu Âu và khu vực.
Kinh tế đối ngoạI tiếp tục phát triển.
Hoạt động xuát khẩu tiếp tục phát triển khá.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt trên 51.6 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm trên 21%, gấp 3 lần mức tăng GDP. Khối lượng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng khá. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự thay đổi một bước.Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản vẫn chiếm vị trí quan trọng nhưng có xu hướng giảm dần, từ 42.3% năm 1996 xuống còn 30% năm 2000; tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu công nghiệp thủ công nghiệp tăng tương ứng từ 29% lên 34.4%, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản từ 28.7% lên 35.7%.
Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 186 USD/ người, tuy còn ở mức thấp nhưng đã thuộc loạI các nước có nền ngoạI thương phát triển.
Thị trường xuất, nhập khẩu được củng cố và mở rộng thêm. Thị trường Châu á chiếm gần 58% tổng kim ngạch xuất khẩu và trên 80% tổng kim ngạch nhập khẩu cuả Việt Nam; riêng thị trường các nước Asean tương ứng chiếm trên 18% và 29%. Trên một số thị trường khác như EU, châu Mỹ, Trung Đông, hàng xuất khẩu của ta đã có mặt và đang tăng dần.
Tuy chưa tính vào cân đối xuất, nhập khẩu hàng năm, những các dịch vụ thu ngoạI tệ như kiều hối, xây dựng các công trình ở nước ngoàI (trúng thầu), xuất khẩu lao động dịch vụ, trao đổi chuyên gia,…Đã tăng lên nhanh chóng trong thời gain qua.
Tổng kim ngạch nhập khẩu 5 năm khoảng 61 tỷ USD, tăng bình quân năm khoảng 13.3%; tỷ trọng người tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể từ 13% năm 1996 còn 5.2% năm 2000.
Mức chênh lệch xuất nhập khẩu so với kim ngạch xuất khẩu đã từ 49.6% năm 1995 giảm xuống còn 6.3% năm 2000.
Đầu tư trực tiếp nước ngoàI (FDI) tiếp tục gia tăng, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế- xã hội.
Trong 5 năm 1996- 2000, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoàI đưa vào thực hiện (không kể phần góp vốn trong nước) đạt khoảng 10 tỷ USD (theo giá năm 1995), gấp 1.5 lần so với 5 năm trước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoàI cấp mới và bổ sung đạt 24.6 tỷ USD, tăng so với thời kỳ trước 34%.
Cơ cấu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoàI ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta; tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 lên 85% năm 2000.
Đầu tư trực tiếp nước ngoàI từ các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU), ASEAN có chiều hướng tăng mức 5 năm trước (tỷ lệ vốn đăngký của các dự án từ EU bình quân chiếm 23.2% thời kỳ 1991- 1995 tăng lên 25.8% thời kỳ 1996- 2000; tỷ lệ vốn đăng ký các dự án từ các nước ASEAN đã tăng tương ứng từ 17.3% lên 29.8%). Riêng các nước thuộc EU, Mỹ, Nhật bản chiếm 44% tổng vốn đăng ký tạI Việt Nam.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoàI đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) và đóng góp trên 12% GDP của cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoàI đã thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc trong các ngành xây dựng, thương mạI, dịch vụ liên quan; góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý và mở rộng thị trường.
Tuy quy mô còn nhỏ, nhưng qua hoạt động đầu tư ra nước ngoàI, các doanh nghiệp Việt Nam có đIều kiện nâng cao hiệu quả, đẩy mạnh được xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và lao động ra nước ngoài.
Thực trạng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm.
Trong 10 năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong hoạt động ngoạI thương. Năm 1999 là năm phát triển mạnh mẽ và toàn diện các nghị định của chính phủ hướng dẫn thi hành luật thương mạI, luật thuế giá trị gia tăng (VAT) và luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong bối cảnh vẫn chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu á và một số nước khác, dự báo tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 1999 đạt 10 tỷ USD, tăng 7% so với năm 1998 cơ cấu xuất khẩu năm 1999 như sau: hàng nông lâm- thuỷ sản chiếm 37.3%, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 38.2%, hàng công nghiệp nặng, khoáng sản chiếm 24.5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Mặc dù hoạt động ngoạI thương có nhiều tiến bộ, nhưng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam vẫn còn yếu kém trên thị trường trong nước và thị trường thế giới, cụ thể đối với những mặt hàng chủ yếu sau:
Dệt may.
Tìm hiểu khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp Dệt- May Việt Nam.
Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường. Doanh nghiệp muốn tồn tạI và phát triển phảI có khả năng cạnh tranh cao. Đặc biệt đối với ngành sản xuất dệt- may, do có đặc đIểm là không đòi hỏi vốn lớn, lạI thu hồi vốn nhanh và sử dụng nhiều lao động, là ngành được hầu hết các nước đang phát triển tham gia, nên mức độ cạnh tranh c._.Nam và Indonesia. Trong tình hình diễn biến phức tạp của thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, ngành cà phê còn non trẻ của Việt Nam cần xác định cho mình phương hướng sản xuất kinh doanh đúng đăn. Nói cách khác là chúng ta phải có một chiến lược đúng về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Các giải pháp để tăng tính cạnh tranh trên thị trường.
Sang thế kỷ 21 chúng ta không khỏi băn khoăn trước nhiều câu hỏi đặt ra cho ngành cà phê vì thế cần phải có một quan điểm chiến lược đúng đắn, toàn diện và thống nhất để cà phê Việt Nam có ưu thế trên thị trường trong nước và xuất khẩu với một hệ thống các giải pháp đồng bọ.
* Vấn đề thâm canh tăng năng suất và duy trì sinh thái môi trường vườn cây bền vững.
Năm 1975 toàn quốc mới có 14.000 ha cà phê, sản lượng dưới 5000 tấn, năng suất 4 tạ/ha thì niên vụ 1999-2000 diện tích cà phê kinh doanh đã tốt hơn 200.000 ha năng suất bình quân trên 15 tạ/ha sản lượng 680.000 nghìn tấn. Hầu hết cà phê trồng trong các hộ gia đình quy mô vường 0,5-1 ha và đang ở tuổi sung sức, có nang sức khá cao, tập trung thành các vùng lớn ở các tình Tây Nguyên. Miền Đông Nam Bộ và một số tỉnh miền núi phía Bắc. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều, môi trường sinh thái đã có sự thay đổi lớn, cà phê sinh trưởng trong các vùng tập trung, sâu bệnh sẽ phát triển mạnh va dễ dàng trở thành dịch. Mà năm nay sâu bệnh đã gây hại ở một số nơi cần tập trung chữa trị dứt điển tránh để thành dịch lan rộng gây thiệt hại lớn như ở một số nước. Mặt khác cũng cần ngăn chặn những khuynh hướng khai thác bóc lột vườn cây như sử dụng phân hoá học quá nhiều, lạm dụng chất kích thích sinh trưởng, tưới nước ồ ạt.. thúc đẩy ra hoa quả nhiều để có năng suất kinh tế thấp kém. Thâm canh chăm sóc vườn canh, duy trì năng suất cao ổn định tạo moi trờng sinh thái bền vững suốt chu kỳ sinh trưởng phải là phương hướng nhiệm vụ quan trọng của toàn ngành phương hướng thâm canh cà phê trong thế kỷ 21 là đầu tư chiều sâu, ứng dụng rộng rãi tiến bộ sinh học và kỹ thuật mới vào các khâu giống chăm sóc để tăng chất lượng cà phê.
*Tích cực phát triển cà phê chè, ổn định cà phê vối:
Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cà phê vối và cà phê chè có năng suất và chất lượng cao. Những điều kiện thuận lợi để phát triển cà phê đã tạo cho Việt Nam lợi thế so sánh quan trọng. Có thể sản xuất ra cà phê hàng hoá có chất lượng cao và giá thành hạ để cạnh tranh trên thương trường quốc tế. mặt khác cũng phải thấy rằng thị trường cà phê quốc tế không phải đã ổn định. Nhu cầu tiêu dùng cà phê vẫn tăng lên hàng năm, nhiều thị trường mới được khôi phục và mở rộng, còn các nước sản xuất cà phê thì điều kiện thời tiết khí hậu không bình thường và nhiều nguyên nhân khác cũng đã gây nên những khó khăn trong cung ứng cà phê. Vì vậy nước ta có thể và cần phải nhanh chóng mở rộng thêm diện tích cà phê chè. Dự báo đến năm 2010 Việt Nam sẽ có 450.000 tấn cà phê, trong đó cà phê chè 100.000 ha sản lượng hơn 800.000 tấn và kim ngạch xuất khẩu cà phê khoảng 1,2 tỷ USD. Theo phương hướng này công tác quy hoạch khảo sát thiết kế các vùng trồng mới phải được tiến hành trước một bước và bố trí các mô hình sản xuất thực nghiệm nhằm xác định cơ cấu giống phù hợp. Chính phủ đã phê duyệt dự án phát triển cà phê chè 40.000 ha trong 5 năm (1997-2010) thời gian tới bằng vốn trong nớc và vốn vay ưu đãi của cùng phát triển Pháp (C=D). Hiện nay nhiều tỉnh đang triển khai trồng mới cà phê chè với tốc độ 300-1000 ha/năm /tỉnh. Đối với cà phê vói, cần ổn định diện tích hiện có ở Tây Nguyên, không mở rộng diện tích trồng mới trong thập niên đầu thế kỷ 21. Lấy thâm canh và nâng cao chất lượng làm hướng chính.
* Phát triển công nghiệp chế biến cà phê.
Việt Nam đã có một sản lượng cà phê khá lớn với phẩm chất thơm ngon vốn có của giống tốt được sản xuất trên các cao nguyên có điều kiện khí hậu thổ nhưỡng rất thích hợp. Tuy nhiên, cà phê xuất khẩu lại không có chất lượng tương xứng và vì vậy đã thua thiệt về giá cả so với các nước khác. Một thế giới dài trước đây công nghiệp chế biến cà phê đã không được quan tâm đầy đủ, trình độ công nghiệp thấp kém chậm đổi mới, có cơ sở sản xuất tổn thất nghiêm trọng, thất thu hàng tỷ đồng vì chất lượng hạt xấu. Mặt khác hơn 80% cà phê được sản xuất ra là từ các hộ nông dân sản xuất nhỏ thiếu các điều kiện sơ chế tối thiểu. Thật tiếc công nghiệp đồ uống cà phê nhỏ bé có nguy cơ bị nước ngoài cạnh tranh mất thị trường, chưa nói đến việc Việt Nam xuất khẩu cà phê thành phẩm để tăng thu ngoại tệ. Công nghiệp chế biến cà phê đã không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của sản xuất cà phê việc này đã nêu thiệt hại không nhỏ cho nhà nước. vì vậy trong năm tới đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến cà phê phải được coi là nhiệm vụ rất quan trọng của phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngành cà phê. Sử dụng thêm nhiều cụm chế biến công nghiệp bao gồm công nghiệp chế biến ướt và khô, hệ thống sấy, xay xát đánh bóng, sân phơi nhà kho .. mở rộng quy mô và nâng cấp nhà máy cà phê Biên Hoà lên 1.000 tấn/h và xây thêm một số nhà máy thành phẩm khác khi thị phần thường được mở rộng. Một việc không kém phần cấp bách là tổng Công ty cà phê Việt Nam phải sớm thành lập doanh nghiệp cơ khí chế biến cà phê để sản xuất và cung ứng các máy móc thiết bị chuyên dùng trong công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngành cà phê.
2.5. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam.
Tiềm năng và triển vọng của ngành thuỷ sản Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia ven biển, có chiều dài bờ biển 3.260Km vùng biển và thềm lục địa rộng lớn hơn 1 triệu Km2 với tiềm năng tài nguyên thiên nhiên phong phù, đặc biệt là thuỷ sản đã đang và sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm qua,ngành thuỷ sản nước ta luôn giữ được xu thế tăng trưởng không ngừng về năng lực sản xuất, sản lượng và giá trị. Nhờ coi trọng cả khai thác hải sản và nuôi trồng thuỷ sản nên sản lượng thuỷ sản tăng khá vững chắc. Năm 1997 đạt 1580 nghìn tấn tăng 15,8% so năm trước. Năm 1998 đạt 1.660 nghìn tấn, tăng 5,1%. Năm 1999 đạt 1750 nghìn tấn, tăng 5,4%.
Việt Nam đứng thứ 25 năm 1997 đứng thứ 29 trên thế giới về xuất khẩu thuỷ sản. Trong khu vực Đông Nam á năm 1996 Việt Nam đứng thứ 3, năm 1997 đứng thứ 4 .
Để tiếp tục nâng cao khả năng cạnh tranh của thuỷ sản cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
+ Nuôi trồng thuỷ sản có tính chất quyết định đến việc tăng sản lượng, phương hướng lâu dài là phải sản xuất thâm canh.
Việc tăng sản lượng thuỷ sản của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng vào thời gian đầu thế kỷ 21 sẽ chủ yếu hy vọng vào việc tăng sản lượng thuỷ sản nuôi trồng, còn khả năng đánh bắt cá tự nhiên rất hạn chế nhất là đối với nguồn hải sản đánh bắt ven bờ vì nguồn tài nguyên ở đây đã được khai thác quá công suất cùng với vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và chi phí đánh bắt đã tăng cao hơn ở mức có thể chấp nhận được. Bởi vậy, Nhà nước hỗ trợ dịch vụ cung ứng vốn, giống cơ sở vật chất kỹ thuật nuôi trồng tiêu thụ sản phẩm. Cho nhân dân là yếu tố có tính quyết định để tăng nhanh sản lượng và chất lượng thuỷ sản.
+ Xây dựng cơ cấu mặt hàng thuỷ sản hợp lý và đạt hiệu quả kinh tế cao, xây dựng cơ cấu đầu tư phát huy các lợi thế so sánh của từng địa phương và vùng lãnh thổ.
Theo dự báo của nhà kinh tế thế giới, trong thời kỳ 1996-2005, giá trị buôn bán thuỷ sản thế giới vẫn tiếp tục tăng ở mức 20-25% /năm. Quan hệ cung cầu có xu hướng ngày càng tăng cao. Tuy nhiên, để nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam, cần chú ý phát triển các loại thuỷ sản có giá trị và chất lượng cao, nhu cầu của thị trường thế giới đã tăng lên
+ Chương trình đánh bắt hải sản xa bờ có ý nghĩa to lớn về kinh tế và quốc phòng.
Để thực hiện tốt chương trình này cần phải huy động tối đa các nguồn vốn trong nước, vốn ODA và các nguồn vốn khác để phát triển các đội tầu lớn có khả năng ra khơi dài ngày, đánh bắt xa bờ, có phương tiện chế biến tại chỗ. Nghiên cứu đóng mới một số tàu lớn có đầy đủ các dịch vụ về nước đá, nước ngọt, dầu mỡ. đông lạnh, chế biến để làm đầu mối dịch vụ cho các vệ tinh. Xây dựng các cơ sở dịch vụ ở tuyến đảo để làm điểm trung chuyển giữa bờ và ngoài khơi đánh bắt để hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh và đảm bảo an ninh. Xây dựng và phát triển hệ thống cảng cá chợ cá phù hợp với sản lượng thuỷ sản của từng địa phương.
+ Xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng dạng hoá bạn hàng giảm dần tỷ trọng các thị trường trung gian, tăng nhanh tỷ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp, có nhu cầu thuỷ sản lớn.
Một mặt, duy trì, củng cố các thị trường truyền thống, mặt khác tích cực tìm các giải pháp để xuất khẩu sang các thị trường tiêu thụ trực tiếp, có nhu cầu như thuỷ sản lớn như UE, Mỹ. Những năm vừa qua Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản, Đài Loan, Xingapore, Thái Lan, EU, Mỹ, Trung Quốc, Hồng Kông… mục tiêu đến năm 2005 mỗi thị trường EU và Mỹ phải chiếm 20% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. Để đạt được mục tiêu trên ,cần tăng cường công tác thông tin thị trường, các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ nhu cầu tiêu dùng của từng thị trường nâng cao chất lượng sản phẩm bảo đảm vệ sinh thực phẩm, tích cực tham gia hội chợ chiển lãm, mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, tiếp cận với các siêu thị và hãng kinh doanh siêu thị để giới thiệu thuỷ sản Việt Nam, nhất là hàng hoá chế biến . Mặt khác cần nâng cao năng lực hoạt động của hội nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam, Hội nghề cá Việt Nam, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam để tập hợp các nhà sản xuất kinh doanh thuỷ sản, tạo cho họ cơ hội giúp đỡ nhau về công nghệ, vốn kinh doanh thông tin kinh tế thương mại, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của ngành thuỷ sản Việt Nam.
2.6. Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy tiêu thụ nông sản hàng hoá ở nước ta.
- Mục tiêu cơ bản phát triển nông nghiệp là: Xây dựng một nền nông nghiệp theo định hướng XHCN sản xuất hàng hoá mạnh, phát triển bền vững, từng bước được hiện đại hoá trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh, áp dụng công nghệ mới, công nghệ cao, làm ra sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp, có khả năng cạnh tranh chiếm thị trường trong nước và quốc tế.
- Mục tiêu đến năm 2010
+ Đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng phong phú và an toàn nhu cầu về lương thực thực phẩm của nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong nước và hướng mạnh ra xuất khẩu
+ Tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp 4-4,5% thuỷ sản 5-6%
+ Kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 9-10 tỷ USD trong đó nông nghiệp 6-7 tỷ USD, thuỷ sản 3 tỷ USD.
- Các giải pháp chủ yếu để thúc đẩy tiêu thụ nông sản hàng hoá ở Việt Nam ta cần tập trung là:
1. Thúc đẩy mạnh sản xuất sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao gồm thuỷ sản, lúa gạo, cà phê, hạt điều, hồ tiêu
Cụ thể
* Về thuỷ sản: Đẩy mạnh việc nuôi tôn, cá nước ngọt, nước lợ, nước biển, các loại đặc thuỷ sản đạt sản lượng 2 triệu tấn, tăng nhanh sản lượng đánh bắt xa bờ lên 700.000 tấn để đến năm 2010 nước ta đạt tổng sản lượng 3,4 triệu tấn thuỷ sản (gấp gần 2 lần), kim ngạch xuất khẩu 2,7-3 tỷ USD (gấp 3 lần so với năm 1991) tốc độ tăng bình quân đạt 18-20%
* Cây cà phê: Tập trung thâm canh tăng năng suất trên diện tích cà phê vối hiện có, mở rộng diện tích cà phê chè ở một số tình phía Bắc, hiện đại hoá khâu chế biến để nâng cao chất lượng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 0,7-1 tỷ USD/năm.
* Cây điều: tiếp tục mở rộng diện tích ở Duyên Hải miền Trung, Đông Nam á và ở những nơi có điều kiện phù hợp, thay đổi giống mới thành cây chế biến, để cả nước có khoảng 400-500 nghìn tấn hạt điều thô, xuất khẩu đạt 400-500 triệu USD/năm.
* Cây hồ tiêu: Tập trung đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất, tổ chức cao hơn, mở rộng sản xuất theo khả năng hoá sản phẩm để đạt giá cao hơn, mở rộng sản xuất theo khả năng thị trường: tới năm 2010 xuất khẩu đạt 200-250 triệu USD/năm.
Phát triển các sản phẩm cạnh tranh trung bình nhưng có triển vọng phát triển trong thập kỷ tới. Các sản phẩm thuộc nhóm này gồm có chè, cao su, tơ tằm, rau, hoa quả, lâm sản và các sản phẩm chăn nuôi đáng kể phát triển ở những nới có điều kiện thuận lợi, đặc biệt đưa nhanh giống mới chất lượng cao vào sản xuất, hình thành vùng sản xuất tập trung gắn với chế biến, phát triển các cơ sở chế biến hiện đại, tăng cường trang thiết bị và công nghệ mới, chú trọng phát triển công nghệ bảo quản sau thu hoạch để kéo dài thế giới sử dụng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu trong nước và từng bước đẩy mạnh xuất khẩu.
Phát triển sản xuất thay thế nhập khẩu. Một số sản phẩm mà trong nước có nhu cầu lớn, có thị trường để tiêu dùng trực tiếp hoặc làm nguyên liệu cho công nghiệp gồm: Các loại cây có dầu, sữa, buông, thuốc lá, thức ăn chăn nuôi.
1.2. Phát triển công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn.
Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ công nghiệp nông thôn trước hết là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, trong đó chú trọng các cơ sở chế biến vừa và nhỏ phù hợp với quy mô sản xuất hàng hoá của từng vùng, hỗ trợ các cơ sở hiện có đổi mới trang thiết bị nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm làm ra. Đồng thời khuyến khích phát triển ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn để góp phần giải quyết một cách cơ bản vấn đề việc làm và thu nhập của nông dân, nâng cao chất lượng và giá trị thương mại của nông, lâm, thuỷ sản.
2. Phát triển khoa học công nghệ làm cơ sở để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh sản phẩm hàng hoá.
Tập trung thực hiện các nội dung chính gồm: (1) chọn tạo, phổ biến giống cây trồng vật nuôi, cây lâm nghiệp, giống thuỷ sản có năng suất chất lượng cao trên cơ sở áp dụng công nghiệp sinh hoá đảm bảo trên 70% giống được dùng trong sản xuất là giống tiến bộ kỹ thuật.
2.1. áp dụng công nghệ hiện đại để bảo quản, chế biến sản phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, đặc biệt là sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Trước hết thay thế các trang thiees bị công nghiệp lạc hậu bằng thiết bị tiên tiến, làm ra sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường.
2.2. Từng bước cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp, nâng cao mức cơ giới hoá làm đất lên trên 70% áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước hiệu quả cao, (1)nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ, nghiên cứu kinh tế quản lý nhất là nghiên cứu về thị trường trong nước và quốc tế.
2.3. Nghiên cứu xây dựng mới, xót lại tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, quy trình, quy phạm phù hợp với yêu cầu tiêu dùng trong nước và tham gia hội nhập kinh tế.
2.4. Phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp với nền nông nghiệp hàng hoá sản xuất lớn.
3. Điều chỉnh các chính sách
* Về chính sách đất đai: Nghiên cứu điều chỉnh quy định về việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, điều chỉnh quy hoạch quỹ đất dành cho nuôi trồng thuỷ sản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra.
Về chính sách đầu tư: chú trọng hơn tới các công trình thuỷ lợi xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho thương mại, đầu tư đổi mới trang thiết bị khoa học công nghệ và mở rộng thị trường và nhất là thị trường xuất khẩu.
* Về chính sách tín dụng: Hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, hướng dẫn mọi người tiếp cận các nguồn tín dụng ưu tiên cho vay kinh doanh nông sản và vật tư, và thành lập các quỹ hỗ trợ.
* Về chính sách thuế: Điều chỉnh chính sách thuế đối với trang trại miễn thuế thu nhập doanh thu đối với hoạt động của hợp tác xã, bỏ thuế buôn chuyến đối với các hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản.
* Chính sách thị trường:
Chú trọng phát triển thị trường trong nước: Thực hiện các chương trình nâng cao sức mua của nông dan, đa dạng hoá các sản phẩm, phát triển mạnh thống nhất về thủ tục hải quan, Hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện các dự án xâm nhập thị trường mới có tiềm năng sử dụng các chính sách tài chính hỗ trợ xuất khẩu….
4. Tổ chức mạng lưới kinh doanh hàng hoá nông, lâm sản và vật tư nông nghiệp.
5. Đẩy mạnh đào tạo nhân lực trong nông thon
6. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế và hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, khuyến khích đầu tư nước ngoài.
7. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với thương mại hàng nông sản chủ động hội nhập
2.7. Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh Kẹo Hải Hà.
Công ty Bánh Kẹo Hải Hà là một trong những doanh nghiệp lớn của ngành sản xuất bánh kẹo nước ta. Công ty hiện có 7 đơn vị thành viên gồm 5 xí nghiệp trực thuộc và 2 liên doanh với nước ngoài là Hải Hà Kotobuki, Hải Hà - MiWon. Năm 1999 giá trị sản xuất công nghiệp đạt 136 tỷ đòng, nộp ngân sách đạt 18,2 tỷ đồng, nhiều sản phẩm bánh kẹo Hải Hà đã được tín nhiệm cao ở thị trường, nước ngoài. Vì vậy, phân tích đánh giá đúng những điểm mạnh, yếu trong phát triển sản xuất, kinh doanh những năm đổi mới vừa qua, đề xuất các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong thời gian tới là những đóng góp thiết thực cho Công ty và cũng là những bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp khác.
1. Thực trạng sản xuất
1.1. Về cơ cấu sản phẩm.
Trong những năm qua, tình hình cạnh tranh trên thị trường sản phẩm bánh kẹo trong nước diễn ra quyết liệt, không chỉ giữa các doanh nghiệp Nhà nước với tư nhân sản xuất bánh kẹo mà đối thủ cạnh tranh còn lại là các sản phẩm bánh kẹo nhập từ Thái Lan, Trung Quốc, Inđônêxia… đang tràn ngập thị trường cả nước. thị trường tiêu thụ bánh kẹo là rất da dạng chủng loại sản phẩm mới có thể thay thế cho nhau nhu cầu tiêu thụ thay đổi theo mùa vụ. Sự xuất hiện của sản phẩm mới có thể kích thích nhu cầu tiêu dùng tạo lợi thế cạnh tranh. Vì vậy mà Công ty liên tục đầu tư cho ra các sản phẩm mới như Bánh Gracker với dây chuyền sản xuất hiện đại của Italia, bánh Sôcôla, kẹo dừa thơm ngon mềm , kẹo Wandssncy kẹo Jelly chípchíp, bánh Violet, bánh dạ làn Hương… sản phẩm cua Công ty ngày càng mở rộng nhằm đáp ứng kịp thời trong nước.
1.2. Về chất lượng sản phẩm
Công ty bánh kẹo Hải Hà luôn chú ý đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm kẹo mềm do Công ty sản xuất là sản phẩm truyền thống có chất lượng ổn định, được người tiêu dùng trong nước tín nhiệm và đánh giá cao, hơn hẳn bánh kẹo nhập từ Trung Quốc có trên thị trường các tỉnh phía Bắc.
1.3. Về giá bán.
Công ty không hạ thấp giá bán của sản phẩm mà thay bằng việc tăng tỷ lệ chiết khấu tiêu thụ, hoặc kèm tặng phẩm và giải thưởng cho khách hàng mua nhiều sản phẩm của công ty.
Công ty đã áp dụng gói kẹo bằng máy thay thế gói thủ công vừa tăng suất, vừa bảo đảm vệ sinh công nghiệp. Do đó đã có được giá thành hợp lý cho các loại sản phẩm bánh kẹo truyền thống tạo khả năng cạnh tranh lớn về giá mà vấn đảm bảo có lãi trong sản xuất kinh doanh.
Nhận xét: Công ty bánh kẹo Hải Hả đã khai thác phát huy thế mạnh của mình trong cơ chế cạnh tranh để phát triển sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả, khẳng định được vị thế của doanh nghiệp trên thị trường sản xuất và tiêu dùng bánh kẹo nước ta. Có được như vậy là do:
Công ty đã biết chăm lo và phát huy các nhân tố nội lực để tăng khả năng cạnh tranh. Công ty mạnh dạn đầu tư dây chuyền công nghệ hiện tại có sản phẩm mới đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường trong nước. Nhờ đó công ty đã thực hiện thành công đa dạng hoá sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước. Để có được lợi thế cạnh tranh, Công ty luôn quan tâm đến việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức sản xuất và tổ chức hợp lý bộ máy quản lý, chăm lo đời sống cán bộ công nhân... Để có thể cạnh tranh về giá bán, Công ty đã chủ động áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp nhằm hạ giá thành tăng khả năng như tiết kiệm chi phí mua nguyên liệu đầu vào, tăng năng suất lao động khâu gói kẹo và tiết kiệm chi phí quản lý.
Bên cạnh những mặt đạt được còn có những mặt hạn chế làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty như: sản phẩm của Hải Hà chủ yếu thuộc loại bình dân, chưa có sản phẩm cao cấp chất lượng bao gói sản phẩm còn đơn điệu, một số sản phẩm giá bán còn cao... công tác nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, thu nhập thông tin thị trường chưa được công ty quan tâm thường xuyên.
Chiến lược xâm nhập thị trường ở vùng sâu vùng xa các tỉnh phía Bắc và Nam của công ty chưa có phương án cụ thể. Tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu của công ty còn khiêm tốn so với kỳ bao cấp trước đây. Để tiếp tục nâng cao, khả năng cạnh tranh các sản phẩm của mình Công ty Bánh kẹo Hải Hà đã đưa ra một số giải pháp.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong giai đoạn 2000 - 2005.
Mục tiêu của Công ty là giữ vững quy mô, tốc độ phát triển để trở thành một trong những doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo lớn nhất Việt Nam. Công ty có trang thiết bị công nghệ tiên tiến ngang bằng các nước ASEAN, có khả năng cạnh tranh với công nghiệp sản xuất bánh kẹo trong nước và trong khu vực. Sản lượng bánh kẹo của Hải Hà đến năm 2005 đạt 11.000 tấn/năm, chiếm khoảng 33 - 35% tổng sản lượng toàn ngành. Để đạt mục tiêu trên. Công ty cần thực hiện những giải pháp chủ yếu sau đây.
- Thị trường trong nước vẫn được xem là hướng tiêu thụ chủ yếu 70 - 80% sản lượng bánh kẹo do công ty sản xuất. Ngoài việc chiếm lĩnh thị trường Hà Nội và các tỉnh phía Bắc công ty cần vươn tới các vùng sâu, vùng xa của các tỉnh biên giới phía Bắc và miền Trung ở những địa bàn công ty có ưu thế cạnh tranh với các đối thủ khác.
- Đối với nước ngoài, cần coi trọng hướng trọng điểm là ưu tiên khôi phục lại thị trường Đông Âu, cần khai thác triệt để cơ hội hội nhập và ưu đãi trong quan hệ mậu dịch của Việt Nam để từng bước thâm nhập thị trường các nước ASEAN và hướng tới thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ.
- Tiếp tục hướng đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, coi trọng sản xuất các loại bánh kẹo mới mang hương vị đặc trưng từ nguyên liệu hoa quả nhiệt đới phía Bắc như kẹo cam, chanh, mận, chuối... Đồng thời cải tiến mẫu mã, bao bì với nhiều nhu cầu và sở thích của khách hàng tiêu dùng ở mọi lứa tuổi.
- Tăng cường đầu tư dệt, may thiết bị, công nghệ có trọng điểm và đạt hiệu quả cao.
- Nâng cao chất lượng và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm của sản phẩm bánh kẹo do công ty sản xuất phấn đấu áp dụng quy trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002.
- Mở rộng quan hệ liên kết với các nhà cung cấp nguyên liệu nhằm ổn định sản xuất và giảm chi phí tiêu hao nguyên liệu. Tiếp tục phấn đấu hạ giá thành sản phẩm phục vụ khách hàng tiêu dùng có thu nhập thấp.
- Hoàn thiện nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động marketing của Công ty.
- Tổ chức sắp xếp lại mạng lưới tiêu thụ hiện có, tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động của đại lý. Mở đại lý các tỉnh miền núi phía Bắc. Tăng cường cho công tác kiểm tra, phát hiện các đơn vị sản xuất hàng dởm, hàng giả mác sản phẩm của công ty.
Công ty bánh kẹo Hải Hà đã chủ động vượt qua những thử thách của thời kỳ chuyển đổi, có nhiều thành công trong phát triển sản xuất kinh doanh những năm qua, vươn lên trở thành đơn vị làm ăn giỏi của ngành sản xuất bánh kẹo cả nước. Chúng ta hy vọng rằng, công ty bánh kẹo Hải Hà sẽ vượt qua những thử thách và chiến tháng trong cạnh tranh, chủ động hội nhập phát triển đi lên vững chắc trong thời gian tới./.
Kết luận
Đại hội lần thứ VIII đã lưu ý tới nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế, cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Trong khi đó việc hoà nhập vào khu vực với mốc thời gian 2000 là không thể lùi được. Theo kết quả nghiên cứu của UNDP tại Hội nghị không chính thức nhóm tư vấn quốc tế tại Huế trung tuần tháng 6 vừa qua có cảnh báo khả năng Việt Nam có thể lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính trong vòng 5 năm tới. Nếu không khắc phục được vấn đề còn tồn tại của nội bộ nền kinh tế nước ta. Trong bối cảnh đó việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm là vấn đề chiến lược của ccs doanh nghiệp trong nước.
Để cạnh tranh thắng lợi, chúng ta phải nắm bắt qui luật vận động của cạnh tranh từ đó vận dụng vào điều kiện nước ta, cạnh tranh thắng lợi để phát triển theo định hướng XHCN.
Cạnh tranh ngày càng gay gắt và phát triển thành chiến tranh kinh tế, từ tự do cạnh tranh thành cạnh tranh có tổ chức.
Trong cạnh tranh, luôn phải làm rõ ai là bạn, ai là đối tượng cạnh tranh, phù hợp với tổng kết dân gian là "Buôn có bạn, bán có phường" trong điều kiện hiện nay chúng ta cần xác định rõ mục đích của mình là: các doanh nghiệp Việt Nam phải liên kết với nhau để hoàn thiện các sản phẩm của mình tốt hơn, hoàn thiện hơn đạt tiêu chuẩn quốc tế để cạnh tranh với các sản phẩm của doanh nghiệp nước ngoài và xuất khẩu ra thị trường thế giới mở rộng thị trường cho các sản phẩm.
Làm rõ vị trí, vai trò quan trọng của công tác quản lý ở tầm vĩ mô mà không hề hạ thấp vai trò quản lý vi mô của doanh nghiệp trong nhiệm vụ nâng cao sức cạnh tranh về mặt này cần thấy rõ hoàn cảnh lịch sử xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam.
Theo tinh thần cơ bản của đường lối dệt, may đó, chúng ta thực hiện việc cải tiến phân cấp trong quản lý nền kinh tế quốc dân theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, đối với các sản phẩm. Tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn dai dẳng của các sản phẩm là chất lượng chưa tốt, mẫu mã chưa đẹp, chưa thuận tiện cho người tiêu dùng và giá cả rát cao so với sản phẩm nước ngoài. Nên người tiêu dùng trong nước ưa thích hàng ngoại hơn. cho nên vấn đề bức xúc hiện nay của các doanh nghiệp là tìm đầu ra cho các sản phẩm doanh nghiệp và tạo được sức cạnh tranh trên thị trường. Nó là vấn đề khó nhất hiện nay và đang được nhiều lĩnh vực quan tâm để tìm ra được những biện pháp hữu hiệu hơn thúc đẩy các sản phẩm trong nước phát triển phục vụ cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra các nước trên thế giới.
Tài liệu tham khảo
Trang
1. Giáo trình kinh tế thương mại - Nhà XBGD - Tác giả
PGS.TS Đặng Đình Đào
2. Những cơ sở pháp lý trong kinh doanh thương mại - dịch vụ - Bộ môn Kinh tế thương mại biên soạn do PGS.TS Đặng Đình Đào chủ biên.
3. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX - Nhà XB Chính trị quốc gia
4. Tạp chí kinh tế Dự báo: Số 6 - 2000. Bài viết của Vũ Đình
13-14
5. Kinh tế và Dự báo: Số 5 - 2000. TS. Hà Lê
35-36
6. Kinh tế và Dự báo: Số 9 - 2000. TS. Phạm Thanh Hải
29-31
7. Tạp chí Xây dựng: Số 8 - 2001. Trần Thị Sách
48
8. Tạp chí Xây dựng: Số 5 - 2001. Nguyễn Bích
34-35
9. Tạp chí Xây dựng: Số 8 - 2001. Sơn Hải
45-46
10. Tạp chí TT 0 GC: Số 10 - 2000. PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc
21-22
11. Diễn đàn nghiên cứu - trao đổi tạp chí Thông tin lý luận: Số 12 - 2000.
TS. Đinh Thị Thuỷ
30-31
12. Nghiên cứu trao đổi - Tạp chí công nghiệp Việt Nam: Số 19 - 2000.
TS. Vũ Minh Trai
15-16
13. Phát triển kinh tế: Số 222. Thạc sĩ Nguyễn Trần Tuấn
34-35
14. Tạp chí Thương mại: số 2 + 3 - 2000. Thứ trưởng Bộ Công nghiệp
Lê Huy Côn.
15-16
15. Tạp chí Kinh tế và Dự báo: Số 4 - 2000. PTS. Hoàng Thịnh Lâm
11-12
16. Tạp chí TT - GC - Số 3 - 2001. PGS.TS. Nguyễn Sinh Cúc
16-17
17. Tạp chí Kinh tế và phát triển: Số 2 - 2001. Vũ Bá Định
(Bộ kế hoạch và đầu tư)
37-38
18. Tạp chí TT - GC: Số 12 - 2000. Vũ Anh
23-24
19. Tạp chí Xây dựng: Số 5 - 2001
1-3
20. Tạp chí Thông tin và tài chính: Số 16/8/2001. Minh Hoài
2-3
21. Tạp chí Xây dựng: Số 7 - 2001. Nguyễn Luyện
56-57
22. Tạp chí Thông tin tài chính: Số 9/5/2001. Nguyễn Vĩnh Tường
4-5
23. Kinh tế Việt Nam
12
24. Thương nghiệp thị trường Việt Nam: Số tháng 3+4/2001.
Nguyên Xuân Minh
20-21
25. Tạp chí Thương mại: Số 4 - 2001. Trần Hà
3-6
10-11
26. Diễn đàn trao đổi (Tạp chí TT - GC): Số 5 - 2000
24-25
27. Tạp chí công nghiệp: Số 9 - 2000. TS. Ngô Thị Hoài Lam.
16-17
28. Tạp chí nghiên cứu kinh tế: Số 275/4/2001. Đặng Thị Hiếu Lá
96
29. Tạp chí Thương mại: Số 7 - 2001. Trần Trọng Hồ
8-9
30. Tạp chí công nghiệp: Số 20 - 2000. TS. Ngô Thị Hoài Lam
25-28
31. Thương nghiệp thị trường Việt Nam: Số tháng 5/2001. Việt Dũng
16-17
32. Kinh tế và Dự báo: Số 3 - 2001. Phan Ngọc Trung
9-10
33. Tạp chí Thông tin - Tài chính số 9 tháng 5/2001. Nguyễn Mai Phương
8-9
Mục lục
Trang
mục lục
Lời nói đầu
Chương I: Khái quát về cạnh tranh và nâng cao cạnh tranh của sản phẩm.
I. Các khái niệm về cạnh tranh.
Cạnh tranh là gì?
Quan niệm về khả năng cạnh tranh.
Quy luật về cạnh tranh.
II. Vai trò của cạnh tranh.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường.
Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh các sản phẩm Việt Nam trên thị trường.
I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật về các sản phẩm Việt Nam trên thị trường.
II. Phân tích thực trạng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường.
Tình hình kinh tế chung.
Thực trạng về các sản phẩm cụ thể.
Chương III: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường.
I. Mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001- 2010.
Định hướng phát triển các ngành.
II. Các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập của các sản phẩm Việt Nam.
Các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
Các giải pháp riêng đối với các sản phẩm cụ thể.
Kết luận
Tài liệu tham khảo.
1
3
3
3
3
4
6
12
19
19
24
27
Lời nói đầu
Chương I: Khái quát về cạnh tranh và nâng cao cạnh tranh của sản phẩm.
I. Các khái niệm về cạnh tranh.
Cạnh tranh là gì?
Quan niệm về khả năng cạnh tranh.
Quy luật về cạnh tranh.
II. Vai trò của cạnh tranh.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường.
Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh các sản phẩm Việt Nam trên thị trường.
I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật về các sản phẩm Việt Nam trên thị trường.
II. Phân tích thực trạng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường.
Tình hình kinh tế chung.
Thực trạng về các sản phẩm cụ thể.
Chương III: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường.
I. Mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001- 2010.
Định hướng phát triển các ngành.
II. Các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập của các sản phẩm Việt Nam.
Các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
Các giải pháp riêng đối với các sản phẩm cụ thể.
Kết luận
Tài liệu tham khảo.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33719.doc