Lời nói đầu.
Nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước là nhu cầu sống còn đối với mọi quốc qia nhất là những nước có nền kinh tế xuất phát điểm thấp như ở nước ta, sự phát triển kinh tế cũng là nhu cầu cấp bách để nhanh chóng đưa nền kinh tế nước nhà hoà nhập vào nền kinh tế thế giới theo xu hướng chung của thời đại.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng CSVN, nền kinh tế nước ta đang phát triển theo kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên mười năm xâ
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1297 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng của Sở Giao dịch 1 - Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y dựng và trưởng thành mặc dù phải khắc phục nhiều khó khăn trở ngại bởi sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường, các Ngân hàng Thương mại đã có cố gắng vươn lên và ngày càng khẳng định vị thế của mình đối với công cuộc đổi mới kinh tế đất nước và từng bước hoà nhập với Ngân hàng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Với chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng, các Ngân hàng Thương mại bằng nhiều hình thức huy động vốn đã thu hút nguồn vốn to lớn trong các tầng lớp dân cư, tổ chức kinh tế để cho vay và đầu tư vào các thành phần kinh tế, phục vụ sản xuất kinh doanh. Hoạt động có hiệu quả của các ngân hàng thương mại trong những năm qua đã góp phần quan trọng kiềm chế và kiểm soát lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ, thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng cao, tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Song, cơ chế thị trường có sự tác động thường xuyên của quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh... Trong hoàn cảnh hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, quản lý nhà nước kém hiệu quả, đội ngũ công chức được đào tạo có hệ thống để sớm thích nghi với môi trường còn ít, cho nên sản xuất kimh doanh của nhiều đơn vị bị thua lỗ. Hoạt động của các Ngân hàng Thương mại cũng trong bối cảnh đó, nhất là chất lượng và hiệu quả công tác tín dụng còn nhiều khó khăn, tình trạng nợ quá hạn khó đòi có xu hướng phát sinh, phát triển. Với nhận định như vậy cùng với sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của PGS. TS Nguyễn Văn Nam và các cô chú trong Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam(SGDI- NHCTVN) em đã nhận thấy nhiều vấn đề cần quan tâm đối với nghiệp vụ tín dụng. Vì vậy em đã chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng của Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam” cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Nội dung của khoá luận gồm ba chương:
Chương I: Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Chương III: Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng của Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Do sự hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm thực tế, thời gian và những thông tin cần thiết cũng như tính phức tạp của đề tài nghiên cứu... bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô và những ai quan tâm tới vấn đề này.
Chương I:
Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1. Ngân hàng Thương mại và các nghiệp vụ của ngân hàng.
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng một khối lượng tiền tệ để cho vay và đầu tư, thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
Quá trình ra đời của ngân hàng có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng chủ yếu có hai quan điểm:
Quan điểm 1: Sự ra đời của ngân hàng được bắt nguồn từ các nhà tư bản tiền tệ, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Một số nhà tư bản thương nghiệp đã tách ra và thành lập một nhóm chuyên làm nghề chuyển tiền cho khách hàng. Trong quá trình hoạt động, các nhà tư bản tiền tệ này đã tập trung trong tay một số lượng tiền tệ lớn và trong khối lượng tiền tệ đó có những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, trên cơ sở đó các nhà tư bản đã làm thêm nhiệm vụ nữa là cho vay. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của ngân hàng.
Quan điểm 2: Ngân hàng được bắt nguồn tư cơ sở vàng (các người thợ làm kim hoàn) lúc đầu những cơ sở vàng chỉ đơn thuần thực hiện nghiệp vụ chung nhất là cất giữ vàng hộ, thông qua đó họ nhận được một khoản lệ phí nhất định. Sau đó, những cơ sở vàng này không chỉ giữ vàng hộ mà còn nhận giữ các khoản tiền cho khách hàng.
Trong thực tiễn hoạt động của những người thợ vàng thì họ thấy rằng việc dự trữ 100% số lượng vàng của khách hàng là một điều không cần thiết nó có những trường hợp tất cả khách hàng đều có nhu cầu rút tiền, vàng cùng một lúc, những lúc này sẽ gặp khó khăn trở ngại. Do đó thợ vàng chỉ giữ lại một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền của khách hàng, số còn lại họ dùng để đầu tư cho vay sinh lời. Các cơ sở vàng không chỉ nhận tiền gửi và cho vay mà họ còn thực hiện các nghiệp vụ thanh toán và chuyển tiền hộ cho khách hàng, do vậy ngân hàng ra đời là một tất yếu khách quan.
Trong các quan niệm trước đây thường đánh giá ngân hàng như một cơ quan thực hiện quá trình phân phối phát sinh thuần tuý, đánh giá vai trò của ngân hàng thường nặng nề về quản lý. Song thực tế ngân hàng là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Tuy nó ra đời muộn song nó đã nhanh chóng giữ vị trí tiên phong, chủ chốt đối với quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đặc biệt điều đó thể hiện rõ nét hơn trong cơ chế thị truờng.
Ngày nay Ngân hàng đã được nhìn nhận và đánh giá đúng đắn hơn thông qua 2 hoạt động chủ yếu là:
- Quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng bằng những chính sách ban hành: lưu thông tiền tệ, quản lý tiền mặt, ngoại hối, các chính sách tín dụng, chính sách lãi xuất...
- Hoạt động kinh doanh thông qua nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, kimh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng.
Từ hai hoạt động cơ bản trên, đã hình thành nên hai hệ thống Ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng thương mại. Sự đổi mới trong việc tổ chức và hoạt động của Ngân hàng là phù hợp với thực tế khách quan: một mặt tạo ra sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước đối với hoạt động tiền tệ tín dụng để xây dựng một nền tiền tệ ổn định và thực hiện tích luỹ cần thiết cho công cuộc xây dựng đất nước, mặt khác tạo điều kiện phát huy cao độ vai trò đặc biệt của Ngân hàng để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy rằng trong một nền kinh tế hiện đại, bất cứ một sự đầu tư nào muốn đảm bảo chắc chắn và đem lại hiệu quả kinh tế cao cũng đều cần có sự đảm bảo của Ngân hàng thương mại. Như vậy sự ra đời của Ngân hàng thương mại là một tất yếu khách quan đối với nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Các nghiệp vụ của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Ngân hàng thương mại chia ra nhiều loại hình khác nhau song chung quy lại dù ở loại hình nào và có những đặc điểm, tính chất hoạt động cụ thể khác nhau nhưng cũng đều hoạt động theo 3 nghiệp vụ sau đây:
- Nghiệp vụ nợ (huy động vốn): Ngân hàng thưong mại thông qua hoạt động tín dụng huy động, tập chung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh doanh của các đơn vị, tổ chức kinh tế, các tầng lớp dân cư... Mặt khác Ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ này bằng cách đi vay Ngân hàng Nhà nước, nước ngoài hoặc tiếp nhận nguồn vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư của Nhà nước và nước ngoài.
- Nghiệp vụ có (sử dụng vốn) : Ngân hàng thương mại có thể cho vay và đầu tư trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được dưới các dạng như: cho vay với các thành phần kinh tế, các tổ chức, các tầng lớp dân cư... phục vụ sản xuất kinh doanh và dịch vụ, thực hiện nghiệp vụ chứng khoán có giá, tham gia hoạt động hùn vốn liên doanh, liên kết...
- Nghiệp vụ trung gian: Các ngân hàng thương mại còn thực hiện nhiều nghiệp vụ như: thanh toán hộ khách hàng, dịch vụ tư vấn, dịch vụ chuyển tiền, bảo quản hộ.
ở Việt Nam, do hiểu đầy đủ các học thuyết kinh tế, hiểu vai trò của hệ thống Ngân hàng và tầm quan trọng của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường nên khi có chủ trương đổi mới nền kinh tế đất nước Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng Việt Nam là một trong những công việc đầu tiên của quá trình đổi mới. Việc tổ chức lại hệ thống Ngân hàng theo mô hình hai cấp đã được tiến hành từng bước và mô hình này được khẳng định tại các pháp lệnh ngân hàng ban bố năm 1990. Ngân hàng Nhà nước là cấp quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ tín dụng và là cơ quan duy nhất phát hành tiền Việt Nam.
Các Ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các hợp tác xã tín dụng là cấp thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ.
Trong thời gian qua, việc đa dạng hoá các loại hình ngân hàng đã được thực hiện để dáp ứngyêu cầu kinh tế của thị trường, phù hợp với đặc điểm của nước ta, có tác dụng mở rộng thị trường vốn và phát triển các dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam, mở rộng quan hệ tài chính tiền tệ nước ta với nước ngoài. Riêng tại thành phố Hà Nội, mạng lưới ngân hàng thương mại đã tăng lên đáng kể cho đến nay tính ra cứ khoảng 50.000 dân có một chi nhánh ngân hàng phục vụ. Các ngân hàng thương mại, trước hết là ngân hàng thương mại Quốc doanh từ chỗ thụ động và độc quyền trong nền kinh tế bao cấp đã bước vào một môi trường hoạt động mới, chấp nhận cạnh tranh, không ngừng mở rộng, cải tiến và nâng cao chất lượng công tác và dịch vụ.
1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác với các nhà doanh nghiệp, cá nhân.
Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế thuộc nền sản xuất hàng hoá, nó tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hoá và thông qua hoạt động tín dụng thì mâu thuẫn giữa nhu cầu tiết kiệm và nhu cầu đầu tư được giải quyết một cách thoả đáng làm cho mọi thành phần kinh tế trong xã hội đều có thể phát huy tối đa các tiềm năng sẵn có phục vụ cho sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
1.2.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng.
Cùng với sự phát triển kinh tế, xu hướng tự do hoá, các ngân hàng phải luôn luôn nghiên cứu để đưa ra các hình thức tín dụng khác nhau để đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của quá trình tái sản xuất, từ đó đa dạng hoá danh mục đầu tư để mở rộng tín dụng, thu hút khách hàng, tăng lợi nhuận, thực hiện phân tán rủi ro. Dựa váo các tiêu thức khác nhau người ta phân loại tín dụng ngân hàng thành:
- Căn cứ vào mục đích sử dụng có các hình thức sau:
+ Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng vốn lưu động và cố định tài trợ cho sản xuất, mua bán hàng hoá...
+ Cho vay tiêu dùng: là loại cho vay đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân như mua sắm vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiẹn cho vay đẻ trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
+ Cho vay đầu tư xuất, nhập khẩu: Phục vụ cho các quan hệ sản xuất mua bán, thanh toán... qua hoạt động nhập khẩu.
- Căn cứ vào tài sản thế chấp có các loại sau:
+ Cho vay có tài sản thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng để đảm bảo cho việc trả nợ của khách hàng.
. Cho vay cầm cố: là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản khách hàng mang đén cầm cố tại ngân hàng. Tài sản của khách hàng do ngân hàng bảo quản trong suốt thời gian cầm cố, khách hàng không được sử dụng, nhượng bán cho thuê...
. Cho vay thế chấp: ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng để đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng. Tài sản không cần mang đến ngân hàng, khách hàng có quyền sử dụng nhưng không được bán và cho thuê.
+ Cho vay không có tài sản thế chấp (tín chấp): Ngân hàng cho vay trên cơ sở sự tin tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của khách hàng. Ngoài ra còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của các tổ chức đoàn thể kinh tế chính trị- xã hội cho cá nhân, cho hộ nghèo vay vốn.
- Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng có các hình thức là:
+ Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thức giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền như tín dụng theo thời vụ, tín dụng trả góp.
+ Cho vay bằng tài sản: phổ biến là tài trợ thuê mua.
- Căn cứ vào xuất xứ tín dụng có các hình thức sau:
+ Cho vay trực tiếp: ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và khách hàng trực tiếp trả lãi và gốc cho ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn lại trong thời hạn thanh toán.
- Căn cứ vào thời hạn cho vay có các hình thức tín dụng sau:
+Tín dụng ngắn hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn không quá 12 tháng, được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh và chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
+ Tín dụng trung hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng cho đến 60 tháng. Mục đích vay vốn để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định hoặc cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ và xây dựng những công trình loại nhỏ thời hạn thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời hạn trên 60 tháng, mục đích sử dụng vốn để sửa chữa, xây dựng cơ bản, đầu tư bất động sản... thời hạn thu hồi vốn dài.
1.2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
Với tính chất là một phạm trù kinh tế, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng thực hiện quy trình huy động tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, trên nguyên tắc có hoàn trả lại và có lãi. Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng ngân hàng, chức năng này có nghĩa là thông qua hoạt động hoạt động tín dụng ngân hàng nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội được huy động và phân phối cho các nhu cầu cần thiết trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế. Quá trình tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các đơn vị đã được Nhà nước quy định buộc họ phải mở tài khoản tại ngân hàng. Trong quá trình hoạt động, tài khoản tiền gửi của các đơn vị luôn có số dư nhất định, nhờ có chức năng này mà tín dụng ngân hàng có thể huy động không những nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, dân cư... mà còn huy động được những nguồn vốn dự trữ chưa dùng đến của ngân sách Nhà nước, hình thành nên nguồn vốn của ngân hàng, đồng thời trên cơ sở đó tiến hành phân phối các nguồn vốn một cách có kế hoạch, đáp ứng nhu cầu của quá trình tái sản xuất mở rộng. Quá trình phân phối thông qua hai lần: phân phối lần đầu và phân phối lại tín dụng, phân phối lần đầu thông qua lợi tức, chiếm tỷ trọng nhỏ trong thu nhập quốc dân. Việc tập trung và phân phối vốn có quan hệ mật thiết và tác động ảnh hưởng lẫn nhau.
Yêú tố cạnh tranh luôn gắn liền với tồn tại trong nền kinh tế thị trường đồng thời nó đóng vai trò làm chất xúc tác mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của quá trình sản xuất. Chính vì vậy trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp có thể tiếp tục tồn tại và phát triển hoặc thua lỗ kéo dài dẫn đến phá sản. Do đó, khi hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng cần phải ỳim hiểu thực trạng dự toán tình hình, để quyết định đúng đắn việc thực hiện đầu tư vốn, đảm bảo an toàn vốn, ngăn chặn tình trạng không thu hồi được vốn và lãi. Việc xác lập chữ “tín” trong kinh doanh ngân hàng là yếu tố cơ bản quan trọng trong nghiệp vụ tín dụng, điều này phù hợp vào mối quan hệ đôi bên, giữa khách hàng và ngân hàng.
Thứ hai: Tín dụng ngân hàng có thể thay thế tiền mặt trong lưu thông, bằng những công cụ lưu thông tín dụng, do vậy tiết kiệm được tiền mặt trong lưu thông thông qua việc nhận và trả tiền, đồng thời với tính chất thường xuyên liên tục cũng như việc cho vay và thu hồi nợ của ngân hàng, gắn liền với sự vận động của gí trị vật tư hàng hoá trong sản xuất lưu thông đã tạo ra những tiền đề kinh tế khách quan cho phép Nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng sử dụng công cụ lưu thông tín dụng đóng vai trò là phù hiệu của giá trị, thay thế tiền vàng trong lưu thông. Như vậy đã tiết kiệm đáng kể một lượng tiền mặt dùng vào việc lưu thông và như thế tiết kiệm được chi phí lưu thông. Sự phát triển của các nghiệp vụ tín dụng đi đôi với việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt thông qua hệ thống ngân hàng đã tạo khả năng thực tế tiết kiệm cả dấu hiệu giá trị, kết quả đó là nhờ vào chức năng trên của tín dụng ngân hàng. Ngoài ra thì hoạt động tín dụng còn nhằm nâng cao chất lượng tạo tiền của ngân hàng giúp mở rộng sản xuất kinh doanh của xã hội.
Thứ ba: Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hoà lưu thông tiền tệ. Vì còn tồn tại sản xuất và lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân thì việc tổ chức lưu thông ổn định tiền tệ trong nền kinh tế là một điều quan trọng không thể thiếu được và cũng là một đòi hỏi khách quan. Muốn ổn định tiền tệ thì phải thông qua hoạt động tín dụng, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng, có nghĩa là tạo cho nền kinh tế một lượng hàng hoá lớn và việc thực hiện cân đối tiền hàng. Mặt khác, quá trình hoạt động của tín dụng gắn liền với công tác thanh toán không dùng tiền mặt đã giảm bớt khối lượng tiền mặt trong lưu thông góp phần ổn định lưu thông tiền tệ.
Thứ tư: Tín dụng ngân hàng thực hiện chức năng phản ánh tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Chức năng này xuất phát từ mối quan hệ trực tiếp và thường xuyên của tín dụng ngân hàng với quá trình sản xuất và sự vận động của thanh toán cũng như việc quản lý tập trung thống nhất công tác tín dụng đã tạo tiền đề khách quan cho tín dụng ngân hàng thực hiện chức năng trên thông qua hoạt động thực tiễn, tín dụng ngân hàng phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén tình hình hoạt động kinh tế tài chính trong nền kinh tế quốc dân. Nhà nước có chưc năng tổ chức và quản lý nền kinh tế thì các mối quan hệ kinh tế đó đều cần thiết và phải được thực hiện thông qua các mặt hoạt động của ngân hàng. Như vậy trên cơ sở đó Nhà nước có những biện pháp kịp thời phát huy cac nhân tố tích cực và khắc phục những tiêu cực xảy ra. Quá trình phản ánh và kiểm soát của tín dụng ngân hàng là hai mặt không thể tách rời nhau trong chức năng này.
Do đó , tín dụng ngân hàng được sử dụng như là một trong những đòn bấy kinh tế không thể thiếu được trong quản lý kinh tế tài chính, kiểm soát các quá trình sản xuất, phân phối sản phảm xã hội, thực hiện và củng cố chế độ hạch toán kinh tế, chế độ tiết kiệm trong nền kinh tế quốc dân.
1.3. Chất lượng tín dụng và những rủi ro của tín dụng ngân hàng.
1.3.1. Chất lượng tín dụng.
Tín dụng như theo định nghĩa, chính là sự vay mượn một lượng giá trị với mục đích là đẻ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu dùng xã hội. Xuất phát từ lợi ích về mặt kinh tế của cả hai bên nên chất lượng và hiệu quả của tín dụng phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của cả hai bên. Do tín dụng là một phạm trù mang tính tổng hợp nên khi đánh giá chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh tế của nó ta cần xét trên nhiều góc độ.
Chất lượng tín dụng trước tiên là sự an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Xét trên hai phương diện: huy động vốn và sử dụng vốn, phải đảm bảo huy động tối đa các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, đồng thời sử dụng nguồn vốn đó một cách hợp lý hiệu quả và an toàn nhất. Vốn tín dụng ngân hàng phát ra cần đáp ứng một cách kịp thời và đầy đủ nhu cầu về vốn của xã hội, sau một thời gian sử dụng nó sẽ đem lại các lợi ích về mặt kinh tế và xã hội, cho bản thân người sử dụng vốn và cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân ( và đó chính là tiền đề cho việc hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi tiền vay cho ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng đảm bảo an toàn và có thể mở rộng nguồn vốn dùng trong kinh doanh của mình). Thông thường hiệu quả tín dụng được thể hiện ở sự gia tăng số lượng và chất lượng các dịch vụ, được đánh giá bằng việc thực hiện hoàn trả tiền vay theo đúng thời hạn trả vốn và lãi của người đi vay và lợi ích mà họ đạt được thông qua sử dụng tiền vay của ngân hàng. Về mặt nội dung chất lượng tín dụng được biểu hiện như sau:
- Thực hiện các mục tiêu kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển tạo điều kiện cho đơn vị vay vốn hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước.
- Bảo đảm nguyên tắc tín dụng nhất là thu hồi được nợ đúng hạn cả gốc và lãi từ kết quả hoạt động kinh doanh do mang tiền vay mang lại, hạn chế nợ quá hạn khó đòi, ngăn ngừa rủi ro đối với nguồn vốn của ngân hàng.
-Tăng vòng quay của vốn tín dụng.
- Bảo đảm hoạt động kinh doanh của ngân hàng có hiệu quả, có tích
luỹ để tăng nguồn vốn tự có.
Để đánh giá hiệu quả chất lượng tín dụng ngân hàng, ta có thể căn cứ vào các chỉ tiêu định tính và định lượng sau:
1.3.1.1. Xét trên giác độ ngân hàng.
- Nêú chất lượng tín dụng của ngân hàng được đảm bảo thì sẽ tạo cho khách hàng sự tin tưởng vào ngân hàng. Khi đó khách hàng truyền thống sẽ tiếp tục duy trì quan hệ tín dụng với ngân hàng. Như vậy, số lượng khách hàng sẽ được tăng lên qua các năm, đó là một trong các dấu hiệu cho thấy chất lượng tín dụng ngân hàng tốt lên.
- Cũng như đối với chỉ tiêu về số khách hàng, mức dư nợ và doanh số cho vay tăng lên đồng đều qua các năm cho thấy chất lượng tín dụng có khả năng đảm bảo vốn kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế.
- Chỉ tiêu quan trọng nhất là vấn đề nợ quá hạn, được tính bằng số tuyệt đối hoặc số tương đối (tính trên tỷ lệ phần trăm so với tổng mức dư nợ của cả ngân hàng). Nhìn chung, nếu một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ dao động ở mức khoảng 2% thì được coi như hợp lý.
Ngoài các chỉ tiêu trên, ta còn có thể sử dụng các chỉ tiêu:
+ Dư nợ cho vay một khách hàng Ê 15% vốn tự có của ngân hàng.
+ Dư nợ so với vốn tự có của doanh nghiệp.
+ Dư nợ so với tổng giá trị tài sản thế chấp, bảo lãnh, cầm cố.
+ Số lượng và tỷ trọng các khoản nợ treo, nợ khoanh, nợ quá hạn, khó đòi và không có khả năng thu hồi.
Dư nợ bình quân
Doanh số thu nợ
+ Vòng quay vốn tín dụng =
Bên cạnh các chỉ tiêu mang tính định lượng, ta còn có thể sử dụng một số chỉ tiêu định tính như: chấp hành các quy chế tín dụng do ngân hàng Nhà nước và ngân hàng cấp trên đề ra trong suốt quá trình diễn ra mối quan hệ vay mượn về tiền tệ giữa ngân hàng thương mại với khách hàng của mình, đầu tư vào ngành có công nghệ mới, các ngành sản xuất phục vụ cho nhu cầu quốc kế dân sinh.
1.3.1.2. Xét trên giác độ khách hàng.
Muốn đánh giá chất lượng tín dụng từ phía người sử dụng vốn, điều trước tiên cần làm là thực hiện phân tích tình hình kinh tế, tài chính của khách hàng sau khi đã được cấp và đưa vào sử dụng khoản tiền vay của ngân hàng. Qua quá trình phân tích đó ta sẽ có được các chỉ tiêu về kết quả sản xuất kinh doanh của khách hàng như: sự gia tăng về số lượng sản phẩm sản xuất ra, mức lợi nhuận thu được và tỷ suất lợi nhuận bình quân, các chỉ tiêu liên quan đến vốn tự có của doanh nghiệp như mức độ và tốc độ gia tăng vốn tự có, vòng quay của vốn tự có và vốn tín dụng, hiệu quả sử dụng vốn... cũng như tình hình khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp có thu nhập thường xuyên và ổn định so với kế hoạch đề ra chứng tỏ nguồn vốn tín dụng của ngân hàng đã được sử dụng một cách có hiệu quả và khoản tín dụng đó chắc chắn sẽ được hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi tức là chất lượng tín dụng của ngân hàng đưọc đảm bảo.
1.3.2. ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng đóng vai trò quan trọng chủ yếu mang tính chất quyết định tới sự thành bại của mỗi ngân hàng thương mại. Bởi vì từ kết quả hoạt động tín dụng mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng thương mại ở Việt Nam thì thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm đến 90%, và hơn thế tín dụng ngân hàng đóng vai trò không thể thiếu đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nếu hoạt động tín dụng kém hiệu quả thì không chỉ ảnh hưởng xấu tới bản thân ngân hàng thương maị mà còn tác động tiêu cực tới sự phát triển của cả nền kinh tế.
Chính vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng là một việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế.
1.3.2.1. Đối với ngân hàng.
Chất lượng tín dụng đảm bảo tức là khoản cho vay của ngân hàng sau một thời gian nhất định sẽ thu về được cả vốn lẫn lãi. Như vậy chất lượng tín dụng đảm bảo sẽ là một trong những điều kiện để ngân hàng đảm bảo an toàn cho nguồn vốn dùng trong hoạt động kinh doanh của mình. Hiệu quả và an toàn vốn là mục tiêu hàng đầu và cũng là nhiệm vụ quan trọng nhất của mọi doanh nghiệp. Đối với ngân hàng vấn đề này có tầm quan trọng lớn lao hơn nhiều, bởi nguồn vốn dùng vào kinh doanh phần lớn là do huy động từ các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế không thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, do đó bất cứ biến động nào có chiều bất lợi xảy ra đối với nguồn vốn ngân hàng có thể sẽ gây ra “phản ứng dây chuyền” tới các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong nền kinh tế.
Đối với ngân hàng thương mại, việc nâng cao chất lượng tín dụng trước mắt là đem lại lợi nhuận cao hơn cho ngân hàng và quan trọng hơn đó là sự quyết định tới khả năng tồn tại và phát triển bền vững của ngân hàng đó.
1.3.2.2. Đối với khách hàng.
Xét trên góc độ người vay vốn, khi chất lượng tín dụng đảm bảo họ sẽ nhận được các khoản cấp tín dụng với số lượng đầy đủ và thoừi gian phù hợp, lãi suất hợp lý. Khi đó doanh nghiệp sẽ có khả năng để sử dụng khoản tiền vay đúng mục đích và đối tượng với hiệu quả kinh tế cao, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, hoàn trả đúng thời hạn cả vốn và lãi khoản tiền vay ngân hàng, tăng tích luỹ cho đơn vị và nâng cao đời sống cho người lao động. Đồng thời hoàn trả tốt khoản vay ngân hàng sẽ là điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc duy trì mối quan hệ lâu dài với ngân hàng.
1.3.2.3. Đối với nền kinh tế.
Nâng cao chất lượng tín dụng là điều kiện thực hiện tăng trưởng kinh tế góp phần tạo ra một cơ cấu kinh tế tối ưu bởi khi đó các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, phát huy tối đa mọi tiềm năng nôi lực của đất nước. Tín dụng ngân hàng đạt chất lượng cao có tác dụng ổn định lưu thông tiền tệ, điều tiết lạm phát. Bởi vì khi đó ngân hàng Nhà nước sẽ có điều kiện để sử dụng công cụ tín dụng và lãi suất can thiệp một cách kịp thời trên thị trường, ảnh hưởng của ngân hàng tới các tổ chức kinh tế sẽ mạnh hơn và các biện pháp điều tiết quản lý sẽ được thực hiện một cách dễ dàng và hiệu quả hơn.
1.3.3. Một số nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
Hiện nay vấn đề chất lượng tín dụng đang được các ngân hàng rất quan tâm và đang tìm mọi cách để có thể nâng cao chất lượng tín dụng. Để quản lý và đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu sắc các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, chúng ta có thể phân thành các nhân tố như sau:
1.3.3.1. Sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
Hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đạt hiệu quả cao hay thấp, rủi ro ít hay nhiều đều có quan hệ hữu cơ với sự phát triển lành mạnh, tỷ lệ lạm phát thấp, tỷ lệ thất nghiệp thấp, tăng trưởng kinh tế cao, các chính sách đường lối hoạch định phát triển hoàn chỉnh ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế đạt kết quả tốt trong sản xuất kinh doanh, qua đó tín dụng ngân hàng có cơ sở được đảm bảo vững chắc và phát triển.
1.3.3.2. Nhân tố pháp luật.
Nhân tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với việc nâng cao tín dụng, nó tạo ra môi trường hành lang pháp lý cho mọi hoạt động của ngân hàng. Nhân tố pháp luật ở đây bao gồm: tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ và thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời nâng cao tính chấp hành pháp luật của các thành phần kinh tế và trình độ dân trí trong toàn xã hội.
1.3.3.3. Nhân tố thuộc về khách hàng.
Các yếu tố khách hàng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng đó là:
- Năng lực quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có được sáng tạo, khoa học để có thể thích ứng được với nền kinh tế thị trường hay không?
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp: doanh nghiệp có đủ mức vốn cố định lưu thông để thực hiện nhiệm vụ sản xuất hay không?
- Phương án sản xuất kinh doanh có đủ khả năng tồn tại và phát triển trong cạnh tranh hay không?
- Những mặt hàng mà doanh nghiệp sản xuất kinh doanh như thế nào? cóa phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng? thị trường tiêu thụ? sản phẩm cạnh tranh như thế nào?
- Phương tiện, máy móc thiết bị dùng cho sản xuất kinh doanh có đồng bộ và hiện đại hay không?
- Chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ?
Do vậy, khi khách hàng đến vay vốn cán bộ tín dụng cần phải kiểm tra khách hàng về tư cách pháp nhân, thể nhân, năng lực điều hành, sản xuất kinh doanh, uy tín đạo đức, khả năng tài chính, khả năng thanh toán, khả năng tổ chức quản lý.
1.3.3.4. Nhóm nhân tố về phía ngân hàng.
- Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng của ngân hàng phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước, đồng thời đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của khách hàng và ngân hàng. Muốn vậy thì chính sách tín dụng phải được xây dựng trên cơ sở căn cứ khoa học và thực tiễn. Đối với các ngân hàng thương mại, một chính sách tín dụng đúng đắn phải có thể đảm bảo được khả năng sinh lợi của hoạt động tín dụng trên cơ sở tuân thủ pháp luật và đường lối, chính sách của Nhà nước.
- Công tác tổ chức của ngân hàng.
Tổ chức ngân hàng cần được đảm bảo ổn định, sự linh hoạt trong nghiệp vụ huy động vốn và cho vay, quản lý tốt nghiệp vụ tài sản nợ,tài sản có của ngân hàng. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt động tín dụng là loại hình kinh doanh tiền tệ có rủi ro nên cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận của toàn ngân hàng trong toàn hệ thống ngân hàng. Việc thiết lập các mối quan hệ tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát triển và giải quyết kịp thời các vấn đề liên quan đến tín dụng khi cần thiết.
- Thông tin tín dụng:
Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng của ngân hàng. Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết liên quan đến người cho vay. Thông tin tín dụng càng nhanh nhậy, chính xác thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng càng lớn.
- Chất lượng nhân sự.
Công tác tín dụng đòi hỏi cán bộ tín dụng phải đạt được trình độ chuyên môn và kinh nghiệm cao, liên quan đến dự án đầu tư để đạt được hiệu quả trong từng món cho vay và phòng ngừa được những rủi ro có thể xảy ra. Yêu cầu đói với cán bộ tín dụng là phải có trình độ năng lực để phân tích được những điểm thật giả, mạnh yếu của khách ._.hàng và dự án để đưa ra quyết định đúng đắn. Ngoài ra cán bộ tín dụng phải có đạo đức nghề nghiệp tốt, trách nhiệm nghề nghiệp, đó là điều cần thiết đối với người làm công tác quản lý.
- Kiểm soát nội bộ.
Kiểm soát nội bộ đầy đủ, thường xuyên để phát hiện nhanh chóng những thiếu sót trong việc thực hiện các quy trình tín dụng của các cán bộ ngân hàng, qua đó có các biện pháp để xử lý kịp thời, ngăn chặn những rủi ro đối với hoạt động tín dụng.
1.3.4. Những rủi ro trong tín dụng ngân hàng.
Trong bất cứ hoạt động kinh doanh nào cũng luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro xảy ra gây thiệt haị ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả kinh doanh, hiệu quả kinh tế xã hội. Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì rủi ro lại càng lớn, luôn tiềm ẩn ở mọi nghiệp vụ hoạt động của ngân hàng, có thể xảy ra bất cứ lúc nào gây ra thiệt hại làm giảm thu nhập và giảm uy tín của ngân hàng. Nhất là trong nền kinh tế thị trường luôn có những biến động xảy ra các yếu tố cạnh tranh, lừa đảo, chiếm dụng mà nhiều người đã ví “thương trường là chiến trường”.
Những doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng hoạt động trong những điều kiện đó sẽ gặp rất nhiêù khó khăn, nếu thất bại sẽ bị đào thải. Bất cứ rủi ro nào của khách hàng cũng có thể xem là nguyên nhân dẫn đến rủi ro của ngân hàng, bởi vì nó ảnh hưởng tới khả năng thu hồi vốn và lãi của ngân hàng.
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại thường gặp các loại rủi ro sau đây:
- Rủi ro do thiếu vốn khả dụng.
- Rủi ro do mất khả năng thanh toán.
- Rủi ro chính sách.
- Rủi ro hối đoái.
- Rủi ro lãi suất.
- Rủi ro trong thanh toán.
-Rủi ro tín dụng.
1.3.4.1. Rủi ro do thiếu vốn khả dụng.
Ngân hàng thiếu vốn hoặc có những vốn bị “đóng băng” nên không đủ vốn đối với nhu cầu cho vay và đầu tư cho nền kinh tế. Vì vậy, dễ để mất những cơ hội đầu tư tốt có thể mang lại lợi nhuận, thậm chí có khả năng mất khách hàng khi họ phải đến một ngân hàng khác mong được đáp ứng kịp thời các món vay. Từ việc mất khách hàng vay vốn sẽ dẫn đến để mất khách hàng gửi tiền. Vì khi ngân hàng thiếu vốn sẽ làm giảm lòng tin của người gửi tiền, khả năng huy động vốn của ngân hàng vì thế mà kém đi.
1.3.4.2. Rủi ro do mất khả năng thanh toán.
Do những biến động xấu về chế độ chính trị hay do cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài trầm trọng, người dân hoang mang lo sợ Nhà nước phá giá đồng tiền nội tệ nên đã ồ ạt rút tiền ở ngân hàng, ngân hàng không đủ tiền dự trữ để thanh toán, tức là mất khả năng thanh toán. Hoặc do tỷ lệ nợ quá hạn trong cho vay và đầu tư của ngân hàng quá lớn, kinh doanh thua lỗ triền miên cũng có khả năng dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Trường hợp này đã từng xảy ra ở một số ngân hàng thương mại lớn có bề dày lịch sử của các nước Nhật, Anh, Canada...
1.3.4.3. Rủi ro chính sách.
Khi ngân hàng thực hiện những hoạt động kinh doanh với những đối tác nước ngoài hay là hoạt động đầu tư ra nước ngoài, chúng ta phải luôn luôn lưu ý đến những rủi ro về chính trị, đây chính là những rủi ro chính sách mà chúng ta chỉ có thể làm giảm nhẹ nếu thực sự quan tâm đến.
1.3.4.4. Rủi ro hối đoái.
Là rủi ro trong việc giao dịch ngoại hối xuất phát từ tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ khác nhau do tác động kinh tế chính trị của một đất nước. Những biến động từ bên ngoài mà ngân hàng không lường trước gây thiệt hại cho ngân hàng. Một ngân hàng thương mại nhất thiết phải luôn có một lượng ngoại tệ dự trữ, nếu lượng dự trữ quá ít thì không đảm bảo nhu cầu thanh toán, nếu lượng dự trữ quá lớn thì khi có biến động giá theo chiều không lợi cho đồng nội tệ thì ngân hàng bị thiệt hại.
1.3.4.5. Rủi ro lãi suất.
Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi của khách hàng, phải trả tiền lãi cho khách hàng theo lãi suất tiền gửi và chi cho các khoản chi phí bảo quản nhưng vì lãi suất biến động (lãi suất cho vay) có thể do yêu cầu của Chính phủ buộc ngân hàng giảm lãi suất cho vay để khuyến khích sản xuất tiêu dùng trong nước, vì lãi suất quá thấp ngân hàng không thể cho vay khi ngân hàng chưa độc lập trong kinh doanh.
Khi lãi suất trên thị trường biến đổi, có thể gây rủi ro cho ngân hàng.
1.3.4.6. Rủi ro trong thanh toán.
Trong những năm gàn đây, máy vi tính được áp dụng rộng rãi và trở thành công cụ quan trọng không thể thiếu trong các khoản thanh toán của ngân hàng thương mại. Nhiều thể thức thanh toán ra đời: ngân phiếu thanh toán, séc cá nhân, thẻ thanh toán, séc chuyển khoản, séc bảo chi, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu... để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Rủi ro thanh toán xảy ra khi thanh toán bị nhầm lẫn, thiếu xót do con người hoặc máy móc bị hư hỏng khách hàng bắt bồi thường và làm giảm uy tín của ngân hàng
1.3.4.7. Rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng
Không thu được lãi đúng hạn
Không thu đủ vốn cho vay
Lãi treo phát sinh
Nợ quá hạn phát sinh
Lãi treo đóng băng.
2. Miễn giảm lãi
Nợ không có khả năng thu hồi
2. Xoá nợ
Không thu đủ lãi
Không thu được vốn đúng hạn
Loại rủi ro này chiếm tỷ trọng lớn trong các loại rủi ro của ngân hàng. Bởi vì cho vay và đầu tư thường chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 80%) trên tổng cho vay và đầu tư của một ngân hàng. Ngân hàng cho vay dưới hình thức là cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn và ngân hàng mang vốn đầu tư liên doanh liên kết.
Rủi ro xảy ra khi đến hạn không thu được vốn và lãi gọi là nợ quá hạn, nợ quá hạn tròn 12 tháng trở thành nợ khó đòi, làm thất thoát vốn của ngân hàng. Ngân hàng đầu tư vốn vào các dự án hay liên doanh liên kết làm ăn không có hiệu quả bị thua lỗ, bị thất thoát tài sản... dẫn đến rủi ro của ngân hàng.
Trong mấy năm qua, hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam gặp phải nhiều khó khăn trở ngại, tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi, bị lừa đảo ở một số ngân hàng thương mại tăng với tóc độ cao làm cho hoạt động đầu tư vốn cho nền kinh tế bị chững lại, ngân hàng giảm thu nhập, bị mất vốn, làm mất uy tín của ngân hàng không những đối với khách hàng trong nước mà còn đối với các nhà đâù tư nước ngoài. Bởi vậy vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng, phòng ngừa rủi ro được mỗi ngân hàng đặc biệt chú ý và là vấn đề thiết thực cấp bách nhất trong hoạt động của mình, nó liên quan tới việc tồn tại và phát triển của ngân hàng nói riêng và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế đất nước nói chung.
Chương II:
Thực trạng hoạt động tín dụng tại
sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.
2.1. Khái quát quá trình hình thành và hoạt động của Sở giao dịch I.
2.1.1. Giới thiệu về Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.
2.1.1.1. Sự ra đời và phát triển của Sở giao dịch I- NHCT Việt Nam.
Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam được thành lập ngày 01/04/1993 theo quyết định số 93 ra ngày 28/03/1993 của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Sở giao dịc I được đặt tại số 10 Lê Lai- Hà Nội, một địa bàn diễn ra nhiều hoạt động kinh doanh tài chính- tín dụng của cả nước, một môi trường kinh doanh rất rộng lớn.
Thời gian đầu mới đi váo hoạt động, Sở giao dịch I đã thực hiện chức năng chính trong việc trực tiếp kimh doanh và là đầu mối thanh toán trong và ngoài nước. Ngân hàng Công thương Việt Nam chịu trách nhiệm cuối cùng về nghĩa vụ phát sinh do sự cam kết cuả Sở giao dịch .
Nhằm nâng cao vai trò tự chủ của mình, bắt đầu từ ngày 01/01/1999 Sở giao dịch I tự tách thành một chi nhánh riêng. Tuy nhiên sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam vẫn làm chức năng đầu mối cho các chi nhánh khác trong một số nghiệp vụ và thực hiện các chức năng do Ngân hàng Công thương giao phó.
Theo đó, các nghiệp vụ chủ yếu mà hiện nay Sở giao dịch I đang còn thực hiện là:
- Huy động vốn thông qua hình thức: nhận tiền gửi bằng VNĐ hay ngoại tệ của các tổ chức kinh tế và dân cư, vay vốn phát hành các loại giấy tờ có giá khi được phép.
- Kinh doanh tín dụng: Cấp tín dụng cho các đối tượng như cho vay ngắn hạn, trung- dài hạn đối với các tổ chức kinh tế, cho vay ưu đãi, cho vay đầu tư xây dựng theo kế hoạch đầu tư phát triển của nhà nước. Thực hiện chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố , bảo lãnh, cho thuê tài chính.
- Nghiệp vụ phục vụ kế toán, ngân quỹ, thanh toán bù trừ với các đơn vị trong cùng địa bàn thành phố.
- Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đã quý: việc mua bán ngoại tệ chủ yếu phục vụ các doang nghiệp giao dịch thường xuyên tại Sở giao dịch I. Ngoài ra còn thực hiện các nghiệp vụ đại lý, tư vấn và các dịch vụ liên quan tới hoạt động ngân hàng theo quy định.
Với số lượng cán bộ công nhân viên gần 300 người có trình độ chuyên môn cao, Sở giao dịch I đã tạo lập được một cơ sở vật chất khá tốt, thực sự là một đơn vị lớn về hoạt động ngân hàng, tài chính tín dụng... với các chỉ tiêu hoạt động khá cao cả về doanh số cho vay và lượng vốn huy động lẫn mức dư nợ, các dịch vụ ngân hàng đa dạng, doanh thu và lợi nhuận ngày càng cao...
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Giám đốc Sở giao dịch I do chủ tịch hội đồng quản trị NHCTVN bổ nhiệm. Giúp việc cho giám đốc có hai phó giám đốc trực tiếp chỉ đạo một số phòng nghiệp vụ theo sự phân công của giám đốc. Điều hành phòng nghiệp vụ là trưởng phòng, mỗi phòng có một phó phòng giúp việc.
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Giám đốc
Phòng TCCB - LDTL
Phòng cân đối nguồn vốn
Phòng hành chính
Phòng ngân quỹ
Phòng kiểm soát
Phòng điện toán
Phòng kinh doanh đối ngoại
Phòng kế toán tài chính
Phòng kinh doanh
2.1.1.3. Khái quát tình hình hoạt động của Sở giao dịch I- NHCTVN.
Trước khi đi sâu phân tích thực trạng tín dụng của Sở giao dịch I, chúng ta nên khái quát một số nét về tình hình hoạt động, nhất là công tác huy động vốn, sử dụng vốn và hiệu quả kinh doanh.
* Huy động vốn.
Sở giao dịch I đóng trụ sở ở Hà Nội- trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của cả nước, nơi tập trung phần lớn các đơn vị kinh tế đầu mối, các tổng công ty và các doanh nghiệp lớn, nơi dân cư đông đúc, mặt bằng dân trí cao và rất nhạy cảm với thời cuộc. Đó là những tiền đề quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Sở phát triển, trước hết là huy động vốn. Hơn nữa, Sở có may mắn là tiếp cận ngay từ đầu, mở rộng màng lưới, chốt giữ các điểm trọng yếu, thuận lợi cho các ngân hàng và các đối tượng khách hàng đến giao dịch. Bên cạnh đó Sở giao dịch I cũng gặp không ít khó khăn trong việc cạnh tranh với các ngân hàng, vì trên cùng địa bàn đã lần lượt xuất hiện nhiều ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
Nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng của công tác huy động vốn là tạo điều kiện để thực hiện tiếp các nghiệp vụ khác của ngân hàng, mà đã có thời gian dài quy mô và tốc độ phát triển cho vay được quyết định bởi quy mô và tốc độ phát triển của huy động vốn nên Sở giao dịch I luôn luôn cải tiến moẻ rộng các hình thức huy động vốn đa dạng, linh hoạt với lợi thế về địa bàn hoạt động, với uy tín sâu rộng, cộng với phong cách thái độ phục vụ chu đáo tận tình, Sở đã thu hút được đông đảo khách hàng là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và các tầng lớp dân cư tham gia gửi tiền. So với tổng nguồn vốn huy động của tất cả các ngân hàng khác đang hoạt động trên cùng địa bàn, nguồn vốn huy động của Sở giao dịch chiếm tỷ lệ 15% và bằng 20% so với tổng nguồn vốn huy động của cả hệ thống Ngân hàng Công thương.
Biểu thống kê sau đây phản ánh rõ quy mô và tốc độ huy động vốn của Sở giao dịch I trong mấy năm qua.
Biểu 1: Tình hình huy động vốn ( phân theo thành phần )
Đơn vị: tỷ đồng, %
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
So với năm 1999 (%)
Số tiền
Tỷ trọng
So với năm 1999 (%)
Nguồn vốn huy động
7780
100
9262
100
+19,04
11588
100
+ 48,9
Trong đó
1. Tiền gửi doanh nghiệp
4979
63,9
6256
67,5
+25,6
8113
70
+62,9
1.1 + VNĐ
4947
99
6235
99,6
+ 25,2
8066
99,4
+62
+ Ngoại tệ quy VNĐ
32
1
21
0,4
-34,2
47
1.2 + Có kỳ hạn
4119
82,7
5191
82,9
+26
6829
84,1
+65,7
+ Không kỳ hạn
860
17,3
1065
17,1
+23.8
1284
15,9
+49,3
2. Tiền gửi dân cư
2564
32,9
2977
32,1
+16,1
5409
46,7
2.1 + VNĐ
816
31,8
700
23,5
-14,3
810
14,9
-0,8
+ Ngoại tệ quy VNĐ
1748
68,2
2277
76,5
+30,2
4599
85,1
2.2 + Không kỳ hạn
46
1,8
47
1,5
+2,1
74
1,4
+60,8
+ Có kỳ hạn
2518
98,2
2930
98,5
+16,3
5335
98,6
3. Tiền gửi khác
236
3
29,6
0,3
- 87,5
65,8
0,56
- 72,1
Nguồn: Phòng cân đối nguồn vốn Sở giao dịch I.
Qua biểu trên ta có thể nhận xét như sau:
Đến cuối năm 2001, tổng nguồn vốn huy động của Sở giao dịch I đã tăng xấp xỉ 2 lần so với năm 1999, tốc độ bình quân đạt xấp xỉ 40%. Trong đó tiền gửi dân cư tăng hơn 2 lần so với năm 1999, tiền gửi doanh nghiệp tăng 62,9%.
Nguồn vốn không những tăng nhanh mà còn tăng một cách ổn định, vững chắc. Kể cả những đợt lãi suất giảm tiền gửi vẫn tăng. Điều đó chứng tỏ Sở giao dịch I có tín nhiệm đối với khách hàng. Mặt khác đã áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt, đa dạng hoá các hình thức gửi tiền bao gồm cả VNĐ và ngoại tệ, với nhiều thời hạn, mức lãi suất và phương thức trả lãi khác nhau phù hợp với nguyện vọng của nhiều loại đối tượng khách hàng.
Ngân hàng đã làm tốt khâu thanh toán không dùng tiền mặt, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nâng cao chất lương phục vụ nên đã thu hút được nhiều khách hàng nhất là những công ty lớn đã mở doanh nghiệp ở thời điểm nào cũng chiếm tỷ lệ cao, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch I.
Tiền gửi dân cư tăng nhanh trong bối cảnh môi trường kinh tế biến động, lãi suất đã giảm dần liên tục trong nhiều đợt theo tín hiệu của thị trường giá cả. Điều đó chứng tỏ đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh có nhiều khó khăn, rủi ro lớn.
Biểu 2: Tình hình huy động vốn (phân theo kỳ hạn )
Đơn vị: tỷ đồng, %
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
So với năm 1999 (%)
Số tiền
Tỷ trọng
So với năm 1999 (%)
Tổng nguồn vốn huy động
7780
100
9262
100
+19,04
11588
100
+48,9
Trong đó
- Không kỳ hạn
4166
53,5
5236
56,5
+25,6
6902
59,6
+65,7
- Có kỳ hạn
3614
46,5
4026
43,5
+11,4
4686
40,4
+29,7
Nguồn: Phòng cân đối nguồn vốn Sở giao dịch I.
Qua biểu thống kê cho thấy liên tục trong những năm qua, tỷ trọng của tiền gửi không kỳ hạn có xu hướng tăng lên và tiền gửi có kỳ hạn lại có xu hướng giảm đi. Đến cuối năm 2001 tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng 59,6%, trong khi đó tiền gửi có kỳ hạn lại giảm xuống 43,5%. Mối tương quan giữa hai loại tiền gửi này có ý nghĩa rất lớn về mặt kinh tế đối với ngân hàng do có mức lãi suất khác nhau: loại không kỳ hạn có lãi suất thấp, loại có kỳ hạn có lãi suất cao.
Tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn lớn hơn tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn là thể hiện Sở giao dịch I sẽ khai thác được nhiều nguồn vốn “rẻ” có lợi cho kinh doanh. Tận dụng được lợi thế của mình, Sở giao dịch I vừa khai thác được nguồn vốn không kỳ hạn, vừa giữ vững được sự ổn định nguồn vốn có kỳ hạn ở mức bình quân trên 40%, trong khi loại tiền gửi này ở nhiều chi nhánh NHCT chiếm trên 70% thậm chí 80% gây không ít khó khăn cho việc phấn đấu giảm lãi suất bình quân đầu vào.
* Sử dụng vốn.
Bám sát chủ trương chỉ đạo của ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, mục tiêu phương hướng nhiệm vụ của NHCTVN, Sở giao dịch I đã phát huy lợi thế của mình đã nhanh chóng thực hiện đa dạng hoá các mặt nghiệp vụ, trong đó trọng tâm nhất là công tác tín dụng với phương châm “đi vay để cho vay” lấy hiệu quả của khách hàng làm mục đích của Ngân hàng, Sở giao dịch I đã cung cấp vốn kịp thời, hợp lý cho mọi đối tượng khách hàng, bao gồm nhiều thành phần kinh tế, trong đó có các tổng công ty và doanh nghiệp lớn của Nhà nước, các tổng công ty rtách nhiệm hữu hạn, tổ hợp tác thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Biểu 3: Tình hình cho vay.
Đơn vị: tỷ đồng, %
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
So với năm 1999 (%)
Số tiền
Tỷ trọng
So với năm 1999 (%)
Tổng dư nợ
1107
100
1246
100
+12,6
1497
100
+35,2
Theo thời gian
- Ngắn hạn
348
31,4
355
28,5
+2
420
28
+20,6
- Trung, dài hạn
695
68,6
891
71,5
+28,2
1077
72
+54,9
Theo thành phần
- KT quốc doanh
983
88,7
1140
91,4
+15,9
1355
90,5
+37,8
- KT ngoài quốc doanh
124
11,3
106
8,6
-14,6
142
9,5
+14,5
Theo ngành SX kinh doanh
- Ngành công nghiệp
83
70
-15,7
90
+8,4
- Ngành xây dựng
4
7
+75
7
+75
- Ngành giao thông vận tải
738
812
+10
920
+24,6
- Ngành thương nghiệp vật tư
282
357
+26,5
480
+70,2
Theo chất lượng tín dụng
- Dư nợ trong hạn
1034
1185
+14,6
1438
96
+39
- Dư nợ quá hạn
73
61
-16,5
59
4
-19,2
Nguồn: Phòng kinh doanh Sở giao dịch I.
Phần thực trạng tín dụng sẽ phân tích chi tiết và cụ thể từng vấn đề có liên quan đến chất lượng tín dụng. Qua số liệu biểu trên, ta có thể nhận xét sơ bộ như sau:
Đến cuối năm 2001, tổng dư nợ của Sở giao dịch I tăng 35,2% so với năm 1999. Đây là một sự cố gắng đáng kể của Sở, song so với tiềm năng về vốn, ưu thế thị trường thì kết quả này còn rất hạn chế. Xét về phân loại thời hạn cho vay thì tín dụng ngắn hạn và trung hạn giảm dần cả về cơ cấu và tốc độ.
Xét về thành phần kinh tế thì Sở giao dịch I đã tập trung vốn để cho vay kinh tế quốc doanh là chủ yếu. Tín dụng ngoài quốc doanh giảm về tỷ trọng và khối lượng tiền vay, cho đến cuối năm 2001 chỉ chiếm 9%.
Các ngành sản xuất vật chất như công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải… luôn được ưu tiên vốn tín dụng để thực hiện các dự án về hiện đại hoá. Đồng thời cũng bố trí vốn hợp lý đầu tư vào kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ.
Về chất lượng tín dụng là chủ đề của lhoá luận sẽ trình bày kỹ ở phần sau. Qua biểu trên cho thấy chất lượng tín dụng của Sở giao dịch I tương đối ổn định, mặc dù dư nợ quá hạn có xu hướng giảm từ năm 1999 đến nay. Tỷ trọng 4% cuối năm 2001 vẫn là cao so với tiêu chuẩn quốc tế.
* Hiệu quả kinh doanh.
Trong quản lý tài sản của Ngân hàng Thương mại có nhiều mục tiêu nhưng quan trọng nhất là đảm bảo kinh doanh có lợi nhuận. Là doanh nghiệp có chức năng kinh doanh tiền tệ, để đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường Ngân hàng Thương mại phải cạnh tranh với các Ngân hàng và các tổ chưc tín dụng khác một cách gay gắt bằng cách mở rộng hoạt động kinh doanh và phát triển các dịch vụ có hiệu quả. Thông qua việc cung cấp các loại sản phẩm có chất lượng cao với thái độ phục vụ tận tình, chu đáo, văn minh, lịch sự để thu hút đông đảo khách hàng. Kinh doanh có lợi nhuận cao lại tạo điều kiện và khả năng thúc đẩy sự phát triển của Ngân hàng Thương mại.
Bước đàu chuyển sang cơ chế thị trường, nguồn thu dịch vụ của Ngân hàng chưa phát triển, thì thu lãi cho vay có ý nghĩa quyết định. Do đó có thể nói lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp, là kết quả cuối cùng của hoạt động tín dụng, lợi nhuận cao hay thấp thể hiện trình độ tín dụng tốt hay xấu.
Trong mấy năm qua Sở giao dịch I có rất nhiều cố gắng khai thác mọi nguồn thu và tiết kiệm chi phí, bảo đảm kinh doanh có hiệu quả và đạt lợi nhuận cao so với các đơn vị khác của NHCT Việt Nam. Biểu phan tích sau đây sẽ chứng tỏ điều đó.
Biểu 4: Hiệu quả kinh doanh
Đơn vị: tỷ đồng, %.
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
I.Tổng thu nhập
459
100
405
100
476
100
- Thu lãi cho vay
107
23,3
117
29
119
25
-Thu dịch vụ
9
2
7
1,7
11
2
-Thu lãi điều hoà
330
71,7
265
65,4
332
69,8
-Thu lãi tiền gửi
13
3
16
3,9
14
3,2
II.Tổng chi phí
339
100
281
100
351
100
-Trả lãi tiền gửi tiết kiệm
321
94,7
255
90,7
322
91,7
-Trả lãi kỳ phiếu
7
2,06
5
108
7
1,9
-Chi luơng thưởng
3
0,9
8
2,8
8
2,2
-Thuế và thu nhập khác
8
2,34
13
4,7
14
4,2
III. Lợi nhuận hạch toán nội bộ
120
124
125
Qua biểu số lượng trên ta thấy:
- Lợi nhuận hạch toán nội bộ tăng đều hàng năm, tính đến cuối năm 2001 đạt 125 tỷ. Đây là sự nỗ lực rất lớn của Sở giao dịch I vì mấy năm nay nhất là năm 1995 đã 5 lần điều chỉnh giảm lãi suất ,làm thu hẹp chênh lệch lãi suất đầu ra và đầu vào.
- Về thu nhập, chủ yếu là thu lãi vốn điều hoà do hệ số sử dụng vốn tại chỗ thấp. Nguồn vốn này đặt từ 65% trở lên , bình quân là 68% .Tiếp đến là thu lãi cho vay của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân, cá thể chiếm tỷ lệ bình quân 25%. Riêng thu dịch vụ đặt thấp ,Sở giao dịch I cần có điều kiện và rất cần thiết mở rộng hoạt động dịch vụ mà pháp luật đã cho phép.
- Về chi phí, đại bộ phận là chi trả tiền lãi cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và lãi tiết kiệm của các tầng lớp dân cư.
Tóm lại, Sở giao dịch I đã tận dụng được lợi thế của mình để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nhất là huy động vốn cho vay có hiệu quả. Tuy nhiên nguồn vốn sử dụng tại chỗ chỉ chiếm một phần nhỏ, còn lại chuyển về quỹ điều hoà,hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch I đang có xu hướng tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ.
2.2. Thực trạng về hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I.
2.2.1. Khái quát hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I- NHCTVN.
Là một Ngân hàng Thương mại quốc doanh, vừa là công cụ của Nhà nước trong việc điều hành và phát triển kinh tế, vừa để tồn tại và phát triển lớn mạnh trong cơ chế thị trường, Ngân hàng Công thương Việt Nam nói chung và Sở giao dịch I nói riêng ngay từ khi mới ra đời đã đặc biệt quan tâm tới hoạt động tín dụng, coi đó là một lĩnh vực kinh doanh chủ yếu, tạo ra đại bộ phận lợi nhuận cho Ngân hàng.
Mở rộng tín dụng là một đòi hỏi khách quan, bức thiết hiện nay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các thành phần kinh tế. Chính sách phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay đã mở ra cho lĩnh vực kinh doanh tín dụng nhiều cơ hội thuận lợi. Vì vậy để làm tốt công tác này Sở giao dịch I đã tận dụng lợi thế về vị trí địa lý của mình, ngoài ra còn thực hiện mọi biện pháp:
-Thực hiện chính sách khách hàng linh hoạt, cùng có lợi, đặc biệt là củng cố khách hàng truyền thống, ổn định lâu dài. Chính sách khách hàng được thực hiện bằng việc cho vay và cung cấp các sản phẩm, loại dịch vụ hấp dẫn, bảo đảm chất lượng cao, có ưu đãi về vật chất, kết hợp với phong cách phục vụ chu đáo tận tình.
- Tăng cường công tác tiếp thị, thu thập thông tin, theo dõi sự biến động của thị trường, giá cả, làm tư vấn cho khách hàng và cho vay có hiệu quả.
- Từ một Ngân hàng Thương mại chuyên doanh, Sở giao dịch I đã từng bước chuyển dần sang Ngân hàng Thương mại đa dạng với nhiều hình thức mới như: phát triển tín dụng thuê mua, thực hiện bảo lãnh, mở L/C kết hợp với chính sách xã hội, Sở giao dịch I đã triển khai chương trình cho vay sinh viên, cho vay tạo việc làm.
- Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tín dụng từ khâu tuyển dụng, đảm bảo đầu vào có chất lượng đến đào tạo, nâng cao tay nghề và giáo dục đạo đức phẩm chất.
Về kỹ thuật nghiệp vụ Sở giao dịch I đã quan tâm:
+ Tiếp thu và thực hiện đầy đủ các cơ chế và quy trình tín dụng.
+ Xác định mức vốn cho vay, quy định thời hạn nợ hợp lý.
+ Chú ý thẩm định, lựa chọn được những dự án có tính khả thi để cho vay.
+ Phối hợp chặt chẽ các bộ phận để theo dõi quản lý nợ, tài sản thế chấp, cầm cố và thu hồi nợ đúng hạn…
Biểu thống kê sau đây đã phản ánh quy mô và tốc độ phát triển của hoạt động tín dụng:
Biểu 5: Doanh số cho vay và thu nợ.
Đơn vị: tỷ đồng, %.
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
So với năm 1999 (%)
Số tiền
Tỷ trọng
So với năm 1999 (%)
I.Doanh số cho vay
1569
100
1948
100
+24,1
2456
100
+56,5
II.Doanh số thu nợ
1360
100
1809
100
+33
2217
100
+63
III.Tổng dư nợ
1107
100
1246
100
+12,6
1497
100
+35,2
Nguồn: Phòng kinh doanh- Sở giao dịch I.
Qua biểu trên ta thấy doanh số cho vay, doanh số thu nợ và tổng dư nợ đều tăng. điều này chứng tỏ hoạt động hoạt động của Sở giao dịch I lớn cả về quy mô và tăng nhanh cả về tốc độ, đến cuối năm 2001 tổng dư nợ tăng lên 1497 tỷ.
2.2.2. Phân tích quy mô tín dụng.
Là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ gắn liền với nền kinh tế thị trường đầy biến động. Do đó vấn đề chất lượng tín dụng đối với Ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, chất lượng tín dụng Ngân hàng thể hiện trên nhiều mặt, nhưng chủ yếu là:
- Góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển treo đúng phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế của Nhà nước, tạo điều kiện cho các đơn vị vay vốn thực hiện hoàn thành kế hoạch đảm bảo có tích luỹ.
- Ngân hàng thu hồi cả nợ gốc và lãi đúng quy định, hạn chế phát sinh nợ quá hạn, nhất là nợ quá hạn khó đòi, bảo đảm kinh doanh tín dụng có lợi để tạo điều kiện phát triển Ngân hàng.
- Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có nhiều loại, riêng trong tín dụng có các biểu hiện sau:
+ Cho vay tập trung vào một số đối tượng lớn, mà việc lựa chọn khách hàng, thậm chí dự án đầu tư không chu đáo, không chú ý đến phân tán rủi ro bằng việc tiến hành cho vay nhiều khách hàng.
+ Nợ qua hạn phát sinh, vượt qua giới hạn cho phép, làm đọng vốn không thu hồi được, dễ dẫn đến thất thoát.
+ Vòng quay vốn tín dụng chậm lại, hệ số sử dụng vốn sinh lời đạt thấp, hiệu quả chưa cao.
Để làm rõ thêm về thực trạng tín dụng của Sở giao dịch I, nhất là chất lượng và hiệu quả vốn cho vay, căn cứ vào tình hình thực tế, ta lựa chọn và phân tích một số vấn đề có liên quan sau đây:
2.2.2.1. Phân tích dư nợ cho vay.
Biểu phân tích sau đây phản ánh tổng hợp dư nợ cho vay, có phân theo thời hạn cho vay và ngành kinh tế:
Biểu 6: Dư nợ cho vay.
Đơn vị: Tỷ đồng, %.
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
So với năm 1999 (%)
Số tiền
Tỷ trọng
So với năm 1999 (%)
Tổng dư nợ
1107
100
1246
100
+12,6
1497
100
+35,2
A. Theo thời gian
- Ngắn hạn
348
31,4
355
28,5
+2
420
28
+20,6
- Trung, dài hạn
695
68,6
891
71,5
+28,2
1077
72
+54,9
B. Theo thành phần
- KT quốc doanh
983
88,7
1140
91,4
+15,9
1355
90,5
+37,8
- KT ngoài quốc doanh
124
11,3
106
8,6
-14,6
142
9,5
+14,5
C. Theo chất lượng tín dụng
- Dư nợ trong hạn
1034
93,4
1185
95,1
+14,6
1438
96
+39
- Dư nợ quá hạn
73
6,6
61
4,9
-16,5
59
4
-19,2
Nguồn: Phòng kinh doanh Sở giao dịch I.
Dư nợ cho vay là đầu tư của Sở giao dịch I đạt mức tăng trưởng đều đặn qua các thời điểm phân tích. Nếu so với năm 1999 thì:
Năm 2000 tăng +12,6%.
Năm 2001 tăng + 35,2%.
Mức tăng trưỏng đó là hợp lý, không vượt quá xa so với chỉ tiêu trượt giá và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn Hà Nội.
Nếu phân tích theo thời hạn cho vay thì ta thấy tốc độ tăng trưởng cũng như tỷ trọng cấu thành dư nợ ngắn hạn thấp hơn trung và dài hạn. So với năm 1999, đến cuối năm 2001 dư nợ ngắn hạn tăng 20,6% còn dư nợ trung và dài hạn tăng 54,9%. Do đó đã làm thay đổi hẳn cơ cấu về tỷ trọng của 2 loại cho vay này:
Loại cho vay
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Dư nợ ngắn hạn(%)
Dư nợ trung, dài hạn(%)
31,4
68,6
28,5
71,5
28
72
Tốc độ tăng trưởng của loại cho vay trung và dài hạn tương đối nhanh và do đó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Trong khi mức dư nợ loại cho vay này của Sở giao dịch I đạt 63% thì hệ thống NHCT Việt Nam mới đạt 19%.
Về kỹ thuật nghiệp vụ, ngoài những điểm giống nhau về nguyên tắc, điều kiện, quy trình tín dụng... mỗi loại cho vay còn có những yêu cầu đòi hỏi khác nhau để đảm bảo chất lượng và hiệu quả tín dụng. Nhưng nói chung thời hạn cho vay càng dài thì mức độ rủi ro càng lớn. Do đó, quá trình giải quyết cho vay trung và dài hạn phải có tầm nhìn chiến lược, dự đoán chính xác, toàn diện bằng nhiều nguồn thông tin có cơ sở, đủ mức tin cậy, phải hội tụ các điều kiện tín dụng, xác minh các loại tài sản thế chấp, cầm cố chặt chẽ, có tính hợp lệ, hợp pháp cao, bám sát đơn vị vay, thường xuyên kiểm tra kiểm soát tình hình sử dụng vốn vay. Chuyển mạnh sang cho vay trung và dài hạn, Sở giao dịch I phải chấp nhận khối lượng công việc nặng nề hơn, trách nhiệm lớn hơn, tập trung nhiều trí tuệ hơn mới đảm bảo được chất lượng tín dụng. Quá trình giải ngân có thể chưa phát sinh nhiều vấn đề, nhưng mọi phức tạp phiền hà thường xuất hiện từ lúc đưa công trình máy móc thiết bị vào sử dụng. Một điều đáng lưu ý nữa là theo thông lệ, các đối tượng trung và dài hạn thì đầu tư bằng nguồn vốn trung và dài hạn. Nhưng Sở giao dịch I chưa huy động nguồn vốn này. Mọi nhu cầu cho vay trung và dài hạn đều sử dụng bằng nguồn vốn ngắn hạn và sự hỗ trợ của cấp trên từ nguồn vốn ngoại tệ của nước ngoài. Tình trạng sử dụng vốn không đúng tính chất cũng rất nguy hiểm, dễ mất khả năng thanh toán khi có sự cố và đe doạ sự an toàn của Ngân hàng nói chung, chứ không riêng gì đến chất lượng hoạt động tín dụng.
Nếu phân tích theo thành phần kinh tế ta thấy từ đầu năm 1999 đến cuối năm 2001, Sở giao dịch I đã tập trung vốn vay cho kinh tế quốc doanh là chủ yếu. Về tỷ trọng, kinh tế quốc doanh chiếm 90,5%, tốc độ tăng trưởng đạt 37,8% so với năm 1999. Và tín dụng ngoài quốc doanh cũng tăng nhưng chỉ chiếm 9,5% về tỷ trọng và tăng 14,5% về tốc độ phát triển.
Diển biến về tỷ trọng vốn cho vay vào 2 thành phần kinh tế này qua 3 năm như sau:
Loại cho vay
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Kinh tế quốc doanh(%).
Kinh tế ngoài quốc doanh(%).
88,7
11,3
91,4
8,6
90,5
9,5
Hiện tượng này phản ảnh một số vấn đề sau:
- Cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị trường đã làm phá sản hàng loạt doanh nghiệp ngoài quốc doanh do trình độ quản lý và năng lực sản xuất yếu kém, năng suất, chất lượng không đảm bảo tiêu chuẩn, khó tiêu thụ sản phẩm.
- Một số đơn vị vay vốn không đúng mục đích và đối tượng, tình trạng sản xuất kinh doanh nhiều khi không tuân thủ pháp luật, hiện tượng gian lận thương mại phát triển, chiếm đoạt tài sản Nhà nước đã làm cho Ngân hàng đề cao cảnh giác, phòng ngừa rủi ro khi đầu tư vốn vào lĩnh vực này. Ngoài ra do nhận thức và quá nhấn mạnh về mặt tiêu cực của kinh tế ngoài quốc doanh nên đã làm hạn chế quan hệ tín dụng và dẫn đến dư nợ giảm dần
Nếu phân tích theo chất lượng tín dụng ta thấy từ đầu năm 1999 đến cuối năm 2001 ta thấy tỷ trọng dư nợ trong hạn tăng (chiếm 96%) và tốc độ tăng trưởng đạt 39% so với năm 1999. Còn dư nợ quá hạn giảm đáng kể chỉ chiếm 4% về tỷ trọng và giảm 19,2%.
2.2.2.2. Phân tích sự biến động của khách hàng có quan hệ tín dụng.
Muốn mở rộng tín dụng cần thu hút khách hàng, tứ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34239.doc