Lời mở đầu
Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu trước mắt lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh, là nguồn động lực quan trọng của các doanh nghiệp. Muốn có lợi nhuận lớn, các doanh nghiệp phải tăng doanh thu bán, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đặc biệt, từ khi nền kinh tế được chuyển đổi sang cơ chế thị trường, vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh thực sự là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, giữ một vị trí quan trọng quyết định sự
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thành bại của mỗi Công ty. Do đó, muốn tồn tại và phát triển vững chắc, tạo thế cạnh tranh mạnh mẽ với các doanh nghiệp khác, mỗi doanh nghiệp phải chủ động làm tốt công tác sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình, nâng cao chất lượng dịch vụ hàng hoá mà Công ty cung cấp cho khách hàng, từ đó tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, đảm bảo uy tín của Công ty với khách hàng. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải đi sâu nghiên cứu hiệu quả kinh doanh, hiểu rõ vấn đề và đưa ra những biện pháp kinh doanh phù hợp với tình hình thực tế và khả năng của doanh nghiệp nhằm tổ chức tốt hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT là đơn vị hành chính sự nghiệp có thu, lấy thu bù chi, tự trang trải về kinh tế được thành lập và hoạt động trên 10 năm nay. Hiện tại, Trạm được sắp xếp vào loại đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, ngân sách Nhà nước không phải cấp kinh phí để bảo đảm hoạt động thường xuyên cho đơn vị. Doanh thu và lợi nhuận của Trạm năm sau luôn cao hơn năm trước, thu nhập của cán bộ công nhân viên được cải thiện rất nhiều nhưng để có thể kết luận Trạm có đạt được hiệu quả kinh doanh hay không thì phải tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng kinh doanh của Trạm trong những năm qua. Từ đó, phát hiện những ưu nhược điểm cũng như những thuận lợi và khó khăn của Trạm để đề ra các biện pháp kinh doanh phù hợp.
Sau một thời gian dài học tập, nghiên cứu những kiến thức căn bản và cơ sở lý luận về Quản trị kinh doanh, em đã được các thày cô giáo khoa Thương mại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân giới thiệu tới thực tập tại Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT nhằm bổ sung những kiến thức thực tế để hoàn thành khoá học của mình. Được sự đồng ý và giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám đốc nhà khách Bộ NN & PTNT, sau một thời gian thực tập nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh của nhà khách, em đã rút ra được những kiến thức bổ ích và hoàn thành bài viết chuyên đề tốt nghiệp với đề tài :
“ Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT “.
Bố cục bài viết gồm 3 phần :
Phần I : Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Phần II : Thực trạng kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT.
Phần III : Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT trong những năm tới.
Bài viết này được hoàn thành với sự hướng dẫn chỉ bảo và góp ý sửa đổi của PGS.TS Hoàng Đức Thân, em xin trân trọng cảm ơn thày đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành bài viết theo đúng yêu cầu. Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Nhà khách Bộ NN & PTNT cũng như tập thể cán bộ công nhân viên đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập. Vì kiến thức còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi một số sai sót. Em rất mong sự Agóp ý sửa đổi của các thày cô giáo và Ban lãnh đạo Nhà khách để bài viết được hoàn thiện hơn. Mặc dù vậy, em cũng hy vọng rằng bài viết này của em sẽ đóng góp được phần nào ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà khách.
Em xin trân trọng cảm ơn.
Hà Nội 10 - 5 - 2002
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Hồng Trang
Phần một
Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường
I. Kinh doanh thương mại dịch vụ trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm về kinh doanh
Để tồn tại và phát triển, con người cần nhiều nhu cầu khác nhau như: ăn, mặc, ở ,đi lại, chữa bệnh, học tập, giải trí... Muốn thoả mãn nhu cầu đó, con người phải thông qua sản xuất và trao đổi sản phẩm với nhau.
Sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất đã làm tăng thêm lực lượng sản xuất xã hội và là một trong những động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Chính yếu tố cách mạng hoá sản xuất đã đặt ra sự cần thiết phải trao đổi trong xã hội các sản phẩm giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Khi trao đổi hàng hoá phát triển đến trình độ xuất hiện tiền tệ làm chức năng phương tiện lưu thông thì trao đổi hàng hoá được gọi là lưu thông hàng hoá.
Trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, có một loại người chuyên dùng tiền để mua hàng hoá rồi đem bán. Kinh doanh thương mại xuất hiện. Kinh doanh thương mại là dùng tiền của, công sức vào việc mua bán hàng hoá nhằm mục đích kiếm lời. Kinh doanh thương mại, trước hết, đòi hỏi phải có vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh là các khoản vốn bằng tiền và bằng các tài sản khác (nhà cửa, kho tàng, cửa hàng, vv...), có vốn mới thực hiện được các chức năng lưu thông hàng hoá.
Thứ hai, kinh doanh thương mại đòi hỏi phải thực hiện hành vi mua để bán. Xét trên toàn bộ và cả quá trình thì hoạt động kinh doanh thương mại phải thực hiện hành vi mua hàng, nhưng mua hàng không để mình dùng mà mua hàng để bán cho người khác. Đó là hoạt động buôn bán.
Thứ ba, kinh doanh thương mại dùng vốn (tiền của, công sức) vào hoạt động kinh doanh cũng đòi hỏi sau mỗi chu kỳ kinh doanh phải bảo toàn được vốn và có lãi. Có như vậy mới có thể mở rộng và phát triển kinh doanh. Ngược lại, thua lỗ dẫn tới doanh nghiệp phải phá sản.
Như vậy, mục đích lợi nhuận là mục tiêu trước mắt, lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh và nó cũng là nguồn động lực của kinh doanh. Muốn có lợi nhuận thì doanh thu bán hàng hoá và dịch vụ phải lớn hơn chi phí kinh doanh. Muốn có doanh thu lớn phải chiếm được khách hàng, phải bán được nhiều hàng hoá và dịch vụ, phải giảm chi phí kinh doanh. Trong điều kiện cạnh tranh trên thị thường, việc thu hút được khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải kinh doanh loại hàng hoá phù hợp với nhu cầu của khách, được khách hàng chấp nhận, hàng hoá của doanh nghiệp phải đảm bảo chất lượng và luôn luôn đổi mới.
Thế lực cũng là một mục đích của kinh doanh thương mại. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, trên thị trường có nhiều người cung ứng hàng hoá, cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi kinh doanh thương mại phải thu hút được ngày càng nhiều khách hàng, phải không ngừng tăng doanh số bán hàng, phải không ngừng mở rộng và phát triển thị trường, tức là tăng được thị phần của mình trên thị trường. Mục đích thế lực là mục tiêu phát triển cả về qui mô kinh doanh, cả về thị phần trên thị trường. Từ qui mô nhỏ tiến lên qui mô lớn, từ chỗ chen được chân vào thị trường tiến tới chiếm lĩnh thị trường và làm chủ thị trường.
An toàn cũng là một mục đích của kinh doanh thương mại. Trong thị trường cạnh tranh đầy biến động, có nhiều rủi ro, trong hoạt động kinh doanh, vấn đề bảo toàn vốn và phát triển vốn để kinh doanh liên tục phát triển đòi hỏi phải đặt ra mục tiêu an toàn trong kinh doanh thương mại. Với mục đích an toàn cần phải đa dạng hoá kinh doanh, phải có biện pháp bảo hiểm trong kinh doanh...
Mỗi doanh nghiệp một lúc thường có rất nhiều nhu cầu và không phải lúc nào cũng thoả mãn được ngay tất cả các nhu cầu đó nên đòi hỏi phải có sự phân loại các nhu cầu, nghĩa là có sự lựa chọn mục tiêu. Những mục tiêu nào gần gũi nhất, có khả năng thực hiện lớn nhất sẽ được đặt lên hàng đầu. Đối với doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá thường có 5 mục tiêu cơ bản như: khách hàng, chất lượng, đổi mới, lợi nhuận và cạnh tranh.
Để có thể thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp thương mại hoạt động trên thị trường đòi hỏi phải tuân thủ những qui tắc sau:
- Sản xuất và kinh doanh những hàng hoá dịch vụ có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
- Trong kinh doanh trước hết phải lôi cuốn khách hàng rồi sau đó mới nghĩ đến cạnh tranh.
- Trong kinh doanh, khi làm lợi cho mình đồng thời phải làm lợi cho khách hàng.
- Tìm kiếm thị trường đang lên và chiếm lĩnh thị trường nhanh chóng.
- Đầu tư vào tài năng và nguồn lực để tạo ra được nhiều giá trị sản phẩm.
- Nhận thức và nắm bắt được nhu cầu của thị trường để đáp ứng đầy đủ
1.2. Dịch vụ và sản phẩm dịch vụ
Trên thế giới ngày nay, nền kinh tế không chỉ đơn thuần với những sản phẩm vật chất cụ thể, mà bên cạnh đó còn tồn tại các sản phẩm dịch vụ. Tổng thu nhập của một quốc gia cũng như doanh thu của một doanh nghiệp không thể không tính đến sự đóng góp của lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là những ngành dịch vụ có giá trị cao.
Vậy dịch vụ là gì?
Bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, Các Mác cho rằng: dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Khi mà kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển
Vào những năm cuối thế kỉ 20, dịch vụ đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng của các quốc gia và trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học. Theo lý thuyết kinh tế học, dịch vụ là một loại sản phẩm kinh tế không phải là vật phẩm mà là công việc của con người dưới hình thái lao động thể lực, kiến thức, kĩ năng chuyên nghiệp, khả năng tổ chức và thương mại. Do vậy có nhiều quan niệm khác nhau về dịch vụ. Theo cách chung nhất có 2 kiểu như sau:
- Theo nghĩa rộng, dịch vụ được coi là ngành kinh tế thứ 3 trong nền kinh tế quốc doanh. Theo cách hiểu này, các hoạt động kinh tế nằm ngoài hai ngành công nghiệp và nông nghiệp đều thuộc ngành dịch vụ.
- Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là những hoạt động hỗ trợ cho quá trình kinh doanh, bao gồm hỗ trợ trước, trong và sau khi bán, là phần mềm của sản phẩm được cung ứng cho khách hàng.
Về bản chất, dịch vụ và sản phẩm vật chất có những nét rất khác biệt:
- Là sản phẩm vô hình, chất lượng dịch vụ rất khó đánh giá, không thể xác định một cách cụ thể bằng tiêu chuẩn kỹ thuật, bằng các chỉ tiêu chất lượng một cách rõ ràng vì nó chịu nhiều yếu tố tác động như người bán, người mua và cả thời điểm mua bán dịch vụ đó, người được phục vụ chỉ có thể đánh giá bằng các giác quan của mình như nhìn, ngửi....
- Là sản phẩm vô hình, dịch vụ có sự khác biệt về chi phí so với các sản phẩm vật chất. Hoạt động sản xuất vật chất tạo ra sản phẩm hàng hoá, sản phẩm có chất lượng cao, thấp tạo ra uy tín cho hãng sản xuất và kinh doanh. “Sản phẩm” của hoạt động dịch vụ phụ thuộc rất cao vào chất lượng tiếp xúc, sự tương tác giữa người làm dịch vụ và được phục vụ.
- Sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời, nên cung cầu dịch vụ không tách rời nhau mà phải tiến hành cùng lúc. Hoạt động dịch vụ thường xuất hiện ở các địa điểm và thời điểm có nhu cầu cần phải đáp ứng.
- Dịch vụ không thể cất giữ trong kho, làm phần đệm điều chỉnh sự thay đổi nhu cầu thị trường như các sản phẩm vật chất khác.
Những đặc điểm này tạo ra những nét đặc thù cho các doanh nghiệp dịch vụ. Nếu các doanh nghiệp sản xuất cần 4Ps (product, price, place, promotion) cho hoạt động marketing của mình thì các nhà kinh doanh dịch vụ cần 5Ps với 4Ps trên và con người.
Dịnh vụ trong hoạt động kinh doanh thương mại có vị trí quan trọng đối với hoạt động kinh doanh. Nó có quan hệ chặt chẽ từ khi sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra đến khi sản phẩm được đưa vào tiêu dùng.
Dịch vụ là các loại hình hoạt động có mục đích phục vụ cho các nhu cầu của đời sống dân cư hoặc trợ giúp, hoàn thiện, tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Mục đích của dịch vụ là để thu lợi nhuận cao qua thoả mãn yêu cầu của khách hàng.
Dịch vụ có vai trò to lớn, phát triển hoạt động dịch vụ trong kinh doanh thương mại nhằm mục tiêu phục vụ khách hàng tốt hơn, tạo ra sự tín nhiệm, sự chung thuỷ, sự gắn bó của khách hàng đối với doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp thu hút được khách hàng, bán được nhiều hàng, thu được nhiều lợi nhuận, rút ngắn thời gian ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, tiền tệ. Dịch vụ lập nên hàng rào chắn, ngăn chặn sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh. Dịch vụ giúp cho việc phát triển thị trường và giữ thị trường ổn định, phát triển được thế và lực của doanh nghiệp, cạnh tranh thắng lợi.
Đối với nền kinh tế quốc dân, dịch vụ làm thay đổi căn bản cơ cấu của nền kinh tế. Doanh thu của các ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân có tỷ trọng ngày càng tăng. ở các nước phát triển, dịch vụ chiếm 50 - 60% lực lượng lao động, 60 - 70% thu nhập quốc dân, chi cho hoạt động dịch vụ chiếm 60 - 65% thu nhập của cá nhân. ở các nước đang phát triển, dịch vụ tuy không phát triển được như ở các nước phát triển nhưng cũng đang có những chuyển biến tích cực.
Vai trò của kinh doanh thương mại dịch vụ
Kinh doanh thương mại dịch vụ là lĩnh vực hoạt động chuyên nghiệp trong lưu thông hàng hoá, vì vậy nó có vị trí trung gian cần thiết giữa sản xuất và tiêu dùng, là tiền đề của sản xuất, là hậu cần của sản xuất và là khâu không thể thiếu được trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Kinh doanh thương mại dịch vụ có tác dụng nhiều mặt đối với lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tiêu dùng của xã hội. Nó cung ứng những vật tư, hàng hoá dịch vụ cần thiết một cách đầy đủ kịp thời, đồng bộ, đúng số lượng, chất lượng một cách thuận lợi với qui mô ngày càng mở rộng.
Thứ hai, kinh doanh thương mại thúc đẩy việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật - công nghệ vào sản xuất. Đồng thời thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu, bảo đảm cho người tiêu dùng những hàng hoá tốt, văn minh và hiện đại. Thông qua việc bảo đảm những loại máy móc, thiết bị, nguyên nhiên liệu mới, hiện đại, kinh doanh thương mại dịch vụ thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất sử dụng các loại máy móc, thiết bị mới và hiện đại. Đối với hàng hoá tiêu dùng, nhờ tiếp xúc với thị trường trong và ngoài nước, kinh doanh thương mại đưa các loại hàng hoá tốt, thuận tiện, văn minh và hiện đại cho người tiêu dùng. Từ đó kích thích nhu cầu, hướng giới tiêu dùng vào những hàng hoá chất lượng cao.
Thứ ba, kinh doanh thương mại thực hiện việc dự trữ các yếu tố của sản xuất và hàng tiêu dùng, đảm bảo cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng giảm bớt dự trữ lớn ở nơi sản xuất và dự trữ tiêu dùng cá nhân. Dự trữ hàng hoá trong khâu lưu thông tăng lên, bảo đảm sự linh hoạt và lưu chuyển nhanh, tránh được ứ đọng nhiều ở các khâu dự trữ “chết”.
Thứ tư, kinh doanh thương mại dịch vụ bảo đảm điều hoà cung cầu. Nó làm đắt ở những nơi có nguồn hàng rẻ, nhiều, phong phú và làm rẻ hàng hoá ở những nơi đắt, ít, nghèo nàn. Trong phạm vi toàn nền kinh tế quốc dân, thương mại dịch vụ có tác dụng lớn trong việc thúc đẩy sử dụng nguồn lực và phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả và hợp lý.
Thứ năm, nhờ việc áp dụng ngày càng nhiều các dịch vụ trong kinh doang hàng hoá, các vật tư kỹ thuật được đảm bảo cung ứng ngày càng kịp thời, thuận tiện và văn minh cho các doanh nghiệp sản xuất; bảo đảm ngày càng nhiều hàng hoá tốt, chất lượng cao với dịch vụ thuận lợi cho người tiêu dùng.
II. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại – dịch vụ
1. Khái niệm và thực chất của hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại – dịch vụ
1.1. Khái niệm
Trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, mỗi doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược kinh doanh trước mắt và lâu dài phù hợp với sự biến động liên tục của cơ chế thị trường. Mặt khác, trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải luôn kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm tra đánh giá các hoạt đông sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp cũng như từng bộ phận, từng lĩnh vực bên trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp không thể không thực hiện các tính toán hiệu quả kinh tế cuả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vậy thì hiệu quả kinh doanh là gì?
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp nhằm đạt kết quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh với chi phí ít nhất. Nó không chỉ là thước đo trình độ tổ chức quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp.
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh. Điều này do điều kiện lịch sử và góc độ nghiên cứu khác nhau về vấn đề hiệu quả kinh doanh.
Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith cho rằng “Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá”. ở đây, hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, nó khó giải thích việc kết quả sản xuất kinh doanh có thể tăng do tăng chi phí, mở rộng sử dụng các nguồn sản xuất. Theo quan điểm này, với hai mức chi phí khác nhau mà đem lại cùng một kết quả thì chúng có cùng một hiệu quả như nhau.
Quan niệm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan niệm tỉ lệ giữa phần tăng lên của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quan niệm này đã biểu hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Tuy nhiên, sản xuất kinh doanh là một quá trình trong đó, các yếu tố tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với các yếu tố sẵn có. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm kết quả sản xuất kinh doanh thay đổi. Vì vậy, theo quan điểm này, tính hiệu quả kinh doanh chỉ được xét tới phần chi phí bổ sung và kết quả bổ sung.
Quan niệm thứ ba cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”. Ưu điểm của quan điểm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Nó đã gắn được kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên, quan điểm này chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí, chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này.
Quan điểm thứ tư coi hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu của qui luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng tiêu dùng với tính cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các doanh nghiệp, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng rất đa dạng phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ. Do đó, rất khó khăn trong việc xác định các chỉ tiêu đo mức độ thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao đời sống.
Nhìn chung, để làm sáng tỏ bản chất và đi đến một khái niệm hiệu quả kinh doanh hoàn chỉnh thì vẫn chưa có cách giải quyết triệt để. Thật khó mà đánh giá mức độ đạt được hiệu quả kinh doanh của hoạt động thương mại hay doanh nghiệp kinh doanh thương mại khi mà bản thân phạm trù này chưa được định rõ những bản chất và biểu hiện của nó.
Tuy nhiên, thông qua những khái niệm trên, ta có thể hiểu: Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện ở mức độ chiều sâu. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng, tạo đà tăng trưởng kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, tài lực, tiền vốn của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đã xác định.
1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
Trong công tác quản lý, phạm trù hiệu quả kinh doanh biểu hiện ở những dạng khác nhau, mỗi dạng thể hiện những đặc trưng, ý nghĩa cụ thể của hiệu quả. Việc phân loại hiệu quả kinh doanh theo những tiêu thức khác nhau có tác dụng thiết thực cho công tác quản lý thương mại. Nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu và mức hiệu quả kinh doanh, từ đó đề ra những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
1.2.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân
Hiệu quả kinh doanh cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động thương mại của từng doanh nghiệp kinh doanh. Biểu hiện chung của hiệu quả cá biệt là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp đạt được.
Hiệu quả kinh tế xã hội mà thương mại đem lại cho nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của hoạt động thương mại vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.v.v...
Trong quản lý kinh doanh thương mại không những cần tính toán và đạt được hiệu quả trong hoạt động của từng người, từng doanh nghiệp mà còn phải tính toán và quan trọng hơn, phải đạt được hiệu quả kinh tế xã hội đối với nền kinh tế quốc dân. Giữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có mối quan hệ nhân quả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp thương mại. Tuy vậy, có những doanh nghiệp thương mại không đảm bảo được hiệu quả nhưng nền kinh tế vẫn thu được hiệu quả. Tuy nhiên, tình hình thua lỗ của doanh nghiệp nào đó chỉ có thể chấp nhận được
trong những thời điểm nhất định do những nguyên nhân khách quan mang lại. Các doanh nghiệp thương mại cần phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội vì đó chính là tiền đề và điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có những chính sách đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích của xã hội với lợi ích của doanh nghiệp và cá nhân người lao động mới khiến doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội chung.
1.2.2. Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp
Hoạt động của bất kì doanh nghiệp nào cũng gắn liền với môi trường và thị trường của nó. Doanh nghiệp thương mại phải căn cứ vào thị trường để giải quyết những vấn đề cơ bản: Kinh doanh cái gì, kinh doanh như thế nào, kinh doanh cho ai và chi phí bao nhiêu?
Mỗi nhà cung cấp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong những điều kiện cụ thể về nguồn tài nguyên, trình độ trang thiết bị kỹ thuật, trình độ tổ chức và quản lý lao động, quản lý kinh doanh. Họ đưa ra thị trường sản phẩm của mình đối với một chi phí cá biệt nhất định và người nào cũng muốn tiêu thụ được hàng hoá của mình với giá cao nhất, Tuy vậy, khi đưa hàng hoá của mình ra bán trên thị trường, họ chỉ có thể bán ra theo mức giá cả thị trường nếu sản phẩm của họ có chất lượng tương đương. Bởi vì thị trường chỉ thừa nhận mức trung bình xã hội cần thiết về hao phí để sản xuất ra đơn vị hàng hoá. Qui luật giá trị đã đặt tất cả các doanh nghiệp với mức chi phí cá biệt khác nhau trên cùng một mặt bằng trao đổi, thông qua một mức giá cả thị trường.
Tại mỗi doanh nghiệp, chi phí lao động xã hội được thể hiện dưới các dạng chi phí cụ thể như giá thành sản phẩm và chi phí ngoài sản xuất. Bản thân mỗi loại chi phí trên lại có thể được phân chia thành các chi phí tỉ mỉ hơn. Đánh giá hiệu quả kinh doanh thương mại không thể không đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trên và cũng lại cần thiết phải đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí.
Hiệu quả của chi phí tổng hợp thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và tổng chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả của chi phí bộ phận cho thấy mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí của từng yếu tố cần thiết để đạt được kết quả đó.
Việc đánh giá hiệu quả của các loại chi phí trên giúp cho hoạt động kinh doanh tìm được hướng giảm chi phí cá biệt của doanh nghiệp nhằm tăng hiệu quả kinh doanh.
Như vật, hiệu quả kinh doanh nói chung được tạo thành trên cơ sở hiệu quả của các loại chi phí cấu thành. Các đơn vị kinh doanh thương mại là nơi trực tiếp sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh. Vì vậy, bản thân các đơn vị kinh doanh thương mại phải quan tâm xác định những biện pháp đồng bộ để thu được hiệu quả toàn diện trên các yếu tố của quá trình đó.
1.2.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh
Trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh, việc xác định hiệu quả nhằm hai mục đích:
Một là, để thực hiện và đánh giá trình độ sử dụng các dạng chi phí trong hoạt động kinh doanh.
Hai là, để phân tích luận chứng kinh tế của các phương án khác nhau trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó, từ đó lựa chọn lấy một phương án có lợi nhất.
Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra. Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ chi phí ra để thực hiện một thương vụ nào đó, để biết được với những chi phí bỏ ra sẽ thu được những lợi ích cụ thể và mục tiêu cụ thể gì, từ đó đi đến quyết định có nên bỏ ra chi phí hay không cho thương vụ đó. Vì vậy trong công tác quản lý kinh doanh, bất kì công việc gì đòi hỏi phải bỏ ra chi phí dù với một lượng lớn hay nhỏ cũng đều phải tính toán hiệu quả tuyệt đối.
Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án với nhau. Nói cách khác, hiệu quả so sánh chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án. Mục đích chủ yếu của việc tính toán này là so sánh mức độ hiệu quả của các phương án, từ đó cho phép lựa chọn một cách làm có hiệu quả nhất.
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh trong thương mại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, song chúng lại có tính độc lập tương đối. Trước hết, xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả so sánh. Nghĩa là, trên cơ sở những chỉ tiêu tuyệt đối của từng phương án, người ta so sánh mức hiệu quả ấy của các phương án với nhau. Mức chênh lệch chính là hiệu quả của so sánh.
Tuy vậy, có những chỉ tiêu hiệu quả so sánh được xác định không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả tuyệt đối. Chẳng hạn việc so sánh giữa mức chi phí của các phương án với nhau để chọn ra phương án có chi phí thấp, thực chất chỉ là sự so sánh mức chi phí của các phương án chứ không phải là việc so sánh mức hiệu quả tuyệt đối của các phương án.
1.3. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì điều cần thiết là phải đánh giá được hiệu quả kinh doanh và kinh doanh có hiệu quả. Việc không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của xã hội mà còn là mối quan tâm của bất kỳ doanh nghiệp nào, nhất là trong cơ chế thị trường. Đó là vấn đề xuyên suốt thể hiện chất lượng của toàn bộ công tác quản lý kinh tế, đảm bảo tạo ra kết quả và hiệu quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện nền kinh tế mở như hiện nay, doanh nghiệp phải luôn gắn mình với thị trường để giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai, trên cơ sở xem xét cung cầu và giá cả thị trường. Không còn là nền kinh tế kế hoạch hoá, nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự ra các quyết định kinh doanh, tự hoạch toán lỗ lãi theo kết quả kinh doanh của mình.
Đối với doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất kinh doanh không những là thước đo chất lượng tổ chức quản lý kinh doanh mà còn là cơ sở để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự phát triển của doanh nghiệp là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường với mục tiêu là luôn tồn tại và phát triển vững chắc. Muốn vậy lợi nhuận của doanh nghiệp phải không ngừng tăng lên và trở thành mục tiêu quan trọng nhất. Vậy để tăng lợi nhuận thì bắt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhưng nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách nào mới là vẫn đề đặt ra mà không phải doanh nghiệp nào cũng có thể làm được. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn vận động và lựa chọn cơ cấu sản xuất kinh doanh tối ưu nhất. Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mang lại hiệu quả kinh doanh cao nhất, thu được nhiều lợi ích nhất. Kết quả đó sẽ tạo đà cho sự phát triển kinh tế theo chiều sâu nhờ việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Sự cạnh tranh đó không chỉ về các mặt hàng thông thường mà cả về uy tín, chất lượng, giá cả... Trong hoàn cảnh đó, nếu doanh nghiệp không chiến thắng trong cạnh tranh tất yếu sẽ bị loại khỏi thị trường. Bởi vậy, để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, giá cả hợ lý, mẫu mã đẹp, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Từ đó, nâng cao được uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường. Muốn thực hiện được điều đó thì việc giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố cơ bản dẫn đến thắng lợi trong cạnh tranh. Như vậy, đối với mọi doanh nghiệp việc không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường như hiện nay.
Còn đối với người lao động, nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ đảm bảo cho họ một công việc ổn định, tăng mức thu nhập, cải thiện đời sống và tinh thần lao động.
Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả sản xuất kinh doanh được xem là một phạm trù kinh tế quan trọng, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, trình độ của lực lượng sản xuất, là động lực thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Thứ nhất, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng thời kỳ kinh doanh không làm giảm sút, ảnh hưởng tới hiệu quả của các thời kỳ sau. Điều đó đòi hỏi bản thân mỗi doanh nghiệp không vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh sau này. Ngoài ra, các doanh nghiệp không thể quan niệm một cách cứng nhắc cứ tăng thu giảm chi là luôn đạt hiệu quả mà phải biết tăng thu giảm chi một cách toàn diện, khái quát, có nghĩa là có thể tăng thu và chi một cách đồng thời những tốc độ tăng của thu phải cao hơn tốc độ tăng của chi phí. Có vậy mới đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh.
- Thứ hai, hiệu quả sản xuất kinh doanh chỉ đạt được một cách toàn diện khi toàn bộ hoạt động của các bộ phận, các khâu mang lại hiệu quả mà không làm giảm hiệu quả chung. Mỗi kết quả tính được từ một giải pháp kinh tế hoặc hoạt động kinh doanh nào đó trong từng bộ phận hoặc toàn bộ doanh nghiệp không làm ảnh hưởng đến hiệu quả chung thì được coi là có hiệu quả, trở thành mục tiêu phấn đấu của toàn doanh nghiệp.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
Các doanh nghiệp không tồn tại độc lập và hoạt động đơn lẻ mà chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố thuộc môi trường xung quanh và ngay trong bản thân mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doa._.nh nghiệp phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh thể hiện ở việc tận dụng tiết kiệm các nguồn lực đó trong mối quan hệ đầu ra của doanh nghiệp. Kết quả đạt được và chi phí bỏ ra cũng như trình độ lợi dụng các nguồn lực chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của nhiều nhân tố khác nhau ở các mức độ khác nhau. Do đó, nó ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh là yêu cầu quan trọng và bao trùm trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn vậy phải nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh cũng chính là việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của nó tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhân tố đó được chia làm hai nhóm cơ bản:
+ Các nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp (nhân tố chủ quan).
+ Các nhân tố từ môi trường bên ngoài (nhân tố khách quan).
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chỉ thực sự thành công nếu doanh nghiệp nắm rõ sự ảnh hưởng của các nhân tố tới hoạt động kinh doanh và biết kết hợp hài hoà các nhân tố bên trong với các nhân tố bên ngoài.
2.1. Các nhân tố khách quan
2.1.1. Môi trường văn hoá xã hội
Yếu tố văn hoá xã hội luôn bao quanh doanh nghiệp và khách hàng, có ảnh hưởng lớn đến sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường này bao gồm: tập quán, phong tục, dân cư, thu nhập, tình trạng việc làm, điều kiện xã hội, lối sống, trình độ văn hoá... Tất cả những yếu tố đó đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực.
Tập quán, lối sống, thu nhập, điều kiện xã hội quyết định mức độ chất lượng, chủng loại, gam hàng, sự ưa thích của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu và nắm bắt để lựa chọn các sản phẩm hàng hoá dịch vụ kinh doanh cho phù hợp với thị hiếu và thói quen tiêu dùng của khách hàng. Điều này phụ thuộc vào công tác nghiên cứu thị trường, các hoạt động marketing phải bám sát khách hàng, nắm bắt nhanh chóng nhu cầu và sở thích của khách để đưa ra chiến lược kinh doanh phù hợp đem lại hiệu quả tích cực trong hoạt động kinh doanh.
2.1.2. Môi trường chính trị - pháp luật
Các yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị và pháp luật chi phối mạnh mẽ sự hình thành cơ hội thương mại và khả năng thực hiện mục tiêu của bất kì doanh nghiệp nào. Sự ổn định của môi trường chính trị đã được xác định là một trong những điều kiện tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp phải nắm rõ tình hình chính trị và luật pháp, phải luôn theo sát phân tích, dự đoán về chính trị và pháp luật cùng xu hướng vận động của nó. Sự thay đổi điều kiện chính trị có thể ảnh hưởng có lợi cho nhóm doanh nghiệp này, kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp khác hoặc ngược lại. Hệ thống pháp luật hoàn thiện, không thiên vị là một trong những điều kiện tiền đề ngoài kinh tế của kinh doanh. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi pháp luậtt trong nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiêp. Từ đó, tác động tới hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
2.1.3. Môi trường kinh tế và công nghệ
ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế và công nghệ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là rất lớn. Các yếu tố thuộc môi trường này qui định cách thức doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế trong việc sử dụng tiềm năng của mình. Qua đó, tạo ra cơ hội kinh doanh cho từng doanh nghiệp. Xu hướng vận động và bất cứ thay đổi nào của các yếu tố thuộc môi trường này đều tạo ra hoặc thu hẹp điều kiện kinh doanh, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp ở những mức độ khác nhau, thậm chí, dẫn đến yêu cầu thay đổi mục tiêu và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Trạng thái của nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng, tình hình lạm phát, tỉ giá hối đoái, xu hướng mở cửa... Luôn tác động mạnh tới hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng mở rộng hoặc thu hẹp quy mô kinh doanh của doanh nghiệp, cơ hội phát triển cũng như điều kiện cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Các yếu tố đó luôn ở trạng thái động đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh linh hoạt, luôn thay đổi để phù hợp với sự biến đổi liên tục của môi trường kinh doanh.
Cơ sở hạ tầng, trình độ trang thiết bị kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế liên quan đến các điều kiện phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một mặt tạo cơ sở cho kinh doanh thuận lợi khi khai thác cơ sở hạ tầng sẵn có của nền kinh tế. Mặt khác, ảnh hưởng trực tiếp đến yêu cầu đổi mới công nghệ trang thiết bị, khả năng sản xuất sản phẩm với các cấp chất lượng, năng suất lao động của mỗi doanh nghiệp.
2.1.4. Môi trường cạnh tranh
Cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, thoả mãn nhu cầu tốt hơn và đạt hiệu quả cao hơn người đó sẽ thắng, sẽ tồn tại. Điều kiện cạnh tranh gay gắt vừa tạo ra các cơ hội để doanh nghiệp kiến tạo hoạt động của mình, vừa yêu cầu các doanh nghiệp phải luôn vươn lên phía trước vượt qua đối thủ. Điều kiện để cạnh tranh và các thành phần tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh tạo ra môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp cần xác định cho mình một chiến lược kinh doanh hoàn hảo để có thể đối phó với môi trường cạnh tranh bao quanh doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp trên thị trường luôn có các đối thủ cạnh tranh. Nếu doanh nghiệp có đối thủ cạnh tranh mạnh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trở nên khó khăn hơn nhiều. Vì lúc đó, doanh nghiệp phải quan tâm tới nâng cao chất lượng sản phẩm hơn nữa để đẩy mạnh tiêu thụ với giá cả hợp lý, tổ chức sắp xếp lại bộ máy hoạt động và quá trình sản xuất kinh doanh một cách tối ưu hơn để bù đắp lại những chi phí mất mát do cạnh tranh về giá cả, chất lượng, mẫu mã. Như vậy, đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp vì nó vừa tạo ra những trở ngại khó khăn, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1.5. Môi trường địa lý - sinh thái
Các yếu tố thuộc môi trường địa lý - sinh thái không chỉ liên quan đến vấn đề phát triển bền vững của một quốc gia mà còn liên quan lớn đến khả năng phát triển bền vững của từng doanh nghiệp. Các yếu tố địa lý từ lâu đã được nghiên cứu và xem xét để có kết luận về cách thức và hiệu quả kinh doanh. Ngày nay, các yếu tố này rất được xem trọng và ảnh hưởng rất lớn đến khả năng kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhân tố tài nguyên thiên nhiên: nhân tố này chủ yếu tác động tới việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp và có ảnh hưởng lớn đến qui trình, tiến độ thực hiện các hoạt động kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Nguồn tài nguyên dồi dào, phong phú sẽ có ảnh hưởng tích cực đến việc kinh doanh của doanh nghiệp, tạo hiệu quả cao trong quá trình kinh doanh và ngược lại nếu nguồn tài nguyên cạn kiệt sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình khai thác, cản trở hoạt động kinh doanh.
Nhân tố khí hậu, thời tiết, mùa vụ: nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng có tính chất thời vụ. Với mỗi điều kiện thời tiết, khí hậu ổn định, doanh nghiệp có chính sách cụ thể, phù hợp với điều kiện đó. Do đó, khi các yếu tố này thay đổi thất thường sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không ổn định, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh.
Nhân tố vị trí địa lý: đây là nhân tố không chỉ tác động đến chi phí sản xuất, chi phí vận chuyển, giao dịch mà còn tác động đến các mặt văn hoá - xã hội, ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng gần nơi tiêu thụ sản phẩm, gần đầu mối cung cấp hàng hoá đầu vào sẽ giảm được chi phí sản xuất kinh doanh và do đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2.2. Các nhân tố chủ quan
Chiến lược kinh doanh và hiệu quả của chiến lược đó không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan thuộc môi trường kinh doanh mà còn phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố phản ánh tiềm lực của doanh nghiệp cụ thể.
Với các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh là các yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp, các doanh nghiệp dường như chỉ còn cách thụ động chịu ảnh hưởng của nó. Còn đối với các yếu tố thuộc tiềm lực của doanh nghiệp là các yếu tố mang tính chủ quan, có thể kiểm soát được ở một mức độ nào đó mà doanh nghiệp sử dụng để khai thác cơ hội kinh doanh và thu lợi nhuận. Trong thực tế, các yếu tố tiềm lực bên trong doanh nghiệp thay đổi chậm hơn so với sự thay đổi liên tục của môi trường kinh doanh và có thể hạn chế khả năng phản ứng linh hoạt của doanh nghiệp trước sự thay đổi của môi trường. Mỗi doanh nghiệp cần có sự đánh giá đúng tiềm lực thực tại và có chiến lược xây dựng và phát triển tiềm lực của mình để mang lại hiệu quả trong kinh doanh.
2.2.1. Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối có hiệu quả các nguồn vốn, khả năng quản lý các nguồn vốn trong kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có khả năng tài chính mạnh thì không những làm cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra ổn định, có hiệu quả mà còn giúp cho doanh nghiệp đầu tư tái sản xuất mở rộng, đầu tư đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết và hiện đại vào sản xuất nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí không cần thiết, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh. Khả năng tài chính vững mạnh là yếu tố quyết định qui mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng huy động vốn tham gia vào việc hình thành và khai thác các cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, tạo uy tín cho doanh nghiệp trên thị trường. Đồng thời giúp doanh nghiệp chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Ngược lại, một doanh nghiệp không có đủ tiềm lực tài chính vững mạnh thì doanh nghiệp đó không những không đảm bảo được hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường mà còn mất thế chủ động, không phát huy được các phương án kinh doanh một cách kịp thời, nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường sẽ dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao.
2.2.2. Tiềm năng con người
Trong kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Chính con người với năng lực thực chất của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng các sức mạnh khác như: vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật... một cách có hiệu quả để khai thác các cơ hội kinh doanh.
Mặc dù khoa học - kỹ thuật - công nghệ ngày nay trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nhưng áp dụng kỹ thuật máy móc không chưa đủ mà còn cần phải có trình độ năng lực của người lao động tác động tới mới mang lại hiệu quả kinh doanh cao. Thực tế cho thấy, máy móc thiết bị dù tối tân hiện đại đến đâu vẫn là do con người tạo ra, vẫn cần phải có bàn tay và trí óc của con người để khai thác và sử dụng nó có hiệu quả. Đánh giá và phát triển tiềm năng con người trở thành một nhiệm vụ ưu tiên mang tính chiến lược trong kinh doanh.
Một doanh nghiệp có sức mạnh về con người là doanh nghiệp có khả năng lựa chọn đúng và đủ số lượng lao động cho từng vị trí công tác và sản xuất trong một hệ thống thống nhất theo nhu cầu của công việc. Bên cạnh đó, mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược con người và phát triển nguồn nhân lực, cho thấy khả năng chủ động phát triển sức mạnh con người của doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và đổi mới thường xuyên, khả năng cạnh tranh và thích nghi của kinh tế thị trường. Chiến lược này liên quan không chỉ đến những vấn đề về đội ngũ lao động hiện tại mà còn tạo khả năng thu hút nguồn lao động xã hội nhằm kiến tạo cho doanh nghiệp một đội ngũ lao động trung thành, có trình độ chuyên môn, lao động giỏi tạo ra năng suất và sáng tạo mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh.
Doanh nghiệp phải tổ chức lao động hợp lý, phân công quyền lợi rõ ràng, lao động có kỷ luật, chấp hành đúng qui định của công ty. Đồng thời để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp phải sử dụng đúng người, đúng việc sao cho người lao động phát huy được năng lực sở trường của mình. Bởi vậy, vấn đề đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, người lao động trong doanh nghiệp cần có ý thức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm, năng động, sáng tạo trong cơ chế thị trường.
2.2.3. Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh
Quá trình phát triển của sản xuất luôn gắn liền với sự phát triển của tư liệu lao động. Sự phát triển của công cụ lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Do vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp được coi là một yếu tố vật chất hữu hình rất quan trọng trong việc tăng chất lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ sở vật chất của doanh nghiệp sẽ đem lại sức mạnh kinh doanh cho doanh nghiệp đồng thời tạo ra những cơ hội nắm bắt thông tin trong quá trình hoạch định chiến lược kinh doanh hoặc chuyển hướng kinh doanh. Chất lượng hoạt động của doanh nghiệp chịu tác động mạnh mẽ của trình độ kỹ thuật, tính đồng bộ của máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, việc đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng ứng dụng khoa học - kỹ thuật là vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần khác nhau đang cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Trong cuộc cạnh tranh đó tất yếu sẽ không có chỗ cho các doanh nghiệp nào mà hàng hoá không có sức cạnh tranh, kém phẩm chất, mẫu mã không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Vì thế, việc đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến qui trình công nghệ, ứng dụng những thành tựu tiến tiến của khoa học - kỹ thuật là một đòi hỏi tất yếu khách quan giúp cho quá trình sản xuất đạt được năng suất cao, tạo ra được những sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành hạ, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường.
Do đó, các doanh nghiệp muốn đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao đòi hỏi phải luôn chú tâm phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, đổi mới trang thiết bị tân tiến đồng bộ. Nó là cơ sở để giảm chi phí kinh doanh, giảm mức sử dụng lao động sống và các chi phí khác, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2.4. Trình độ tổ chức quản lý, nhân tố quản trị trong doanh nghiệp
Nhân tố quản trị trong doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng đến thành công hoặc thất bại của mỗi doanh nghiệp. Quản trị kinh doanh hiện tại luôn chú trọng đến việc xác định cho doanh nghiệp một hướng đi đúng đắn, tức là phải nghiên cứu kĩ các yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Xác định đúng chiến lược kinh doanh là cơ sở đầu tiên đem lại hiệu quả hoặc phi hiệu quả, thành công hoặc thất bại của doanh nghiệp trên thị trường.
Muốn tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh, điều đó phụ thuộc vào nhãn quan và khả năng nắm bắt thông tin, hoạch định chiến lược của các nhà quản trị doanh nghiệp. Ban giám đốc là cấp quản lý cao nhất trong doanh nghiệp. Vai trò của Ban giám đốc trong hoạt động sản xuất kinh doanh là rất quan trọng, thể hiện sự kết hợp tối ưu hài hoà các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh đem lại kết quả kinh doanh cao, giảm những chi phí không cần thiết. Có thể nói, sự thành công hoặc thất bại của một doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn bởi quyết định của Ban lãnh đạo.
Với vai trò quan trọng như vậy nên khả năng và trình độ hiểu biết của các thành viên trong Ban lãnh đạo doanh nghiệp là rất cần thiết. Ban giám đốc có năng lực trình độ và kinh nghiệm sẽ tổ chức doanh nghiệp một cách khoa học và hiệu quả. Sự năng động, sáng tạo của cấp quản lý sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt và tận dụng triệt để các cơ hội kinh doanh. Người quản lý giỏi là người biết chớp thời cơ và quyết đoán trong mọi trường hợp, đồng thời phải biết tổ chức phân công hiệp tác lao động hợp lý giữa các bộ phận, các cá nhân, sử dụng đúng người, đúng việc để tận dụng được tối đa năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên, nhằm tạo ra sự hợp lý, thông suốt trong tiến trình thực hiện nhiệm vụ chung của doanh nghiệp.
2.2.5. Trình độ tổ chức quản lý và tiêu thụ hàng hoá
Đối với mỗi doanh nghiệp, tiêu thụ hàng hoá là quá trình đưa hàng hoá tới tay người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp cần phải thiết lập được một mạng lưới kinh doanh phù hợp nhằm tiêu thụ sản phẩm của mình. Một mạng lưới kinh doanh rộng khắp cho phép doanh nghiệp mở rộng qui mô kinh doanh, tăng doanh số bán và thu nhiều lợi nhuận. Do đó doanh nghiệp phải không ngừng tìm kiếm và mở rộng thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả trong kinh doanh thì doanh nghiệp cần phải xác định được thị trường mục tiêu và thị trường tiềm năng của mình, để từ đó có những chính sách, biện pháp quản lý nguồn lực, bố trí hệ thống kho bãi, cửa hàng thích hợp. Ngày nay, trước tình hình biến động nhanh chóng phức tạp của thị trường cũng như sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trên thương trường, các doanh nghiệp cần phải năng động sáng tạo tìm ra thị trường mới và không ngừng hoàn thiện mạng lưới kinh doanh để thích nghi với cơ chế thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đưa doanh nghiệp vững bước đi lên.
Ngoài ra, dự trữ là khâu cần thiết khách quan để đảm bảo cho quá trình tiêu thụ hàng hoá được thường xuyên và liên tục, giúp cho quá trình kinh doanh không bị đứt đoạn. Song dự trữ có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí kinh doanh và do đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Vấn đề là doanh nghiệp phải xác định được mức dữ trữ tối ưu, vừa đảm bảo cung cấp hàng hoá kịp thời cả về số lượng, cơ cấu và chủng loại, vừa không gây ra tình trạng ứ đọng mặt hàng, chậm phát triển, ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển vốn, tăng chi phí lưu thông và giảm hiệu quả kinh doanh.
2.2.6. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin
Trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, thông tin được coi là hàng hoá, là đối tượng kinh doanh và nền kinh tế thị trường được coi là nền kinh tế thông tin hoá. Để hoạt động sản xuất diễn ra thành công trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt, các doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin chính xác về thị trường, về kỹ thuật công nghệ, về sản phẩm, về đối thủ cạnh tranh về người mua, người bán, giá cả, về kinh nghiệm của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các chính sách kinh tế của Nhà nước và các nước khác. Hơn thế nữa, những thông tin kịp thời chính xác sẽ là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xây dựng mục tiêu kinh doanh, xác định chiến lược kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp, hoạch định các kế hoạch dài hạn cũng như các chương trình sản xuất ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp không nắm bắt được các thông tin thường xuyên liên tục thì dễ đi đến thất bại trong kinh doanh. Muốn vậy, doanh nghiệp cần phải có một hệ thống cung cấp và xử lý thông tin một cách chính xác.
Đối với môi trường nội bộ doanh nghiệp, hệ thống trao đổi thông tin trong doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng bao gồm tất cả các thông tin có liên quan đến từng phòng ban, bộ phận cho đến người lao động. Để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách trôi chảy và ổn định thì giữa các bộ phận các phòng ban, những người lao động luôn phải trao đổi thông tin liên lạc thông suôt liền mạch. Do đó, mà hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng phụ thuộc rất lớn vào hệ thống trao đổi thông tin của doanh nghiệp. Nó làm cho quá trình chuyển thông tin từ bộ phận này sang bộ phận khác, từ cấp trên xuống cấp dưới, từ Ban lãnh đạo đến từng người lao động đạt được sự trôi chảy, nhanh chóng, tạo một sự phối hợp hiệu quả trong công việc.
Có thể nói, mỗi doanh nghiệp là một guồng máy, nếu có được thông tin tổng hợp kịp thời, chính xác sẽ làm cho việc điều hành hoạt động của doanh nghiệp được dễ dàng, khả năng cung ứng cũng như bán hàng được nâng cao góp phần tăng doanh số bán và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó mỗi doanh nghiệp cần phải xây dựng một hệ thống trao đổi và xử lý thông tin rộng khắp đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời, liên tục và chính xác.
Tóm lại, trong thực tế, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động tổng hợp của rất nhiều yếu tố và đó chỉ là một vài yếu tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để có thể thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải phân tích, đánh giá và tìm hiểu kĩ các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của mình để đưa ra được những chiến lược kinh doanh hợp lý nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệop ngày càng vững mạnh
III. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh thương mại - dịch vụ
1. Nhóm chỉ tiêu định tính xác định hiệu quả kinh doanh thương mại - dịch vụ
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là một vấn đề phức tạp, có quan hệ đến toàn bộ các yếu tố của quá trình kinh doanh. Trong phạm vi rộng, hiệu quả kinh doanh thương mại thể hiện việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của nền kinh tế bao gồm:
- Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tăng.
- Nâng cao thu nhập quốc dân.
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động.
- Cải thiện vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
- Giảm sự chênh lệch của cán cân thanh toán.
- Khai thác tối đa tiềm năng sản xuất của nền kinh tế.
- Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế.
.....................
Những chỉ tiêu này mang tích chất định tính khá nhiều do đó, xác định bằng con số cụ thể là một công việc khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên, một nền kinh tế quốc dân đạt được hiệu quả kinh doanh sẽ tác động trực tiếp tới các yếu tố trên, góp phần phát triển nền kinh tế.
2. Nhóm các chỉ tiêu định lượng
2.1. Các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp
2.1.1 Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định thu được bao nhiêu đồng doanh thu trên một đồng chi phí bỏ ra để thu được doanh thu đó.
ồ doanh thu
HQ =
ồ chi phí
HQ : Hiệu quả kinh tế
Chỉ tiêu này càng lớn, trình độ sử dụng các nguồn lực tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh càng tốt và ngược lại, chỉ tiêu này càng nhỏ thì việc sử dụng các yếu tố chi phí càng kém hiệu quả.
2.1.2. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
ồ P
P’ =
DTT
Trong đó : P’ : Tỷ suất lợi nhuận
ồ P: Tổng lợi nhuận đạt dược trong kỳ
DTT: Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kỳ nhất định, doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.
2.1.3. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí
ồ P
P’ =
ồ CP
Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được trên một đồng chi phí bỏ ra.
Trong đó:
P’ : Tỷ suất lợi nhuận
ồ P : Tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ
ồ CP : Tổng chi phí bỏ ra
Chỉ tiêu này càng cao cho thấy mức lợi nhuận thu được trên một đồng chi phí càng lớn, kinh doanh càng có hiệu quả.
2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh bộ phận
2.2.1. Hiệu quả sử dụng các loại vốn
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về các tài sản cần thiết nhằm thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của kinh doanh trong kỳ bao gồm vốn lưu động và vốn cố định.
Thông thường, hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá qua hai bước:
Bước một: đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung, hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn của doanh nghiệp được đánh giá bằng hai chỉ tiêu:
Doanh thu thuần Tổng lợi nhuận HQ = hoặc HQ =
Tổng vốn kinh doanh Tổng vốn kinh doanh
Bước hai: đánh giá hiệu quả sử dụng các loại vốn
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động : được đánh giá bằng chỉ tiêu tốc độ chu chuyển vốn lưu động
DTT
L =
VLĐ
T
N =
L
Trong đó:
L : Số lần chu chuyển vốn lưu động trong kỳ
DTT : Doanh thu thuần thu được trong kỳ
VLĐ : Vốn lưu động trong kỳ
N : Số ngày chu chuyển vốn lưu động
T : Thời gian theo lịch trong kỳ
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định: được đánh giá bằng chỉ tiêu sức sản xuất của vốn cố định
ồ DT
=
VCĐ
Trong đó:
Ssx : Sức sản xuất của vốn cố định trong kỳ
ồ DT : Tổng doanh thu thu được trong kỳ
VCĐ : Vốn cố định trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định bỏ ra thu được bao nhiêu đồng doanh thu.
- Sức sinh lời của vốn cố định: Tỷ suất lợi nhuận của vốn cố định.
ồ P
P’VCĐ = x 100
VCĐ
Trong đó: P’VCĐ : Tỷ suất lợi nhuận của vốn cố định
ồ P : Tổng lợi nhuận thu được trong kỳ
VCĐ : Vốn cố định trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu đồng lợi nhuận được tạo ra từ một đồng vốn cố định.
2.2.2. Hiệu quả sử dụng lao động
Số lượng và chất lượng của lao động giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng lao động được biểu hiện ở năng suất lao động, mức sinh lời của một lao động và hiệu suất tiền lương.
- Năng suất lao động.
DT
W =
LĐBQ
Trong đó: W : Năng suất lao động bình quân của một lao động trong kỳ
DT : Doanh thu thực hiện trong kỳ
LĐBQ : Tổng số lao động bình quan của doanh nghiệp trong kỳ
- Mức sinh lời của một lao động:
ồP
P =
LĐBQ
Trong đó: P : Lợi nhuận bình quân của một người lao động
ồ P : Tổng lợi nhuận thu được trong kỳ
LĐBQ : Tổng số lao động bình quân của một doanh
nghiệp trong kỳ
Hai chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả có ích của một lao động trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nó được biểu hiện bằng doanh thu bình quân của một lao động và mức lợi nhuận mà một lao động làm ra trong kỳ. Chỉ tiêu này cho phép chúng ta đánh giá một cách chung nhất hiệu quả sử dụng lao động trong toàn đơn vị.
- Hiệu quả sử dụng chi phí tiền lương:
ồ P
P’ =
QL
Trong đó:
P’ : Hiệu suất tiền lương
ồ P : Tổng lợi nhuận trong kỳ
QL : Tổng quĩ lương của doanh nghiệp trong một thời kỳ kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết trong một thời kỳ nhất định, doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí tiền lương thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng lao động càng cao.
- Ngoài ra còn sử dụng chỉ tiêu tỷ suất tiền lương để đánh giá hiệu quả sử dụng lao động sống:
QL
P’ = x 100
ồ DT
Trong đó:
P’ : Tỷ suất tiền lương
QL : Tổng quĩ lương của doanh nghiệp trong kỳ
ồ DT : Tổng doanh thu thực hiện trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết, để thực hiện được 100đ doanh thu thì phải chi ra bao nhiêu đồng để trả lương. Chỉ tiêu này càng nhỏ hiệu quả sử dụng lao động càng tốt.
2.2.3. Hiệu quả sử dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật
Với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại - dịch vụ, cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật cho biết khả năng một đơn vị vật chất kỹ thuật mang lại bao nhiêu đồng doanh thu hoặc tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn, khả năng sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp càng cao, doanh nghiệp càng đạt được hiệu quả trong kinh doanh.
Tóm lại, để đánh giá hiệu quả kinh doanh đảm bảo tính đúng đắn và thông nhất, người ta đưa ra một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả. Hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải kết hợp hài hoà giữa các chỉ tiêu bộ phận với hiệu quả kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Do đó, hệ thống chỉ tiêu phải có các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu bộ phận. Các chỉ tiêu tổng hợp cho ta biết tình hình kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp và có thể đưa ra những kết luận tương đối chính xác về tính hiệu quả của doanh nghiệp. Còn các chỉ tiêu bộ phận chỉ phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của từng bộ phận chức năng và nó chỉ có thể đưa ra những nguyên nhân và phân tích tác động của từng nhân tố đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hệ thống chỉ tiêu đầy đủ phải kết hợp hài hoà giữa chỉ tiêu bộ phận và chỉ tiêu tổng hợp trong việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Hệ thống chỉ tiêu đánh giá phải đảm bảo tính chính xác và thực tiễn nghĩa là phải dựa trên cơ sở số liệu thực tiễn, đơn giản và dễ hiểu, không nên sử dụng phương pháp quá phức tạp khi chưa có điều kiện sử dụng.
- Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả phải phản ánh được trình độ sử dụng lao động vật hoá thông qua việc so sánh giữa kết quả và chi phí.
- Hệ thống chỉ tiêu phải gắn với mục tiêu của doanh nghiệp trong từng giai đoạn, điều kiện kinh doanh, sự biến động của môi trường... mới có thể đánh giá được chính xác hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc đánh giá chính xác hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ góp phần tìm ra những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và tìm ra các giải pháp khắc phục những ảnh hưởng không tốt đó, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
phần hai
thực trạng kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của trạm đón tiếp khách nhà khách bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
I. Khái quát về trạm đón tiếp khách nhà khách bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
1. Quá trình hình thành và phát triển
Nhà khách Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là đơn vị thuộc Văn phòng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được thành lập theo quyết định số 307 NN - TCCB / QĐ ngày 12/ 12 /1992 của Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nhà khách là đơn vị hoạch toán kinh doanh độc lập có trụ sở tại 16 Thuỵ Khê - Quận Tây Hồ - Hà Nội.
Trước năm 1945, địa điểm Nhà khách hiện giờ là doanh trại của sĩ quan Pháp. Từ năm 1945 - 1954 là khu vườn ươm thuộc Bộ canh nông thời Pháp thuộc.
Từ năm 1959, địa điểm này được giao cho Bộ nông nghiệp quản lý. Tới tháng 4 / 1987, Chính phủ có quyết định thành lập Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm trên cơ sở hợp nhất 2 Bộ là Bộ Nông nghiệp và Bộ Công nghiệp thực phẩm. Vì vậy, với quyết định số 207 NN - ._.ề chất lượng dịch vụ cho nhà khách.
Ngoài ra, nhà khách cần dựa vào bảng tiêu chuẩn chất lượng đã đề ra để tiến hành kiểm tra đánh giá chất lượng dịch vụ của mình, từ đó có thể cải tiến hoặc duy trì tốt các hoạt động.
Tóm lại, chất lượng dịch vụ luôn là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, nó là cơ sở để các doanh nghiệp chứng tỏ mình có khả năng cạnh tranh trên thị trường, thành công trong kinh doanh. Chất lượng không phải tự nhiên mà có, nó đòi hỏi sự đầu tư về thời gian, sức lực, chi phí và sự nỗ lực của tất cả mọi người. Nhà khách Bộ NN & PTNT cũng kinh doanh dịch vụ lưu trú như một khách sạn nên việc quan tâm tới chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh là cần thiết và phải được chu trọng phát triển.
4. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực
Nhân tố con người đóng vai trò rất quan trọng trong kinh doanh khách sạn. Đây là yếu tố cần thiết và ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút khách. Bởi một khách sạn có cơ sở vật chất kỹ thuật tốt thôi chưa đủ mà cần phải có một đội ngũ lao động làm việc với chuyên môn cao, phẩm chất tốt. Do đó, ý thức cũng như trình độ của mỗi nhân viên trong công ty cần phải được chú ý một cách toàn diện. Để hoàn thiện chất lượng phục vụ, song song với việc hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển các loại hình dịch vụ bổ sung là việc đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ công nhân viên.
4.1. Nâng cao chất lượng cán bộ công nhân viên
4.1.1. Đội ngũ những người quản lý
Đây là những người hoạch định chính sách và trực tiếp điều hành các hoạt động kinh doanh. Vì vậy để đạt được hiệu quả kinh doanh đòi hỏi phải có đội ngũ những nhà quản lý tài giỏi, phải có tầm nhìn chiến lược và giàu kinh nghiệm. Muốn làm được điều này thì nhà khách phải không ngừng có những khoá học bồi dưỡng về trình độ quản lý cho đội ngũ những nhà quản lý, đồng thời, nhà khách cũng phải thường xuyên có những sự thuyên chuyển hợp lý về vị trí làm việc của đội ngũ những nhà quản lý nhằm tạo ra sự phù hợp trong công việc.
4.1.2. Đội ngũ nhân viên các phòng ban
Đây là những người trực tiếp tham gia vào quá trình phục vụ của nhà khách. Do vậy, để nâng cao chất lượng phục vụ, nhà khách phải có một đội ngũ lao động giàu kinh nghiệm, nhiệt tình và hết lòng vì công việc. Để làm được điều này phải bắt đầu từ việc lập kế hoạch cụ thể để tuyển chọn những lao động trẻ, có năng lực. Kế hoạch tuyển chọn phải căn cứ vào tính chất nghiệp vụ và chức năng của từng bộ phận để đề ra các yêu cầu, các tiêu chuẩn tuyển chọn phù hợp.
Bộ phận lễ tân là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, là những người khách hàng gặp đầu tiên và giải quyết các yêu cầu của khách, là bộ mặt của nhà khách nên cần phải được chú trọng đặc biệt trong công tác tuyển chọn. Yêu cầu đối với nhân viên lễ tân phải là những người có hình thức trẻ đẹp, tuổi từ 20 - 25, có trình độ ngoại ngữ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng giao tiếp tốt.
Bộ phận buồng cũng là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, đảm bảo vệ sinh sạch sẽ buồng nghỉ của khách nên phải là những người có sức khoẻ tốt, có chuyên môn nhà buồng, có tính thật thà trung thực vì thường xuyên tiếp xúc với tư trang tài sản của khách.
Bộ phận bếp ăn phục vụ các bữa ăn cho khách nên phải có sức khoẻ tốt, không bệnh tật, có nghiệp vụ tay nghề đầu bếp giỏi để đảm bảo bữa ăn hợp vệ sinh, đủ dinh dưỡng, ngon miệng và đẹp mắt.
Với các dịch vụ bổ sung phải tuyển các nhân viên có nghiệp vụ nghề nghiệp, hiểu rõ công việc, có thao tác nghiệp vụ thành thạo.
Tuyển chọn những nhân viên đáp ứng đủ các yêu cầu trên sẽ giúp cho nhà khách có một đội ngũ lao động trẻ năng động, có trình độ, phù hợp với nhu cầu ngày một cao của nhà khách.
Đối với những lao động hiện nay của nhà khách, phần lớn đều chỉ ở trình độ trung cấp, đại học tại chức, không được đào tạo chính qui về nghiệp vụ kinh doanh khách sạn nên khó đáp ứng được những nhu cầu mới của thị trường, khách hàng và nghề nghiệp. Vì vậy, nhà khách cần có chế độ làm ca hợp lý để nhân viên có thể thay phiên nhau đi học, tổ chức và đưa ra nhiều hình thức đào tạo nhỏ như đào tạo tại chỗ, đào tạo tập trung, cử đi học các lớp tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ. Việc đào tạo này có thể liên kết với các trường trung cấp hoặc đại học, có thể đến trường hoặc mở lớp giảng tại nhà khách. Thường xuyên mời các chuyên gia về khách sạn, các giảng viên có uy tín và kinh nghiệm khi đến nói chuyện chuyên đề, các buổi hội thảo trau dồi kinh nghiệm, góp ý kiến phê bình về phong cách chất lượng phục vụ để nâng cao hiểu biết về quản lý kinh doanh khách sạn, tình hình khả năng phát triển của ngành, đúc rút kinh nghiệm cho công việc. Ngoài ra còn mở các lớp đào tạo ngoại ngữ, đào tạo và tổ chức thi, kiểm tra tay nghề hàng năm, tổ chức các cuộc thi phong cách ứng xử đối với khách hàng nhằm khuyến khích nhân viên nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đối với những nhân viên lễ tân sau khi kết thúc công việc lễ tân do tuổi đời không còn trẻ có thể đưa họ đi học các lớp quản lý để trở lại phục vụ nhà khách vì những người này đã có kinh nghiệm và trình độ trong việc giao tiếp, ứng xử với khách nên có trở thành những nhân viên quản lý tốt.
Nhu cầu trẻ hoá đội ngũ lao động là việc làm rất quan trọng mà trước hết là ở những bộ phận trực tiếp phục vụ khách hàng như nhà buồng, nhà ăn, lễ tân nhưng cũng cần có chính sách phù hợp với những người lao động có độ tuổi trung bình cao như đào tạo lại, chuyển ngành hoặc bố trí, sắp xếp công việc phù hợp.
4.2. Có chế độ đãi ngộ thoả đáng
Con người là yếu tố vô cùng quan trọng trong các doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ. Con người luôn luôn vận động, trình độ chuyên môn, yếu tố tâm lý, tinh thần làm việc của những người tham gia vào quá trình cung cấp sản phẩm dịch vụ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm. Muốn nâng cao chất lượng phục vụ, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, một nhà quản lý giỏi phải biết sử dụng các chính sách lương bổng, thưởng phạt hợp lý để khuyến khích kích thích người lao động, tạo động lực trong công việc.
Ban quản lý nên chú ý hơn tới chính sách lương thưởng đối với người lao động để tạo tâm lý tốt cho họ khi làm việc, nâng cao trách nhiệm, phát huy tính sáng tạo, chủ động trong công việc. Thực hiện đầy đủ chế độ bảo hiểm, y tế, chế độ trang phục, quần áo bảo vệ. Duy trì và cải thiện bữa ăn giữa ca có chất lượng để đảm bảo sức khoẻ cho người lao động. Nhà khách nên quan tâm hơn nữa đến đời sống tinh thần của cán bộ công nhân viên, gặp gỡ thăm hỏi nhân viên lúc ốm đau, hiếu hỉ, tổ chức sinh nhật và tặng quà cho nhân viên, động viên con em cán bộ công nhân viên (vào các dịp lễ Tết, Quốc tế thiếu nhi...) khuyến khích cán bộ công nhân viên tham gia vào các hoạt động văn hoá xã hội như hội diễn văn nghệ, hoạt động thể dục thể thao... Tạo sự gắn bó, đoàn kết, không khí sôi nổi và tạo niềm cảm hứng cho nhân viên làm việc.
Đội ngũ các nhà quản lý nên lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân viên để giải quyết thoả đáng những yêu cầu và nguyện vọng của họ, tạo niềm tin của họ đối với nhà khách, từ đó có trách nhiệm đối với công việc góp phần nâng cao chất lượng phục vụ.
Đối với những người phạm sai lầm, sai sót trong quá trình phục vụ có thể xử phạt nặng nhẹ tuỳ theo mức độ phạm lỗi nhưng cũng nên tạo cơ hội cho họ sửa chữa, rút kinh nghiệm. Những nhân viên làm tốt, được khách khen ngợi, có trách nhiệm cao trong công việc nên có chế độ khen thưởng kịp thời để tạo động lực lớn cho nhân viên. Với những nhân viên đưa ra được những ý tưởng kinh doanh mới, hợp lý, các biện pháp quản lý tiên tiến cũng phải được ghi nhận và tặng thưởng để kích thích tính sáng tạo, năng động của nhân viên, tạo mối quan hệ gắn bó giữa nhân viên với nhà khách.
Thế giới trong tương lai là thế giới của khoa học và công nghệ, đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu phụ thuộc vào đội ngũ những người lao động có trình độ chuyên môn, có tâm huyết và tình yêu nghề nghiệp. Để có được đội ngũ những người lao động như vậy nhằm cống hiến cho đất nước, đòi hỏi mỗi người, mỗi doanh nghiệp và toàn ngành kinh tế phải chú trọng công tác đào tạo và huấn luyện tay nghề, trau dồi kiến thức và ý thức làm việc.
Với những công tác đào tạo tuyển chọn nguồn nhân lực và chế độ đãi ngộ thoả đáng trên, nhà khách Bộ NN & PTNT sẽ nâng cao được chất lượng lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của mình để góp phần nâng cao chất lượng phục vụ cũng như hiệu quả kinh doanh của nhà khách.
Nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở vật chất kỹ thuật là tiêu chí quan trọng trong việc kinh doanh khách sạn. Một hệ thống trang thiết bị hiện đại và sang trọng kết hợp với đội ngũ nhân viên lành nghề và một hệ thống dịch vụ hoàn thiện sẽ cung cấp cho khách hàng sản phẩm có chất lượng tốt, đảm bảo lòng tin với khách hàng, nhờ đó mới tăng được hiệu quả kinh tế.
Trong thời đại ngày nay trước sự phát triển nhanh như vũ bão của khoa học công nghệ thì việc chóng lạc hậu của cơ sở vật chất kỹ thuật là điều hiển nhiên nhưng nếu nhà khách cứ chạy đua theo sự phát triển thì hiệu quả mang lại chưa chắc đã là tối ưu.
5.1. Hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở vật chất kỹ thuật có tính cố định trong thời gian tương đối dài, trong khi đó sự phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới cũng như nhu cầu phong phú, đa dạng, tinh tế của khách ngày càng thay đổi nhanh chóng, ngày càng xuất hiện nhiều thiết bị máy móc có tính năng hiện đại, phục vụ rất tốt cho nhu cầu của khách, hơn thế nữa, thời gian để xuất hiện những thế hệ máy móc thiết bị mới ngày càng rút ngắn. Vì thế, cơ sở vật chất kỹ thuật luôn phải chịu một sức ép khá lớn do hao mòn vô hình tạo ra, nghĩa là ngày càng lạc hậu nhanh và không đáp ứng được nhu cầu hiện đại của khách. Không những thế, theo thời gian sử dụng, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng bị hao mòn và hư hỏng dần. Để cơ sở vật chất kỹ thuật luôn đáp ứng được yêu cầu chất lượng, đầu tiên phải kể đến việc đầu tư ban đầu, nếu được trang bị thiết bị đồng bộ, có chất lượng và độ bền cao thì việc hư hỏng và hao mòn sẽ giảm xuống. Thứ hai, công tác bảo dưỡng, sửa chữa phải được duy trì thường xuyên và có hiệu quả để nhanh chóng thay thế , sửa chưa những hỏng hóc từ lúc mới phát sinh, tránh để hỏng nặng thì chỉ còn cách mua mới thì rất tốn kém, lại có thể gây ra tình trạng thiếu đồng bộ.
Do thời gian sử dụng đã nhiều năm, nên cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà khách Bộ NN & PTNT không tránh khỏi tình trạng xuống cấp, lạc hậu và không đồng bộ. Mặc dù đã được thường xuyên bảo dưỡng, sửa chữa và nâng cấp nhưng vẫn không cải thiện được tình hình mà lại tốn kém nhiều chi phí. Do đó chi phí sửa chữa, bảo dưỡng của nhà khách năm nào cũng rất cao, làm giảm lợi nhuận ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ. Tuy nhiên, việc đầu tư vốn để xây dựng, cải tạo và nâng cấp toàn bộ hệ thống trang thiết bị tiện nghi cần phải được tính toán kỹ. Hiện nay việc phá bỏ ngôi nhà cũ để xây dựng mới là khó thực hiện, không phải một sớm một chiều là có thể làm được ngay, mặc dù điều đó được thực hiện thì cơ sở vật chất sẽ trở nên đồng bộ hơn, tạo ra những thay đổi lớn cho sự phát triển. Do đó những biện pháp quản lý như kiểm tra thường xuyên, gắn trách nhiệm nhân viên với tình trạng hoạt động của thiết bị, tổ chức những buổi họp rút kinh nghiệm, đưa định mức hỏng hóc hợp lý... Những nội qui, hướng dẫn sử dụng được để đúng chỗ là những biện pháp quản lý giúp cho việc sử dụng trang thiết bị một cách tiết kiệm và hiệu quả.
Trình độ sử dụng và ý thức trách nhiệm của nhân viên là những yếu tố tác động rất lớn tới hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà khách. Do đó, ngay từ đầu phải tuyển những nhân viên có trình độ sử dụng đồng thời có tính trung thực, khéo léo và ý thức tiết kiệm cao. Về phía nhà quản lý, do đây là nhân tố có thể kiểm soát được nên những biện pháp quản lý, khen thưởng, kỷ luật và những buổi học nâng cao tay nghề, nghiệp vụ cho các nhân viên là điều chắc chắn không thể thiếu được.
5.2. Tận dụng triệt để diện tích vốn có
Nhà khách Bộ NN & PTNT có diện tích 3147 m2 rộng lớn và thoáng mát, dễ dàng cho việc mở mang thêm các khu phụ trợ mới, các phòng nghỉ mới.
Hiện nay với diện tích rộng như vậy nhà khách vẫn chưa tận dụng có hiệu quả để đưa vào kinh doanh. Với việc mở rộng thệm các dịch vụ mới nhằm đa đạng hoá sản phẩm. Nhà khách cần xây dựng thêm bể bơi, các sân chơi thể thao, phòng tập thể dục... để phục vụ cho các dịch vụ mới hoạt động có hiệu quả, không những phục vụ khách nghỉ mà còn có thể đáp ứng nhu cầu của nhân dân địa phương khi muốn tập thể thao, vui chơi, giải trí.
Hệ thống phòng nghỉ của nhà khách hiện nay đã xuống cấp, thường xuyên phải sửa chữa rất tốn kém chi phí. Vì vậy có thể dần xây mới các phòng nghỉ để thay thế và xây dựng thêm nhiều phòng mới kiến trúc hiện đại, đẹp mắt. Ngoài ra, có thể cho xây thêm một số văn phòng nữa để cho thuê làm điểm làm việc.
Do từ thời bao cấp đã có một khu tập thể dành cho cán bộ công nhân viên của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nằm trong khuôn viên của nhà khách. Hiện nay do nhu cầu phát triển, nên đề nghị Bộ cho di dời khu tập thể đi nơi khác vì các hộ đó cũng đã xuống cấp lấy đất qui hoạch mới toàn bộ nhà khách cho hợp lý và phù hợp với kế hoạch kinh doanh hiện tại.
Tóm lại, cơ sở vật chất kỹ thuật là một trong những yếu tố trực tiếp phục vụ khách lưu trú tại nhà khách, ảnh hưởng tới chất lượng phục vụ trong kinh doanh khách sạn. Với đặc điểm của một ngành dịch vụ thì chất lượng không phải là yếu tố có thể cân, đong, đo, đếm được như các hàng hoá thông thường, chất lượng ở khách sạn phụ thuộc nhiều vào đánh giá, cảm nhận của khách khi được phục vụ tận tình, sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà khách.
Có thể thấy, những yêu cầu chất lượng đối với cơ sở vật chất kỹ thuật có rất nhiều định tính và xuất phát từ sự cảm nhận của khách là chủ yếu. Khi sử dụng dịch vụ lưu trú, khách sẽ bị thuyết phục bởi thẩm mỹ của buồng ngủ, sự vệ sinh, an toàn của các thiết bị... cảm nhận tốt về những điều đó phản ánh chất lượng của cơ sở vật chất kỹ thuật.
Hoàn thiện, nâng cấp cơ sở vật chất hiện có, đầu tư các trang thiết bị mới, tận dụng có hiệu quả phần diện tích vốn có để nâng cao chất lượng phục vụ của cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao hiệu quả kinh doanh của nhà khách.
6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Trong kinh doanh thương mại, vốn kinh doanh có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động, phát triển từng loại hình doanh nghiệp theo luật định. Nó là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại và phát triển các doanh nghiệp.
Trong thời kỳ bao cấp, vốn kinh doanh được Nhà nước bao cấp, các doanh nghiệp cứ kinh doanh theo kế hoạch không quan tâm đến lỗ, lãi và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Trong cơ chế kinh tế mới, trong điều kiện mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, việc có vốn và tích luỹ, tập trung được vốn nhiều hoặc ít vào doanh nghiệp có vai trò cực kì quan trọng trong việc đẩy mạnh kinh doanh. Tuy nhiên, nó là một nguồn lực quan trọng để phát huy tài năng của Ban lãnh đạo doanh nghiệp; nó là điều kiện để thực hiện các chiến lược, sách lược, nó là chất keo để nối chắp, dính kết các quá trình và quan hệ kinh tế và nó cũng là dầu nhớt bôi trơn cho cỗ máy kinh tế vận động.
Sử dụng vốn trong kinh doanh thương mại là một khâu có tầm quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn kinh doanh lại là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu, các bộ phận trong kinh doanh đến các biện pháp tổ chức thực hiện cũng như sự quản lý, hoạch toán theo dõi, kiểm tra, nghệ thuật kinh doanh và cơ hội kinh doanh.
Mục đích sử dụng vốn trong kinh doanh là nhằm đảm bảo nhu cầu tốt đa về vốn cho việc phát triển kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trên cơ sở nguồn vốn có hạn được sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Những biện pháp cần áp dụng để sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế là:
6.1. Tiết kiệm chi phí, sử dụng hợp lý tài sản, giảm thiệt hại
Giảm tới mức thấp nhất các chi phí bất hợp lý bằng cách đầu tư đúng mục đích, phối hợp hành động giữa các bộ phận để sử dụng tối đa sức người, sức của là giải pháp cần phải thực hiện ngay.
Tiết kiệm chi phí không có nghĩa là giảm chi phí trong kinh doanh, những chi phí bắt buộc phải có để phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn thì không được phép giảm thậm chí có thể tăng lên để đạt được ý đồ thoả mãn tối đa mọi nhu cầu của khách và phải đảm bảo tốc độ tăng chí phí nhỏ hơn mức độ tăng doanh thu. Trong từng hoạt động kinh doanh phải có những giải pháp tiết kiệm chi phí một cách có hiệu quả. Công tác tiết kiệm chi phí phải đi liền với việc đảm bảo chất lượng, sản phẩm dịch vụ đưa ra.
Với cơ sở vật chất kỹ thuật, tài sản cố định của nhà khách phải được quản lý và sử dụng có hiệu quả, đúng chức năng, phải được giữ gìn cẩn thận, sử dụng theo đúng chỉ dẫn, bảo quản theo định kỳ để giảm thiệt hại, tránh những hư hỏng mất mát không đáng có. Thường xuyên tổ chức công tác bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ theo đúng định mức để tránh những chi phí sửa chữa khi có những hỏng hóc nặng xảy ra.
6.2. Tăng cường công tác quản lý tài chính
Hạch toán, theo dõi đầy đủ, chính xác, kịp thời tình hình thu chi của doanh nghiệp.
Việc nhập hàng hoá ghi sổ sách cần chặt chẽ để tránh tình trạng cùng một lượt nhật hàng lại ghi sổ nhiều lần. Đặc biệt với nguyên liệu chế biến món ăn, các mặt hàng văn phòng phẩm được đưa vào sử dụng rất nhiều, ngày nào cũng phải nhập hàng nên việc quản lý cung ứng đòi hỏi phải hết sức chặt chẽ, tỉ mỉ và trung thực. Mặt khác, nhà hàng phải theo dõi chặt số lượng nguyên liệu đưa vào chế biến với doanh thu từ các sản phẩm bán ra để tránh những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra, nhà khách phải thường xuyên kiểm tra giám sát các hoạt động mua bán công cụ, dụng cụ, nguyên vật liệu phục vụ quá trình kinh doanh, kịp thời phát hiện những thiếu sót trong quản lý, tính toán thu chi để nắm bắt được thực trạng sản xuất kinh doanh, thường xuyên theo dõi giá cả trên thị trường để đưa ra các giải pháp đúng đắn.
6.3. Quản lý chặt chẽ và sử dụng hợp lý vốn đầu tư
Thực tế tình hình kinh doanh của nhà khách bây giờ đang đặt ra những vấn đề về vốn đầu tư cần được giải quyết.
Phải huy động được lượng vốn đầu tư cần thiết để thực hiện việc xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, trong đó cần huy động lượng vốn đầu tư từ công nhân viên trong nhà khách và nguồn vốn từ bên ngoài.
Có kế hoạch và biện pháp quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả ở cả hai nguồn trong và ngoài nhà khách.
Nếu không giải quyết được những vấn đề đó thì dễ dẫn đến tình trạng doanh thu làm ra không đủ để trả lãi, nợ nần chồng chất, đã thiếu lại càng thiếu thêm dần dẫn đến phá sản.
Như vậy huy động vốn và sử dụng vốn là những vấn đề gắn liền với nhau, việc huy động vốn đã khó nhưng việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả trong kinh doanh còn khó hơn và chỉ sử dụng vốn có hiệu quả mới tạo điều kiện tốt cho việc huy động vốn.
Để sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả cần đầu tư theo đúng dự án. Những sản phẩm của đầu tư kinh doanh khách sạn có đặc điểm là cố định tại một điểm không di chuyển được, tồn tại lâu dài và thu hút lượng vốn đầu tư lớn. Vì thế đầu tư xây dựng phải theo qui hoạch tổng thể. Qui hoạch hợp lý tạo ra quần thể kiến trúc hài hoà, hấp dẫn và thu hút sự chú ý của khách, điều đó đòi hỏi phải đầu tư theo dự án đã duyệt trong qui hoạch tổng thể và những dự án này phải mang lại hiệu quả kinh tế xã hội, phục vụ mục tiêu trong chiến lược phát triển chung cuả nhà khác
III. Một số điều kiện hỗ trợ
1. Huy động vốn cho kinh doanh
Vốn luôn là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới mọi hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Nếu không có đủ vốn thì không thể thực hiện được chiến lược kinh doanh đã đề ra, không thể biến các ý tưởng kinh doanh thành hiện thực. Do đó việc huy động đủ nguồn vốn cho kinh doanh luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của ban lãnh đạo.
1.1. Tăng cường liên doanh, liên kết
Liên doanh liên kết là một trong những biện pháp nhằm huy động vốn được sử dụng rộng rãi bây giờ. Liên doanh, liên kết có thể được thực hiện với các công ty du lịch - dịch vụ, với các công ty lớn muốn đầu tư vốn để mở rộng thêm loại hình kinh doanh hoặc với nước ngoài. Việc tăng cường liên doanh, liên kết sẽ tạo ra một khối lượng vốn lớn để thúc đẩy quá trình đầu tư nâng cấp được nhanh hơn. Điều đó là rất cần thiết với doanh nghiệp trong cơ chế thị trường đầy cạnh tranh như bây giờ. Ngoài ra, liên doanh, liên kết với các công ty khác có thể lợi dụng mối quan hệ của các công ty đó hoặc thị trường vốn có của họ để mở rộng thị trường kinh doanh cho Nhà khách .
Tuy nhiên, nếu muốn liên doanh, liên kết với nước ngoài thì phải cân nhắc nhiều điều. Vốn chủ yếu mà Nhà khách mang ra liên doanh là diện tích đất rộng lớn cho nên nếu kinh doanh có lãi, phần lợi nhuận đó sẽ được chia đều, còn nếu kinh doanh thua lỗ, Nhà khách không đủ vốn bằng tiền để bù đắp sẽ phải cắt đất thay vào. Dần dần, phần diện tích đó sẽ bị cắt hết và không còn thuộc sở hữu của Nhà khách nữa mà sẽ thuộc về phía nước ngoài. Khi đó, Nhà khách sẽ mất quyền kinh doanh trên phần đất mà mình sở hữu vì không còn gì để liên doanh và coi như bị phá sản. Vì vậy liên doanh với nước ngoài có thể về con người, công nghệ sản xuất và trang thiết bị hiện đại.
1.2. Vốn vay Ngân hàng, Nhà nước cấp thêm
Ngân hàng có vốn cho vay, Nhà khách thì cần vốn để kinh doanh. Do đó nếu vay được Ngân hàng để đầu tư kinh doanh thì Nhà khách sẽ có thêm vốn. Tuy nhiên, để vay được tiền của Ngân hàng, Nhà khách phải lập được dự án kinh doanh khả thi, một phần đảm bảo cho sự chi trả với Ngân hàng, một phần dựa vào dự án Nhà khách tiến hành đầu tư kinh doanh có hiệu quả hơn, đảm bảo có đủ lợi nhuận để trả lãi vay. Nếu đi vay mà không trả được lãi từ lợi nhuận sẽ bị mất phần tài sản thế chấp và cắt dần vốn ra để trả thì điều đó còn tai hại hơn. Lãi vay Ngân hàng sẽ như một món nợ đè nặng lên Nhà khách và dần dẫn tới phá sản.
Cũng như vậy, Nhà nước có thể cấp thêm vốn mà cụ thể ở đây là Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhưng Nhà khách vẫn phải lập ra được dự án đầu tư kinh doanh có hiệu quả thì Nhà nước mới đồng ý. Bỏ vốn ra kinh doanh phải đem lại lợi nhuận có lợi cho phía đối tác và có lãi cho mình thì nguồn vốn đó mới mang lại hiệu quả.
1.3. Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên
Cán bộ công nhân viên là những người gắn bó lâu dài với Nhà khách trực tiếp quan tâm đến hiệu quả kinh doanh của Nhà khách nên họ cũng muốn Nhà khách có đủ nguồn vốn để kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy có thể huy động cán bộ công nhân viên đóng góp cổ phần vốn cho Nhà khách, một mặt có thêm nguồn thu nhập từ lãi cổ phần, mặt khác sẽ khiến họ chú ý tới công việc của mình hơn, gắn bó với Nhà khách hơn để đạt hiệu quả kinh doanh .
2. Xây dựng chính sách nhân sự
Con người là tài sản quý báu nhất của Nhà khách. Các biện pháp, kế hoạch đề ra chỉ có thể được thực hiện nếu có một đội ngũ công nhân viên có chuyên môn nghiệp vụ, có trình độ, có lòng tâm huyết và say mê với nghề. Vì vậy một điều kiện đặt ra để có thể tiến hành được các biện pháp nêu trên là phải xây dựng được chính sách về nhân sự với các yêu cầu khai thác và hoàn thiện đội ngũ lao động hiện có, dần dần đầu tư để nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô lao động.
Với việc nâng cao chất lượng lao động phải hướng đến tạo lập một đội ngũ cán bộ, đội ngũ nhân viên có tay nghề , kỹ năng phục vụ cao, đủ khả năng đáp ứng đòi hỏi của khách.
Có chính sách đổi mới đội ngũ nhân viên phù hợp với yêu cầu của công việc. Kết hợp những nhân viên trẻ có trình độ, có sức khoẻ với đội ngũ nhân viên tuổi trung bình có kinh nghiệm để hai lớp nhân viên này bổ sung cho nhau trong công việc
3. Sự chỉ đạo định hướng từ Văn phòng Bộ NN & PTNT
Là cơ quan trực tiếp thuộc Văn phòng Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mọi hoạt động của Nhà khách được tiến hành độc lập nhưng đôi khi cũng cần có sự chỉ đạo đóng góp ý kiến của Bộ và Văn phòng Bộ.
Văn phòng Bộ nên tạo điều kiện hơn nữa đề nâng cao hiệu quả về cơ chế, chính sách, nhanh chóng phê duyệt các dự án và cung cấp vốn đầu tư cho Nhà khách hoặc giới thiệu các chủ đầu tư khác góp vốn cổ phần vào Nhà khách theo dự án đã duyệt.
Kết luận
Các doanh nghiệp hoạt động trong thời kỳ bao cấp kế hoạch hoá không quan tâm đến hiệu quả kinh doanh vì chỉ cần kinh doanh theo chỉ tiêu đã được Nhà nước đặt kế hoạch từ trước, lỗ Nhà nước bù đắp. Nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường, lỗ lãi doanh nghiệp tự hạch toánn lại phải chịu một sự cạnh trạnh gay gắt từ môi trường nên hiệu quả kinh doanh có ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp.Tăng doanh thu, nâng cao hiệu quả kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, chỉ bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, doanh nghiệp mới có đủ khả năng thu hút khách hàng, bán được nhiều sản phẩm và cạnh tranh được trên thị trường, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh, đủ sức tồn tại và phát triển.
Nhà khách Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoạt động trong môi trường kinh doanh nhà nghỉ khách sạn với tình trạng cung lớn hơn cầu như hiện nay phải chịu một sức ép cạnh tranh rất lớn. Nhà khách lại kinh doanh loại sản phẩm dịch vụ rất khó đánh giá chất lượng, chủ yếu qua sự cảm nhận của khách hàng. Nên để không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, nhà khách phải nâng cao chất lượng phục vụ, hoàn thiện quy trình phục vụ của mình nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Nâng cao chất lượng phục vụ không những giữ chân được khách hàng hiện tại mà còn góp phần thu hút lượng khách hàng tiềm năng. Điều đó đồng nghĩa với việc tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và kết quả là tăng hiệu quả kinh tế. Chất lượng phục vụ còn là một công cụ hữu hiệu để cạnh tranh. Khách sạn nào đảm bảo phục vụ khách với chất lượng tốt, giá cả hợp lý hơn sẽ thu hút được nhiều khách. Khách sạn nào tạo được lòng tin, tạo được uy tín với khách sẽ giành được thắng lợi trong cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
Một số biện pháp và kiến nghị nêu ra trong bài chỉ là một số ít trong rất nhiều biện pháp nhằm giúp Nhà khách Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có thể nâng cao chất lượng phục vụ của mình, thoả mãn tối đa mọi nhu cầu của khách nhằm tăng doanh thu, mở rộng loại hình kinh doanh. Từ đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của nhà khách, tạo một chỗ đứng vững chắc trên thị trường kinh doanh khách sạn đầy cạnh tranh và biến động.
Sau một thời gian dài học tập trên giảng đường Đại học Kinh tế Quốc dân được sự đồng ý của Ban giám hiệu nhà trường và văn phòng khoa Thương mại cùng Ban lãnh đạo Nhà khách Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tôi đã về thực tập tại Nhà khách Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trong quá trình thực tập tôi đã được sự giúp đỡ rất nhiều từ Giám đốc nhà khách, ông Trần Hữu Điệp cùng tập thể cán bộ công nhân viên, các bộ phận phòng ban của nhà khách. Sự chỉ bảo tận tình và tỉ mỉ giới thiệu về quá trình hoạt động kinh doanh của nhà khách trong những năm qua cũng như sự nhiệt tình hướng dẫn của ban giám đốc và tập thể cán bộ công nhân viên Nhà khách đã giúp tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu
"Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn "
Việc hoàn thành đề tài này đã giúp tôi tiếp thu được những kiến thức thực tế bổ ích về hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp trên thị trường nói chung và thực trạng kinh doanh của Nhà khách Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói riêng. Từ đó tôi đã thu được một sự hiểu biết sâu sắc về thực tế kinh doanh trên thị trường và vai trò quan trọng của hiệu quả kinh doanh đối với sự tồn tại phát triển của một doanh nghiệp. Những kiến thức thực tế ban đầu này sẽ giúp tôi rất nhiều trong quá trình công tác về sau.
Không biết nói gì hơn tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ và những điều kiện thuận lợi mà Ban Giám đốc cùng tập thể cán bộ công nhân viên nhà khách đã dành cho tôi trong thời gian qua.
Đặc biệt em xin chân trọng cảm ơn các thầy cô giáo khoa Thương mại cũng như toàn thể thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã nhiệt tình giảng dạy cho em trong những năm qua. Sau 4 năm ngồi trên ghế giảng đường gắn bó với trường Đại học Kinh tế Quốc dân và lắng nghe chăm chú những lời giảng của thầy cô em đã tiếp thu và trang bị cho mình những kiến thức về cơ sở lý luận của ngành Quản trị Kinh doanh cũng như những kiến thức kinh tế kinh doanh cần thiết, làm cơ sở vững chắc cho công việc của mình sau này.
Các thầy cô đã truyền dạy cho em những kiến thức và kinh nghiệm tâm huyết của mình, giúp em hoàn thành khoá học, trang bị đầy đủ những kiến thức bổ ích để có thể trở thành một người cán bộ kinh tế tốt phục vụ nền kinh tế phát triển bền vững. Trên cơ sở lý luận mà thầy cô đã truyền dạy,sau một thời gian đi sâu vào thực tế, tìm hiểu kỹ vấn đề, em đã hoàn thành đề tài nghiên cứu tốt nghiệp của mình.
Để hoàn thành bài viết này, em xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Hoàng Đức Thân đã hướng dẫn tỉ mỉ và tận tình góp ý, sửa chữa những sai sót của em để bài viết được hoàn thành đúng thời hạn và đúng trọng tâm kiến thức cần nghiên cứu. Vì kiến thức còn nhiều hạn chế, thời gian xâm nhập thực tế không nhiều nên bài viết này còn có chỗ sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý và sửa đổi của các thầy cô.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Thương mại trường Đại học Kinh tế quốc dân và Ban Giám đốc Nhà khách Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Tài liệu tham khảo
1- Giáo trình kinh tế thương mại - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
2- Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
3- Giáo trình kinh tế du lịch - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
4- Tạp chí du lịch Việt nam các kỳ năm 1999 -2001 (Tổng cục du lịch Việt Nam).
5- Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà khách Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 1999 - 2001.
6- Quy chế tổ chức, hoạt động điều hành của nhà khách Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
7- Đề án phát triển và các phương hướng hoạt động của nhà khách Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
8- Thông tư 25/2002/TT-BTC về quản lý và sử dụng vốn
9- Văn bản 1298/CP-KTTH ngày 2/11/1998 của Thủ tướng Chính Phủ
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0055.doc