PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề vẫn là bài toán khó đối với hàng trăm làng nghề ở nhiều vùng trên cả nước. Theo PGS.TS Đặng Kim Chi, chủ nhiệm đề tài KC 08 - 09: “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng các chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường ở các làng nghề Việt Nam” thì 100% mẫu nước thải ở các làng nghề được khảo sát có thông số vượt tiêu chuẩn cho phép; nước mặt, nước ngầm đều có dấu
117 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2276 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Biện pháp kinh tế và quản lý nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường làng nghề tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệu bị ô nhiễm. Môi trường khí bị ô nhiễm có tính cục bộ tại nơi trực tiếp sản xuất, đặc biệt là ô nhiễm bụi vượt tiêu chuẩn cho phép và ô nhiễm do sử dụng nhiên liệu là than củi. Vì vậy, ô nhiễm môi trường ở các làng nghề ảnh hưởng rõ rệt đến sức khoẻ của người lao động, dân cư làng nghề và một số khu vực xung quanh. Các bệnh của người dân ở các làng nghề cao hơn các làng nghề thuần nông, thường gặp là các bệnh về đường hô hấp, đau mắt, bệnh đường ruột, bệnh ngoài da. Tại một số làng nghề có đặc thù, xuất hiện các bệnh nguy hiểm như ung thư, quái thai, nhiễm khí độc và kim loại nặng. Nhiều dòng sông chảy qua các làng nghề hiện đang bị ô nhiễm nặng (sông Nhuệ, sông Vân Tràng), ở nhiều ruộng lúa cây trồng bị giảm năng suất do ô nhiễm không khí từ các làng nghề.
Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ nhiều phía. Về phía các cơ sở sản xuất, do phần lớn các cơ sở sản xuất mới có quy mô nhỏ hộ gia đình (chiếm 80%) nên khó phát triển vì mặt bằng chật hẹp, xen kẽ với khu vực dân cư sinh hoạt, do sản xuất với quy mô nhỏ, không thể xây dựng hệ thống xử lý nước thải, rác thải và khí thải. Các cơ sở sản xuất thường lựa chọn quy trình sản xuất thủ công, dễ sử dụng lao động trình độ thấp, giá nhân công rẻ, sử dụng nhiên liệu rẻ tiền, hoá chất độc hại nhằm hạ giá thành phẩm. Một “căn bệnh” thường gặp tại các làng nghề hiện nay là sản xuất theo kiểu bí truyền không chịu áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật nên cản trở việc áp dụng kỹ thuật mới. Không những thế, những hạn chế do trình độ thủ công, thiết bị lạc hậu, chắp vá, kiến thức tay nghề không toàn diện nên tiêu hao nhiều nguyên liệu, làm tăng phát thải gây ô nhiễm nước, đất, không khí. Với những cơ sở có đầu tư đổi mới công nghệ thì do tốn kém nên cũng không đầu tư hệ thống xử lý chất thải. Với những người lao động, do văn hoá thấp kém, học nghề theo kinh nghiệm nên thiếu nhận thức về bảo vệ môi trường, hạn chế năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, chưa có ý thức, hiểu biết về môi trường lao động, chỉ cần việc làm có thu nhập cao hơn sản xuất nông nghiệp hoặc có thêm thu nhập lúc nông nhàn nên ngại học hỏi, không quan tâm đến bảo vệ môi trường. Ngoài những nguyên nhân trên, còn có trách nhiệm của các cơ quan quản lý bởi cho tới lúc này, hầu hết các làng nghề vẫn chưa có quy hoạch môi trường đối với các cơ sở sản xuất, chưa có chương trình quản lý giáo dục môi trường, tuyên truyền nâng cao nhận thức, hiểu biết về tác động của ô nhiễm môi trường cũng như các biện pháp phòng tránh. Không những thế, hiện nay vẫn còn thiếu các chính sách đồng bộ từ các văn bản của Nhà nước về phát triển bền vững làng nghề.
Từ những nguyên nhân đó mà việc xử lý môi trường tại các làng nghề hiện đang là bài toán khó.
Với 51 làng nghề hiện có, Hải Dương là một tỉnh có nhiều làng nghề ở khu vực đồng bằng sông Hồng. Trong những năm qua, các làng nghề đã dần thích nghi với điều kiện kinh tế thị trường, các chính sách của nhà nước, của tỉnh nhằm khuyến khích, hỗ trợ đối với làng nghề truyền thống. Bên cạnh những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương thì tình trạng ô nhiễm ở các làng nghề đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của làng nghề. Bằng các công cụ quản lý của mình, khu vực Nhà nước đã có những biện pháp tích cực nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở các làng nghề. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh là công tác quản lý nhà nước đối với vấn đề bảo vệ môi trường ở các làng nghề vẫn còn nhiều bất cập, hiệu quả đạt được không cao, tình trạng ô nhiễm môi trường được cải thiện chậm chạp, tại một số địa phương không có chuyển biến tích cực.
Thực hiện phát triển bền vững các làng nghề đòi hỏi khu vực Nhà nước cần phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý của mình nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường. Xuất phát từ yêu cầu đó, chúng tôi đã chọn đề tài: “Biện pháp kinh tế và quản lý nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường làng nghề tỉnh Hải Dương”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá sự phát triển làng nghề cũng như thực trạng ô nhiễm môi trường ở khu vực làng nghề, từ đó đề xuất các giải pháp kinh tế- quản lý phù hợp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường làng nghề ở tỉnh Hải Dương.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về làng nghề và các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường làng nghề;
+ Quá trình hình thành và phát triển làng nghề ở tỉnh Hải Dương;
+ Thực trạng ô nhiễm môi trường làng nghề trên địa bàn tỉnh Hải Dương 3 năm (2006 – 2008);
+ Phân tích nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng ô nhiễm môi trường làng nghề trên địa bàn nghiên cứu;
+ Đề xuất định hướng và các giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường làng nghề ở tỉnh Hải Dương thời gian tới.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
+ Các cơ sở sản xuất làng nghề, thực trạng ô nhiễm môi trường và công tác quản lý nhà nước ô nhiễm môi trường làng nghề ở địa bàn nghiên cứu.
1.4 Phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Phạm vi nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu chủ yếu của luận án là các vấn đề về kinh tế, quản lý và tổ chức chủ yếu để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, phát triển làng nghề cũng như một số cơ sở làng nghề chứ không phải tất cả các cơ sở sản xuất.
1.4.2 Phạm vi thời gian
+ Thời gian làm luận văn: Tháng 8 năm 2008 đến tháng 11 năm 2009.
+ Thời gian thu thập số liệu nghiên cứu: 3 năm (2006 -2008).
1.4.3 Phạm vi không gian
Tỉnh Hải Dương.
PHẦN II - TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Môi trường và tiêu chuẩn môi trường
Theo luật bảo vệ môi trường thì Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và tự nhiên.
Theo định nghĩa của Tổ chức kinh tế văn hóa xã hội Liên hợp quốc (UNESCO) thì Môi trường của con người bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (tập quán, niềm tin...), trong đó con người sống và lao động, họ khai thác các tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình.
Như vậy, môi trường là tổng hòa các mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong đó bao gồm cả yếu tố vật chất nhân tạo, chúng tạo nên một thể thống nhất tác động trực tiếp tới đời sống của con người, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên.
Để có những căn cứ nhằm đánh giá chất lượng của môi trường phải sử dụng các tiêu chuẩn môi trường. Tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mực, giới hạn cho phép được quy định dùng làm căn cứ để quản lý môi trường.
Hệ thống tiêu chuẩn môi trường gồm:
- Tiêu chuẩn môi trường nước: bao gồm nước mặt nội địa, nước ngầm, nước biển và nước ven biển, nước thải,...
- Tiêu chuẩn môi trường không khí: bao gồm khói bụi, khí thải...
- Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ đất canh tác, sử dụng phân bón trong sản xuất nông nghiệp.
- Tiêu chuẩn bảo vệ thực vật, sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ.
- Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử, văn hóa.
- Tiêu chuẩn liên quan đến môi trường do các hoạt động khai thác khoáng sản trong lòng đất, ngoài biển.
Hiện nay nước ta có trên 200 tiêu chuẩn môi trường quy định về chất lượng môi trường, đây là cơ sở để chúng ta đo mức độ chuẩn của môi trường, đồng thời cũng là căn cứ để đánh giá mức độ vi phạm môi trường có liên quan.
2.1.2 Ô nhiễm môi trường
Từ khái niệm về tiêu chuẩn môi trường, ô nhiễm môi trường được định nghĩa là sự thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường. Như vậy, ta có thể thấy khái niệm ô nhiễm môi trường phụ thuộc vào hai yếu tố: tác động vật lý của chất thải và phản ứng của con người đối với tác động ấy. Tác động vật lý của chất thải có thể mang tính sinh học như làm thay đổi gen di truyền, giảm đa dạng sinh học, ảnh hưởng đến mùa màng hoặc sức khỏe con người. Tác động cũng có thể mang tính hóa học như ảnh hưởng của mưa axit đối với các công trình, nhà cửa...
Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khỏe con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hóa chất hoặc các tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
Ô nhiễm môi trường được chia làm ba loại chính đó là ô nhiễm môi trường nước, ô nhiễm môi trường không khí và ô nhiễm môi trường đất. Ngoài ra, sự mất cân bằng sinh thái, sự giảm sút của mức độ đa dạng sinh học hay hàm lượng chất thải rắn cao cũng là những loại ô nhiễm môi trường.
2.1.3 Sự cần thiết phải có can thiệp của Nhà nước vào giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trong các làng nghề ở Việt Nam
* Ô nhiễm môi trường là khuyết tật của kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường tự bản thân nó không thể khắc phục những khuyết tật mang tính bản chất như tình trạng độc quyền, lạm phát, bất ổn kinh tế, thất nghiệp và ô nhiễm môi trường. Xét về bản chất, ô nhiễm môi trường là một dạng ngoại ứng tiêu cực và trong khi mọi chủ thể trong nền kinh tế thị trường đều chạy theo mục tiêu lợi nhuận thì vấn đề BVMT sẽ bị bỏ quên. Lý thuyết kinh tế hiện đại chỉ ra rằng chỉ với “bàn tay vô hình” của thị trường thì không thể điều tiết và khắc phục những thất bại mà cần phải có “bàn tay hữu hình” của Nhà nước. Nhà nước với các công cụ quản lý của mình, can thiệp vào thị trường để điều tiết sản xuất, khắc phục những thất bại do kinh tế thị trường gây ra.
* Thực trạng và những thách thức đối với môi trường Việt Nam
Hiện trạng môi trường nước ta trong những năm qua cho thấy ô nhiễm môi trường đang ngày một gia tăng, môi trường đất, môi trường nước và môi trường không khí ngày càng xuống cấp, sự đa dạng hóa sinh học bị xâm phạm nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm môi trường diễn ra ở cả khu vực thành thị lẫn khu vực nông thôn và miền núi ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe của người dân. Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình thực hiện phát triển bền vững, đó là:
- Ô nhiễm môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến tính ổn định và bền vững của sự phát triển KTXH.
Phát triển KTXH là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân cũng như của cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ: môi trường là địa bàn và là đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
Tác động của hoạt động phát triển đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo. Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến phát triển KTXH thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên đang là đối tượng của hoạt động phát triển hoặc gây ra thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động KTXH trong khu vực.
- Ô nhiễm môi trường là một trở ngại to lớn trong sự phát triển của đất nước và làm nguy hại đến tương lai của các thế hệ sau.
Ô nhiễm môi trường càng cao đòi hỏi chúng ta phải bỏ ra những chi phí càng lớn để khắc phục tình trạng ô nhiễm và duy trì chất lượng môi trường. Việc này không chỉ làm cạn kiệt nguồn lực của nền kinh tế mà còn làm giảm khả năng tiếp cận những cơ hội cho sự phát triển. Nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường chúng ta cần phải đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng như xã hội được bền vững. Bảo vệ môi trường là việc làm không chỉ có ý nghĩa hiện tại mà quan trọng hơn, cao cả hơn là nó có ý nghĩa cho tương lai. Nếu một sự phát triển có mang lại những lợi ích kinh tế trước mắt mà khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường, làm cho các thế hệ sau không còn điều kiện để phát triển mọi mặt (cả về kinh tế, xã hội, thể chất, trí tuệ con người) thì sự phát triển đó không có ích gì. Nếu hôm nay thế hệ chúng ta không quan tâm tới, không làm tốt công tác bảo vệ môi trường, làm cho môi trường bị hủy hoại thì trong tương lai, con cháu chúng ta chắc chắn sẽ phải gánh chịu những hậu quả tồi tệ.
* Mục tiêu và những thách thức về môi trường quốc gia
Phấn đấu để có môi trường trong lành và bền vững là mục tiêu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh BVMT là nhiệm vụ mang tính toàn cầu thì tại nước ta, vấn đề môi trường cũng đang được quan tâm đặc biệt. BVMT được đặt ra trong hầu hết các chính sách phát triển KTXH. Hơn thế nữa, vấn đề cụ thể như: Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam – Việt Nam Agendar 21) Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Những mục tiêu về môi trường quốc gia này đã và đang đặt ra những nhiệm vụ đòi hỏi Nhà nước cần có những biện pháp cụ thể nhằm quản lý tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt là đối với môi trường các làng nghề.
Ngoài ra, chúng ta còn phải đối mặt với những thách thức về môi trường trong những năm tới như:
- Tình trạng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị BVMT thấp kém, lạc hậu, ô nhiễm môi trường ngày một gia tăng, trong khi đó khả năng đầu tư cho môi trường của Nhà nước cũng như các doanh nghiệp đều bị hạn chế.
- Sự gia tăng dân số, di dân tự do và đói nghèo tiếp tục gây ra những áp lực lớn đối với tài nguyên và môi trường.
- Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững chưa đầy đủ, ý thức BVMT trong xã hội còn thấp.
- Tổ chức và năng lực quản lý môi trường chưa đáp ứng yêu cầu.
- Thách thức trong việc lựa chọn những lợi ích trước mắt về kinh tế và lâu dài về môi trường và phát triển bền vững.
- Những mặt trái của hội nhập quốc tế và tự do hóa thương mại toàn cầu nhất là việc Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO gây ra nhiều tác động phức tạp về môi trường.
- Tác động của những vấn đề môi trường toàn cầu, môi trường khu vực ngày càng mạnh, phức tạp hơn.
Nhằm chủ động đối phó với những thách thức và thực hiện các mục tiêu đặt ra cần phải tăng cường công tác quản lý nhà nước vào giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm môi trường các làng nghề nói riêng.
2.1.4 Quản lý môi trường
Hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý môi trường. Theo một số tác giả, quản lý môi trường bao gồm hai nội dung chính là quản lý nhà nước về môi trường và quản lý của các doanh nghiệp, các khu dân cư về môi trường.
Quản lý môi trường được thực hiện bằng tổng hợp các biện pháp luật pháp, chính sách, kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, văn hóa, giáo dục... Các biện pháp này có thể đan xen, phối hợp, tích hợp với nhau tùy theo điều kiện cụ thể của vấn đề đặt ra.
Có thể nêu tóm tắt, quản lý môi trường là một hoạt động trong lĩnh vực quản lý xã hội; có tác động điều chỉnh các hoạt động của con người dựa trên sự tiếp cận có hệ thống và các kỹ năng điều phối thông tin đối với các vấn đề môi trường có liên quan đến con người; xuất phát từ quan điểm sử dụng hợp lý tài nguyên và hướng tới phát triển bền vững.
2.1.5 Công cụ quản lý môi trường
Công cụ quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp hoạt động về luật pháp, chính sách, kinh tế, kỹ thuật và xã hội nhằm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Có 3 loại công cụ chính thường được sử dụng nhiều nhất trong quản lý môi trường, đó là: Các công cụ pháp lý, công cụ kinh tế và các công cụ kỹ thuật, tuyên truyền vận động, thuyết phục.
- Công cụ kinh tế là một nhóm biện pháp trong số nhiều công cụ của quản lý môi trường. Chúng có thể được sử dụng thay thế hoặc bổ sung cho các công cụ khác của quản lý môi trường. Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường chính là sử dụng sức mạnh của thị trường để bảo vệ tài nguyên môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái.
- Công cụ kinh tế là những công cụ chính sách nhằm thay đổi chi phí và lợi ích của các hoạt động kinh tế thường xuyên tác động đến môi trường, ngăn ngừa các tác động tới môi trường.
- Các công cụ kinh tế gồm các loại thuế, phí... đánh vào thu nhập bằng tiền của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các công cụ này chỉ áp dụng có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
Để hiểu rõ hơn về công cụ kinh tế trong quản lý môi trường, chúng ta sẽ xem xét bản chất, vai trò của công cụ kinh tế trong quản lý môi trường và một số loại công cụ kinh tế được áp dụng trong quản lý môi trường ở các phần tiếp theo.
2.1.6 Làng nghề và phân loại làng nghề
* Làng nghề
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thống về làng nghề. Nhiều học giả đã đưa ra nhiều khái niệm về làng nghề khác nhau như TS. Dương Bá Phượng trong “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa” đã định nghĩa: Làng nghề là những làng ở nông thôn có các ngành nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và số thu nhập so với nghề nông thôn.
Dù được định nghĩa như thế nào thì làng nghề trước hết phải là một thôn (làng) và trong thôn (làng) đó có một nghề khác nông nghiệp, tách ra khỏi nông nghiệp, phục vụ chủ yếu cho cuộc sống của người dân.
Như vậy, ta có thể định nghĩa làng nghề như sau: “làng nghề là một thôn (làng) có một nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập và nghề đó thu hút đại đa số lao động trong làng đồng thời đem lại thu nhập chính cho người dân của thôn (làng) đó”.
Hiện tại cả nước có hơn 1.450 làng nghề phân bố trên 64 tỉnh thành trong cả nước, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm 55,20% với hơn 800 làng nghề. Trong số này có những làng nghề truyền thống như gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội), làng dệt lụa Hà Đông (Hà Nội), làng chạm bạc Đồng Xuân (Thái Bình), làng tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh), làng gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ (Bắc Ninh)... và có những làng nghề mới được hình thành trên cơ sở sự lan tỏa của các làng nghề truyền thống như làng nghề xây dựng Nội Duệ, làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm Cát Quế (Hà Nội)... Xét về yếu tố ngành nghề có làng nghề tiểu thủ công nghiệp (chiếm khoảng 85%), làng nghề dịch vụ như làng nghề dịch vụ vận tải thủy Trung Kênh (Bắc Ninh), làng nuôi trồng thủy sản An Bình (Bắc Ninh)...
* Làng nghề truyền thống
Một bộ phận không nhỏ trong làng nghề ở nước ta đó là các làng nghề truyền thống. Đối tượng này chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các làng nghề, khoảng 85%. Làng nghề truyền thống là khái niệm bao hàm khái niệm về “làng nghề” và “nghề truyền thống”. Nghề truyền thống ở đây là những nghề cổ truyền, có lịch sử lâu đời và còn duy trì được đến ngày nay. Nghề truyền thống tạo nên nét văn hóa đặc trưng cho vùng nghề và cho cả dân tộc. Như vậy, làng nghề truyền thống có thể được hiểu là một làng nghề đã hình thành từ lâu đời và còn được duy trì đến ngày nay; sản phẩm có tính cách riêng biệt đặc thù, có giá trị văn hóa lịch sử của địa phương được nhiều nơi biết đến, phương thức truyền nghề theo cha truyền con nối hoặc gia đình, dòng tộc. Làng nghề truyền thống là một di sản văn hóa vật thể quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam, những làng nghề như tranh dân gian Đông Hồ, gốm sứ Bát Tràng, đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ... đã và đang tạo nên vốn quý đó cho dân tộc.
* Phân loại làng nghề
Có nhiều cách để phân loại làng nghề:
- Phân loại theo làng nghề truyền thống và làng nghề mới: Cách phân loại này cho thấy đặc thù văn hóa, mức độ bảo tồn của các làng nghề, đặc trưng cho các vùng văn hóa lãnh thổ.
- Phân loại theo ngành sản xuất, loại hình sản phẩm: Cách phân loại này nhằm xác định phân bố về mặt địa lý, về nguồn và khả năng đáp ứng nguyên liệu cho hoạt động sản xuất của làng nghề cũng như phần nào thấy được xu thế và nhu cầu tiêu thụ của xã hội.
- Phân loại theo quy mô sản xuất, trình độ công nghệ: Cách phân loại này nhằm xác định trình độ công nghệ và quản lý sản xuất tại các làng nghề, qua đó có thể xem xét tới tiềm năng phát triển đổi mới công nghệ sản xuất đáp ứng cho các nhu cầu như đa dạng hóa sản phẩm và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
- Phân loại theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm: Đây là cách phân loại phục vụ mục tiêu đánh giá đặc thù, quy mô các nguồn thải từ hoạt động sản xuất của các làng nghề.
- Phân loại theo thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiềm năng tồn tại và phát triển: Cách phân loại này xem xét tới các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đối với sự phát triển của các làng nghề.
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài, Luận văn lựa chọn 2 cách phân loại chính đó là phân loại theo ngành sản xuất, loại hình sản phẩm và phân loại theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm.
Phân loại theo ngành sản xuất, loại hình sản phẩm: Theo cách phân loại này ta có 6 nhóm ngành sản xuất chính với đặc điểm gây ô nhiễm môi trường như sau:
+ Nhóm làng nghề may đồ da, dệt vải, ươm tơ: Hiện tại cả nước có khoảng 173 làng nghề thuộc nhóm này, chiếm 11,9% trong tổng số 1.450 làng nghề của cả nước, trong đó nghề dệt nhuộm chiếm đa số. Có thể kể tên một số làng nghề nổi tiếng như làng nghề dệt lụa Hà Đông (Hà Nội), làng gấm lụa Vân Phương, làng thổ cẩm Mỹ Nghiệp... Nhóm làng nghề này gây ô nhiễm môi trường nước và không khí là chủ yếu do trong quá trình sản xuất phải sử dụng nhiều nước và hóa chất tẩy nhuộm cộng với các công đoạn đánh tơi, làm khô.
+ Nhóm làng nghề chế biến lương thực thực phẩm, dược liệu và nuôi trồng thủy sản: Hiện tại cả nước có 208 làng nghề, chiếm 14,3%. Sản phẩm chính của nhóm làng nghề này hết sức đa dạng và phong phú như: miến, bún, bánh phở, bánh đa, tương, rượu, bánh kẹo, nước mắm, thuốc bắc... đây là nhóm nghề gây ô nhiễm nước là chủ yếu.
+ Nhóm nghề tái chế phế liệu (giấy, nhựa, kim loại đen và mầu...): Hiện chỉ có khoảng 102 làng nghề tái chế phế liệu như làng sắt thép Đa Hội, làng giấy Phong Khê, làng sản xuất đồ đồng Vân Chàng... Tuy có số lượng ít nhưng nhóm làng nghề này lại đóng khối lượng sản phẩm và giá trị rất lớn cho nền kinh tế địa phương có làng nghề. Nhóm làng nghề này gây ô nhiễm môi trường nước, không khí, môi trường đất và sự đa dạng hóa sinh học.
+ Nhóm làng nghề thủ công mỹ nghệ, thêu ren: Đây là nhóm làng nghề có số lượng nhiều nhất, với 606 làng nghề, chiếm 41,8% tổng số làng nghề của cả nước. Đặc điểm về sản phẩm rất đa dạng như sơn mài, khảm trai, đúc tượng, trạm khắc vàng bạc, đá quý, gốm, mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ, chạm khắc đá, tranh thêu... Có thể lấy ví dụ một số làng nghề tiêu biểu như làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ (Bắc Ninh), làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ Đông Giao (Hải Dương), làng nghề mây tre đan Xuân Lai, làng gốm Phù Lãng, Hương Canh, làng sơn mài Đình Bảng... Phần lớn những làng nghề này có truyền thống lâu đời, các sản phẩm có giá trị cao, mang đậm nét văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, những làng nghề thuộc nhóm này cũng gây ô nhiễm cho môi trường không khí, môi trường đất và tạo ra chất thải rắn.
+ Nhóm làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác và chế tác đá: Tuy số lượng còn ít nhất, chỉ chiếm khoảng 2,1% trong tổng số 1.450 làng nghề của cả nước song trong xu hướng nhu cầu về vật liệu xây dựng ngày càng gia tăng, đây là nhóm làng nghề đang có xu hướng phát triển. Sản phẩm chủ yếu là cát, gạch ngói, vôi, đá xẻ... Nhóm làng nghề này gây ô nhiễm môi trường không khí, chất thải rắn và sự đa dạng sinh học.
+ Nhóm làng nghề khác như cơ khí mỏ, mộc gia dụng, đóng thuyền, làm lưỡi câu... Đây là nhóm làng nghề ít gây ô nhiễm nhất, hoạt động của các làng nghề nhóm này mang tính không ổn định, theo thời vụ và có giá trị kinh tế thấp.
Phân loại theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm
Theo cách phân loại này ta có làng nghề ô nhiễm nặng, làng nghề ô nhiễm trung bình và làng nghề ô nhiễm nhẹ.
Trong hai cách phân loại sau đây, cách phân loại theo ngành sản xuất và loại hình sản phẩm có nhiều ưu điểm như:
- Ngành sản xuất sẽ cho phép định hình được công nghệ sản xuất tương ứng, loại và lượng nguyên liệu sử dụng, từ đó đánh giá được trình độ công nghệ, trang thiết bị, lực lượng lao động.
- Từ loại hình sản xuất và loại hình sản phẩm cũng sẽ xác định được các dạng chất thải tương ứng phát sinh trong dây truyền công nghệ cũng như dễ dàng ước lượng được thành phần, tải lượng các loại chất thải cũng như xem xét tác động của các chất thải đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng.
- Phân loại theo ngành sản xuất và loại hình sản phẩm còn có thể đề xuất được các giải pháp kỹ thuật và quản lý để xử lý, giảm thiểu ô nhiễm do chất thải của loại hình sản xuất đó gây ra.
Như vậy, việc phân loại theo ngành sản xuất và loại hình sản phẩm vừa giúp cho việc quản lý sản xuất, vừa giúp cho việc quản lý bảo vệ môi trường thuận lợi hơn và là cách phân loại được lựa chọn trong luận văn.
Căn cứ để xác định mức độ ô nhiễm của làng nghề có thể minh họa ở hình sau:
Các số liệu đặc trưng môi trường trong dòng thải của làng nghề
Có ít nhất một thông số môi trường đặc trưng cho làng nghề cao hơn 5 lần TCCP
Có chất thải nguy hại vượt quá quy định
Có ít nhất một thông số môi trường đặc trưng cho làng nghề từ 2 đến 5 lần TCCP
Có ít nhất một thông số môi trường đặc trưng cho làng nghề nhỏ hơn 2 lần TCCP
Ô nhiễm nặng
Ô nhiễm trung bình
Ô nhiễm nhẹ
Không ô nhiễm
Có
Khôngg
Có
Không
Có
Có
Hình 2.1: Sơ đồ đánh giá mức độ ô nhiễm tại các làng nghề
2.1.7 Những đặc điểm của làng nghề liên quan đến phát triển bền vững
2.1.7.1 Tính lịch sử lâu đời
Các làng nghề truyền thống ở nước ta có lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển từ rất lâu đời. Ngay từ thời Lý – Trần (thế kỷ X – XIV), tại khu vực kinh thành Thăng Long và một số địa phương khác như Bắc Ninh, Hà Tây, Nam Định, Hải Dương đã xuất hiện một số nghề khá phát triển như dệt lụa tơ tằm, nghề gốm, nghề đúc đồng, nghề làm giấy, nghề xây dựng... Đây là nguồn gốc hình thành nên các làng nghề truyền thống nổi tiếng sau này như làng gốm Bát Tràng, Chu Đậu, làng dệt lụa Hà Đông, làng đúc đồng Đại Bái, làng giấy Phong Khê, làng tranh dân gian Đông Hồ, làng rượu Phú Lộc. Cho đến ngày nay, đã có những làng nghề có tuổi đời hàng nghìn năm như làng nghề gốm Bát Tràng, làng nghề dệt lụa Vạn Phúc, còn lại đa số các làng nghề truyền thống đều có lịch sử hàng trăm năm.
Tính lịch sử lâu đời này đã tạo ra cho làng nghề truyền thống ở nước ta những thuận lợi quan trọng trong quá trình phát triển của mình, đó là: Làng nghề truyền thống đã tạo ra đội ngũ những người thợ lành nghề và những nghệ nhân mà trình độ đã đạt tới mức điêu luyện. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của những làng nghề truyền thống luôn được đánh giá là độc đáo, có giá trị và tính nghệ thuật cao, đồng thời nó còn tạo nên nét văn hóa riêng làm phong phú thêm cho nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nước ta. Danh tiếng của làng nghề vì thế không ngừng vươn xa, có những làng nghề đã nổi tiếng khắp trong và ngoài nước như làng nghề dệt lụa Hà Đông, làng gốm sứ Bát Tràng hay làng đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ. Bên cạnh sự nổi tiếng, do đã hình thành và tồn tại lâu đời nên các làng nghề cũng đã xây dựng được cho mình một mạng lưới khách hàng rộng lớn, sản phẩm của làng nghề đã trở nên phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người tiêu dùng. Những nhân tố thuận lợi này không chỉ giúp cho làng nghề tồn tại, duy trì mà còn thúc đẩy sự phát triển của làng nghề trong nền kinh tế thị trường ngày nay. Tuy nhiên, ngoài những thuận lợi trên, tính lịch sử lâu đời cũng tạo ra cho làng nghề những bất lợi như sự bảo thủ và trì trệ trong sản xuất, sự tiếp nhận đổi mới khó khăn... Đây là những rào cản lớn cho các làng nghề, đặc biệt là những làng nghề truyền thống trong quá trình thực hiện phát triển bền vững của mình.
2.1.7.2 Tính tự phát trong phát triển
Một đặc điểm bất lợi cho các làng nghề trong quá trình thực hiện phát triển bền vững của mình đó là tính tự phát. Điều này thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Do kinh tế hộ và cá thể là chủ yếu nên nó chứa đựng trong mình nguy cơ tiềm tàng dẫn đến tình trạng vô chính phủ trong sản xuất kinh doanh. Vì mục tiêu chạy theo lợi nhuận đã xảy ra tình trạng như ép giá, tăng giá, chất lượng sản phẩm không đảm bảo, sự cạnh tranh giữa các cơ sở sản xuất trong làng nghề tăng lên nhiều khi dẫn đến sự tự hủy hoại lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, sản phẩm sản xuất ra mất dần ý nghĩa truyền thống.
- Kinh tế làng nghề phát triển cũng là nhân tố góp phần làm phân hóa giàu nghèo trong xã hội nông thôn, năng lực quản lý, năng lực kinh doanh và vốn, những mặt này trong hoạt động làng nghề có sự chênh lệch giữa các cơ sở sản xuất, sự chênh lệch càng lớn thì sự phân hóa giàu nghèo càng trở nên sâu sắc hơn.
- Việc sản xuất và hạch toán kinh doanh trong làng nghề truyền thống theo hình thức gia đình, việc QLNN vào lĩnh vực này chưa nhiều, hầu như còn thả nổi, việc thu thuế dựa vào ý chủ quan của các cơ sở sản xuất để giao mức khoán, dẫn đến việc trốn lậu thuế xảy ra gây thất thu cho ngân sách.
Như vậy, tính tự phát trong phát triển của làng nghề được biểu hiện trên mọi khía cạnh, nó tạo ra sự khó khăn trong việc quản lý và kiểm soát làng nghề, điều này cũng tạo ra những rào cản nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
2.1.7.3 Công nghệ lạc hậu và chất lượng lao động thấp
Công nghệ và kỹ thuật sản xuất trong các làng nghề đều hết sức lạc hậu và thô sơ. Hầu hết các cơ sở sản xuất trong các làng nghề ở nước ta, nhất là khu vực hộ gia đình tư nhân vẫn còn sử dụng các loại công cụ thủ công truyền thống hoặc có cải tiến một phần. Trình độ công nghệ lạc hậu, trình độ cơ khí hóa còn thấp, thiết bị phần lớn đã cũ, đã qua thanh lý của các cơ sở công nghiệp cho hiệu quả sản xuất thấp, không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, an toàn lao động và vệ sinh môi trường. Trình độ công nghệ thủ công và bán cơ khí còn chiếm một tỷ lệ khá lớn ở các làng nghề, khoảng 60%. Đứng trước tình trạng này, hiện nay một số làng nghề đã bắt đầu chú ý tới việc đổi mới công nghệ sản xuất để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Làng gốm sứ Bát Tràng đã đưa công nghệ nung bằng tuynen (dùng gas và điện) thay cho lò hộp dùng than củi; làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ đã thay công việc cưa, cắt, bào bằng tay sang dùng máy xẻ, máy cưa, máy bào... tỷ lệ cơ khí hóa trong các làng nghề ngày một được nâng cao nhất là đối với những làng._. nghề tiểu thủ công nghiệp. Tuy nhiên, sự đổi mới công nghệ diễn ra chưa đồng bộ, chưa có hệ thống, mới chỉ tập trung ở một số khâu, một số ngành quan trọng.
Ngoài đặc điểm về công nghệ lạc hậu, tại các làng nghề hiện nay chất lượng lao động và trình độ chuyên môn kỹ thuật ở các làng nghề nhìn chung còn thấp, chủ yếu là lao động phổ thông, số lao động bậc cao và tinh xảo rất ít, chỉ chiếm khoảng 1,7%, cán bộ quản lý, kỹ thuật có trình độ đại học hầu như không có, chỉ có ở một số cơ sở sản xuất của các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty tư nhân. Đối với chủ hộ, chủ doanh nghiệp: trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật và năng lực của các chủ cơ sở ngành nghề nhìn chung còn hạn chế. Các chủ hộ, chủ doanh nghiệp chưa được trang bị những kiến thức cần thiết trong quản lý sản xuất kinh doanh cũng như chưa hiểu biết về các luật, các chính sách có liên quan đến hoạt động kinh tế của mình. Với lực lượng lao động: do tính chất công việc giản đơn, dễ học và học chủ yếu thông qua con đường truyền miệng, không cần qua một trường lớp đào tạo nghề nào nên trình độ tay nghề của lao động thấp, chỉ có một số ít đạt trình độ tinh xảo và lành nghề, còn lại đa số là lao động phổ thông: có khoảng 70% lao động đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở, 18% tốt nghiệp phổ thông trung học.
2.1.7.4 Tính bất hợp lý trong phân bố
Sự phân bố và phát triển làng nghề giữa các vùng không đồng đều. Các làng nghề ở miền Bắc phát triển mạnh hơn các làng nghề ở miền Trung và miền Nam. Theo kết quả điều tra của Viện Khoa học và Công nghệ môi trường của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cho thấy trong tổng số 1.450 làng nghề hiện có thì miền Bắc đã có tới 976 làng nghề, chiếm 67,3%; miền Trung có 297 làng nghề, chiếm 20,5% và miền Nam có 177 làng nghề, chiếm 12,2%.
Trong phạm vi từng miền, các làng nghề lại tập trung ở một số khu vực nhất định, thường là những trung tâm kinh tế, xã hội của miền đó hoặc ở những khu vực được thiên nhiên ưu đãi cho các điều kiện về tài nguyên, về địa lý và về khí hậu thời tiết, như tại miền Bắc, các làng nghề tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng châu thổ Sông Hồng với 671 làng nghề, chiếm 68,8%, hay miền Nam, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long lại là vùng có nhiều làng nghề hơn cả.
Bảng 2.1: Phân bố số lượng làng nghề Việt Nam
Nhóm làng nghề
Miền Bắc
Miền Trung
Miền Nam
Tổng cộng
Ươm tơ, dệt vải, đồ da
139
24
10
173
Chế biến lương thực
145
42
21
208
Tái chế phế liệu
64
24
14
102
Thủ công mỹ nghệ
398
121
87
606
Sản xuất vật liệu xây dựng
19
9
3
31
Nghề khác
211
77
42
330
Tổng cộng
976
297
177
1450
(Nguồn: Kết quả điều tra làng nghề 2004)
Tính bất hợp lý trong phân bố không chỉ thể hiện ở từng miền, từng vùng mà ngay nội tại bản thân làng nghề việc bố trí các cơ sở sản xuất cũng có những bất hợp lý. Do không có tính quy hoạch và do ảnh hưởng của tính lịch sử lâu đời nên hầu hết các cơ sở sản xuất trong làng nghề hiện nay đều nằm trong khu dân cư, xen kẽ với khu vực sinh hoạt của người dân. Điều này gây ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng đồng dân cư trong làng, hơn nữa nó còn ảnh hưởng đến việc mở rộng quy mô sản xuất, thúc đẩy phát triển làng nghề.
2.1.8 Nội dung về quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
2.1.8.1 Nhà nước ban hành Luật và các tiêu chí về bảo vệ môi trường
Nội dung quản lý nhà nước về ô nhiễm môi trường thể hiện trước hết ở việc Nhà nước ban hành Luật và các tiêu chuẩn môi trường tạo nên khung pháp lý cho các hoạt động bảo vệ môi trường và kiểm soát ô nhiễm. Hiện nay, công cụ pháp lý cao nhất của Nhà nước về bảo vệ môi trường là Luật bảo vệ môi trường năm 2006 và các văn bản dưới luật quy định về việc bảo vệ môi trường như Nghị định số 80/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2006, Nghị định 81/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và các tiêu chuẩn về môi trường của Việt Nam (bao gồm hơn 200 tiêu chuẩn). Ngoài ra còn có các văn bản pháp lý khác như Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến 2020, Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam – Việt Nam Agendar 21), hay quy hoạch phát triển môi trường. Đối với các làng nghề công tác quy hoạch được thể hiện ở việc Nhà nước sắp xếp và phân bố các làng nghề một cách hợp lý như tách khu sản xuất ra khỏi khu dân cư, bố trí hợp lý các cơ sở sản xuất trong làng nghề... Công cụ luật pháp và chính sách về bảo vệ môi trường là công cụ quản lý nhà nước cao nhất, nó thể hiện quyền lực và vai trò quan trọng của Nhà nước, đồng thời là cơ sở để Nhà nước đề ra các công cụ quản lý khác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
* Nhà nước sử dụng các công cụ kinh tế để bảo vệ môi trường: Là các biện pháp khuyến khích về kinh tế, được xây dựng trên cơ sở các quy luật thị trường và cơ chế giá, được sử dụng để gây ảnh hưởng đối với hành vi của người gây ô nhiễm ngay từ giai đoạn chuẩn bị cho đến khi thực hiện quyết định.
Các biện pháp khuyến khích kinh tế cho phép cân nhắc, trù tính kỹ lưỡng giữa “cái được” và cái mất của từng phương án hành động, nhằm tạo điều kiện cho việc lựa chọn phương án có lợi nhất cho môi trường, so với khi không sử dụng công cụ khuyến khích đó.
Khác với công cụ pháp lý là những điều khoản mà người gây ô nhiễm bắt buộc phải thực hiện, các công cụ kinh tế cho phép người gây ô nhiễm có nhiều khả năng lựa chọn hơn, linh hoạt hơn trong khi ra các quyết định về các phản ứng cần phải có đối với các tác động từ bên ngoài. Hiểu theo nghĩa hẹp, các công cụ kinh tế là các khuyến khích về tài chính nhằm làm cho người gây ô nhiễm tự nguyện thực hiện các hoạt động có lợi hơn cho môi trường. Bởi các công cụ kinh tế được sử dụng đúng mục đích sẽ giúp cho bản thân những người gây ô nhiễm giảm thiểu những tác hại này, vì quyền lợi của chính họ.
Trong trường hợp ngân sách nhà nước còn eo hẹp, nhất là các khoản dành chi cho các mục tiêu môi trường còn chưa lớn, thì các công cụ kinh tế có thể được coi là các biện pháp vừa giúp tăng các nguồn thu cho ngân sách, vừa giúp đạt được các mục tiêu môi trường với những chi phí nhỏ hơn. Thông thường các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm các mục tiêu sau:
- Tăng nguồn thu cho việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường;
- Khuyến khích thực hiện tốt hơn các quy định về bảo vệ môi trường;
- Tác động tích cực đến năng lực sáng tạo và khuyến khích tinh thần đổi mới trong các hoạt động bảo vệ môi trường.
Cũng như ở nhiều nước trên thế giới, công tác BVMT ở Việt Nam cho đến nay chủ yếu được thực hiện theo cơ chế mệnh lệnh và kiểm soát (CAC– Comment and Control). Trong đó các công ty cũng như các xí nghiệp phải tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường cụ thể (mệnh lệnh). Còn vai trò của Nhà nước là đảm bảo để các công ty này tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường, thông qua các chương trình quan trắc và cưỡng chế nghiêm ngặt (kiểm soát). Mặc dù có vai trò rất quan trọng trong hệ thống quản lý môi trường, phương pháp này trên thực tế vẫn cần phải được bổ sung thêm bằng các công cụ khuyến khích cần thiết để xúc tiến việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên và kiểm soát ô nhiễm.
Các công cụ kinh tế được các cơ quan, tổ chức nhà nước sử dụng chủ yếu với hai mục đích như sau:
Mục đích thứ nhất là nhằm điều chỉnh hành vi của người tiêu dùng và của các nhà sản xuất. Các công cụ được áp dụng trong trường hợp này thường được gọi là các công cụ khuyến khích. Mục đích này thường đạt được thông qua việc thay đổi giá cả do tiêu dùng và người sản xuất giao dịch thông qua áp dụng các hệ thống thuế phí môi trường.
Mục đích thứ hai là tìm ra các nguồn vốn cho việc sản xuất hàng hóa hay dịch vụ công cộng. Mục đích này còn có tên gọi là mục đích bồi hoàn chi phí. Các công cụ kinh tế được áp dụng để đạt được mục đích này là thuế hay phí đánh vào người sử dụng dịch vụ. Đây là loại phí mà các hộ gia đình hay các doanh nghiệp phải trả khi sử dụng một loại hàng hóa hay dịch vụ cụ thể.
Một số công cụ kinh tế chủ yếu đang được áp dụng tại Việt Nam:
Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là một loại thuế đánh vào việc sử dụng các dạng tài nguyên thiên nhiên trong quá trình sản xuất như thuế sử dụng đất, thuế sử dụng nước, thuế rừng, thuế tiêu thụ năng lượng, thuế khai thác tài nguyên khoáng sản ... mục đích của thuế tài nguyên là:
- Hạn chế các nhu cầu không cấp thiết trong sử dụng tài nguyên;
- Hạn chế các tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và sử dụng;
- Tạo nguồn thu cho ngân sách và điều hòa quyền lợi của các tầng lớp dân cư về việc sử dụng tài nguyên.
Phí môi trường
Phí môi trường là công cụ kinh tế nhằm đưa phí môi trường vào giá sản phẩm theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Phí môi trường nhằm hai mục đích chính: Khuyến khích người gây ô nhiễm phải giảm lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trên thực tế, phí môi trường được áp dụng dưới nhiều dạng khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu và đối tượng ô nhiễm như: phí đánh vào nguồn ô nhiễm, phí đánh vào sản phẩm gây ô nhiễm và phí đánh vào người sử dụng.
Hệ thống đặt cọc – hoàn trả
Công cụ này được sử dụng trong hoạt động bảo vệ môi trường bằng cách quy định các đối tượng tiêu dùng các sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường phải đặt cọc một khoản tiền khi mua hàng, nhằm bảo đảm cam kết sau khi tiêu dùng sẽ đem sản phẩm đó (hoặc phần còn lại của sản phẩm đó) trả lại cho các đơn vị thu gom phế thải hoặc tới địa điểm đã quy định để tái chế, tái sử dụng hoặc tiêu hủy theo cách an toàn với môi trường. Nếu thực hiện đúng, người tiêu dùng sẽ được hoàn trả lại khoản đặt cọc trước đó. Hình thức này có thể thấy rộng rãi đối với trường hợp mua bia chai ở nước ta (ví dụ bia Hà Nội), thường là chúng ta phải đặt cọc 2.000đ/1 chai mua về, số tiền này sẽ được hoàn trả lại nếu vỏ chai còn nguyên vẹn khi mang trả lại cửa hàng.
Mục đích của công ty này là thu gom những thứ mà người tiêu thụ đã dùng vào một trung tâm để tái chế hoặc tái sử dụng một cách an toàn với môi trường. Hệ thống đặt cọc – hoàn trả được coi là một trong những công cụ hiệu quả, được ưu tiên hàng đầu trong những chính sách bảo vệ môi trường vì nó đảm bảo tính tuần hoàn, khép kín của quy trình sản xuất không xả thải.
Ký quỹ môi trường
Mục đích của ký quỹ môi trường là để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ phục hồi và bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh thông qua việc ký quỹ bằng một khoản tiền vào một tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng do cơ quan quản lý môi trường nắm giữ. Công cụ này tạo ra lợi ích cho nhà nước vì không phải đầu tư kinh phí khắc phục môi trường từ ngân sách. Ký quỹ môi trường cũng khuyến khích các doanh nghiệp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường. Họ buộc phải chấp hành nghiêm túc những quy định về bảo vệ môi trường nếu không muốn mất đi khoản tiền đã ký quỹ.
Quỹ môi trường
Quỹ môi trường là một thể chế hoặc một cơ chế được thiết kế để nhận tài trợ vốn từ các nguồn khác nhau và từ đó phân phối các nguồn này để hỗ trợ quá trình thực hiện các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường. Hiện nay ở nước ta có 3 quỹ môi trường: Quỹ môi trường quốc gia, quỹ môi trường địa phương và quỹ môi trường ngành.
* Các công cụ pháp lý
Là các biện pháp mang tính thể chế (luật, các quy chế, hệ thống các tiêu chuẩn hoặc các quy phạm pháp luật khác) được thực hiện nhằm mục đích gây ảnh hưởng đối với các hoạt động liên quan đến môi trường của các chủ thể kinh tế, thông qua việc điều chỉnh bằng các quy định pháp luật đối với quy trình sản xuất, hoặc các sản phẩm được sử dụng. Tức là các biện pháp bắt buộc người gây ô nhiễm phải hủy bỏ toàn bộ, hoặc hạn chế bớt một số hoạt động gây tổn hại tới môi trường trong phạm vi một khoảng thời gian, một vùng lãnh thổ hay một lĩnh vực hoạt động. Các biện pháp cụ thể thường được sử dụng là cấp phép, xác lập các tiêu chuẩn, khoanh vùng lãnh thổ, các quy định về thưởng, phạt... Nói cách khác, đây là các công cụ điểu chỉnh trực tiếp đối với quan hệ tương tác giữa con người và môi trường. Các quy định pháp lý này tác động trực tiếp đến hành vi của các cá nhân, của các tổ chức, đến hoạt động của các nhà máy, công xưởng, các quy trình kỹ thuật và các sản phẩm đầu vào, đầu ra của sản xuất.
* Các công cụ tuyên truyền, vận động, thuyết phục
Là các công cụ nhằm gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với chủ thể gây ô nhiễm, với mục đích nâng cao nhận thức và tinh thần trách nhiệm cá nhân của họ về bảo vệ môi trường khi ra quyết định, hoặc nhằm vào việc đạt được các quyết định có lợi hơn cho môi trường. Các công cụ này được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước đã được chứng minh là có những tác động rất đáng kể.
Từ trước đến nay, nhiều chính phủ đã có xu hướng thực hiện các chính sách môi trường thông qua các công cụ điều chỉnh bằng pháp luật, chủ yếu giảm sát và xử phạt khi có vi phạm. Lợi thế của các biện pháp điều chỉnh bằng pháp luật là ở chỗ chúng cho phép chính quyền có thể trực tiếp kiểm soát hành vi của các đối tượng, giám sát hậu quả của các hành vi này đối với môi trường. Chính vì vậy, các công cụ pháp luật hiện nay vẫn được duy trì để bảo đảm tính bắt buộc đối với việc tuân thủ các quy định luật pháp. Trong khi đó các công cụ kinh tế và các công cụ tuyên truyền, thuyết phục có thể đảm bảo ở mức cao hơn tính mềm dẻo, linh hoạt và tính hiệu quả trong việc thực thi các biện pháp bảo vệ môi trường, nhất là trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm.
Tuy nhiên, phải nói rằng trên thực tế không phải lúc nào cũng có thể phân biệt một cách rõ ràng giữa các loại hình công cụ nói trên. Cụ thể có nhiều trường hợp, các công cụ được sử dụng vừa mang tính chất của các công cụ kinh tế, lại vừa mang tính chất của những quy định về pháp lý (ví dụ: các biện pháp cưỡng chế bằng tài chính). Hơn nữa, kinh nghiệm thực tế khi thực hiện các chính sách bảo vệ môi trường của nhiều nước cho thấy các loại hình công cụ này cũng thường được phối hợp với nhau để đạt mục tiêu cuối cùng là cải thiện chất lượng môi trường. Chính vì thế các nhà hoạch định chính sách thường không chỉ sử dụng các công cụ kinh tế, các công cụ luật pháp, hay các biện pháp tuyên truyền, vận động một cách riêng rẽ, mà thường đưa ra các lựa chọn sao cho các loại hình công cụ này có thể bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau để đạt được giải pháp tối ưu cho môi trường.
Bảng 2.2: So sánh một số công cụ kinh tế với công cụ pháp lý áp dụng cho chính sách quản lý môi trường.
Loại công cụ
Ưu điểm
Nhược điểm
Các công cụ kinh tế
Phí đánh vào người sử dụng
Tăng nguồn thu cho các mục tiêu bảo vệ môi trường
Chi phí thực hiện cao; Dễ dẫn đến việc bán phá giá hoặc đổ bỏ sản phẩm không đúng quy định.
Phí đánh vào sản phẩm
Tăng nguồn thu cho các mục tiêu bảo vệ môi trường; khuyến khích sản xuất sản phẩm an toàn
Đòi hỏi phải phát triển các sản phẩm thay thế
Phí hành chính
Tăng nguồn thu
Hạn chế trong việc áp dụng
Thuế cấp sai
Khuyến khích sản xuất hoặc tiêu thụ các sản phẩm có ích cho môi trường; giảm chi phí hành chính
Khó khăn khi áp dụng
Trợ cấp
Trực tiếp khuyến khích các hoạt động chống ô nhiễm; chi phí sản xuất thấp; thúc đẩy đổi mới công nghệ
Người đóng thuế (chứ không phải người gây ô nhiễm) phải chịu chi phí; vẫn cho phép các ngành gây ô nhiễm tồn tại
Chế độ kỹ quỹ - hoàn trả
Khuyến khích việc tái chế hoặc sử dụng lại; có thể lôi cuốn sự tham gia của người dân
Khó quản lý
Các công cụ pháp lý
Tiêu chuẩn chất lượng môi trường xung quanh
Cung cấp cơ sở để đánh giá mức độ hiệu quả của các biện pháp kiểm soát ô nhiễm hiện hành
Đòi hỏi tri thức kỹ thuật cao và phức tạp
Các tiêu chuẩn công nghệ
Cho phép có những biện pháp giám sát tối đa từ phía Chính phủ
Không có sự mềm dẻo trong công nghệ giám sát, đòi hỏi chi phí giám sát và cưỡng chế cao
Các tiêu chuẩn vận hành
Linh hoạt trong công nghệ giám sát
Chi phí giám sát và vận hành cao
Các tiêu chuẩn sản phẩm
Hạn chế hoặc loại bỏ hẳn các chất ô nhiễm ngay trước khi vận hành phương tiện
Đòi hỏi phải có những sản phẩm thay thế
Giấy phép
Bảo đảm các tiêu chuẩn được tuân thủ từ trước khi vận hành phương tiện
Chi phí giám sát và thực hiện cao
Giám sát sử dụng đất và nước
Ngăn ngừa những sai sót trong việc bố trí địa điểm
Tạo điều kiện cho sự can thiệp quá mức của các cơ quan chính quyền
(Nguồn: Ngân hàng Thế giới – Chương trình quản lý đô thị, 1993)
2.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu về xử lý môi trường làng nghề
2.2.1 Tình hình nghiên cứu về xử lý môi trường làng nghề và khu vực gần khu công nghiệp ở ngoài nước.
2.2.1.1 Chương trình Năng suất xanh của Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) là một tổ chức liên chính phủ, được thành lập theo Hiệp định năm 1961, gồm 18 nước thành viên: Bangladesh, Đài loan, Fiji, Hongkong, Ấn độ, Indonesia, Iran, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Mông Cổ, Nepal, Pakistan, Philippines, Singapore, Srilanka, Thái Lan và Việt Nam.
Mục tiêu của APO là nâng cao năng suất, giảm những tác động tương ứng về môi trường và thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương thông qua sự hợp tác đa phương.
Kết quả NSX đã được áp dụng cho rất nhiều tổ chức tại 18 nước thành viên của APO với nhiều quy mô khác nhau, loại hình sản xuất khác nhau và đã đem lại những thành công đáng kể, giúp các tổ chức đó nâng cao hiệu quả sản xuất đồng thời bảo vệ môi trường, nhất là cho trang trại lớn.
Tổ chức APO đã tổ chức hàng trăm lớp đào tạo cho hàng ngàn lượt chuyên gia NSX cho các nước thành viên, nhằm trang bị kiến thức về phương pháp thực hiện NSX tại cộng đồng và các thành viên này đã trở thành các hạt nhân để phát triển phong trào NSX, ngoài ra tổ chức này đã hỗ trợ các nước kinh phí để thực nghiệm chương trình nhằm nâng cao năng suất và chất lượng môi trường cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội tổng thể.
2.2.1.2 Công ty HAECON (Bỉ) đã nghiên cứu công nghệ bể lọc đệm sinh học cố định để xử lý nước thải sinh hoạt cho các cụm dân cư nhỏ khoảng vài trăm đến vài nghìn người. Công nghệ này có ưu điểm nổi bật là vật liệu đơn giản, tốn ít mặt bằng, nên đã được triển khai tại nhiều nước trên thế giới.
2.2.1.3 Philippines đã xử lý rác thải bằng nuôi giun: dùng giun để phân huỷ các loại rác hữu cơ, vừa cung cấp thức ăn giàu đạm cho chăn nuôi.
2.2.1.4 Ở Nhật xử lý mùi hôi sinh ra từ bãi rác bằng chế phẩm EM. Công nghệ EM do Giáo sư - Tiến sĩ Teruo Higa - Trường Đại học Tổng hợp Ruykyus, Okinawa, Nhật Bản sáng tạo ra và được áp dụng vào thực tiễn vào đầu năm 1980 nhằm giảm thiểu việc sử dụng phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, trừ bệnh bằng hoá học. Trong chế phẩm EM có khoảng 80 loài vi sinh vật cả kỵ khí và hiếm khí thuộc 10 chi khác nhau. Chúng bao gồm các vi khuẩn quang hợp (tổng hợp ra chất hữu cơ từ CO2 và H2O), vi khuẩn cố định Nitơ (sử dụng chất hữu cơ của vi khuẩn quang hợp để chuyển N2 trong không khí thành các hợp chất Nitơ), xạ khuẩn (sản sinh chất kháng sinh ức chế vi sinh vật gây bệnh và phân giải chất hữu cơ), vi khuẩn lactic (chuyển hoá thức ăn khó tiêu thành thức ăn dễ tiêu), nấm men (sản sinh vitamin và các axit amin). Các vi sinh vật trong chế phẩm EM tạo ra một hệ vi sinh thái, chúng hỗ trợ lẫn nhau, cùng sinh trưởng và phát triển, sống cộng sinh trong cùng môi trường. Có thể áp dụng chúng như là một chất cấy nhằm tăng cường tính đa dạng vi sinh vật đất, bổ sung các vi sinh vật có ích vào môi trường tự nhiên, giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường do các vi sinh vật có hại gây ra. Kết quả là có thể cải thiện chất lượng và làm tốt đất, chống bệnh do vi sinh vật và tăng cường hiệu quả của việc sử dụng chất hữu cơ của cây trồng.
2.2.1.5 Tại Trung Quốc, đã nghiên cứu giảm bớt chi phí trong xử lý ô nhiễm nước mặt. Hệ thống này dùng các bè nổi di động gọi là Restorer để cung cấp vi sinh vật hữu ích trong việc xử lý nước các con kênh bị ô nhiễm.
2.2.1.6 Tại Hoa Kỳ đang áp dụng phương pháp lọc nước thải để có thể sử dụng trong sinh hoạt: LosAngeles sẽ xây dựng một nhà máy tái chế 4,9 tỷ galong (khoảng 18,5 tỷ lít) nước thải xử lý đạt các tiêu chuẩn nước sạch vào năm 2019.
Ở quận Cam, California, sử dụng công nghệ cao nhất trên thế giới. Hệ thống này bắt đầu vận hành từ tháng 1/2008, tạo ra hơn 200 triệu lít nước mỗi ngày. Quy trình này gồm 3 giai đoạn: Nước thải từ cống được xử lý bởi cơ quan vệ sinh của hạt, sau đó cho chảy qua bộ vi lọc để loại bỏ các chất rắn và vi khuẩn. Tiếp theo là quy trình xử lý thẩm thấu ngược, khi đó, nước được chảy qua một màng lọc để loại bỏ vi rút, muối, các loại dược phẩm và nhiều chất khác. Cuối cùng, nước được xử lý bằng tia UV và H2O2 để tách các chất ô nhiễm. Sau đó nước được bơm vào bồn nước ngầm để trộn với nguồn nước khác và lọc bằng các vật liệu như cát, sỏi và đất sét; khoảng 1 năm nguồn nước này mới di chuyển được tới các giếng nước sạch.
2.2.2 Tình hình nghiên cứu về xử lý môi trường làng nghề Việt Nam
2.2.2.1 Đề tài KC 08 - 09: “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng các chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường ở các làng nghề Việt Nam”. Tiến hành trong 3 năm 2004 - 2006 do PGS.TS Đặng Kim Chi - Phó Viện trưởng Viện KH&CN Môi trường, Đại học Bách Khoa Hà Nội làm chủ nhiệm đã đưa ra những con số báo động về hiện trạng môi trường tại các làng nghề: 100% mẫu nước thải ở các làng nghề đều có thông số vượt quá tiêu chuẩn cho phép; nước mặt, nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm. Các làng nghề chăn nuôi, chế biến nông sản thực phẩm, dệt nhuộm... nước thải ở cống chung tại khu vực sản xuất chứa hàm lượng BOD5 (nhu cầu ôxy sinh hoá) rất cao, có khi lên tới 2.003 mg/lít, như làng nghề bún thôn Đoài (Bắc Ninh) hoặc hàm lượng COD (nhu cầu ôxy hoá học) cao gấp 3,2-8,93 lần so với tiêu chuẩn cho phép. Ở các làng tái chế kim loại, khí độc không qua xử lý được thải trực tiếp vào không khí như ở làng nghề tái chế chì Đông Mai (Hưng Yên), nồng độ chì vượt quá 2.600 lần tiêu chuẩn cho phép. Nghề thuộc da, làm miến dong ở Hà Tây cũng thường xuyên thải ra các chất như bột, da, mỡ làm cho nước nhanh bị hôi thối, ô nhiễm nhiều dòng sông chảy qua làng nghề. Nhiều làng nghề còn gây ra tiếng ồn và bụi vượt mức cho phép. Tình hình trên đã ảnh hưởng không ít đến sức khỏe của người dân làng nghề. Tỷ lệ mắc bệnh nhiều nhất liên quan đến hô hấp như viêm họng, viêm phổi chiếm 30,56%, viêm phế quản 25%, đau dây thần kinh chiếm 9,72%. Tại làng nghề tái chế chì Đông Mai, tỷ lệ người dân mắc bệnh về thần kinh chiếm khoảng 71%, bệnh về đường hô hấp chiếm khoảng 65,6% và bị chứng hồng cầu giảm chiếm 19,4%. Tại làng nghề sản xuất rượu Vân Hà (Bắc Giang) tỷ lệ người mắc bệnh ngoài da là 68,5% và các bệnh về đường ruột là 58,8%.
Tác giả cũng đưa ra định hướng tổng thể các chính sách nhằm phát triển bền vững làng nghề phù hợp hoàn cảnh Việt Nam, góp phần vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và đề xuất các giải pháp cải thiện môi trường các loại hình làng nghề phổ biến ở Việt Nam.
Ðề tài đã xây dựng bộ tài liệu hướng dẫn cải thiện môi trường cho các loại hình làng nghề điển hình; nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho cộng đồng tại các khu vực làng nghề thông qua mô hình trình diễn và các chương trình truyền thông; xây dựng phần mềm cơ sở dữ liệu và trang thông tin điện tử môi trường làng nghề cả nước, băng hình, áp-phích, tờ rơi, giúp cho công tác quản lý môi trường làng nghề; đề xuất hệ thống chính sách phù hợp mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường khu vực làng nghề.
2.2.2.2 Dự án “Xây dựng mô hình chăn nuôi lợn kết hợp với bảo vệ môi trường cho năng suất cao” do Viện Chăn nuôi thực hiện năm 2006 đã đạt kết quả tốt trong việc ứng dụng các giải pháp kỹ thuật tổng hợp vào xây dựng mô hình chăn nuôi nông hộ, kết quả đã giảm thiểu hàm lượng một số chỉ tiêu đặc trưng cho ô nhiễm môi trường từ 27,0- 63,45%; giảm tỷ lệ viêm phổi và tiêu chảy ở lợn con, viêm tử cung ở lợn nái, góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi và giảm giá thành/1 kg lợn con 2 tháng tuổi từ 5,83- 6,34%; mức giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khu vực chuồng nuôi và cải thiện năng suất chăn nuôi; nâng cao thu nhập cho người chăn nuôi.
2.2.2.3 Dự án “Chương trình Khí sinh học cho Ngành Chăn nuôi Việt Nam 2007 – 2011” do Cục Chăn nuôi, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổ chức hợp tác phát triển Hà Lan (SNV) thực hiện. Mục tiêu tổng thể của Dự án là góp phần phát triển nông thôn thông qua việc sử dụng công nghệ khí sinh học, xử lý chất thải chăn nuôi, cung cấp năng lượng sạch và rẻ tiền cho bà con nông dân, góp phần bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, tạo thêm công ăn việc làm ở nông thôn và giảm thiểu sử dụng nguyên liệu hoá thạch, giảm hiện tượng phá rừng và giảm phát thải khí nhà kính.
Dự án góp phần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình phát triển kinh tế trang trại, mở rộng chăn nuôi ở nhiều loại hình và quy mô, trong đó công nghệ khí sinh học có thể giúp xử lý phân chuồng và chất thải, đồng thời sản xuất ra nguồn năng lượng tái tạo từ quá trình xử lý chất thải. Ngoài ra, bã thải khí sinh học khi sử dụng đúng cách sẽ loại “phân hữu cơ” sạch và giàu dinh dưỡng giúp nâng cao năng suất, chất lượng rau, quả và cải tạo đất, kiểm soát sâu bệnh. Dự án gián tiếp góp phần vào xoá đói giảm nghèo, giảm chi phí lao động nội trợ và tạo việc làm hữu ích cho lao động nông thôn như thợ xây dựng, bảo hành, lắp đặt công trình, chăn nuôi và làm vườn.
Đến cuối năm 2007, dự án đã hỗ trợ xây dựng trên 37.000 công trình khí sinh học, đào tạo hơn 300 kỹ thuật viên tỉnh và huyện, 600 đội thợ xây khí sinh học và tổ chức hàng ngàn hội thảo tuyên truyền và tập huấn người sử dụng khí sinh học.
2.2.2.4 Chương trình Năng suất xanh tại Việt Nam
Từ năm 1998, Trung tâm Năng suất Việt Nam (VPC) thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng đã bắt đầu tiến hành thực hiện dự án điểm về Năng suất xanh thông qua việc thực hiện dự án SPE-GPDP-98-2058 do Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) tài trợ. Chính phủ Việt Nam chỉ đạo Trung tâm Năng suất Việt Nam tiến hành áp dụng dự án Năng suất xanh tại cộng đồng. Với sự hỗ trợ về tài chính và chuyên gia của APO, sự tham gia và ủng hộ tích cực của Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường các tỉnh, sự nỗ lực hết mình của các cán bộ VPC, các đơn vị nghiên cứu khoa học, kỹ thuật trong nước, và nhất là sự ủng hộ, đồng tình của những người đứng đầu địa phương cũng như của người dân nơi thực hiện dự án mà dự án đã được thực hiện rất thành công. Những kết quả thu được từ dự án là rất tích cực, được APO và các tổ chức năng suất quốc gia trong khu vực đánh giá rất cao. Chương trình thực hiện thành công ở 72 làng nghề trong toàn quốc, đã giúp người dân tại cộng đồng biết cách tổ chức, quản lý bảo vệ môi trường, triển khai áp dụng tiến bộ kỹ thuật và đóng góp kinh phí cho hoạt động này.
Các cộng đồng đều đã hình thành và duy trì được hoạt động của nhóm Năng suất xanh. Nhóm Năng suất xanh sẽ là nòng cốt trong phong trào Năng suất xanh, duy trì hoạt động của phong trào và nhân rộng qua các địa phương lân cận.
Hàng trăm khóa tập huấn cho các thành viên nhóm Năng suất xanh, cán bộ địa phương và cộng đồng về nhiều nội dung khác nhau như nhận thức chung về Năng suất xanh, cách thức triển khai áp dụng Năng suất xanh trong cộng đồng, quản lý chất thải rắn, quản lý nước thải và nước sinh hoạt, quản lý chất thải từ người và động vật... với hàng ngàn lượt người tham gia.
Sau một thời gian thực hiện dự án, hầu hết người dân đã nhận thức được vai trò của bản thân trong việc BVMT, tham gia tích cực vào các hoạt động BVMT tại địa phương. Chương trình vệ sinh theo định kỳ hoặc vào những ngày lễ, các sự kiện lớn ở cộng đồng được đông đảo người dân tham gia. Một số địa phương đã tiến hành xây dựng và áp dụng Qui ước BVMT.
Nhiều giải pháp Năng suất xanh được đưa ra và thực hiện nhằm giải quyết cơ bản các vấn đề đang bức xúc tại cộng đồng như nước sạch, chất thải rắn, chất thải từ người và động vật, phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật, nghề nghiệp và cuộc sống.
Năng suất xanh được áp dụng trong cộng đồng dân cư nông thôn, khu vực làng nghề, khu vực gần khu công nghiệp, tại các khu đô thị và cả trong công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là các ngành công nghiệp hiện đang có nhiều vấn đề về môi trường như ngành dệt nhuộm, ngành mạ điện, thực phẩm.
2.2.2.5 Dự án “Vận động xây dựng môi trường lành mạnh và vệ sinh tại các làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh vì quyền lợi của phụ nữ, trẻ em và người lao động” do Đại sứ quán Phần Lan tài trợ và Trung tâm Phát triển và Hội nhập thực hiện đã được triển khai tại hai làng nghề: làng nghề sản xuất sắt thép Đa Hội (xã Châu Khê, huyện Từ Sơn) và làng giấy Dương Ổ (xã Phong Khê, huyện Yên Phong) thực hiện từ năm 2006.
Mục tiêu của dự án là nhằm tăng cường trách nhiệm xã hội trong việc cải thiện môi trường sống, điều kiện làm việc và quan hệ lao động cho phụ nữ, trẻ em, người lao động nhập cư và cộng đồng tại các làng nghề ở Bắc Ninh.
Sau khi tổ chức hội thảo, tổ tự nguyện của 2 làng đã được thành lập bao gồm: đại diện chính quyền xã, thôn, các tổ chức đoàn thể như mặt trận tổ quốc, hội phụ nữ, đoàn thanh niên và đại diện các hộ sản xuất kinh doanh. Đây là lực lượng nòng cốt để triển khai các hoạt động của dự án. Dự án đã tiến hành ngay việc tập huấn cho tổ tự nguyện về các vấn đề pháp luật lao động, môi trường, xã hội và các kỹ năng tham vấn cộng đồng.
Để tăng cường nhận thức về điều kiện môi trường lao động và nâng cao năng lực tư vấn quản lý, dự án đã tổ chức các buổi đào tạo và tham vấn cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất của 2 làng về bảo vệ môi trường, sức khoẻ và an toàn, luật lao động, quan hệ lao động, cam kết vì quyền lợi của người lao động đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Dự án cũng đã tổ chức tham vấn cho lao động nữ với các nội dung về luật pháp lao động và sức khoẻ (Tư vấn về sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình và các biện pháp phòng tránh đại dịch HIV- AIDS). Khám sức khoẻ miễn phí cho gần 200 phụ nữ và trẻ em của 2 làng.
Đã nghiên cứu, khảo sát các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và người lao động tại 2 làng nghề để xác định hiện trạng, phân tích tình hình trước khi có những can thiệp nhằm giải quyết và xác định các đối tượng tiềm năng cho việc thực hiện thí điểm các thay đổi (về hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội và sáng kiến môi trường) và nâng cao nhận thức về các vấn đề về môi trường và lao động đang nổi cộm. Chính quyền địa phương, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất và cộng đồng đã có nhận._.g một nguồn tài nguyên quan trọng nữa của làng nghề đó là du lịch văn hoá. Phát triển làng nghề phải đi đôi với bảo tồn những giá trị truyền thống, những giá trị mà thiên nhiên ưu đãi để khai thác tổng hợp mọi lợi thế thúc đẩy các làng nghề ngày càng phát triển hơn.
4.4.1.4 Tổ chức sản xuất làng nghề để có điều kiện đổi mới công nghệ gắn với BVMT
Việc đổi mới công nghệ, từng bước hiện đại hoá, cơ khí hoá dây truyền sản xuất có vai trò quan trọng, nó không chỉ làm tăng năng suất lao động, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có vai trò làm tăng hiệu suất sử dụng nhiên liệu, giảm thiểu phát thải góp phần lamg giảm tình trạng ô nhiễm môi trường. Như vậy, quán triệt quan điểm này cần tổ chức sản xuất làng nghề để có điều kiện đổi mới công nghệ toàn diện, gắn việc đổi mới với bảo vệ môi trường thúc đẩy phát triển bền vững làng nghề.
4.4.1.5 Phát triển làng nghề trên cơ sở đa dạng hóa sinh học và BVMT
Trong những năm qua, tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề không những không giảm đi mà ngày một gia tăng. Môi trường nước, đất và không khí bị ô nhiễm nặng nề, sự đa dạng hoá sinh học bị xâm phạm nghiêm trọng. Nếu như trước đây, tỷ lệ ao hồ và cây xanh chiếm khoảng 35 – 40% diện tích của làng nghề thì ngày nay tỷ lệ này chỉ còn khoảng 5%. Tình trạng này làm mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người dân, tỷ lệ bệnh tật do ô nhiễm môi trường gây nên ngày càng cao. Với xu thế này, chắc chắn trong tương lai, các thế hệ sau sẽ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề mà không có cái giá nào của sự phát triển ngày trước có thể gánh chịu được. Do đó, phát triển làng nghề cần kết hợp với việc giảm hiểu ô nhiễm môi trường, từng bước khắc phục các sự cố do ô nhiễm môi trường gây nên. Việc áp dụng các biện pháp “sản xuất sạch hơn” và công nghệ sản xuất theo hướng “thân thiện với môi trường” là cần thiết và cấp bách, có như vậy mới đảm bảo sự phát triển bền vững của các làng nghề.
4.4.2 Định hướng phát triển làng nghề ở tỉnh Hải Dương
Từ những quan điểm trên, phát triển làng nghề ở Hải Dương trong những năm tới cần tập trung vào các hướng sau:
Một là: Củng cố các làng nghề hiện có, tập trung đầu tư phát triển và mở rộng các làng nghề có điều kiện phát triển tốt, bảo tồn và khôi phục các làng nghề cũ, các làng nghề có nguy cơ mai một. Tiếp tục quy hoạch và xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề theo ngành hàng và theo khu vực làng nghề. Cần có những chính sách nhằm phát triển các làng nghề hiện có, tập trung đầu tư vốn và khoa học kỹ thuật để thúc đẩy các làng nghề. Việc tập trung đầu tư nhằm hỗ trợ các làng nghề này phát triển có vai trò quan trọng, nó tạo nên những làng nghề mũi nhọn, những cụm làng nghề phát triển mạnh mẽ. Từ sức lan toả của các làng nghề nó góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương và giải quyết tốt các vấn đề xã hội khu vực nông thôn.
Đối với các làng nghề kém phát triển hoặc hoạt động cầm chừng, cần chọn lọc những làng nghề mà sản phẩm vẫn được người tiêu dùng chấp nhận và có cơ những chính sách ưu tiên hỗ trợ về thị trường, về vốn, về công nghệ sản xuất nhằm bảo tồn và phát huy có hiệu quả các làng nghề này. Bên cạnh việc phát triển, bảo tồn và khôi phục các làng nghề hiện có cần xây dựng và hình thành các làng nghề mới sản xuất những sản phẩm đang có nhu cầu cao và được thị trường ưa chuộng như vật liệu xây dựng, đồ thủ công mỹ nghệ...
Hình thành các cụm công nghiệp làng nghề theo ngành hàng và theo khu vực làng nghề có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy ngành nghề phát triển, việc quy hoạch tập trung sẽ là điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất hỗ trợ nhau trong quá trình thu gom nguyên liệu, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, mặt khác là điều kiện để nhận sự hỗ trợ mọi mặt của các đối tác liên quan nhất là việc xây dựng cơ sở hạ tầng, xử lý môi trường và đặc biệt là thu hút vốn đầu tư của các tổ chức trong và ngoài nước.
Hai là: Đầu tư về vốn và trang thiết bị kỹ thuật cho các làng nghề theo hướng kết hợp khoa học kỹ thuật hiện đại với công nghệ kỹ thuật truyền thống, tạo ra những sản phẩm tinh xảo giữ được bản sắc và hiệu quả sản xuất cho các làng nghề. Hiện tại, công nghệ sản xuất của các làng nghề vẫn là công nghệ truyền thống, tỷ lệ cơ khí hoá và tự động hoá trong sản xuất không cao, người thợ vẫn phải sử dụng đôi bàn tay là chính. Nhiều làng nghề thiết bị sản xuất chủ yếu là tự tạo, dây truyền sản xuất lạc hậu và đã qua thanh lý của các cơ sở công nghiệp, điều này đã làm cho năng suất thấp, hiệu suất sử dụng nguyên nhiên liệu không cao, gây ô nhiễm môi trường và không an toàn cho người lao động. Do đó việc đầu tư về vốn và công nghệ cho các làng nghề là cần thiết. Để thực hiện được điều này cần phải huy động vốn từ các nguồn vốn tự có của các hộ sản xuất kinh doanh trong làng nghề, vốn đầu tư từ ngân sách của địa phương, vốn vay của các tổ chức tín dụng, đồng thời phải khai thác triệt để các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài nhằm tranh thủ kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại để phát triển làng nghề tốt hơn.
Ba là: Phát triển làng nghề chú trọng giảm thiểu ô nhiễm môi trường và đa dạng hoá sinh học để thực hiện phát triển bền vững.
Để phát triển bền vững phải đảm bảo đồng thời phát triển về kinh tế, xã hội và môi trường. Với tình trạng ô nhiễm môi trường đang ngày càng một gia tăng tại các làng nghề hiện nay thì vấn đề bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học lại có vai trò quyết định trong việc thực hiện phát triển bền vững. Các chính sách phát triển làng nghề phải hướng tới việc đảm bảo cho môi trường trong sạch, giảm thiểu tình trạng phát thải vào môi trường nước, môi trường không khí và môi trường đất, đồng thời đảm bảo tính đa dạng hoá sinh học như ao hồ mặt nước, cây xanh, cảnh quan cho làng nghề.
4.4.4 Các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường, thúc đẩy phát triển các làng nghề ở tình Hải Dương
Qua phân tích thực trạng ô nhiễm môi trường và công tác quản lý nhà nước đối với vấn đề BVMT trong các làng nghề trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian qua. Đồng thời trên cơ sở đánh giá những thách thức mà phía nhà nước phải đối mặt trong quản lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề. Nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra Luận văn đề xuất một số giải pháp để tăng cường quản lý nhà nước đối với vấn đề ô nhiễm môi trường thúc đẩy phát triển bền vững các làng nghề trong những năm tới như sau:
4.4.4.1 Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhân dân về phát triển sản xuất làng nghề gắn với bảo vệ môi trường bền vững
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như Đài phát thanh - truyền hình tỉnh, Báo Hải Dương, Tạp chí Khoa học, công nghệ và môi trường, hệ thống Đài truyền thanh các huyện, thành phố, Đài truyền thanh xã, phường, thị trấn và các cuộc tập huấn kỹ thuật sản xuất, kiến thức phục vụ đời sống nhân dân ở cơ sở lồng ghép với nội dung phổ biến quan điểm của Đảng, Nhà nước và của tỉnh về phát triển làng nghề bền vững.
Thông qua Hội chợ triển lãm và trang thông tin điện tử của Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Kế hoạch - Đầu tư, Trung tâm Thông tin xúc tiến Thương mại – Du Lịch , trang thông tin địên tử của Sở khoa học và Công nghệ ... dễ tuyên truyền giới thiệu về tình hình sản xuất và sản phẩm do các làng nghề của tỉnh sản xuất.
Thông qua các đợt tuyên truyền nhân Tuần lễ Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường, ngày môi trường thế giới, chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn và các tài liệu tuyên truyền về vệ sinh môi trường nông thôn để nâng cao nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân về bảo vệ môi trường sống, trong đó có bảo vệ môi trường trong các làng nghề đang sản xuất.
Tổ chức tuyên truyền thông qua các tờ rơi, panô, áp phích và tổ chức tại cơ sở một số cuộc thi tìm hiểu về làng nghề và về môi trường sống. Tuyên truyền phổ biến các biện pháp thu gom, xử lý rác thải, nước thải.
4.4.4.2 Triển khai nội dung Luật BVMT năm 2006 trong công tác quản lý chống ô nhiễm môi trường ở các làng nghề ở tỉnh Hải Dương
Tính đến thời điểm này, Chính phủ đã ban hành 2 Nghị định về hướng dẫn thực hiện Luật BVMT năm 2006(Nghị định số 80 ngày 9/8/2006) và xử phạt hành chính trong lĩnh vực BVMT (Nghị định số 81 ngày 9/8/2006). Trên cơ sở Luật và Nghị định số 80, 81 để Luật BVMT năm 2006 đi vào cuộc sống và phát huy hiệu lực, giải pháp trước mắt là triển khai nội dung Luật và các văn bản trên theo đặc thù của Hải Dương, thể hiện:
Chỉ đạo các cấp, các ngành tham gia ý kiến để xây dựng và ban hành Quy chế BVMT mới thay thế cho Quy chế BVMT năm 2000/ Việc xây dựng quy chế mới cần tập trung theo hướng quan trọng sau:
- Trong Quy chế BVMT cần có những quy định cụ thể về hoạt động BVMT của từng khu vực như khu vực các làng nghề, khu vực các khu công nghiệp và cụm công nghiệp làng nghề, khu vực đô thị, khu vực nông thôn.
- Quy định rõ quyền lợi, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, của từng ngành, từng cấp và cơ chế phối kết hợp trong hoạt động BVMT như Sở tài nguyên và Môi trường là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc đánh giá hiện trạng, đề ra các giải pháp và tổ chức các hoạt động chống ô nhiễm, phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư thẩm định các dự án đầu tư trên phương diện môi trường, phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ trong việc nghiên cứu, triển khai các đề tài khoa học, các mô hình xử lý ô nhiễm; Sở Tài chính có trách nhiệm cân đối và bố trí ngân sách cho sự nghiệp BVMT, đồng thời có trách nhiệm giám sát việc thực hiện các nội dung chi đảm bảo chỉ chi cho hoạt động BVMT.
- Trên cơ sở Nghị định số 81 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực BVMT, trong Quy chế cần quy định các chế tài cụ thể, các mức phạt nghiêm khắc đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đồng thời cũng quy định các mức khen thưởng xứng đáng cho các tổ chức, cá nhân làm tốt công tác BVMT.
Lồng ghép BVMT vào trong các chủ trương, chính sách, kế hoạch và chiến lược phát triển KTXH của tỉnh.
Như trên đã đề cập, một tồn tại lớn trong công tác quản lý nhà nước về BVMT của Hải Dương là chưa đưa vấn đề BVMT vào các chủ trương, chính sách, các kế hoạch và chiến lược phát triển KTXH của tỉnh. Trong kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2006- 2010 được UBND tỉnh phê duyệt năm 2005, BVMT không được nhắc đến như một nhiệm vụ quan trọng, ngang hàng với các nhiệm vụ về kinh tế xã hội, nhiệm vụ BVMT chỉ được đề cập mờ nhạt ở những cụm từ phát triển bền vững. Điều này cho thấy BVMT vẫn chưa được quan tâm. Để thực hiện phát triển bền vững, chúng ta cần phải thực hiện đồng thời phát triển bền vững trên 3 lĩnh vực: kinh tế, xã hội và môi trường. Tức là nhiệm vụ BVMT phải được coi trọng như các nhiệm vụ về kinh tế và xã hội. Như vậy, cần lồng ghép BVMT vào trong các chủ trương, chính sách, Nghị quyết, kế hoạch và chiến lược phát triển của tỉnh, làm cơ sở pháp lý cho các hoạt động BVMT trong những năm tới.
4.4.4.3 Đầu tư trang thiết bị, đổi mới công nghệ và áp dụng khoa học và công nghệ để phát triển sản xuất hàng hoá của làng nghề
Khuyến khích các hộ sản xuất trong các làng nghề đổi mới công nghệ, gắn công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống, đổi mới và nâng cao trình độ quản lý, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hạ giá thành và nâng cao giá trị của sản phẩm làng nghề, tạo sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Gắn kết chặt chẽ giữa chuyển giao và đầu tư công nghệ, thiết bị mới vào sản xuất, gắn sản xuất với thị trường. Kết hợp hài hoà trình độ công nghệ tiên tiến với công nghệ cổ truyền, từng bước cơ giới hoá các khâu, các công đoạn sản xuất thủ công, chú ý quy mô sản xuất vừa phù hợp với trình độ quản lý của chủ hộ làm nghề. Đảm bảo đa dạng sản phẩm nhưng chú ý tới các sản phẩm mũi nhọn, truyền thống của làng nghề.
Các cơ quan tư vấn quản lý, tư vấn công nghệ ở tỉnh cần tiếp cận, tư vấn và hướng dẫn cho làng nghề về công nghệ mới, các biện pháp tổ chức sản xuất và chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, nhãn mác phù hợp với từng thị trường.
Sở Công nghiệp chủ trì kết hợp với các nhà khoa học, các nghệ nhân đề xuất các nội dung ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất. Đề xuất với Uỷ ban nhân dân tỉnh đưa ra kế hoạch khoa học và công nghệ hàng năm một số dự án, đề tài áp dụng tiến bộ khoa học và đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá làng nghề.
Các ngành Tài chính, Thuế, Ngân hàng cần tạo điều kiện cho các làng nghề vay quỹ hỗ trợ lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tín dụng, thế chấp và tín chấp vay vốn để nhập máy móc, thiết bị công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất.
4.4.4.4 Quy hoạch làng nghề của tỉnh và từng huyện, thành phố
Công tác quy hoạch về phát triển làng nghề của tỉnh có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết. Trong phần nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh, Báo cáo kiểm điểm hai năm rưỡi thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII xác định: “Khẩn trương hoàn thành quy hoạch và quy chế quản lý các cụm công nghiệp, làng nghề. Xây dựng mô hình phát triển công nghiệp nông thôn – làng nghề để làm cơ sở nhân rộng ra toàn tỉnh”.
Gắn phát triển làng nghề với quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của từng địa phương, tạo điều kiện để làng nghề phát triển đúng hướng, ổn định, phù hợp với mục tiêu kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài; tạo điều kiện để sản xuất của làng nghề hoà nhập với sản xuất chung của từng địa phương, hạn chế phát triển làng nghề tự phát, manh mún và cạnh tranh không lành mạnh.
Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các huyện, thành phố tập trung xây dựng quy hoạch ngành nghề, quy hoạch đất đai, ưu tiên giải quyết mặt bằng phù hợp cho các loại hình sản xuất trong làng nghề. Quy hoạch để các làng nghề hỗ trợ lẫn nhau nhằm phát triển. Quy hoạch phát triển sản xuất của làng nghề phải gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
4.4.4.5 Sử dụng các công cụ kinh tế để chống ô nhiễm môi trường làng nghề
Các công cụ kinh tế là biện pháp quan trọng và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với các vấn đề KTXH trong đó có vấn đề về môi trường. Kinh nghiệm thế giới cho thấy việc sử dụng các công cụ kinh tế đã góp phần quan trọng vào sự thành công của công tác BVMT. Sử dụng các công cụ kinh tế là biện pháp đơn giản để làm giảm ô nhiễm môi trường hơn là lập các kế hoạch cho phép với nhiều loại giấy tờ và biện pháp kỹ thuật phức tạp, khó áp dụng và cũng khó kiểm soát. Trong những năm tới cần đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn quản lý môi trường các loại thuế, phí BVMT; các cơ chế kỹ quỹ, đặt cọc, hoàn trả... cụ thể là:
- Xây dựng các quy định về thu thuế BVMT trên địa bàn tỉnh Hải Dương để điều tiết các đối tượng gây ô nhiễm môi trường sinh thái, chống việc chuyển giao và nhập khẩu công nghệ “bẩn” vào các làng nghề. Mở rộng đối tượng chịu thuế gồm tất cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường. Thuế sẽ được đánh bằng tỷ lệ phần trăm trên doanh thu hoặc trên chi phí, hoặc cũng có thể tính bằng số tuyệt đối theo nguyên tắc số thuếb phải nộp tương ứng hoặc cao hơn mức thiệt hại về môi trường do đối tượng gây ô nhiễm tạo ra. Đặc biệt, nguồn thu từ thuế môi trường phải được điều tiết theo tỷ lệ nhất định về Quỹ BVMT của tỉnh để bổ sung nguồn tài chính cho các dự án cải tạo và BVMT.
- Xây dựng chi phí sử dụng môi trường và tài nguyên: trả các khoản phí nước thải, khí thải, phí thu gom và xử lý chất thải rắn và các loại phí, lệ phí liên quan khác theo Danh mục chi tiết của Pháp lệnh phí và lệ phí.
- Định mức phí thích hợp trong khai thác và sử dụng nước ngầm.
- Ban hành chế độ miễn giảm các khoản thuế, phí môi trường đối với các cơ sở sản xuất các sản phẩm, mặt hàng ít gây ô nhiễm và đối với những cơ sở đã thực hiện tốt nghĩa vụ BVMT của mình.
- Tăng cường sử dụng các biện pháp như ký quỹ môi trường, hệ thống đặt cọc- hoàn để chống ô nhiễm môi trường, nhất là đối với những cơ sở sản xuất lớn, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
4.4.4.6 Hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật để bảo vệ môi trường làng nghề
Bảo vệ môi trường là hoạt động đòi hỏi chi phí lớn và lâu dài thường là quá khả năng đầu tư của các cơ sở sản xuất và của các làng nghề. Nhà nước với vai trò và chức năng của mình cần đứng ra hỗ trợ để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường.
Với các làng nghề ở Hải Dương, năng lực tài chính có hạn trong khi đó để đầu tư một dây truyền xử lý ô nhiễm thường rất tốn kém, thêm vào đó là trình độ khoa học tại các cơ sở sản xuất trong làng nghề còn hạn chế, chưa có công nghệ để xử lý ô nhiễm. Những lý do này đòi hỏi chính quyền địa phương phải đứng ra hỗ trợ về mặt tài chính và các giải pháp công nghệ cho việc BVMT tại các làng nghề.
* Hỗ trợ về tài chính:
Thực hiện hỗ trợ về tài chính cho hoạt động BVMT thông qua các giải pháp cụ thể, đó là:
Huy động nguồn tài chính cho BVMT làng nghề qua các kênh:
- Huy động vốn vay của Quỹ BVMT quốc gia để có kinh phí cho BVMT làng nghề. Quỹ BVMT quốc gia đã trở thành địa chỉ tin cậy của giới đầu tư BVMT trong cả nước và các đối tác quố tế, thông qua việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho công tác BVMT, chủ yếu vào các lĩnh vực xử lý chất thải rắn, nước thải công nghiệp, làng nghề, góp phần đưa nguồn của Nhà nước thực hiện các dự án môi trường hiệu quả.
- Khuyến khích các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các tổ chức tín dụng khác tham gia vào việc cung cấp tài chính cho BVMT.
- Huy động sự tham gia của các doanh nghiệp cào việc đầu tư nguồn lực cho các hoạt động BVMT, áp dụng các chính sách khuyến khích đầu tư BVMT như giảm thuế nhập khẩu thiết bị BVMT, giá đất ưu đãi cho khu kỹ nghệ xử lý chất thải, tín dụng lãi suất thấp cho vay đối với các công trình xử lý rác thải.
- Huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, tranh thủ các nguồn tài trợ của Quỹ Môi trường toàn cầu, khuyến khích các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nguồn ODA dành cho đầu tư BVMT của tỉnh và của làng nghề.
Thành lập Quỹ BVMT của tỉnh:
Thành lập quỹ BVMT của tỉnh nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư xây dựng các mô hình xử lý ô nhiễm trên địa bàn, tập trung cho xử lý ô nhiễm môi trường trong các làng nghề. Quỹ BVMT lấy nguồn kinh phí hoạt động từ thuế, phí BVMT, từ ngân sách nhà nước, từ các nguồn đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, vốn vay từ Quỹ BVMT quốc gia... Nhằm đảm bảo tính hiệu quả đồng vốn đầu tư của Quỹ, thực hiện mục tiêu chỉ hỗ trợ cho những dự án về BVMT, các dự án xây dựng công trình xử lý chất thải, các dự án đa dạng hoá sinh học, đặc biệt đối với các dự án BVMT làng nghề.
Hỗ trợ cho các dự án đầu tư BVMT của khu vực tư nhân thông qua các hình thức cụ thể như: hỗ trợ trực tiếp về tài chính, cho vay tín dụng với lãi suất vay thấp và không cần thế chấp, miễn giảm các khoản thuế môi trường và phí BVMT; tuỳ theo mức độ hiệu quả của công nghệ xử lý ô nhiễm mà có chính sách miễn giảm các khoản thuế cho doanh nghiệp như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp.
* Hỗ trợ về các biện pháp kỹ thuật
Thứ nhất: Đầu tue xây dựng các mô hình xử lý triệt để ô nhiễm môi trường tại các làng nghề.
Mục tiêu trước mắt là cần phải ngăn chặn và xử lý ngay các khu vực, các cơ sở sản xuất ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tiếp đến là phòng ngừa ô nhiễm, từng bước nâng cao chất lượng môi trường làng nghề. Để thực hiện mục tiêu này, các cấp chính quyền cân đầu tư ngân sách cho hoạt động nghiên cứu các mô hình xử lý chất thải, đầu tư xây dựng các công trình BVMT cho các cơ sở sản xuất và làng nghề. Tiến hành các giải pháp như đánh giá lại các mô hình, tuyển chọn những mô hình hiệu quả để nhân rộng và áp dụng rộng rãi cho cả làng nghề; đầu tư xây dựng các công trình xử lý ô nhiễm tập trung cho cả làng nghề nhằm tăng tính hiệu quả xử lý vàgiảm thiểu chi phí đầu tư cho cả phía nhà nước và nhân dân.
Đối với những làng nghề mà khả năng xây dựng mô hình xử lý ô nhiễm tập trung gặp nhiều khó khăn thì biện pháp là yêu cầu các chủ cơ sở phải xây dựng các hạng mục cho việc xử lý ô nhiễm tại cơ sở của mình, phân loại rác thải trước khi phát tán ra môi trường, tránh tình trạng chỉ chú trọng đến các hạng mục cho sản xuất mà bỏ qua trách nhiệm BVMT.
Thứ hai: Thành lập tổ tư vấn sản xuất theo hướng sản xuất sạch hơn
Sản xuất sạch hơn là một trong những biện pháp BVMT hiệu quả và ngày càng có vai trò quan trọng trong hệ thống các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường thúc đẩy phát triển bền vững. Đối với sản xuất của làng nghề, đặc trưng là quy mô sản xuất nhỏ, nguồn vốn hạn hẹp, năng suất và hiệu suất thấp, mức độ phát thải cao thì áp dụng các biện pháp sản xuất sạch hơn là cần thiết. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp sản xuất sạch hơn ở các làng nghề trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện còn mới mẻ, người dân đã quen với các phương pháp sản xuất truyền thống, chưa có điều kiện tiếp cận và ứng dụng phương pháp này. Để khắc phục tình trạng này, UBND tỉnh cần chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Khoa học và Công nghệ thành lập tỏ tư vấn về sản xuất sạch hơn. Hoạt động của Tổ tư vấn này theo cơ chế của đơn vị sự nghiệp công ích, được ngân sách nhà nước bảo đảm về kinh phí hoạt động. Tổ tư vấn có trách nhiệm nghiên cứu các mô hình đơn giản, hiệu quả cao và rẻ tiền để các hộ tư nhân có thể áp dụng, tuyên truyền, phổ biến cho các cơ sở sản xuất về lợi ích của phương pháp sản xuất sạch hơn, đồng thời có trách nhiệm hướng dẫn và giám sát việc triển khai áp dụng.
4.4.4.7 Các biện pháp cải thiện môi trường cho các loại hình làng nghề
* Các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm:
Đối với nguồn nước thải do làm nghề và chăn nuôi gia súc, gia cầm của làng nghề bị ô nhiễm, cần tiến hành khơi thông cống rãnh thoát nước chung của làng, khu dân cư và cải tạo hệ thống thu gom nước thải. Thu gom và xử lý nước thải kết hợp xử lý sinh học và tự nhiên. Tuyên truyền, tổ chức tập huấn kỹ thuật cho cán bộ cơ sở và chủ hộ sản xuất về tác dụng và kỹ thuật và vận động nhân dân xây dựng hầm biogas để xử lý nước thải trong quá trình sản xuất và nước thải, phân gia súc, gia cầm trong chăn nuôi ngăn ngừa ô nhiễm môi trường ở làng nghề.
Chất thải rắn hữu cơ phải được quản lý, thu gom đổ vào khu chứa rác tập trung và xử lý triệt để, không đổ bừa bãi ra ao hồ hoặc bãi ven sông, ven đường giao thông.
Cải tạo hệ thống lò đốt có sử dụng than đá, than bùn giảm khí độc hại trong quá trình sản xuất và giảm hơi nóng toả ra môi trường xung quanh.
* Đối với làng nghề sấy nông sản:
Nhân rộng mô hình tổ năng suất xanh đã được xây dựng ở thôn Mạn Đê, xã Nam Trung, huyện Nam Sách ra các làng nghề. Mô hình do Trưởng thôn làm tổ trưởng, tổ viên gồm các xóm trưởng, đại diện các tổ chức Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, các doanh nhân ở địa phương, xây dựng nội dung, quy chế hoạt động của tổ để giao cho các nhóm Năng suất xanh thực hiện. Hướng dẫn các hộ gia đình xây dựng chuồng chăn nuôi gia súc, gia cầm và hố xí hợp vệ sinh. Tổ chức các buổi tập huấn về hầm khí Biogas, thu gom xử lý nước thải, rác thải, bảo vệ môi trường làng nghề gắn với sản xuất và chế biến; tổ chức tuyên truyền về bảo vệ môi trường dưới nhiều hình thức: thi sáng tác thơ, ca, kịch, chèo, bút ký, phóng sự, tranh ảnh, khẩu hiệu, panô, áp phích... Khai thông rãnh thoát nước, xây dựng hầm biogas, xây các bể xi măng để thu gom thuốc bảo vệ thực vật, thu gom rác, xử lý rác thải từ thôn ra bãi chung, thực hiện vệ sinh môi trường từ trong nhà cho đến đường thôn, ngõ xóm.
* Đối với các làng nghề dệt chiếu, mây tre đan:
Áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước và không khí. Thu gom, xử lý hoá chất thừa trong quá trình in hoa chiếu va các sản phẩm làm từ cói, mây và tre đan. Hạn chế sử dụng diêm sinh trong sấy bảo quản nguyên liệu và sản phẩm mây tre đan để giảm thiểu ô nhiễm môi trường và loại bớt khả năng ảnh hưởng tới sức khoả của người làm nghề. Thực hiện các biện pháp hạn chế tiếng ồn, thực hiện thông thoáng nơi sản xuất để hạn chế tác động của bụi hô hấp.
* Đối với các làng nghề mộc:
Có các biện pháp bảo hộ lao động để tạo sự an toàn cho người lao động trong quá trình sản xuất. Đưa các biện pháp giảm tiếng ồn, giảm bụi trong không khí nơi đặt máy cưa, máy bào. Cần có quy hoạch đưa nơi sản xuất có nhiều tiếng ồn và bụi ra xa khu dân cư. Các phế liệu như phoi bào, mùn cưa, gỗ vụn ngoài việc dùng vào đun nấu, số còn lại không tận dụng được cần thu gom đổ vào nơi chứa rác tập trung và cần xử lý để chóng phân huỷ, giảm diện tích chứa rác.
Đối với sơn, thuốc nhuộm và thuốc đánh bóng gỗ thừa cần được thu gom tập trung và xử lý trước khi đổ vào hệ thống thoát nước thải chung của làng nghề và khu dân cư.
* Đối với làng nghề cơ khí:
Có các biện pháp giảm thiểu tiếng ồn, thu gom, xử lý cặn sơn, dầu mỡ thừa trước khi đổ nước thải vào hệ thống thoát nước chung. Thu gom và có biện pháp xử lý chất thải rắn đặc biệt là các chất thải rắn kim loại khó phân huỷ cần được phân loại và có biện pháp tái chế hoặc tiêu huỷ, không tuỳ tiện để vào khu vực chứa rác thải chung.
* Đối với làng nghề mỹ nghệ kim hoàn:
Do các thành phần CN và Hg không đạt tiêu chuẩn cho phép, gây ô nhiễm môi trường cho nên cần có biện pháp thu gom CN và Hg thừa trong quá trình làm nghề, không đổ thẳng vào hệ thống thoát nước. Ngoài ra các hoá chất sử dụng trong quá trình chế tác vàng bạc và phân kim cần được thu gom và xử lý trước khi thải vào hệ thống thoát nước chung.
* Đối với làng nghề đục đá:
Cần có biện pháp giảm bụi và tiếng ồn, hướng dẫn người lao động cần thực hiện các biện pháp bảo hộ lao động để ngăn ngừa bụi trong quá trình làm nghề để tránh ảnh hưởng đến sức khoẻ, đặc biệt là bệnh đường hô hấp và bệnh do tiếng ồn gây ra.
PHẦN V - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1 Kết luận
Cũng như ở nhiều nước đang phát triển, tăng trưởng kinh tế nhanh ở Việt Nam trong hơn một thập kỷ qua đã làm tăng sức ép đối với môi trường sống. Nhằm mục tiêu giảm thiểu những tổn hại do hoạt động kinh tế gây ra, Nhà nước đã có những nỗ lực lớn trong việc thực thi các biện pháp bảo vệ môi trường, dần hoàn thiện hệ thống khuôn khổ luật pháp, chính sách cho hoạt động quản lý nhà nước đối với BVMT. Công tác quản lý nhà nước về vấn đề môi trường cũng đã gặt hái được những thành công nhất định, từng bước khắc phục và đẩy lùi tình trạng ô nhiễm môi trường trên phạm vi cả nước, trong đó có các làng nghề ở Hải Dưong.
Trong khuôn khổ luận văn, với mục đích nghiên cứu đã xác định, luận văn đã làm rõ những nội dung cơ bản sau:
1. Hệ thống hoá, làm rõ những vấn đề lý luận về làng nghề, tiêu chí nhận diện một làng nghề phát triển bền vững và vai trò của làng nghề trong sự phát triển KTXH của địa phương; về môi trường, về phát triển bền vững; về tính tất yếu phải quản lý nhà nước đối với vấn đề BVMT và các công cụ nhà nước để quản lý ô nhiễm môi trường.
2. Tìm hiểu những kinh nghiệm về BVMT và sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý ô nhiễm môi trường của các nước trên thế giới và một số tỉnh lân cận từ đó làm cơ sở để đề ra các giải pháp cho Hải Dương.
3. Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề ở Hải Dương trong thời gian qua, đồng thời đánh giá hiện trạng và nguyên nhân cảu tình trạng ô nhiễm môi trường trong các làng nghề.
4. Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý hnà nước cảu Hải Dương về môi trường và BVMT tại các làng nghề Luận văn đã nêu rõ những kết quả đạt được và những tồn tại cần khắc phục trong thời gian tới cho công tác quản lý nhà nước đối với vấn đề BVMT.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và hình ảnh trong luận văn hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Nguyễn Văn Công
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Song đã định hướng, chỉ bảo, dìu dắt tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn đối với tất cả các thầy cô giáo Viện Sau đại học, Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn cùng tất cả các thầy cô giáo trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các ban ngành tỉnh Hải Dương và các cơ sở sản xuất làng nghề đã cung cấp số liệu khách quan, tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Cuối cùng với lòng biết ơn sâu sắc nhất xin dành cho gia đình, bạn bè đã giúp đỡ rất nhiều về vật chất và tinh thần để bản thân hoàn thành chương trình học tập cũng như đề tài nghiên cứu.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2009.
Tác giả
MỤC LỤC
5.1 Kết luận 109
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BVMT Bảo vệ môi trường
BQ Bình quân
CC Cơ cấu
CN Công nghiệp
CBNSTP Chế biến nông sản thực phẩm
CBLT Chế biến lương thực
CN&XDCB Công nghiệp và xây dựng cơ bản
DT Diện tích
ĐVT Đơn vị tính
LĐ Lao động
NĐ-CP Nghị định – Chính phủ
NN Nông nghiệp
UBND Uỷ ban nhân dân
SL Số lượng
QLNN Quản lý nhà nước
KT – XH Kinh tế xã hội
NSX Năng suất xanh
KH&CN Khoa học và công nghệ
LN Làng nghề
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
GTSX Giá trị sản xuất
NTTS Nuôi trồng thuỷ sản
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Phân bố số lượng làng nghề Việt Nam 20
Bảng 2.2: So sánh một số công cụ kinh tế với công cụ pháp lý áp dụng cho chính sách quản lý môi trường. 27
Bảng 3.1: Tình hình đất đai của tỉnh Hải Dương năm 2006- 2008 51
Bảng 3.2: Tình hình lao động tỉnh Hải Dương năm 2006- 2008 54
Bảng 3.3: Tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế của tỉnh qua 3 năm (2006 – 2008) 58
Bảng 3.4: Danh sách các làng nghề được điều tra 61
Bảng 4.1: Tình hình phân bố làng nghề trên địa bàn tỉnh Hải Dương 66
Bảng 4.2: Số hộ và lao động trong làng nghề Hải Dương năm 2008 67
Bảng 4.3: Giá trị sản xuất của các làng nghề ở Hải Dương 68
Bảng 4.4: Mức độ ô nhiễm môi trường của các làng nghề cơ khí 74
Bảng 4.5: Chất lượng nước mặt tại làng nghề rượu Phú Lộc 76
Bảng 4.6: Chất lượng nước thải làng nghề giầy da 77
Bảng 4.8: Chất lượng môi trường không khí làng nghề gỗ Đông Giao 79
Bảng 4.7: Chất lượng nước thải tại làng nghề Đông Giao 81
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHKT09070.doc