Biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không ở Công ty XNK hàng không (AIRIME)

Lời Mở đầu N gày nay với tốc độ hát triển nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu, thì ngành vận tải hàng không ngày càng đóng góp một phần quan trọng và không thể thiếu được trong sự nghiệp phát triển đó. Hàng không dân dụng Việt Nam - với lợi thế là một ngành kinh tế - thuật được trang bị và khai thác các phương tiện ở trình độ công nghệ tiên tiến, đã và đang từng bước khẳng định vai trò là một ngành kinh tế mũi nhọn, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong nhữ

doc112 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không ở Công ty XNK hàng không (AIRIME), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng năm qua, cùng với công cuộc đổi mới và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, ngành Hàng không dân dụng Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc cả về lượng và chất. Chỉ trong 10 năm cuối thế kỷ XX khối lượng vận chuyển của Hàng không dân dụng Việt Nam đã tăng lên 10 lần, với tốc độ tăng trưởng bình quân/năm có giai đoạn bằng 3,5 lần GDP trong cùng thời kỳ. Các mối quan hệ hàng không song phương và đa phương không ngừng được thiết lập và mở rộng... Theo xu thế phát triển này, việc phát triển một ngành công nghiệp hàng không trong tương lai được ngành Hàng không dân dụng Việt Nam xác định là một nhiệm vụ cấp bách bởi trong thời gian tới nhu cầu về các trang thiết bị, phụ tùng chuyên ngành sẽ là rất lớn. Công ty xuất nhập khẩu Hàng không là một đơn vị kinh tế được thành lập với chức năng chủ yếu là nhập khẩu vật tư, kỹ thuật chuyên ngành, phục vụ cho sự phát triển của ngành Hàng không. Từ một phòng vật tư - kỹ thuật của Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam trực thuộc Bộ quốc phòng, công ty đã phát triển trở thành một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh xuất nhập khẩu, một đơn vị thành viên của Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Hoạt động xuất nhập khẩu của công ty đã đáp ứng được nhu cầu và góp phần hiện đại hoá trang thiết bị cho ngành Hàng không, đóng góp tích cực vào sự phát triển của ngành Hàng không trong những năm qua. Song bên cạnh những thành công đáng kể đó công ty vẫn còn bộc lộ một số yếu kém, tồn tại trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Nhận thức được tầm quan trọng của nhập khẩu trang thiết bị cho ngành Hàng không, cùng mong muốn góp phần giúp công ty khắc phục được những yếu kém, tồn tại trong công tác nhập khẩu, với những kiến thức sau bốn năm học tập tại trường và sau ba tháng thực tập tại công ty, được sự giúp đỡ của thầy giáo Nguyễn Quang Huy và các cán bộ của công ty, em đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không ở công ty XNK hàng không(AIRIME)” để hoàn thành chuyên đề thực tập với các vấn đề dự định nghiên cứu như sau: Về mặt lý thuyết hoạt động nhập khẩu bao gồm những vấn đề gì ? Thực trạng hoạt động nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Hàng không có đặc điểm gì nổi bật ? Những điểm mạnh và yếu trong hoạt động nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Hàng không ? Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu để thực hiện mục tiêu và phương hướng phát triển của công ty. Với mục đích làm rõ những vấn đề nêu trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề có kết cấu gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh XNK Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không tại công ty XNK hàng không (AIRIMEX) Chương III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không Trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của một sinh viên còn hạn chế chắc chắn đề tài không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong các thầy cô giáo, các cán bộ, nhân viên của công ty xuất nhập khẩu Hàng không và các bạn sinh viên quan tâm đến đề tài, giúp đỡ để có điều kiện hoàn thiện và nghiên cứu đề tài sâu hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, ngày 02/ 05/ 2000 Sinh viên thực hiện Trần thị thái trang Chương I Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh Xuất nhập khẩu I. Vai trò của nhập khẩu đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước 1. Khái niệm nhập khẩu. Nền kinh tế hàng hoá đang phát triển ở trình độ cao chưa từng có, kéo theo nó là sự phát triển không ngừng của các hình thức trao đổi và lưu thông cũng như sự phát triển của phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Không chỉ giới hạn trong từng vùng, từng quốc gia riêng rẽ mà xu thế mở cửa và khu vực hoá - quốc tế hoá đời sống kinh tế đã nâng cao hình thức trao đổi và lưu thông hàng hoá ở mức cao hơn hiện đại hơn. Điều đó cũng có nghĩa là việc mua bán hàng hoá đã vượt biên giới quốc gia. Có thể nói đây chính là hình thức của các mối kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia. Cùng với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu rộng, nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ ngày càng tăng, đã khiến cho sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ. Vì vậy, nếu có một quốc gia nào không muốn tham gia vào quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới thì tất yếu sẽ rơi vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, thiếu thốn và kém phát triển. Đó là sự tồn tại khách quan của thương mại quốc tế. Lợi ích lớn nhất của thương mại quốc tế là cho phép một quốc gia tiêu dùng nhiều hơn so với đường giới hạn khả năng sản xuất. Thương mại quốc tế bao gồm hoạt động kinh doanh xuất và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Đó là công cụ để giúp các quốc gia hoà nhập với sự phát triển chung của nhân loại, đẩy nhanh sự phát triển của đất nước và văn minh xã hội. Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Đó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục đích lợi nhuận, đẩy mạnh sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Để đi đến một định nghĩa chính xác về thế nào là nhập khẩu thì có lẽ không phải là vấn đề đặt ra ở đây, mà theo quan điểm hiện nay, chúng ta có thể hiểu hoạt động nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá, dịch vụ theo các quy tắc của thị trường quốc tế để phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái xuất khẩu nhằm mục đích thu lợi nhuận. Hoạt động nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc gia đối với nền kinh tế thế giới. Trong một giới hạn nhất định nó có thể quyết định tới sự sống còn đối với một nền kinh tế, nhất là khi nền kinh tế của các quốc gia đã thống nhất trong một cơ chế chung. 2. Vai trò của nhập khẩu trong nền kinh tế. Xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm hoà nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Do đó, chúng là những hoạt động kinh tế đối ngoại dễ đem lại hiệu quả đột biến cao song cũng có thể gây thiệt hại rất lớn vì nó phải đương đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể tham gia không dễ gì khống chế được. Nhập khẩu là một hoạt động của thương mại quốc tế, cùng với xuất khẩu nó tác động trực tiếp và quyết định tới sản xuất, đời sống của mỗi quốc gia. Trong điều kiện kinh tế thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ và điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, nhập khẩu giữ một vai trò quan trọng thể hiện ở các khía cạnh sau: + Nhập khẩu cùng với xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Về mặt lý luận, để thấy rõ được quan điểm này chúng ta sẽ tìm hiểu khái quát một số lý thuyết của các nhà kinh tế học. Lý thuyết về lợi thế tương đối của David Ricado: “Các nước hay cá nhân nếu muốn chuyên môn hoá trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương đối thấp hơn và nhập khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương đối cao hơn thì sẽ có lợi ích kinh tế lớn hơn.” Học thuyết Hecsher-Ohlin: Bản chất của học thuyết này được căn cứ vào sự khác biệt về tính phong phú và giá cả tương đối cuả các yếu tố sản xuất để quy về sự khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá, sau đó sẽ được chuyển thành sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá. Học thuyết này được phát biểu như sau: “ Một nước sẽ xuất khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ở nước đó”. Lý thuyết lợi thế nhờ quy mô: Theo lý thuyết này thì chi phí sản xuất thực tế được đánh giá dưới hình thức nguồn lực sẽ giảm xuống khi quy mô tăng lên. Do vậy: “ Một nước sản xuất sẽ hiệu quả khi chuyên môn hoá sản xuất theo quy mô lớn những mặt hàng nào đó để xuất khẩu đồng thời nhập khẩu những sản phẩm mà nước khác chuyên môn hoá. Nhờ có nhập khẩu mà một quốc gia có thể tiêu dùng vượt ra khỏi khả năng sản xuất của chính họ. Trên thực tế, chúng ta thấy mỗi quốc gia có nhu cầu tiêu dùng rất đa dạng, phong phú và luôn biến đổi, trong khi đó khả năng sản xuất lại bị hạn chế bởi nhiều yếu tố như: điều kiện tự nhiên, khả năng về nguồn vốn và công nghệ, chính sách kinh tế xã hội của từng thời kỳ... nên nhiều khi đã làm cho sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhờ có hoạt động nhập khẩu đã làm cho cơ cấu hàng hoá lưu thông trên thị trường trở nên phong phú hơn, với đủ quy cách chất lượng, chủng loại, mẫu mã đẹp và đa dạng. Vì vậy nhu cầu của nhân dân trong nước được thoả mãn ở mức độ cao hơn, đặc biệt là với những mặt hàng mà sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng được. Bên cạnh đó nhập khẩu cũng tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa hàng nội và hàng nhập, sự thanh lọc các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và sự cố gắng vươn lên của các doanh nghiệp nôị địa. Do đó nhập khẩu sẽ xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng, chế độ tự cung tự cấp. Mặt khác hoạt động nhập khẩu còn góp phần cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động thông qua việc nhập khẩu các công cụ lao động, phương tiện tiên tiến và an toàn cho người lao động. + Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH: Về cơ bản nền kinh tế nước ta vẫn là một nền kinh tế với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn và lạc hậu, đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, mà thực chất là đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tham gia vào các mối quan hệ kinh tế quốc tế cùng có lợi với tất cả các nước trên thế giới và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho một cơ cấu kinh tế mới, năng động, hiệu quả. Việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế tất yếu phải thông qua con đường nhập khẩu. Trong thời đại ngày nay, thời đại của cách mạng khoa học kỹ thuật, nhân loại đã đạt được những thành tựu vô cùng vĩ đại. Vì thế để phục vụ và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, ngoài việc phát huy một cách có hiệu quả những lỗ lực của đất nước, chúng ta đã và đang tân dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học kỹ thuật trên thế giới. Giải pháp cơ bản để thực hiện mục đích này là tạo điều kiện hình thành các liên doanh và xây dựng chiến lược nhập khẩu các công nghệ, sáng kiến phát minh phù hợp nhằm tranh thủ vốn, kỹ thuật tiên tiến, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá - hiên đại hoá. Thương mại quốc tế chỉ ra và xác định rõ cho một nước biết đâu là lợi thế của mình, chỉ ra hướng đi phải đầu tư vào và vào lĩnh vực nào là có lợi nhất. Việc nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ hiện đại sẽ là nhân tố giúp chúng ta giải quyết những vướng mắc mà các nước kém phát triển hiện nay đang gặp phải. Đó thực chất là việc vay mượn công nghệ nước ngoài trong thời gian đầu của quá trình công nghiệp hoá. Từ đó chúng ta sẽ từng bước học tập và tìm cách cải tiến những máy móc kỹ thuật đã có và sản xuất với hiệu quả cao hơn. Song để có thể phát huy đối đa vai trò của nhập khẩu đối với quá trình CNH - HĐH, vấn đề đặt ra đối với các nhà nhập khẩu là phải biến hoạt động nhập khẩu trở thành phương tiện kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. + Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế, giải quyết tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu về hàng hoá. Quan hệ cung cầu của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới không phải bao giờ cũng cân bằng, mà nó còn chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó có cả chủ quan, có cả khách quan gây ra những thay đổi bất thường về phía cung, cầu làm cho mức cung không thể đáp ứng được nhu cầu trong nước và ngược lại. Lấy ví dụ trong điều kiện nước ta hiện nay, để phục vụ cho mục tiêu kinh tế, tránh tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới nhu cầu máy móc thiết bị kỹ thuật tiên tiến đang trở thành một nhu cầu rất lớn đối với chúng ta, tuy việc cung cấp những loại hàng hoá này là không thể thực hiện được. Thông qua hoạt động nhập khẩu, sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu sẽ được khắc phục. Nghĩa là nó giúp cho quá trình sản xuất và tiêu dùng được diễn ra một cách ổn định và thường xuyên. Những loại hàng hoá thường nhập khẩu là hàng hoá thiết yếu, nguyên vật liệu chính phục vụ cho sản xuất và các máy móc, sáng kiến công nghệ giúp cho sản xuất trong nước phát triển nâng cao năng suất lao động đa dạng hoá các loại sản phẩm hàng hoá. Cùng với việc tăng cung trong nước, nhập khẩu còn có tác dụng là một nhân tố ổn định giá cả thị trường, hạn chế tình trạng leo thang của giá cả bằng cách tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh buộc các doanh nghiệp nội địa muốn tồn tại và lớn mạnh phải quan tâm đến chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. + Ngoài ra nhập khẩu còn có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu góp phần nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu. Tóm lại : Về cả phương diện lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy nhập khẩu có vai trò rất quan trọng đối với mọi nền kinh tế và thực tế thời gian đã chứng minh tính ưu việt của nền kinh tế thị trường cũng như khẳng định vai trò của nhập khẩu. 3. Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu Hoạt động nhập khẩu là hoạt động phức tạp so với hoạt động kinh doanh trong nước. Những đặc điểm chủ yếu của hoạt động nhập khẩu bao gồm: - Hoạt động nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật như điều ước quốc tế về ngoại thương, luật quốc gia của các nước hữu quan, tập quán thương mại quốc tế. - Các phương thức giao dịch mua bán trên thị trường quốc tế rất phong phú đó là: Giao dịch thông thường, giao dịch qua trung gian, buôn bán đối lưu, giao dịch tại hội chợ triển lãm... - Mọi hoạt động nhập khẩu hàng hoá đều phải được tiến hành thông qua hợp đồng kinh tế. - Phương thức thanh toán đa dạng như: Phương thức nhờ thu, phương thức thanh toán bằng hàng đổi hàng, phương thức tín dụng chứng từ đây là phương thức phổ biến nhất nước ta hiện nay. - Tiền tệ dùng trong thanh toán thường là ngoại tệ mạnh có sức chuyển đổi cao. - Điều kiện cơ sở giao hàng: Có rất nhiều hình thức nhưng phổ biến nhất là nhập khẩu theo điều kiện FOB, CIF... - Kinh doanh nhập khẩu là kinh doanh trên phạm vi quốc tế nên địa bàn rộng, thủ tục phức tạp, thời gian thực hiên lâu... - Kinh doanh nhập khẩu phụ thuộc vào kiến thức kinh doanh, trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ ngoại thương, sự nhanh nhạy nắm bắt thông tin. - Trong hoạt động nhập khẩu có thể xảy ra những rủi ro thuộc về hàng hoá. Để đề phòng rủi ro, có thể mua các loại bảo hiểm tương ứng. Chi phí bảo hiểm có thể do đơn vị nhập khẩu hay người bán trả tuỳ thuộc vào những điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng. II. Nội dung hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh XNK Hoạt động nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ có phạm vi hoạt động rộng hơn nhiều so với việc mua bán hàng hoá trên thị trường nội địa, đó là phạm vi hoạt động trên thị trường thế giới nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống kinh tế. Chính phạm vi kinh doanh rộng lớn mà dẫn tới những nét riêng và phức tạp hơn nhiều so với việc mua bán hàng hoá trong nước như việc giao dịch với những đối tác mang nhiều quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỉ trọng lớn. Thanh toán bằng các ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới các quốc gia khác nhau nên phải tuân thủ các tập quán quốc tế cũng như các địa phương. Hoạt động nhập khẩu được tổ chức và thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu và đối tác, tiến hành đàm phán giao dịch và ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển tới cảng và chuyển giao quyền sở hữu giữa bên bán và bên mua, hoàn thành thủ tục thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này đều phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối liên quan chặt chẽ với nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao, phục vụ đầy đủ và kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. Đối với người tham gia hoạt động nhập khẩu trước khi bước vào nghiên cứu, thực hiện các nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, giá cả và xu hướng biến động của nó... Những điều đó phải trở thành nếp thường xuyên trong tư duy các nhà kinh doanh nhập khẩu để nắm bắt được những cơ hội kinh doanh quốc tế. 1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu. Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền giữa sản xuất và lưu thông, do đó ở đâu có sản xuất và lưu thông thì ở đó có thị trường, thị trường là môi trường cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động. Ta có thể hiểu thị trường dưới hai giác độ: Thị trường là tổng khối lượng cầu có khả năng thanh toán và khối lượng cung có khả năng đáp ứng tại một mức giá nhất định hay thị trường là tổng thể các mối quan hệ lưu thông hàng hoá tiền tệ. Công tác nghiên cứu thị trường luôn là công việc đầu tiên giúp doanh nghiệp nắm vững các yếu tố thị trường, hiểu biết các quy luật vận động của thị trường để từ đó có thể đưa ra các kế hoạch ứng sử kịp thời và phù hợp. Đặc biệt là đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu việc nghiên cứu thị trường lại càng trở nên cần thiết hơn. Đó là quy tắc chung cho hầu hết các"doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường là một quá trình tìm kiếm khách quan có hệ thống cùng với việc phân tích tổng hợp các thông tin cần thiết để giải quyết vấn đề Marketing. Mỗi doanh nghiệp có một cách riêng để thực hiện việc nghiên cứu thị trường đạt kết quả cao nhất trong mục tiêu kinh doanh đề ra. Tuy nhiên việc nghiên cứu bằng cách nay hay cách khác thì thông qua hoạt động nghiên cứu thị trường, chúng ta phải trả lời được các câu hỏi cơ bản sau: Kinh doanh nhập khẩu hàng hoá gì ? Kinh doanh với ai ? Kinh doanh ở đâu, vào thời gian nào ? Kinh doanhvới số lượng bao nhiêu ? Giá cả và lợi nhuận tính toán được ra sao ? Công việc nghiên cứu thị trường phải được tiến hành đồng thời cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài, vì hoạt động nhập khẩu liên quan đến cả hai loại thị trường này. Nếu chỉ nghiên cứu một loại thị trường thôi thì công việc kinh doanh gặp phải những khó khăn do không nắm bắt được nhu cầu cũng như cung trên thị trường. 1.1 Nghiên cứu thị trường trong nước: bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây: Nghiên cứu nhu cầu thị trường: Theo quan điểm Marketing, nhu cầu có ba mức: Nhu cầu tự nhiên; Mong muốn và nhu cầu có khả năng thanh toán. Yêu cầu đặt ra đối với công việc này là phân tích các nhu cầu trên theo mức độ nhất định để có chiến lược đáp ứng phù hợp. Mục đích của việc nghiên cứu thị trường là tìm ra nhu cầu thị trường và bằng mọi cách thoả mãn nhu cầu ở mức độ cao nhất thuận tiện nhất và với chi phí thấp nhất. Việc nghiên cứu thị trường phải căn cứ vào cả sản"xuất và tiêu dùng, quy cách, chủng loại, kích cỡ, thị hiếu và tập quán tiêu dùng. Việc nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những nhu cầu hiện tại mà thông qua đó phải dự báo được nhu cầu trong tương lai. Sau khi kết thúc công đoạn này, doanh nghiệp phải chỉ ra thị trường đang cần loại hàng gì, số lượng bao nhiêu, giá cả như thế nào... Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu: Việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp không chỉ dựa vào kết quả của việc nghiên cứu nhu cầu của thị trường mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Để đi đến quyết định nhập khẩu loại hàng hoá mà thị trường nội địa đang cần, đảm bảo có lợi nhuận thì doanh nghiệp phải nắm rõ được một số vấn đề sau: . Khả năng sản xuất và tiêu dùng trong nước về mặt hàng đó. Vấn đề này thể hiện ở: số lượng, chất lượng hàng hoá sản xuất và tiêu thụ, tính thời vụ, thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Doanh nghiệp cũng phải xem xét khả năng cung cấp các mặt hàng đó đối với thị trường trong nước. . Chu kỳ sống của sản phẩm: Mỗi sản phẩm khi tung ra thị trường có bốn giai đoạn đó là: Giới thiệu, phát triển, bão hoà và suy thoái. Khi doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu sản phẩm nhập khẩu cần phải xác định mặt hàng đang ở giai đoạn phát triển nào trên cả thị trường đầu vào và đầu ra, bởi vì có mặt hàng đang ở nước này thì ở giai đoạn phát triển nhưng sang nước khác lại ở giai đoạn suy thoái. . Chính sách của nhà nước đối với mặt hàng đó: Doanh nghiệp phải nắm rõ được mặt hàng nhập khẩu nằm trong danh mục quản lý nào của chính phủ. Nó thuộc danh mục khuyến khích nhập hay hạn chế nhập, sự quản lý đó được thể hiện bằng các công cụ như hạn ngach nhập khẩu, biểu thuế nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, quản lý ngoại tệ... được quy định cho từng mặt hàng. Sự tác động này sẽ tạo ra những khó khăn hoặc tạo ra những thuận lợi đối với doanh nghiệp trong toàn bộ quá trình kinh doanh. Nghiên cứu giá cả trong nước và các đối thủ cạnh tranh trong nước: Quá trình nghiên cứu giá cả trong nước sẽ giúp cho các doanh nghiệp xác định được mức giá mà khách hàng trong nước chấp nhận được. Giá cả hàng nhập khẩu rất linh hoạt và chịu tác động của nhiều yếu tố như: thu nhập của khách hàng, mức giá của các nhà cung cấp trên thị trường trong và ngoài nước đưa ra, những quy định pháp lý của nhà nước... Kết quả của bước nghiên cứu này sẽ bước đầu xác định được mức lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp. Cùng với việc nghiên cứu giá cả là việc nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh, với cơ chế thị trường phát triển như hiện nay sẽ tạo điều kiện cho rất nhiều doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và tất yếu tạo ra nhiều đối thủ cạnh tranh. Yếu tố cạnh tranh đã buộc các doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu đối thủ cạnh tranh trên một số mặt như: Có bao nhiêu đối thủ cạnh tranh, họ chủ yếu cung ứng những loại sản phẩm gì (sản phẩm đồng dạng, sản phẩm bổ sung hay sản phẩm thay thế), số lượng và giá cả là bao nhiêu, chính sách xúc tiến khuyếch trương sản phẩm, điểm mạnh, điểm yếu... của họ để từ đó xây dựng kế hoạch cụ thể trong việc dành ưu thế. 1.2 Nghiên cứu thị trường nước ngoài: Đây vẫn là công việc đặc trưng của thương mại quốc tế, do tiến hành buôn bán với các đối tác nước ngoài nên hoạt động nghiên cứu thị trường nước ngoài là tất yếu. Đối với lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu, công việc này bao gồm những nội dung sau: Nghiên cứu nguồn cung hàng nhập khẩu: Kết thúc hoạt động nghiên cứu thị trường trong nước và mặt hàng nhập khẩu là doanh nghiệp đã xác định cho mình cần phải thực hiện nhập khẩu loại sản phẩm nào để thoả mãn nhu cầu trong nước. Công việc tiếp theo là doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu nguồn cung hàng nhập khẩu. Yêu cầu đối với bước công việc này là phải xác định được một cách tương đối số lượng nhà cung cấp sản phẩm mà doanh nghiệp định nhập khẩu, khả năng cung ứng, phương thức giao dịch và thanh toán... Các nhân tố này sẽ ảnh hưởng đến tính ổn định và lâu dài trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu vì vậy doanh nghiệp cần tiền hành một cách nghiêm túc và kỹ lưỡng, song đồng thời phải nghiên cứu một cách nhanh chóng để kịp nắm bắt những cơ hội kinh doanh khi chúng xuất hiện trên thương trường. Kết quả của bước nghiên cứu này cho phép doanh nghiệp có thể chọn ra được đối tác giao dịch. Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu: Trong buôn bán ngoại thương, giá cả thị trường rất phức tạp do việc mua bán hàng hoá diễn ra ở các khu vực khác nhau trên thế giới và diễn ra trong mựt thời gian dài, hàng được vận chuyển qua nhiều nước với các chính sách thuế quan khác nhau nên tất yếu phải chịu những biến động nhất định. Đòi hỏi đặt ra cho các nhà kinh doanh nhập khẩu là phải nắm được chính xác giá cả của hàng hoá định nhập và xu hướng biến động của nó. Cấu thành giá cả của hàng hoá bao gồm: giá vốn, giá bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác tuỳ theo các bước thực hiện và sự thoả thuận của các bên tham gia. Vì thế giá cả có tính chất đại diện đối với từng loại hàng hoá nhất định trên thị trường và đó phải là giá cả của những giao dịch thông thường, không kèm theo bất kỳ một điều kiện thương mại đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Trong thực tế giá cả quốc tế hàng hoá chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau như: giá trị quốc tế, nhân tố chu kỳ, nhân tố lũng đoạn, nhân tố cạnh tranh, nhân tố cung cầu, nhân tố lạm phát, nhân tố thời vụ... Doanh nghiệp cần xác định mức độ tác động của tất cả các nhân tố tới giá cả hàng nhập khẩu để từ đó có thể lựa chọn mức giá hợp lý được thị trường chấp nhận đồng thời doanh nghiệp vẫn đạt mục tiêu lợi nhuận. Trong khi chọn mức giá hợp lý, doanh nghiệp thường căn cứ vào: Một là: Giá ở các trung tâm giao dịch truyền thống, ở những nước sản xuất chủ yếu hay những hãng tập trung. Hai là: Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng nhập khẩu, đó là tổng số tiền bản tệ có thể thu được khi chi ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu. Nếu tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu (VND/USD) lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thương trường thì doanh nghiệp nên nhập khẩu mặt hàng đó và ngược lại. Nghiên cứu môi trường chinh trị, luật pháp, tập quán buôn bán và hệ thống tài chính tiền tệ của quốc gia có thị trường hàng hoá mà doanh nghiệp định tiến hành nhập khẩu. 2. Lựa chọn mặt hàng, phương án nhập khẩu và đối tác giao dịch. Dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường, nhà kinh doanh phải xác định được mặt hàng dự định nhập khẩu là mặt hàng gì, quy cách phẩm chất, nhãn hiệu, bao bì đóng gói hàng hoá đó như thế nào? Vấn đề khá quan trọng trong giai đoạn này là xác định được lượng hàng nhập khẩu để đạt mục đích thu lợi nhuận tối đa. Để tối ưu hoá lợi nhuận và chi phí, nhà kinh doanh phải xác định được lượng đặt hàng tối ưu. Lượng đặt hàng tối ưu này là số lượng hàng nhập khẩu thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng trong nước và tiết kiệm được chi phí đặt hàng. Nếu gọi chi phí mua vào là TC; nhu cầu hàng năm là N; giá trị mỗi đơn đặt hàng là Q; chi phí đặt mua mỗi đơn hàng là P thì chi phí đặt mua hàng năm là NP/Q. Nếu gọi chi phí vận tải tính theo tỉ lệ bình quân hàng đặt mua là S và chi phí vận tải lưu kho hàng năm là SQ/2. Như vậy chi phí được xác định: Đây là một hàm số của chi phí (TC) theo lượng đặt hàng (Q), muốn tìm trị số tối thiểu ta phải lấy đạo hàm và quy đạo hàm số đó bằng không. Do đó : Vậy : Việc nghiên cứu thị trường giúp cho đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu lựa chọn được mặt hàng, thời cơ thuận lợi, lựa chọn phương thức mua bán và điều kiện giao dịch thích hợp. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, kết quả kinh doanh còn phụ thuộc vào đối tác giao dịch. Trong cùng những điều kiện như nhau, việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công nhưng với khách hàng khác thì bất lợi. Vì vậy, một nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp là phải lựa chọn bạn hàng. Mục đích của việc lựa chọn này là tìm kiếm người cộng tác khả dĩ, an toàn và có lợi. Để lựa chọn bạn hàng không nên căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu, mà nên căn cứ vào những cơ sở sau: - Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực kinh doanh và phạm vi kinh doanh, để thấy được khả năng cung cấp lâu dài, thường xuyên - Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, cho phép ta thấy được những ưu thế trong thoả thuận về giá cả, điều kiện thanh toán. - Thái độ và quan điểm kinh doanh: vươn lên chiếm lĩnh thị trường hay độc quyền về kinh doanh Ngoài ra tìm hiểu về uy tín và quan hệ của thương nhân trong kinh doanh cũng là một điều kiện quan trọng cho phép đi đến những quyết định trong mua bán một cách nhanh chóng có hiệu quả hơn. Lựa chọn bạn hàng giao dịch tốt nhất nên lựa chọn những người xuất nhập khẩu trực tiếp để hạn chế các hoạt động trung gian. Lựa chọn được đối tác giao dịch là một thànx công quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng để việc kinh doanh thực sự an toàn và ổn định, doanh nghiệp phải nghiên cứu môi trường chính trị, tập quán buôn bán và hệ thống tài chính tiền tệ của quốc gia đối tác vì mỗi nước mang một đặc thù riêng để từ đó doanh nghiệp rút ra những điểm cơ bản nhằm điều chỉnh quan hệ giao dịch cho phù hợp. 3. Gao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng 3.1 Giao dịch đàm phán Thương lượng đàm phán là quá trình đối thoại giữa người mua và người bán nhằm đạt được những thoả thuận nhất trí về những nội dung của hợp đồng ngoại thương, để sau quá trình đàm phán, người mua và người bán có thể đi đến ký kết hợp đồng. Thông thường các nhà kinh doanh thường thực hiện đàm phán8qua ba hình thức: . Đàm phán qua thư tín . Đàm phán bằng điện thoại . Đàm phán trực tiếp Mỗi loại đàm phán đều có những ưu nhược điểm nhất định, tuỳ từng trường hợp và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mà lựa chọn hình thức đàm phán phù hợp nhất. Mục đích của thương lượng đàm phán đối với các nhà nhập khẩu là dành dật các lợi ích trong các điều khoản hợp đồng sẽ được ký kết. Vì vậy doanh nghiệp phải chuẩn bị kỹ lưỡng công tác tổ chức tham gia đàm phán và người tham gia đàm phán phải nắm chắc các yếu tố, các bước của quá trình đàm phán. Thông thường một cuộc đàm phán có các bước sau: Hỏi giá, chào hàng, đặt hàng, hoàn giá, chấp nhận, xác nhận. a) Hỏi giá Hỏi giá được coi là lời thỉnh cầu bước vào giao dịch, là lời đề nghị của người mua với người bán, yêu cầu người bán báo cho mình biết về giá cả và điều kiện mua hàng. Nội dung của một hỏi giá bao gồm: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng, giá cả... Hỏi giá không dàng buộc trách nhiệm của hai bên nên người mua có thể hỏi giá ở nhiều nơi để lựa chọn. Tuy nhiên, nếu hỏi giá nhiều sẽ tạo nên nhu cầu giả tạo, không có lợi cho người mua. b) Chào hàng Chào hàng là lời đề nghị ký kết hợp đồng và do vậy có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Thông thường, chào hàng là do người xuất khẩu đưa ra.Trong chào hàng người ta nêu rõ: tên hàng, quy cách phẩm chất, giá cả, số lượng, cơ sở điều kiện giao hàng, thời hạn giao nhận, điều kiện thanh toán, bao b._.ì, ký mã hiệu, thể thức thanh toán... Nếu hai bên đã có quan hệ từ trước thì chào hàng chỉ nêu những nội dung cần thiết cho lần giao dịch đó. Những điều kiện còn lại sẽ áp dụng như những hợp đồng đã ký. Trong thương mại quốc tế, nếu xét theo mức độ chủ động của người xuất khẩu, người ta phân biệt chào hàng chủ động và chào hàng thụ động. Còn nếu căn cứ vào sự dàng buộc trách nhiệm của người chào hàng, có chào hàng cố định và chào hàng tự do. c) Đặt hàng Lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng, người mua nêu cụ thể về hàng hoá và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng. Trong thực tế, người ta chỉ đặt hàng với các khách hàng có quan hệ thường xuyên nên ta thường gặp các đặt hàng với một số điều kiện cơ bản và một vài điều kiện riêng cho lần đặt hàng đó. Những điều kiện khác hai bên áp dụng điều kiện chung đã thoả thuận hoặc những điều kiện của hợp đồng đã ký trong lần giao dịch trước. d) Hoàn giá Khi một bên nhận được chào hàng (hoặc đặt hàng) mà không chấp nhận hoàn toàn với chào hàng (hoặc đặt hàng) đó, người ta đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị này được gọi là hoàn giá. Khi có hoàn giá, chào hàng trước đó coi như huỷ bỏ. Trong buôn bán quốc tế, mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần hoàn giá mới đi đến kết thúc. e) Chấp nhận Chấp nhận là sự đồng ý vô điều kiện của chào hàng (hoặc đặt hàng) của người bán hoặc người mua mà bên kia đưa ra. Điều đó có nghĩa là người nhận giá đồng ý hoàn toàn vô điều kiện mọi nội dung của chào hàng (đặt hàng) trong thời hạn hiệu lực của chúng và sự đồng ý vô điều kiện này được truyền đạt tới ngươì phát ra đề nghị. Khi đó, một hợp đồng sẽ được xác lập. f) Xác nhận Xác nhận là một văn kiện ghi lại mọi điều đã thoả thuận thống nhất giữa người mua và người bán. Thông thường nó được lập thành hai bản, bên xác nhận ký trước rồi chuyển cho bên kia, bên kia ký xong giữ lại một bản và gửi trả lại một bản. 3.2 Ký kết hợp đồng Sau khi đàm phán và đi đến thống nhất, hai bên giao dịch phải thực hiện ký kết hợp đồng ngoại thương. Hợp đồng ngoại thương là một hợp đồng mua bán đặc biệt. Nó là sự thoả thuận bằng văn bản giữa những chủ thể có quốc tịch khác nhau, trong đó bên bán là bên xuất khẩu có nghĩa vụ chuyển giao cho bên mua tức là bên nhập khẩu quyền sở hữu một tài sản nhất định gọi là hàng hoá, còn bên mua có nghĩa vụ trả một khoản tiền ngang giá trị hàng hoá cho bên bán bằng các phương thức thanh toán quốc tế rồi nhận hàng. Theo quy định số 299TMDL/XNK của bộ thương mại và du lịch Việt Nam quy định nội dung của hợp đồng thương mại như sau: a) Những điều khoản chủ yếu Phần mở đầu: Gồm những thông tin về hai bên chủ thể của hợp đồng như: Tên giao dịch trong giấy đăng ký kinh doanh, tên giao dịch quốc tế, địa chỉ, điện thoại, số tài khoản, trụ sở chính, người đại diện hợp pháp... Điều khoản tên hàng: Điều khoản này của hợp đồng phải được diễn tả thật chính xác vì đây là cơ sở để bên bán hàng giao đùng hàng mà người mua cần và bên mua trả tiền đúng với hàng mà mình yêu cầu. Để xác định chính xác đối tượng mua bán, hai bên phải thống nhất cách ghi tên hàng trong hợp đồng. Hiện nay có một số cách ghi tên hàng thường được áp dụng: Ghi tên thương mại và nhãn hiệu hàng hoá; ghi tên thương mại kèm tên khoa học; ghi tên hàng kèm địa chỉ sản xuất . . . Điều khoản về quy cách phẩm chất: Điều khoản này trong hợp đồng thường nói lên mặt chất của hàng hoá bao gồm tính năng, quy cách, kích thước, tác dụng, công suất, hiệu suất... của hàng hoá, là điều khoản bổ sung và làm rõ điều khoản tên hàng. Dựa vào điều khoản này, người bán giao hàng cho đúng để được thanh toán, giúp người mua nhận hàng theo đúng yêu cầu của mình. Ngoài ra, xác định cụ thể phẩm chất của hàng hoá là cơ sở quan trọng để xác định giá đúng. Trong thực tế, người ta sử dụng nhiều phương pháp để mô tả phẩm chất hàng hoá trong hợp đồng ngoại thương. Việc dùng phương pháp nào để xây dựng hợp đồng phụ thuộc vào đặc điểm tính chất của hàng hoá mua bán. Có thể xác định phẩm chất dựa vào mẫu cho trước; tiêu chuẩn hàng hoá có sẵn; nhãn hiệu; dựa vào tài liệu kỹ thuật; dựa vào hàm lượng của chất chủ yếu trong hàng hoá... Điều khoản số lượng hàng: Điều kiện này nhằm nói lên mặt lượng của hàng hoá được giao dịch bao gồm các vấn đề về đơn vị tính số lượng hoặc trọng lượng của hàng hoá, phương pháp quy định số lượng và phương pháp xác định trọng lượng của hàng hoá. Điều khoản giao hàng: Nội dung của điều khoản này là sự xác định thời hạn giao hàng; địa điểm giao hàng; phương thức giao hàng và thông báo giao hàng. Điều khoản về giá cả: ở điều khoản này trong hợp đồng, cần quy định rõ những nội dung như đơn vị tiền tệ tính giá, mức giá mua bán, phương pháp quy định giá, phương pháp xác định mức giá, cơ sở của giá cả và việc giảm giá, điều kiện thương mại quốc tế tương ứng... Điều khoản về thanh toán: Thông qua điều khoản này có khả năng đảm bảo cho người mua chắc chắn sẽ nhận được đầy đủ hàng hoá cả về mặt số lượng và chất lượng và người bán sẽ được thanh toán đầy đủ. Trong điều khoản này hai bên thường phải xác định những vấn đề về đồng tiền thanh toán; thời hạn thanh toán; phương thức trả tiền và các điều kiện đảm bảo hối đoái. Hiện nay trong giao dịch thương mại quốc tế cả người mua và người bán đều ưa thích việc thanh toán bằng phương thức L/C ( Thư tín dụng chứng từ ). b) Những điều khoản khác trong hợp đồng Điều khoản bao bì và ký mã hiệu: Điều khoản này quy định loại bao bì; chất lượng"bao bì; số lớp bao bì ; giá cả bao bì được tính chung với hàng hoá hay tính riêng; tỉ lệ % bao không để thay thế bao bị rách bể; phương thức cung cấp bao bì... Điều khoản khiếu nại: Khiếu nại là đề nghị do một bên đưa ra đối với bên kia vì số lượng chất lượng hàng giao hoặc một số vấn đề khác không phù hợp với các điều khoản đã đựơc quy định trong hợp đồng. Điều khoản này trong hợp đồng phải nêu được rõ bốn tiểu khoản: Thể thức khiếu nại, thời hạn khiếu nại, quyền hạn và nghĩa vụ của các bên phải có liên quan đến khiếu nại và cách thức giải quyết khiếu nại. Điều khoản bảo hành: Điều khoản này thường chỉ xuất hiện trong các hợp đồng mua sắm thiết bị máy móc, nó quy định trách nhiệm của người bán về bồi thường hoặc sửa chữa miễn phí hàng hoá trong một thời gian nhất định với điều kiện: Những sai sót, hỏng hóc hàng hoá phát sinh trong điều kiện người mua tuân thủ theo đúng quy định về cách thức sử dụng và bảo quản. Những sai sót đó phải do nguyên vật liệu hoặc do công nghệ không đạt tiêu chuẩn gây ra. Điều khoản quy định về trường hợp miễn trách: ở điều khoản này hai bên thường quy định những trường hợp mà nếu sảy ra bên đương sự được hoàn toàn hoặc trong chừng mực nào đó, miễn hay hoãn thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng. Điều khoản phạt và bồi thường thiệt hại: quy định những biện pháp khi hợp đồng không được thực hiện (toàn bộ hay một phần). Điều khoản này cùng lúc nhằm hai mục tiêu: . Làm cho đối tác nhụt chí khi có ý định không thực hiện hay thực hiện không tốt hợp đồng. . Xác định số tiền phải trả nhằm bồi thường thiệt hại gây ra mà không phải yêu cầu toà xét xử. Điều khoản quy định về trọng tài: Các nội dung cần quy định trong điều khoản nay là: . Ai là người đứng ra phân xử ( toà án quốc gia hay toà án trọng tài, trọng tài nào, thành lập ra sao?) để giải quyết tranh chấp giữa các bên giao dịch khi những tranh chấp này không thể giải quyết bằng con đường thương lượng. . Luật nào được áp dụng vào việc xét xử. . Địa điểm tiến hành trọng tài. . Cam kết chấp hành tài quyết. . Phân định chi phí trọng tài. Yêu cầu về mặt hình thức đối với một hợp đồng ngoại thương là phải được làm thành văn bản mới có hiệu lực ( trong đó thư từ, telex, fax cũng được gọi là văn bản ). Mọi hình thức thoả thuận đều không có hiệu lực. Khi muốn thay đổi bổ sung vấn đề gì thì phải thay đổi bằng văn bản và phải được sự đồng ý của cả hai bên và phải luôn đi kèm với hợp đồng đã ký trước đó. 4.Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Khi công việc ký kết hợp đồng được hoàn thành thì có nghĩa là các bên đã đặt quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong các điều khoản của hợp đồng. Công việc kế tiếp là cả người xuất khẩu và người nhập khẩu phải tiến hành thực hiện theo đúng hợp đồng nhằm tránh những tranh chấp, sai sót đáng tiếc sảy ra. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nhập khẩu, quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương gồm những bước công việc sau: Ký kết hợp đồng NK Xin giấy phép NK Mở L/C khi bên bán báo Đôn đốc bên bán giao hàng Thuê tàu Giao hàng cho đơn vị đặt hàng Kiểm tra hàng hoá Nhận hàng Làm thủ tục hải quan Mua bảo hiểm hàng hoá Làm thủ tục thanh toán Khiếu nại về hàng hoá (Nếu có) (1) Xin giấy phép nhập khẩu Xin giấy phép nhập khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu tiếp theo trong quá trình nhập khẩu hàng hoá, nếu hàng hoá có trong nghị định thư thì không cần phải xin phép. Hiện nay, việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu được quy định như sau: Bộ thương mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến hàng mậu dịch. Tổng cục hải quan cấp giấy phép phi mậu dịch. Hồ sơ bao gồm: + Đơn xin giấy phép. + Phiếu hạn ngạch. + Bản sao hợp đồng đã ký với nước ngoài hoặc bản sao L/C. Mỗi giấy phép chỉ được cấp cho một chủ hàng kinh doanh để xuất nhập khẩu một hoặc một số mặt hàng với nước nhất định, chuyên chở bằng phương tiện vận tải và giao nhận tại một địa điểm nhất định. (2) Mở L/C Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định tiền hàng thanh toán bằng L/C thì việc đầu tiên bên mua phải làm để thực hiện hợp đồng đó là mở L/C. Thời gian mở L/C nếu hợp đồng không quy định gì thì phụ thuộc vào thời gian giao hàng. Thông thường L/C được mở khoảng 15-20 ngày trước khi đến thời gian giao hàng. Cơ sở để mở L/C là các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu. Khi mở L/C, đơn vị được phép nhập khẩu trực tiếp dựa vào căn cứ này để điền vào mẫu “giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu”. Giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu kèm theo bản sao hợp đồng, sau khi được cơ quan quản lý kế hoạch thu chi ngoại hối xét duyệt, được chuyển đến ngân hàng ngoại thương cùng với hai uỷ nhiệm chi: một uỷ nhiệm chi để ký quỹ theo quy định về việc mở L/C và một ủy nhiệm chi trả thủ tục phí cho ngân hàng về việc mở L/C. (3) Thuê tàu hoặc ủy thác thuê tàu. Trong trường hợp mà doanh nghiệp nhập khẩu theo giá FOB thì doanh nghiệp phải có nghĩa vụ thuê taù,việc thuê tàu dựa vào các căn cứ sau: Những điều khoản của hợp đồng Đặc điểm của hàng hoá mua bán Điều kiện vận tải Tuỳ theo khối lượng và đặc điểm bảo quản của hàng hoá mà doanh nghiệp lựa chọn thuê tàu cho phù hợp đảm bảo thuận tiện và nhanh chóng. Thông thường đối với hàng hoá có khối lượng nhỏ và điều kiện bảo quản đơn giản thì doanh nghiệp thường thuê tàu chợ , ngược lại hàng hoá có khối lượng lớn và điều kiện bảo quản yêu cầu phải có những dụng cụ đặc biệt thì doanh nghiệp thường thuê tàu chuyến. Trong thực tế có nhiều trường hợp doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ủy thác cho một đơn vị vận tải chuyên nghiệp như Transimex, Vosa, Viettrans... Hiện nay do điều kiện tàu Việt Nam còn hạn chế và do các điều kiện khác nên chúng ta thường nhập khẩu theo điều kiện CIF. (4) Mua bảo hiểm Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Bởi vậy trong kinh doanh thương mại quốc tế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Hình thức mua bảo hiểm thông qua một hợp đồng bảo hiểm. Tùy vào điều kiện tính chất của hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà doanh nghiệp sẽ mua bảo hiểm chuyến hay bảo hiểm bao. Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm: Bảo hiểm mọi rủi ro (Điều kiện A) Bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng (Điều kiện B) Bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng (Điều kiện C) Ngoài ra còn một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình công , bạo động... (5) Làm thủ tục hải quan Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hoặc nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là một công vụ để quản lý hành vi buôn bán theo pháp luật của nhà nước; để ngăn chặn xuất nhập khẩu lậu qua biên giới; để kiểm tra giấy tờ có sai sót, giả mạo không; để thống kê số liệu về hàng xuất nhập khẩu. Quy trình làm thủ tục hải quan gồm 3 bước: Khai báo hải quan: Chủ hàng phải có nghĩa vụ kê khai chi tiết về hàng hoá trong tờ khai hải quan và nộp nó cùng với hợp đồng nhập khẩu và vận đơn cho đơn vị hải quan. Xuất trình hàng hoá cho đơn vị hải quan kiểm tra tại một địa điểm nhất định. Hàng hoá phải được xếp trật tự thuận tiện cho việc kiểm tra. Nhân viên hải quan sẽ đối chiếu hàng hoá trong thực tế với tờ khai để quyết định cho qua biên giơí hay không Thực hiện các quy định của hải quan: sau khi kiểm tra đối chiếu hàng hoá, hải quan sẽ quyết định cho hàng hoá qua biên giới hay không. Với các điều kiện hải quan đưa ra theo đúng pháp luật, chủ hàng phải thực hiện nghiêm chỉnh. Nếu chủ hàng vi phạm sẽ bị giải quyết theo quy định của pháp luật. (6) Nhận hàng Theo quy định của nhà nước (NĐ 200/CP ngày 31/12/73): “các cơ quan vận tải (ga, cảng) có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của đơn vị ngoại thương đã nhập hàng đó” Bởi vậy đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải: Ký kết hợp đồng ủy thác cho cơ quan vận tải (ga, cảng) về việc giao nhận hàng. Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng xuất khẩu hàng năm, hằng quý, lịch tàu, cơ cấu mặt hàng, điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển vận tải. Thông báo cho các đơn vị trong nước đặt mua hàng nhập khẩu (nếu hàng nhập khẩu cho một đơn vị trong nước) dự kiến ngày hàng về, ngày thực tế tàu chở hàng về đến cảng hoặc ngày toa xe chở hàng vào sân ga giao nhận. Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản chi phí về giao nhận, bốc xếp bảo quản và vận chuyển hàng nhập khẩu. Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập biên bản (nếu cần) về hàng hoá và giải quyết trong phạm vi của mình những vấn đề sảy ra trong việc giao nhận. (7) Kiểm tra hàng hoá Sau khi nhận hàng, bên nhập khẩu làm thủ tục kiểm tra quy cách, phẩm chất hàng nhập. Thông thường hai bên sẽ thống nhất chỉ ra một cơ quan giám định. Nếu hàng hoá có bất kỳ sai sót gì so với những điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng thì chủ hàng sẽ xin xác nhận của người vận chuyển, người quản thủ và tiếp đó thông báo cho cơ quan bảo hiểm hoặc đại lý của họ. Nếu sảy ra các tổn thất khác như thiếu hụt, đổ vỡ, lẫn tạp chất, thấm nước... thì trong vòng 3 ngày kể từ ngày hàng được dỡ khỏi tàu phải gửi thông báo khiếu nại cho người vận chuyển và không quá 60 ngày kể từ ngày dỡ hàng khỏi tàu phải thông báo cho cơ quan bảo hiểm để tiến hành giám định , nhận biên bản giám định và yêu cầu bảo hiểm bồi thường. (8) Thanh toán Đây là nghiệp vụ vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế, là công việc cuối cùng trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Thủ tục thanh toán sẽ tuỳ thuộc vào hình thức thanh toán quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên doanh nghiệp nhập khẩu vẫn cần phải lưu ý đến một số điểm sau đây: Đối với phương thức thanh toán dựa vào chứng từ (Thanh toán tín dụng chứng từ, thanh toán nhờ thu kèm chứng từ...) thì cần kiểm tra kỹ các loại chứng từ trước khi thanh toán tiền cho bên xuất khẩu. Đối với phương thức thanh toán dựa vào tình hình thực hiện hợp đồng cần xác định rõ khối lượng công việc đã thực hiện. III. Thị trường thiết bị hàng không và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không. 1. Thị trường thiết bị hàng không Thiết bị hàng không là ngành có kỹ thuật cao và có tính đặc thù riêng do đó phạm vi các nhà cung ứng là tương đối hạn chế. Sau sự kiện ngày 11/9/2001, nền công nghiệp hàng không có xu hướng đi xuống, không chỉ các hãng hàng không mà các nhà cung cấp dịch vụ, phụ tùng và thiết bị cũng đang tìm giải pháp để tồn tại. Mọi chú ý đều được tập trung vào mục tiêu giảm giá thành và nâng cao sản lượng do nhu cầu mua máy bay mới đang có chiều hướng đi xuống. Lãnh đạo các ngành công nghiệp đều cho rằng tháng 11/2001 sẽ tạo ra một thay đổi lớn các chủng loại máy bay cũ, chi phí bảo dưỡng cao. Các chủng loại máy bay được khai thác từ nay sẽ là những máy bay nhỏ, giá thành bảo dưỡng thấp, có thọ mệnh và có độ tin cậy cao. Do vậy, các loại máy bay cũ như B- 727, B- 737, B- 747...thế hệ đầu và Douglas DC- 9s sẽ không còn được sử dụng nữa để nhường chỗ cho các loại máy bay thế hệ mới. Đa số các máy bay không khai thác được là do lắp động cơ JT8D và JT9D của tập đoàn Pratt&Whitney. Hiện nay các sản phẩm của tập đoàn này chủ yếu tập trung ở hai khu vực Bắc và Nam Mỹ. Chính vì vậy, các loại sản phẩm P&W đã phải giảm giá 40% trong quý VI năm 2001. Cùng với việc thay thế máy bay, các hãng hàng không còn phải giảm tần suất và tiến hành cải tiến một số bộ phận trên máy bay. Điều này cũng ảnh hưởng đến các nhà sản xuất do đa số các sản phẩm của họ đều phục vụ cho các chủng loại thế hệ mới. Trong những năm qua AIRIMEX đã không ngừng tìm kiếm và phát triển mối quan hệ với các nhà cung ứng nổi tiếng trên thế giới. Có thể phân thành hai nhóm như sau: - Những sản phẩm mang tính độc quyền, chỉ được sản xuất bởi một nhà sản xuất duy nhất. . Hãng BOEING của Mỹ: Đây là một hãng đứng đầu thế giới về sản xuất máy bay. Máy bay BOEING được sử dụng rộng rãi ở tất cả các hãng hàng không trên thế giới (chiếm 60% thị phần thế giới) như BOEING 747- 767 đang được sử dụng rộng rãi. . Hãng AIRBUS INDUSTRIE (công ty liên doanh giữa Pháp- Đức- Anh- Tây Ban Nha) chiếm 30% số máy bay đang hoạt động. AIRBUS INDUSTRIE là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của BOEING. Các sản phẩm chính của hãng bao gồm AIRBUS 310, 330, 340. . ATR (Pháp ) đây là hãng lớn trên thị trường. . Các máy bay của Liên Xô (cũ) Nhóm các nhà sản xuất cạnh tranh: Bao gồm nhiều nhà sản xuất cùng một loại phụ tùng. Các nhà sản xuất này hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau như điện tử, thông tin, cơ khí ở nhiều nước trên thế giới. . Đức: cung cấp các máy cơ khí, thiết bị soi động cơ, thiết bị trạm xưởng... . Nhật: xe nâng hàng, xe kéo, đầu kéo, băng vận chuyển hành lý... . Hồng Kông: cung cấp hệ thống dẫn đường băng, các đèn tín hiệu dẫn đường... 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không 2.1 Chủ trương chính sách của Nhà nước. Những chủ trương chính sách , luật pháp của các quốc gia tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu và những luật, thông lệ quốc tế về mua bán hàng hoá quốc tế. Đây là các yếu tố mà các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu phải nắm rõ và tuân thủ một cách vô điều kiện bởi vì nó thể hiện ý chí, đường lối lãnh đạo của mỗi quốc gia và sự thống nhất chung của quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích chung trên thị trường quốc tế. 2.2. Tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu Tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ tới hoạt động nhập khẩu. Mọi việc tính giá và thanh toán trong kinh doanh nhập khẩu đều sử dụng tới ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái quyết định mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh cũng như quan hệ kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Sự biến động của tỷ giá hối đoái có thể gây nên sự biến động lớn trong tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu. Chẳng hạn, khi tỷ giá hối đoái tăng thì sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và ngược lại. Tỷ giá hối đoái là cơ sở để so sánh với tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu, một số lượng bản tệ thu về khi phải chi ra một đơn vị ngoại tệ. Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu giữa các mặt hàng thay đổi sẽ gây nên sự biến đổi trong cơ cấu hàng nhập khẩu, từ đó dẫn tới sự thay đổi phương án kinh doanh của các doanh nghiệp nhập khẩu. Hàng năm ngành hàng không bỏ ra hàng trăm triệu USD để mua sắm những trang thiết bị cho toàn ngành, do vậy tỷ giá hối đoái ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng hàng nhập về cho ngành. 2.3. Khoa học công nghệ Đối với những hàng hoá tiêu dùng cá nhân thông thường, nhập khẩu chịu tác động không lớn của yếu tố khoa học công nghệ. Song đối với những hàng hoá tiêu dùng sản xuất, những máy móc thiết bị, hoạt động nhập khẩu lại bị chi phối cực kỳ mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật. Các nước phát triển thường xuất khẩu máy móc thiết bị sang các nước đang phát triển và chậm phát triển, nơi mà trình độ khoa học công nghệ cơ sở hạ tâng còn yếu kém, đang có nhu cầu nhập khẩu thiết bị máy móc rất lớn để phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc xác định đúng trình độ của công nghệ nhập khẩu không những có ý nghĩa rất lớn trong xác định giá nhập khẩu thiết bị mà còn có thể hạn chế được những hậu quả nghiêm trọng về môi sinh do nhập khẩu thiết bị lạc hậu. Do đó, chất lượng công nghệ nhập khẩu, trong một vài trường hợp đặc biệt, xét cả về lợi ích kinh tế và xã hội còn quan trọng hơn giá cả. Đánh giá chính xác công nghệ nhập khẩu bao giờ cũng là khâu khó khăn nhất của quá trình nhập khẩu thiết bị. 2.4.Các nhà cung cấp. Những trang thiết bị, máy móc phục vụ cho ngành hàng không đều những trang thiết bị hiện đại chuyên dụng có kỹ thuật cao phải nhập từ các hãng độc quyền ở nước ngoài. Do tính độc quyền của hãng về trang thiết bị, nhiều khi họ tăng giá bán hoặc đưa ra những điều kiện rất khó khăn cho bên mua hoặc nhiều khi nhà cung cấp cạnh tranh với nhau. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng nhập trang thiết bị phục vụ ngành. 2.5.Hệ thống tài chính - ngân hàng Hiện nay, hệ thống tài chính - ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh và có vai trò quan trọng trong quản lý, cung cấp vốn và thanh toán quốc tế. Nó can thiệp đến hoạt động của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế, dù doanh nghiệp đó lớn hay nhỏ và thuộc bất kỳ thành phần kinh tế nào. Chính sách quản lý ngoại tệ của các quốc gia làm cho hoạt động nhập khẩu ngày nay không thể hoạt động được nếu thiếu hệ thống tài chính ngân hàng. Dựa trên mối quan hệ truyền thống, uy tín và nghiệp vụ, các ngân hàng bảo đảm lợi ích cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Đồng thời, cũng bằng uy tín, các doanh nghiệp có thể được ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay với khối lượng lớn, kịp thời, nhanh chóng tạo điều kiện để tận dụng thời cơ, cơ hội trong kinh doanh. 2.6 Kiến thức về mặt hàng nhập khẩu Trang thiết bị hàng không là những thiết bị công nghệ cao vì vậy việc nhập khẩu mặt hàng này không chỉ đòi hỏi những nhân viên xuất nhập khẩu giỏi nghiệp vụ mà còn phải có kiến thức kỹ thuật, am hiểu lĩnh vực này. Thực tế đã cho thấy, nếu thiếu kiến thức hoặc hiểu biết không sâu về mặt hàng này sẽ dễ bị một số kẻ xấu lợi dụng, lừa gạt, nhập về những thiết bị quá lạc hậu so với mặt bằng chung của ngành Hàng không thế giới hoặc nhập những thiết bị công nghệ cao vượt quá khả năng và điều kiện cho phép của Việt Nam. Tình trạng nhập về rồi lưu kho không được sử dụng đến còn khá phổ biến. Bên cạnh đó là tình trạng thiết bị, máy bay... không có chuyên viên có đủ trình độ để vận hành hoặc vận hành không tốt không đảm bảo an toàn. Mặt khác, do thiếu kiến thức về mặt hàng nhập khẩu, thiết bị nhập khẩu về không đạt tiêu chuẩn, yêu cầu của đơn vị ủy thác sẽ ảnh hưởng đến uy tín của công ty. 2.7 Nguồn vốn Như chúng ta đã biết, trang thiết bị Hàng không như thiết bị quản lý bay, thiết bị mặt đất và sân bay...đều là những mặt hàng nhập khẩu có giá trị tương đối lớn. Với hình thức nhập khẩu uỷ thác, công ty có thể tận dụng được nguồn vốn của đơn vị ủy thác. Song bên cạnh đó công ty còn tham gia nhập khẩu trực tiếp (hình thức này cũng chiềm một tỷ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch). Vì vậy đòi hỏi công ty phải có nguồn vốn lớn. Điều này không chỉ tạo điều kiện mở rộng cơ hội kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp mà còn có thể cấp tín dụng ưu đãi cho khách hàng góp phần phát triển thị trường của công ty. 2.8 Trình độ nghiệp vụ và quản lý nhập khẩu của doanh nghiệp Nếu như các nhân tố trên đều là các nhân tố khách quan mà doanh nghiệp phải thích ứng thì trình độ nghiệp vụ và quản lý hoạt động nhập khẩu lại là nhân tố chủ quan thuộc về doanh nghiệp. Đây là nhân tố con người mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được và nó có tác động trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu. Với đội ngũ cán bộ được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, công việc giao dịch đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng sẽ được tiến hành trôi chảy, không bị vướng mắc. Ban lãnh đạo doanh nghiệp biết phối hợp, tổ chức hoạt động các khâu, các bộ phận với nhau sẽ tạo ra những hợp đồng nhập khẩu có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích của doanh nghiệp đồng thời đáp ứng nhu cầu trong nước và đem lại lợi ích kinh tế xã hội. Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không tại công ty xuất nhập khẩu hàng không (airimex). I. Tổng quan về công ty xuất nhập khẩu hàng không 1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của công ty Ngành hàng không không những ở nước ta mà tại mọi quốc gia trên thế giới đều là một trong những ngành kinh tế huyết mạch của đất nước. Ngành hàng không Việt Nam là một ngành kinh tế có tính đặc thù: chở khách và các hình thức vận tải khác phục vụ nhiệm vụ chính trị đặc biệt, phục vụ bay kinh tế quốc dân, thăm dò địa chất, bay chụp ảnh... Ngành hàng không là một ngành có kỹ thuật công nghệ cao, yếu tố đồng bộ khép kín cho một chuyến bay là hết sức nghiêm ngặt, mục tiêu an toàn tuyệt đối là mục tiêu cao nhất của ngành hàng không Việt Nam. Ngoài yếu tố tinh thần, trách nhiệm còn phụ thuộc rất lớn vào yếu tố vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho đại tu, sửa chữa, bảo dưỡng máy bay, sân bay...Tuy nhiên, cho đến nay, trình độ khoa học kỹ thuật của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành hàng không, do đó toàn bộ công cụ bay, thiết bị đảm bảo bay đều phải nhập ngoại. Trước năm 1986, ngành hàng không Việt Nam nhập máy bay, động cơ, thiết bị phụ tùng mặt đất, sân bay... được quản lý thông qua machino-import. Công ty này được Cục hàng không dân dụng Việt Nam uỷ thác nhập hoàn toàn các bộ phận nêu trên. Tuy nhiên, việc uỷ thác nhập khẩu này đã phát sinh ra nhiều vấn đề do trình độ kỹ thuật chuyên ngành của các cơ quan được uỷ thác kém, nhiều trường hợp hàng hoá cung cấp không đúng chủng loại yêu cầu. Mặt khác, mọi sự thay đổi đều --không thể liên hệ trực tiếp với bên nước ngoài mà phải thông qua machino-import, gây ra nhiều bất lợi, cản trở tiến trình hoạt động của ngành, việc uỷ thác xuất nhập cho công ty không có nhiều kinh nghiệm dẫn đến hàng hoá cung cấp thường là với giá đắt, dịch vụ kèm theo thường là không có hoặc là không hợp lệ. Nhận rõ nhu cầu của việc cần có một bộ phận chuyên đảm nhận công tác xuất nhập khẩu thiết bị hàng không và căn cứ vào yêu cầu phát triển của ngành Hàng không dân dụng Việt Nam. Cục trưởng Cục Hàng không dân dụng Việt Nam đã ký quyết định số 197 TCHK ngày 01/06/1989 thành lập công ty xuất nhập khẩu chuyên ngành và dịch vụ hàng không (với tiền thân là phòng vật tư kỹ thuật của Tổng cục hàng không dân dụng Việt Nam trực thuộc Bộ quốc phòng), có nhiệm vụ xuất nhập khẩu các trang thiết bị, khí tài và phụ tùng thay thế cần thiết cho ngành hàng không dân dụng Việt Nam và một số mặt hàng phi mậu dịch để bán tái xuất ở các nhà ga quốc tế. Tận dụng trọng tải thừa của hàng không dân dụng Việt Nam và các hãng hàng không nước ngoài xuất khẩu những mặt hàng doanh nghiệp Bộ kinh tế đối ngoại (nay là Bộ Thương mại) uỷ quyền. Đến tháng 7 năm 1993 công ty được giao thêm nhiệm vụ nhập nhiên liệu máy bay cho ngành hàng không.ở giai đoạn đầu, công ty hoạt động theo sự phân bố chỉ tiêu của Tổng cục (sau là Tổng công ty), hạch toán báo sổ. Theo bước phát triển của ngành, đến tháng 6/1993 công ty được giao vốn để chủ động hạch toán kinh doanh là một đơn vị hạch toán độc lập thuộc Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Đến năm 1994 theo quy định chung của nhà nước, Công ty lại được thành lập theo 3878/CP (quyết định số 1173/QĐ/TCCB-LD ngày 30/7/1994 ) và theo đó tháng 10/1994 nhiệm vụ nhập nhiên liệu bay được chuyển sang đơn vị khác. Từ tháng 10/1994 đến nay, Công ty hoạt động theo giấy phép đăng ký kinh doanh số 100162 của Uỷ ban kế hoạch Nhà nước cấp ngày 27/9/1994 và được phép hoạt động sản xuất - kinh doanh với ngành nghề và phạm vi sau: +Kinh doanh xuất nhập khẩu máy bay, phương tiện, thiết bị, vật tư, phụ tùng cho ngành hàng không. + Kinh doanh xuất nhập khẩu vật liệu, vật tư dân dụng . + Kinh doanh dịch vụ, nhận gửi hàng hoá, đại lý bán vé giữ chỗ hàng không. Công ty có tên giao dịch quốc tế là: airimex (Genera Aviation Import- Export Company) - Mã số: Ngành kinh tế kỹ thuật 25 - Địa điểm đặt trụ sở chính: 100 Nguyễn Văn Cừ - Gia Lâm - Hà Nội. - Chi nhánh: 11 đường Trường Sơn, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh và đại diện tại Liên bang Nga. - Vốn kinh doanh (01/07/1993) : 11.567,7 triệu đồng. Trong đó: +Vốn cố định : 2.567,7 triệu đồng. +Vốn lưu động :9.000 triệu đồng. Bao gồm các nguồn: . Ngân sách nhà nước câp: 4.551,6 triệu đồng. . Vốn doanh nghiệp tự bổ sung: 7.016,1 triệu đồng. - Tổ chức theo hình thức quốc doanh. Công ty xuất nhập khẩu là tổ chức sản xuất kinh doanh, hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân đầy đủ, được mở tài khoản tại ngân hàng (kể cả tài khoản tại ngân hàng ngoại thương), được sử dụng con dấu riêng. 2. Cơ cấu - bộ máy quản lý của công ty XNK hàng không. 2.1 Chức năng nhiệm vụ của công ty qua các thời kỳ Quyết định số 197/TCHK ngày 1/6/1989 thành lập Công ty xuất nhập khẩu chuyên ngành và dịch vụ hàng không với nhiệm vụ: Xuất nhập khẩu các trang thiết bị khí tài và phụ tùng thay thế cần thiết cho ngành hàng không dân dụng, đáp ứng các yêu cầu về trang thiết bị, khí tài, phụ tùng thay thế cho ngành hàng không dân dụng Việt Nam và nhập một số mặt hàng phi mậu dịch để bán tái xuất ở các nhà ga quốc tế. Tận dụng trọng tải thừa của hàng không Việt Nam và các hãng hàng không nước ngoài xuất khẩu những mặt hàng do bộ kinh tế đối ngoại uỷ quyền. Tuy nhiên trong thời gian này công ty vẫn là một đơn vị hạch toán nội bộ, phụ thuộc vào cấp trên. Khi nhập một lô hàng, công ty phải phụ thuộc vào các cơ quan khác như cơ quan tài chính, kế hoạch...dẫn tới việc bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh và không đáp ứng được nhu cầu cấp thi._.úng là người có tư cách pháp lý thẩm quyền thay mặt cho công ty. 2. Hoàn thiện việc tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu 2.1 Làm thủ tục hải quan Sau khi có đầy đủ chứng từ nhận hàng và khai báo với hải quan vào tờ khai hàng hoá nhập khẩu, hải quan sẽ tiến hành kiểm tra các giấy tờ cần thiết có liên quan. Để rút ngắn thời gian làm thủ tục, tránh các rắc rối có thể sảy ra, công ty nên yêu cầu đối tác cung cấp các giấy tờ cần thiết chứng nhận về tên gọi, tiêu chuẩn kỹ thuật... để công ty có thể hoàn thành tờ khai hải quan trước khi hàng về. Trong khi khai hải quan, công ty phải hết sức thận trọng trong việc áp mã hàng hoá vì nếu sai sẽ bị phạt. Khi hải quan kiểm tra hàng hoá, công ty chuẩn bị đầy đủ, kịp thời các chứng từ có liên quan đến hàng hoá, chuẩn bị các văn bản pháp quy có liên quan đến việc miễn thuế, giảm thuế hay quy định các mức thuế suất thuế nhập khẩu đối với hàng hoá. Để việc kiểm tra hải quan được nhanh chóng, công ty nên chuẩn bị sắp xếp hàng hoá có trật tự, thuận tiện cho việc kiểm tra, tránh gây khó khăn cho hải quan trong việc kiểm tra này. Hàng hoá nhập khẩu nên được đóng kiện cẩn thận để sau khi kiểm tra xong có thể nhận hàng ngay mà không phải có một điều kiện gì của nhân viên hải quan. Ngoài ra, công ty cần thiết lập các mối quan hệ thân thiết với các nhân viên hải quan để có lợi hơn trong công tác này. 2.2 Tổ chức tiếp nhận và vận chuyển hàng hoá. Tiếp nhận hàng hoá là một trong những khâu tương đối quan trọng của hoạt động nhập khẩu. Nếu thực hiện khâu này không tốt, công ty sẽ bị lãng phí về chi phí vận chuyển , xếp dỡ, chi phí lưu kho lưu bãi, chi phí hư hỏng hàng hoá. Hiện nay, việc tiếp nhận và vận chuyển hàng hoá do phòng kế hoạch - tổ chức - hành chính thực hiện. Để tổ chức nghiệp vụ tiếp nhận được tốt, công ty nên thực hiện theo quy trình sau: Trước khi tàu đến, công ty sẽ nhận được “giấy báo tàu đến” và tới nhận lệnh giao hàng (D/O) tại đại lý tàu, khi đi nhận D/O cần mang theo: original B/L và giấy giới thiệu của đơn vị. Đại lý vận chuyển giữ lại B/L và trao D/O cho chủ hàng. Có được D/O công ty nhanh chóng làm thủ tục để nhận lô hàng. Nếu chậm trễ, công ty sẽ bị phạt chi phí lưu kho bãi và chịu tổn thất về những rủi ro phát sinh. Khi nhận được chứng từ nhận hàng, cần đối chiếu với chứng từ mua hàng, hợp đồng để kiểm tra chi tiết. Trong quá trình nhận hàng, nhân viên trực tiếp phụ trách phải theo dõi việc giao hàng, kịp thời phát hiện những sai sót để có biện pháp xử lý thích hợp. Công ty nên đề nghị cơ quan giám định hàng hoá lấy mâũ phân tích kết quả, số lượng, chất lượng hàng hoá . Nếu có trường hợp hàng hoá không phù hợp với hợp đồng cần lập biên bản xác nhận có chữ ký của các bên. Khi nhận hàng xong, cần ký “biên bản tổng kết giao nhận hàng hoá”. Hàng hoá do công ty nhập khẩu phần lớn là hàng uỷ thác nên khi tiếp nhận, công ty chỉ làm thủ tục Hải quan sau đó giao hàng ngay cho đơn vị uỷ thác mà không phải nhập hàng về kho. Để nâng cao hiệu quả nhập khẩu hàng hoá uỷ thác, tại khâu này công ty nên có một bộ phận hoạt động tốt để kiểm tra , đánh giá lô hàng một cách chính xác và khẩn trương. Làm được điều này, khách hàng sẽ sớm nhận dược hàng hoá và công ty sẽ sớm được thanh toán hợp đồng. Công ty nên tăng cường hoạt động dịch vụ vận chuyển cho khách hàng. Khi nhận hàng xong, bộ phận vận chuyển của công ty sẽ đưa hàng về tới kho hoặc một địa điểm chỉ định trước của khách hàng. 2.3 Hoàn thiện trong thanh toán. Trong công tác thanh toán, công ty cần tổ chức theo dõi chặt chẽ lịch thanh toán, thời hạn nộp thuế và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Tránh để bị phạt do châm thanh toán dẫn đến phát sinh thêm chi phí , làm giảm lãi. Để tránh những khó khăn trong vấn đề thanh toán với khách hàng nội địa, công ty nên: Nắm vững các thông tin về tài chính, nguồn vốn nhập khẩu của người uỷ thác , người mua hàng trước khi quyết định ký kết hợp đồng. Chỉ nên duy trì một tỷ lệ phần trăm nhất định số khách hàng có khả năng thanh toán thấp để đảm bảo không vượt quá giới hạn cho phép của tỷ trọng tổng các khoản phải thu có khả năng thanh toán thấp trong tổng giá trị các khoản phải thu của công ty . Tiến hành một số biện pháp nhằm đảm bảo khả năng thu hồi vốn cho công ty như: + Yêu cầu người uỷ thác phải có giấy bảo lãnh thanh toán của cơ quan có thẩm quyền (ngân hàng, bộ , ngành chủ quản của người uỷ thác, chính phủ...) + Lập một bản giao kèo kín giữa công ty với người uỷ thác, trong đó quy định các quyền lợi mà công ty được hưởng khi người uỷ thác không có khả năng thanh toán hoặc không thanh toán đúng hạn và công ty cũng phải cam kết sẽ không công bố việc cầm cố, thế chấp này khi không cần thiết để đảm bảo bí mật cho đối tác. + áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh. Muốn làm được điều này, công ty cần lựa chọn, đánh giá khách hàng và chỉ chấp nhận một số khách hàng trong số những khách hàng có khả năng thanh toán thấp. Tuy nhiên để tránh tâm lý bị phân biệt đối xử cho khách hàng, công ty nên giao kèo mật với những khách hàng được ưu đãi, trong đó quy định rõ một số điều khoản nhất định đã thoả thuận giữa hai bên không được tiết lộ cho bên thứ ba biết khi không cần thiết. Tuy nhiên, điều này sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty . vì vậy, AIRIMEX cũng cần phải thực hiện một số chính sách để ưu đãi, lôi kéo và hấp dẫn được khách hàng như cấp tín dụng trả chậm với lãi suất thấp, tính mức phí uỷ thác hợp lý. Hiện nay công ty đang áp dụng những nghiệp vụ nhập khẩu máy móc thiết bị tương đối phù hợp nhưng không có nghĩa là công ty không ngừng hoàn thiện nghiệp vụ của mình. Công việc thường xuyên của công ty là không ngừng cập nhật các thông tin về chính trị , luật pháp, kinh tế ... của nước ta và các nước đối tác để kịp thời điều chỉnh các nghiệp vụ cho phù hợp . Khi nghiệp vụ đã thông thạo thì sẽ tránh được những chi phí không đáng có do việc không hiểu biết đem lại. Ví dụ, một trong những nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu là nghiệp vụ thanh toán, cán bộ công ty phải đảm nhiệm việc mở thư tín dụng tại một ngân hàng xác định và phải có yêu cầu nội dung các điều khoản trong thư tín dụng phải phù hợp với các điều khoản trong kinh doanh đã ký kết, nếu người mở thư tín dụng không hiểu rõ được những nguyên tắc này thì khi bên xuất khẩu có vi phạm hợp đồng và gây tổn thất cho công ty thì lúc đó công ty sẽ phải hoàn toàn chịu những chi phí này. 3. Tăng cường đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ làm công tác nghiệp vụ Con người là tài sản quý nhất của mỗi quốc gia, mỗi một doanh nghiệp. Bởi vậy, mỗi một quốc gia cũng như mỗi một doanh nghiệp cần có một chính sách thích hợp, những kế hoạch thích hợp để vừa khai thác sử dụng nguồn tài sản quý giá này, vừa bảo toàn và phát triển nó. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty phần lớn là những người trẻ tuổi, được qua tuyển chọn cẩn thận. Tuy nhiên trong thời gian tới để mở rộng kinh doanh sang một số lĩnh vực ngoài ngành khác công ty cần xây dựng kế hoạch đào tạo, nâng cao nghiệp vụ đàm phán cho đội ngũ nhân viên này. Công ty có thể tham gia hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu... để cử cán bộ đi học, nâng cao trình độ, nghiệp vụ ngoại thương... Cử cán bộ đi học thực tế ở các cơ sở sản xuất nhằm nắm bắt được các đặc điểm kỹ thuật ngành hàng kinh doanh. Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước nhằm trao đổi học hỏi kỹ thuật nghiệp vụ kinh doanh, kỹ thuật đàm phán. Cử cán bộ công ty tham gia vào các cuộc hội thảo, chuyên đề về nghiệp vụ kinh doanh. Cho cán bộ của công ty tham dự vào các lớp ngoại ngữ, tin học ngắn hạn(dài hạn) để nâng cao trình độ ngoại ngữ tin học. Tham gia cùng đào tạo với các trường đại học: lập quỹ học bổng, khuyến học, nhận sinh viên thực tập... + Về công tác tuyển chọn nhân sự: -Công ty cũng có thể hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu để xin các sinh viên Giỏi về công ty. -Thông qua các trung tâm xúc tiến việc làm để tuyển chọn nhân sự với các tiêu chuẩn thích hợp. - Tổ chức thi tuyển nhân sự một cách nghiêm túc. 4. Đa dạng hoá hình thức nhập khẩu Trong cơ chế thị trường, thực hiện đa dạng hóa kinh doanh là một yếu tố khách quan mà đa dạng hoá hình thức nhập khẩu cũng là một dạng của nó. Thực hiện việc đa dạng hoá này, một mặt nó phân tán độ rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp, mặt khác nó tạo điều kiện để nâng cao trình độ nghiệp vụ của nhân viên công ty. Hai hình thức nhập khẩu chủ yếu được thực hiện ở công ty XNK hàng không là nhận nhập khẩu ủy thác và nhập khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu của hai hình thức này không cân đối. Công ty chủ yếu hoạt động theo hình thức nhập khẩu uỷ thác mà phí uỷ thác thu được chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá trị hợp đồng nhập khẩu. Vì vậy, công ty nên tăng tỷ trọng hoạt động nhập khẩu trực tiếp để thu được lợi nhuận cao hơn góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hiện tại thì hai hình thức nhập khẩu này vẫn đáp ứng được yêu cầu kinh doanh của công ty. Nhưng trong tương lai không xa, trước nhu cầu nhập khẩu ngày càng lớn, công ty cần mở rộng các hình thức nhập khẩu mới để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của ngành và xã hội. Với đặc thù của mình, công ty có thể áp dụng các hình thức nhập khẩu như: nhập khẩu liên doanh, tạm nhập tái xuất, hàng đổi hàng hoặc có thể trở thành một đại lý của một hãng máy bay trên thế giới. Thông qua các hình thức này, công ty sẽ có điều kiện học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm về quản lý cũng như nghiệp vụ kinh doanh từ các đối tác nước ngoài. 5. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh Thực trạng kinh doanh hiện nay của công ty phụ thuộc rất lớn vào các mặt hàng chuyên ngành. Do vậy trong các năm qua việc kinh doanh của công ty không ổn định. Nhu cầu về trang thiết bị phụ tùng của ngành hàng không là tương đối thường xuyên. Song hiện nay, ngoài công ty ra còn có một số công ty khác trong ngành được phép nhập khẩu trực tiếp. Do vậy, các công ty trong ngành có sự cạnh tranh nhau rất gay gắt. Mặt khác, nhu cầu phụ tùng thiết bị tuy thường xuyên song nhu cầu này ít hay nhiều thay đổi theo từng giai đoạn. Bởi vậy, công ty cần đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh trên cơ sở mặt hàng chuyên ngành. Trong những năm qua, công ty cũng có mở rộng một số mặt hàng ngoài ngành như nhập khẩu ôtô, xe máy, xuất khẩu gạo, cà phê, chè...Song vẫn còn yếu và chưa được công ty quan tâm, đầu tư, phát triển đúng mức vì vậy chưa đem lại lợi nhuận đáng kể cho công ty. Đây là hình thức kinh doanh an toàn và phổ biến nhất để nâng cao doanh thu cũng như lợi nhuận tức là hiệu quả hoạt động kinh doanh. 6. Về tổ chức bộ máy Hiện nay, công ty có ba bộ phận trực tiếp làm công tác kinh doanh XNK, đó là phòng nghiệp vụ I, phòng nghiệp vụ II và phòng kinh doanh. Mà thực chất, chức năng của các bộ phận này không khác nhau nhiều. Phòng nghiệp vụ I và II làm nhiệm vụ xuất nhập khẩu hàng hoá chuyên ngành hàng không, phòng kinh doanh được hạch toán độc lập và thực hiện kinh doanh các mặt hàng ngoài ngành khác. Cho dù có sự khác nhau giữa thiết bị máy bay và các thiết bị khác của ngành hàng không song không có sự khác biệt lớn trong công tác nhập khẩu những thiết bị này. Vì vậy, hai phòng nghiệp vụ nên sát nhập thành một để tận dụng được đội ngũ cán bộ kỹ thuật của hai phòng. Trong phòng nghiệp vụ này có thể chia thành các tổ chuyên thực hiện các nhiệm vụ khác nhau như tổ kỹ thuật , tổ giao nhận... Phòng kinh doanh thực hiện hạch toán độc lập song cũng cần tổ chức lại cho gọn nhẹ, phù hợp. Cùng với việc thiết lập bộ phận nghiên cứu thị trường bằng cách thành lập phòng Kế hoạch -Thị trường. Công ty nên tách chức năng Tổ chức - Hành chính riêng ra khỏi phòng Kế hoạch - Hành chính -Tổ chức như hiện nay. Như vậy với phương án trên, tổ chức bộ máy của công ty sẽ bao gồm các phòng chức năng sau: Phòng Tổ chức - Hành chính; Phòng Kế hoạch - thị trường; Phòng kinh doanh và phòng tài chính - kế toán. 7. Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả Ngoài các điều kiện trên, công ty cần thực hiện một số các biẹn pháp hỗ trợ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty. Một trong số các biện pháp này là : công ty có chính sách huy động và sử dụng vốn hợp lý. Những năm qua, công ty đã không ngừng phát triển nguồn vốn của mình và đã phần nào đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu của công ty . Tuy nhiên, vốn lưu động của công ty còn chiếm tỷ trọng nhỏ, chưa tương xứng với một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu . Mặc dù công ty đã sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhập khẩu thông qua việc chiếm dụng của cả khách hàng và người cung cấp, sử dụng vốn của tổng công ty và của công ty , song công ty cũng nên sử dụng vốn vay để chủ động hơn trong việc nhập khẩu hàng hoá , đảm bảo hàng hoá dự trữ và chia sẻ chi phí. Để huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, công tác kế toán tài chính phải dần được công khai. Công ty nên có kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp. Cụ thể công ty có thể tham khảo một số giải pháp sau: a) Giải pháp huy động vốn dài hạn Phát hành cổ phiếu: Phát hành cổ phiếu là một trong những biện pháp huy động vốn có hiệu quả nhất hiện nay. Cổ phiếu là giấy chứng nhận góp vốn cổ phần và là lợi thế cổ phần cho người mua cổ phiếu. Số lợi tức cổ đông có được trên cơ sở góp vốn của mình. Phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi Trái phiếu là tên chung của các giấy tờ dài hạn, trung hạn bao gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Dựa trên điều kiện cụ thể của công ty, tình hình cụ thể trên thị trường tài chính, công ty có thể linh động sử dụng các hình thức trái phiếu khác nhau: trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có thể thu hồi,... Vay dài hạn và trung hạn ngân hàng Hình thức này công ty sử dụng có hiệu quả khi có quan hệ đối với các nguồn hàng. Bởi vì, vấn đề khó khăn nhất bây giờ là thủ tục vay. Bằng quan hệ tốt của mình, công ty có thể có được lượng vốn lớn hơn với lãi suất thấp. b) Các biện pháp huy động vốn ngắn hạn Vay ngắn hạn ngân hàng và vay các đối tượng khác. Khi có nhu cầu vay vốn, ngân hàng sẽ đánh giá tỷ lệ tự tài trợ, tỷ suất thanh toán hiện hành, tỷ suất thanh toán tức thời... của doanh nghiệp và quyết định cho doanh nghiệp vay vốn không. Khi đã thoả thuận những điều kiện của ngân hàng công ty có thể có ngay số tiền mà mình muốn vay với một mức lãi suất nhất định. Tuy nhiên, khi vay ngắn hạn ngân hàng, công ty nên cân nhắc so sánh lãi suất tiền vay với tỷ suất lợi nhuận hoạt động kinh doanh có thể mang lại để đảm bảo hiệu quả của hoạt động vay. Hưởng tín dụng nhà cung ứng Tín dụng của nhà cung ứng (còn gọi là tín dụng thương mại) là một tín dụng quan trọng và hữu dụng. Dưới hình thức này, doanh nghiệp được phép thanh toán nợ của mình trong khoảng thời gian từ 30- 90 ngày. Khoản nợ được ghi nhận bằng thương phiếu (kỳ phiếu, hối phiếu thương mại). c) Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nâng cao hiệu quả của vốn góp phần nâng cao hiệu quả đi vay vốn của doanh nghiệp cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung. Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để sử dụng nguồn vốn hiện có của công ty có hiệu quả. Để làm được điều này công ty nên thực hiện các biện pháp sau: Chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ quản lý tài chính, tín dụng, hối đoái của nhà nước. Tính toán khả năng lô lãi, thời gian thu hồi vốn trong kinh doanh cũng như dự tính trước những rủi ro có thể sảy ra để đề ra biện pháp phòng ngừa. Cắt giảm chi phí không đáng có trên cơ sở quản lý vốn chặt chẽ song không để tình trạng “vốn chết”, vốn tồn đọng không cần thiết. Việc sử dụng vốn không chỉ nhìn vào lợi ích trước mắt mà còn phải quan tâm đến lợi ích lâu dài có thể đạt được khi sử dụng đồng vốn của mình. Vốn trong kinh doanh bao gồm vốn lưu động và vốn cố định. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả vốn của doanh nghiệp bao gồm cả việc nâng cao hiệu quả 2 nguồn vốn này. Vốn lưu động bao gồm tài sản lưu động và vốn lưu thông. Đối với loại vốn này công ty cần thực hiện các biện pháp sau: Tăng nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá Lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi, an toàn tránh được tình trạng ứ đọng vốn hay dây dưa trong việc thanh toán tiền hàng. Tận dụng vốn của chủ đầu tư trong nhập khẩu ủy thác bằng cách yêu cầu họ chuyển tiền đúng hạn. Như vậy sẽ tiết kiệm được tiền của công ty tập trung vào dự án nhập khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, cần áp dụng linh hoạt với từng đối tượng bạn hàng để tăng sức mạnh trong cạnh tranh. Đẩy mạnh xuất khẩu để tăng nhanh lượng vốn lưu động phục vụ nhập khẩu. Ngoài ra, cần phải quản lý tốt hàng hoá dự trữ, thanh lý kịp thời những hàng hoá ứ đọng, hàng tồn kho để giải phóng vốn. Vốn cố định là vốn đầu tư vào tài sản cố định của công ty. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định nên tham khảo một số biện pháp sau: Tăng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu vì như vậy sẽ khai thác hết công suất của tài sản cố định, giảm chi phí tài sản cố định trên một đơn vị hàng hoá kinh doanh. Tăng tỷ trọng tài sản cố định được sử dụng trong kinh doanh, giảm tài sản cố định chờ thanh lý. Để thực hiện các giải pháp trên công ty phải: Thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả việc sử dụng vốn để kịp thời đề ra các phương án kinh doanh thích hợp. Thực hiện trách nhiệm vật chất với quá trình sử dụng vốn. 8. Một số biện pháp khác Thứ nhất, công ty xem xét lại các hoạt động bất thường của mình để nếu có thể chuyển một số hoạt động bất thường thành hoạt động chính của công ty . Bởi lẽ, với chức năng chính là xuất nhập khẩu , nhưng lợi nhuận từ hoạt động này chiếm tỷ trọng rất nhỏ và có năm lợi nhuận từ hoạt động bất thường còn lớn hơn cả hoạt động chính. Thứ hai, công ty sớm hoàn thành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mà trước mắt là xây dựng trụ sở làm việc. Hiện nay, công ty vẫn chưa có trụ sở làm việc và phải nhờ ở Hải quan Gia Lâm. Là doanh nghiệp hoạt động dịch vụ , trụ sở làm việc khang trang, hiện đại là một trong những biện pháp để khuếch trương tài sản của công ty , tăng thêm uy tín và độ tin cậy đối với khách hàng. Thứ ba, chúng ta cũng thấy rằng AIRIMEX nhập khẩu một số thiết bị theo yêu cầu của Tổng công ty vì vậy nhiều hợp đồng có giá trị nhỏ, lẻ song công ty vẫn phải tiến hành nhập khẩu tức thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ nhập khẩu. Chính điều này khiến cho chi phí tăng cao thậm chí lớn hơn cả doanh thu dẫn đến lợi nhuận không cao. Nên chăng công ty sớm có biện pháp hoặc kiến nghị lên Tổng công ty để khắc phục tình trạng trên. 9. Một số kiến nghị với tổng công ty và cơ quan cấp trên. 9.1 Đối với Nhà nước. Như chúng ta đã nghiên cứu ở các chương trước, môi trường chính trị kinh tế xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Đàm phán ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu là một hoạt động nghiệp vụ trong kinh doanh xuất nhập khẩu , bởi vậy nó cũng chịu sự ảnh hưởng to lớn từ môi trường này nhà nước có thể giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong đó có công ty AIRIMEX bằng các biện pháp sau: -Tạo môi trường chính trị, kinh tế xã hội ổn định nhằm tạo lòng tin cho các doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam hợp tác làm ăn. -Ban hành các chính sách của văn bản pháp luật một cách nhất quán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng quan hệ kinh doanh với nước ngoài. Các chính sách, các văn bản pháp luật của nhà nước quy định trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu thường xuyên thay đổi các văn bản dưới luật, hướng dẫn thi hành thường chậm, phổ biến không đầy đủ nhiều khi mỗi văn bản lại có những cách giải thích , quy định khác nhau. Điều này gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp trong việc áp dụng vào quá trình giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu. - Hoạt động hỗ trợ từ phòng Thương mại-Công nghiệp Việt Nam. Phòng Thương mại-Công nghiệp Việt Nam có thể xúc tiến các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách tổ chức các hoạt động xúc tiến khuếch trương hàng Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế và khu vực cung cấp thông tin về thị trường thế giới cho các doanh nghiệp qua đó hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng thị trường và phát triển sản phẩm. Tổ chức các hội chợ triển lãm, các cuộc giao lưu, hội thảo về vấn đề kinh doanh xuất nhập khẩu để các doanh nghiệp Việt Nam có thể gặp gỡ và tìm kiếm bạn hàng. Cung cấp các chuyên gia giầu kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu làm nhiệm vụ tư vấn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng. 9.2.Đối với Tổng công ty hàng không. Là một đơn vị thành viên của Tổng công ty hàng không Việt Nam hoạt động kinh doanh sản xuất chủ yếu là nhập khẩu các trang thiết bị máy móc phục vụ ngành hàng không nên sự tác động của Tổng công ty có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của công ty. Mặt khác, các khách hàng chính là Tổng công ty và các thành viên của tổng công ty, do vậy mối quan hệ giữa các đơn vị trong ngành hàng không có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh. Công ty AIRIMEX có một số kiến nghị gửi đến Tổng công ty như sau: - Đề nghị Tổng công ty tiếp tục có những quy định và hướng dẫn cụ thể về công tác thanh toán giữa các đơn vị thành viên , tạo điều kiện cho công ty có cơ sở nhanh chóng giải quyết các vấn đề thanh toán đúng theo tiến độ hợp đồng uỷ thác, đặc biệt xử lý các khoản nợ với A75 tránh tình trạng nợ đọng kéo dài , công ty thiếu vốn kinh doanh. - Đề nghị Tổng công ty tiếp tục ủng hộ AIRIMEX trong việc hỗ trợ thêm vốn khi công ty triển khai các phương án mở rộng kinh doanh cần nhiều vốn. Đồng thời hỗ trợ công ty trong việc thực hiện các thủ tục mở rộng ngành nghề kinh doanh theo quy định của pháp luật. - Hiện nay một số hợp đồng xuất nhập khẩu vật tư, thiết bi của các đơn vị trong ngành hàng không qua AIRIMEX với nhiều lý do khác nhau. Công ty xuất nhập khẩu hàng không đề nghị Tổng công ty có những chính sách ưu tiênh , khuyến khích các đơn vị nội bộ hợp tác phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, hạn chế tình trạng tiêu thụ sản phẩm của các đơn vị ngoài ngành, trong khi trong ngành cũng đáp ứng được , với chất lượng giá không kém hơn đơn vị ngoài ngành dẫn đến thiếu việc làm, lãng phí nguồn nhân lực. Đồng thời đề nghị các cấp có thẩm quyền trong Tổng công ty kịp thời sửa đổi quy chế xuất nhập khẩu cho phù hợp , khắc phục tình trạng xé lẻ khó quản lý và các thiếu sót đã bộc lộ trong thời gian vừa qua, tạo điều kiện cho AIRIMEX có thêm việc làm sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động và cơ sở vật chất sẵn có. - Hiện nay, chi nhánh phía Nam của công ty xuất nhập khẩu hàng không đang phải thuê nhà tư làm trụ sở, đề nghị Tổng công ty giúp đỡ, tạo điều kiện cấp cho chi nhánh một khu đất gần khu vực sân bay Tân Sơn Nhất làm trụ sở kinh doanh. Kết luận C ùng với trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ phi công, phương tiện, thiết bị Hàng không là một trong những nhân tố quyết định đến việc đảm bảo an toàn cho máy bay cũng như hành khách và tài sản trên máy bay. Đây là một trong những vấn đề được sự quan tâm của cả cộng đồng Hàng không Quốc tế. Vấn đề này đã được ghi nhận trong luật Hàng không dân dụng quốc tế và luật pháp của mỗi quốc gia. Nó đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi nhà khai thác máy bay phải nhận thức đầy đủ để Hàng không dân dụng quốc tế phát triển an toàn và trở thành phương tiện củng cố hoà bình trên thế giới. Việc nhập khẩu máy móc chuyên ngành Hàng không trong điều kiện nước ta hiện nay là hết sức cần thiết để hiện đại hoá, phát triển ngành Hàng không, góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặt khác, trang bị máy móc thiết bị còn góp phần không nhỏ trong công tác quản lý bầu trời, góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng và chủ quyền không phận quốc gia. Như vậy, xét trên cả ba khía cạnh Kinh tế - Chính trị - Xã hội, công tác nhập khẩu thiết bị Hàng không đều có một vài trò quan trọng đòi hỏi Ngành và Nhà nước ta phải quan tâm hơn nữa để hiện đại hoá ngành Hàng không Việt Nam ngang tầm Quốc tế. Hơn mười năm hoạt động, từ một phòng vật tư- kỹ thuật thuộc Cục Hàng không - Bộ giao thông vận tải trở thành một công ty thành viên của Tổng công ty Hàng không Việt Nam, công ty xuất nhập khẩu Hàng không đã đạt được những kết quả đáng kể trong hoạt động nhập khẩu thiết bị máy móc phục vụ cho ngành Hàng không. Thông qua hoạt động kinh doanh của mình, công ty đã trang bị cho ngành Hàng không những thiết bị hiện đại với chất lượng cao, tính năng tiên tiến và tuyệt đối an toàn. Đồng thời, công ty đã góp phần tăng trưởng chung cho toàn ngành, đem lại lợi nhuận và cải thiện nâng cao đời sống công nhân viên. Hiện nay, công ty đang phấn đấu trở thành doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chủ chốt của Tổng công ty Hàng không Việt Nam và của ngành Hàng không. Tuy nhiên, mới bước vào kinh doanh theo cơ chế thị trường, công ty không tránh khỏi những khó khăn, bất lợi trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Để vượt qua khó khăn và nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu đòi hỏi sự nỗ lực, đoàn kết cố gắng chung của cán bộ, nhân viên toàn công ty, sự quan tâm giúp đỡ của Ngành và của Nhà nước. Những kết quả mà công ty đã đạt được cho phép khẳng định rằng, công ty đã có một hướng đi đúng đắn thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, đó là đầu tư vào con người và nhấn mạnh vai trò trọng yếu của hoạt động nhập khẩu. Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu chính là điều kiện để nâng cao chất lượng hoạt động của công ty. Với phạm vi nghiên cứu rộng, lại hạn chế về thời gian, trình độ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót. Song người viết hy vọng những nghiên cứu, suy nghĩ tìm tòi của mình trong đề tài sẽ có ý nghĩa thiết thực trong hoạt động nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu Hàng không. Cuối cùng một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Quang Huy, người đã trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài cùng các cô chú, anh chị phòng kinh doanh công ty xuất nhập khẩu Hàng không đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Danh mục tài liệu tham khảo Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII- H.Chính trị quốc gia Hà Nội 1996. Kinh tế học quốc tế -Tập I, Tập II - PAUL R.KRUCMAN- MAURICE OBSTFEL. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nôi- 1998 Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu - PGS - TS Võ Thanh Thu - NXB Thống Kê Giáo trình Thương mại quốc tế - PGS -TS Nguyễn Duy Bột - NXB Thống kê Hà Nội -1997. Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Tác giả: Vũ Hữu Tửu, Trường ĐH ngoại thương. Giáo trình Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế - PGS - TS Trần Chí Thành (chủ biên) Trường ĐH kinh tế quốc dân- Khoa thương mại - NXB Giáo dục. Thông tin Hàng không - viện Khoa học Hàng không Tạp chí Hàng không Các báo cáo tổng kết kinh doanh của công ty AIRIMEX 1998 - 2001 Các báo cáo nhập khẩu của AIRIMEX 1998 - 2001 Thời Báo kinh tế Việt Nam Tạp chí Thương mại Tạp chí ngoại thương Nghị định 57/CP/1998 Luật Thương mại Một số văn bản pháp lý khác... Mục Lục Lời mở đầu Trang Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu I. Vai trò của nhập khẩu đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước Khái niệm nhập khẩu 1 Vai trò của nhập khẩu trong nền kinh tế 2 Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu 5 II. Nội dung hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh XNK 1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu 7 Nghiên cứu thị trường trong nước 8 Nghiên cứu thị trường nước ngoài 10 Lựa chọn mặt hàng, phương án nhập khẩu và đối tác giao dịch Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng 13 Giao dịch đàm phán 13 Ký kết hợp đồng 15 Tổ chức thực hiện hợp đồng 18 III. Thị trường thiết bị hàng không và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không 23 Thị trường thiết bị hàng không 23 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không Chủ trương chính sách của Nhà nước 24 Tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu 25 Khoa học công nghệ 25 Các nhà cung cấp 26 Hệ thông tài chính - ngân hàng 26 Kiến thức về mặt hàng nhập khẩu 26 Nguồn vốn 27 Trình độ nghiệp vụ và quản lý nhập khẩu của doanh nghiệp 27 Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không tại công ty XNK hàng không (AIRIMEX) I.Tổng quan về công ty XNK hàng không 28 Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của công ty 28 Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty 30 Chức năng nhiệm vụ của công ty qua các thời kỳ 30 Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty XNK hàng không 32 Đặc điểm kinh doanh của công ty AIRIMEX 35 Hoạt động kinh doanh của công ty 35 Mặt hàng kinh doanh của công ty 37 Vốn kinh doanh 40 Lao động 40 Kết quả hoạt động kinh doanh của AIRIMEX 43 II. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty AIRIMEX 46 Tổ chức hoạt động nhập khẩu thiết bị 46 Nghiên cứu thị trường 46 Giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng 49 Phương thức nhập khẩu 62 Thực hiện hợp đồng nhập khẩu 65 Kết quả hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không 73 Kim ngạch nhập khẩu 73 Mặt hàng nhập khẩu 75 Thị trường nhập khẩu 76 Khách hàng chủ yếu của công ty 78 Đánh gia hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không của công ty III. Một số kết luận rút ra từ phân tích thực trạng 80 Ưu điểm 80 Nhược điểm và những tồn tại 82 Nguyên nhân 84 Nguyên nhân khách quan 84 Nguyên nhân chủ quan 85 Chương III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu thiết bị hàng không I. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian tới 88 Định hướng kinh doanh nói chung 88 Phương hướng phát triển hoạt động nhập khẩu của AIRIMEX trong thời gian tới 89 II. Biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu 90 Hoàn thiện công tác nhập khẩu thiết bị 90 Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường 90 Hoàn thiện công tác giao dịch đàm phán 93 Hoàn thiện công tác ký kết hợp đồng 95 Hoàn thiện việc tổ chức hợp đồng nhập khẩu 96 Làm thủ tục hải quan 96 Tổ chức tiếp nhận và vận chuyển hàng hoá 97 Hoàn thiện trong thanh toán 98 Tăng cường đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho cán bô làm công tác nghiệp vụ 100 Đa dạng hoá hình thức nhập khẩu 101 Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh 102 Về bộ máy tổ chức 102 Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. 105 Một số biện pháp khác 105 Một số kiến nghị với cơ quan cấp trên 106 Đối với Nhà nước 107 Đối với Tổng công ty 107 Kết luận ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33953.doc