Biện pháp hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu máy móc thiết bị của Công ty Cổ phần xây dựng thương mại Xuất nhập khẩu

Tài liệu Biện pháp hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu máy móc thiết bị của Công ty Cổ phần xây dựng thương mại Xuất nhập khẩu: LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam là quốc gia đang trong quá trình Công nghiệp hóa – hiện đại hóa vì vậy vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đã trở thành hoạt động mang tính chất sống còn cho sự phát triển của nền kinh tế, giúp đưa nền kinh tế Việt Nam hòa nhập với nền kinh tế thế giới. Hoạt động xuất khẩu cho phép ta có thể khai thác được lợi thế so sánh của đất nước, thiết lập các mối quan hệ về văn hóa - xã hội, thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát triển. Còn hoạt động nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu m... Ebook Biện pháp hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu máy móc thiết bị của Công ty Cổ phần xây dựng thương mại Xuất nhập khẩu

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1440 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Biện pháp hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu máy móc thiết bị của Công ty Cổ phần xây dựng thương mại Xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áy móc thiết bị sẽ giúp cho quá trình công nghiệp hóa tiếp cận nhanh hơn, dễ dàng hơn với những công nghệ tiên tiến trên thế giới, giúp ta có cơ hội rút ngắn và bắt kịp trình độ của các nước phát triển. Thêm vào đó, nhập khẩu còn giúp cung cấp nguyên vật liệu đầu vào giúp cho sản xuất trong nước được ổn định và liên tục, tạo động lực thúc đẩy sự chuyển dịch của nền kinh tế theo hướng hoàn thiện hơn. Trước những vai trò vô cùng quan trọng trên của nhập khẩu thì việc hoàn thiện và đẩy mạnh công tác nhập khẩu là rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng để tồn tại, phát triển trên thị trường và với nền kinh tế Việt Nam nói chung. Sau một thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần xây dựng thương mại XNK em đã được tìm hiểu về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Doanh nghiệp, qua đó em thấy rằng hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Công ty, kim ngạch hàng năm của hoạt động này luôn chiếm tỷ trọng lớn trên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty. Xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Công ty nói riêng và của hoạt động sản xuất nói chung, trong đợt thực tập này em chọn đề tài : “Biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị của Công ty Cổ phần xây dựng thương mại xuất nhập khẩu” cho chuyên đề thực tập. Chuyên đề bao gồm 3 phần chính: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về nhập khẩu máy móc và thiết bị xây dựng. Chương 2: Thực trạng hoạt động nhập khẩu ở Công ty Cổ phần xây dựng thương mại XNK. Chương 3: Phương hướng và biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị ở Công ty. Trong quá trình viết chuyên đề thực tập, em đã nhận được sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình của Thạc sĩ Nguyễn Quang Huy, sự giúp đỡ nhiệt tình của toàn thể cán bộ kinh doanh của Công ty . Tuy nhiên, do thời gian thực tập không dài và những hạn chế về mặt kiến thức nên bài viết của em còn nhiều sai sót, em rất mong sẽ nhận được những ý kiến đóng góp của thầy, cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHẬP KHẨU MÁY MÓC VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG. Sự cần thiết và vai trò của hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị. Nhập khẩu máy móc thiết bị là việc mua máy móc thiết bị xây dựng từ nước ngoài nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước để phát triển sản xuất kinh doanh. Năm 2007, nước ta có tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 60,83 tỷ USD, cũng là mức kỷ lục từ trước tới nay, tăng tới 35,5% so với năm trước. Đã có 13 mặt hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên: Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt trên 10 tỷ USD, xăng dầu đạt trên 7 tỷ USD, sắt thép đạt gần 5 tỷ USD, vải 4 tỷ USD, điện tử máy tính và linh kiện đạt gần 3 tỷ USD. Thực trạng hiện nay cho thấy nhu cầu về máy móc thiết bị xây dựng tăng cao bởi Việt Nam đang trên con đường hội nhập với nền kinh tế thế giới nên việc xây dựng các yếu tố về cơ sở hạ tầng như đường xá, nhà máy, các khu đô thị, các khu công nghiệp… là nền tảng quan trọng cho việc phát triển nền kinh tế. Bên cạnh đó phải kể đến việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO càng làm cho nước ta trở thành điểm đến của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy mà việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng là cần thiết hơn bao giờ hết. Mặt khác nước ta là nước có thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên với nhiều mỏ than, mỏ quặng. Hàng năm nước ta xuất khẩu hàng trăm triệu tấn than, quặng, đóng góp rất nhiều vào ngân sách nhà nước, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động… Vì vậy mà việc nhập khẩu máy móc thiết bị để khai thác những tài nguyên trên là rất quan trọng. Cụ thể là những máy xúc, máy ủi, máy san, máy cẩu, cần cẩu… để có thể khai thác triệt để những lợi thế mà thiên nhiên ban tặng cho nước ta. Nước ta phải nhập khẩu máy móc thiết bị từ nước ngoài mà không mua ở trong nước là xuất phát từ lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo. Theo ông, mọi nước luôn có thể và rất có lợi khi tham gia vào quá trình phân công lao động và thương mại quốc tế. Bởi việc phát triển ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Mỗi quốc gia chỉ nên chuyên môn hoá vào một số sản phẩm nhất định và đổi chúng lấy những hàng hoá nhập khẩu từ các nước khác. Ricardo cũng cho rằng, những nước có lợi thế hoàn toàn so với các nước khác hoặc bị kém lợi thế hoàn toàn trong việc sản xuất mọi sản phẩm thì vẫn có thể có lợi khi tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế, vì mỗi nước có lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hang nhất định và kém lợi thế so sánh nhất định ở một số mặt hàng khác. Đưa lý thuyết này vận dụng vào Việt Nam ta thấy mặt hàng máy móc thiết bị không phải là một lợi thế so sánh của nước ta so với các nước khác. Nước ta có lợi thế so sánh ở những mặt hàng sử dụng sức lao động chân tay và những mặt hàng được thiên nhiên ưu đãi như nông sản, may mặc, linh kiện điện tử, đồ thủ công mỹ nghệ… Năm 2007 (năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO) kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt khoảng 48,38 tỷ USD. Đã có 9 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, sản phẩm gỗ, điện tử máy tính, cà phê, gạo và cao su với kim ngạch đạt 33 tỷ USD, chiếm 68,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Do đó khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, nước ta sẽ nhập khẩu được nhiều máy móc thiết bị với giá rẻ hơn, chất lượng tốt hơn ở những nước chuyên môn hoá sản xuất về máy móc thiết bị xây dựng nhằm chuyên tâm hoàn toàn vào việc phát triển những mặt hàng được coi là thế mạnh của nước ta. Tóm lại, sự cần thiết và vai trò của nhập khẩu máy móc thiết bị là: Ở tầm vĩ mô: Ngoài việc góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng, giúp nước ta ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới sâu hơn còn giúp nước ta mở rộng và duy trì các quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước. Bên cạnh đó còn phát huy và sử dụng tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động của đất nước. Ở tầm vi mô là cung cấp những máy móc thiết bị cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp, giúp họ thực hiện được tốt hơn những mục tiêu đã đề ra. Nội dung và các phương thức nhập khẩu máy móc thiết bị. Nội dung nhập khẩu. Nghiên cứu thị trường máy móc thiết bị, lựa chọn đối tác kinh doanh. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu, lựa chọn bạn hàng là việc đầu tiên mà mỗi doanh nghiệp phải làm khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Nghiên cứu thị trường là quá trình xác định nhu cầu của thị trường, xác định giá cả và số lượng hàng hoá cần mua bán. Thông qua quá trình nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ nắm bắt được các thông tin về những loại hàng hoá, dịch vụ, giá cả, khả năng cung ứng. Từ đó, doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định đúng đắn cho công tác xâm nhập thị trường, đồng thời doanh nghiệp cũng có cơ sở để lựa chọn đối tác kinh doanh phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp. Trong khâu này, doanh nghiệp cần chú ý nhiều đến giá cả của những loại máy móc thiết bị cần nhập khẩu bởi nếu doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá với giá cao thì chi phí sẽ tăng và lợi nhuận sẽ giảm xuống, giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến giá cả máy móc thiết bị xây dựng mà doanh nghiệp cần quan tâm là: Cạnh tranh: việc cạnh tranh trên thị trường cung ứng máy móc thiết bị xây dựng sẽ ảnh hưởng đến giá cả của hàng hoá đó. Chính trị và luật pháp: một số quốc gia có chính sách khuyến khích xuất khẩu nên các doanh nghiệp trong nước được hỗ trợ nhiều làm giảm chi phí do đó giá cả có thể sẽ thấp hơn ở những nước khác. Thị trường máy móc thiết bị của doanh nghiệp thương mại được mô tả như sau: Hình 1: Thị trường của doanh nghiệp. Thị trường đầu ra Doanh nghiệp Thị trường đầu vào Đồi thủ cạnh tranh Thị trường đầu vào. Khi nghiên cứu vấn đề nhập khẩu, cần tập trung nghiên cứu thị trường đầu vào, để có thể biết được thị trường nào có triển vọng nhất để tiến hành nhập khẩu máy móc thiết bị, khả năng nhập khẩu được bao nhiêu, chất lượng và dịch vụ kèm theo như thế nào, do khoảng cách địa lý ở mỗi thị trường nhập khẩu là khác nhau, nên doanh nghiệp cần phải xem xét kỹ để lựa chọn phương pháp nhập khẩu cho phù hợp. Đây là một hoạt động rất quan trọng và có ý nghĩa đối với sự ổn định và hiệu quả của nguồn cung cấp hàng hoá cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nếu như tìm được nguồn hàng hợp lý còn tăng khả năng hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thị trường đầu ra. Thị trường đầu ra có liên quan trực tiếp đến vấn đề tiêu thụ hàng hoá, do đó có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong hoạt động tiêu thụ. Nghiên cứu thị trường đầu ra bao gồm: mặt hàng, lượng cầu, chủng loại mặt hàng cụ thể, giá cả mà khách hàng có thể chấp nhận được, các yêu cầu về tính năng kỹ thuật mà khách hàng yêu cầu về máy móc thiết bị… sẽ giúp doanh nghiệp có được những chiến lược, sách lược, công cụ điều khiển tốt hơn việc tiêu thụ hàng hoá. Đối thủ cạnh tranh. Nghiên cứu kỹ những đối thủ cạnh tranh trong nước, giúp doanh nghiệp có cái nhìn thực tế hơn về thị trường, nắm chắc giá cả và nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn biết được đối thủ cạnh tranh là ai, đang chiếm lĩnh tại thị trường nào, những điểm mạnh, điểm yếu để đưa ra những chiến lược hợp lý cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm nhằm đạt được những mục tiêu kinh doanh đã đề ra. Ngoài ra, doanh nghiệp cần nghiên cứu về tình hình kinh tế chính trị, luật pháp, văn hoá, tập quán thương mại của đất nước nhập khẩu nói chung và doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng để phục vụ cho việc giao thương có hiệu quả. Sau đó, doanh nghiệp sẽ lựa chọn đối tác kinh doanh phù hợp để tiến hành hoạt động nhập khẩu. Xây dựng kế hoạch nhập khẩu. Xây dựng kế hoạch nhập khẩu là xây dựng kế hoạch hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra trên cơ sở những thông tin thu thập được trong quá trình nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp. Việc xây dựng các kế hoạch này, giúp doanh nghiệp hạn chế được những rủi ro, mang lại hiệu quả cao trong hoạt động nhập khẩu. Nội dung kế hoạch nhập khẩu bao gồm: Phân tích, đánh giá về tình hình thị trường, về nguồn hàng, nguồn cung, cầu trên thị trường cùng với những bảng báo giá về máy móc thiết bị cần nhập khẩu ở các thị trường. Nguồn lực hiện tại của doanh nghiệp và mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh nhập khẩu mà doanh nghiệp đã đặt ra. Dự đoán trước các yếu tố như doanh thu, điểm hoà vốn, chi phí, lãi dự tính, tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu, đánh giá rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải khi thực hiện hoạt động nhập khẩu. Việc xây dựng kế hoạch nhập khẩu bao gồm các bước sau: Bước 1: Đánh giá và phân tích tổng quát tình hình thị trường và những doanh nghiệp cung cấp máy móc thiết bị xây dựng. Bước 2: Lựa chọn những mặt hàng nhập khẩu, phương thức kinh doanh hợp lý. Bước 3: Đề ra những mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp về doanh số, lợi nhuận, tỷ suất, các mục tiêu về an toàn. Bước 4: Đề ra những biện pháp thực hiện, những công cụ cụ thể để hoàn thành tốt những mục tiêu đã đề ra. Bước 5: Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua việc tính toàn các chỉ tiêu như: thời gian hoàn vốn, tỷ suất lợi nhuận, điểm hoà vốn, tỷ suất ngoại tệ… Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng. Giao dịch: Giao dịch là sự tiếp xúc, quan hệ giữa các cá thể để thiết lập mối quan hệ, để trao đổi hoặc thoả mãn một nhu cầu nào đó. Trên thị trường thế giới, tồn tại nhiều phương thức giao dịch như: giao dịch trực tiếp, giao dịch tại hội chợ triển lãm, giao dịch qua trung gian, giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá, buôn bán đối lưu, đấu giá quốc tế, đấu thầu quốc tế. Mỗi một phương thức có đặc điểm và cách thức tiến hành riêng, trong đó phương thức giao dịch trực tiếp là phương thức phổ biến nhất. Hình thức giao dịch này trải qua các bước như: hỏi giá, hoàn giá, chấp nhận, xác nhận, đặt hàng. Đàm phán: Đàm phán là sự gặp gỡ của các bên để bàn bạc, giải quyết những lợi ích của các bên trên cở sở các bên cùng có lợi nhằm đi đến thống nhất các điều kiện, các quan điểm bất đồng. Nội dung của các cuộc đàm phán thương mại bao gồm: tên hàng, số lượng, chất lượng, giá cả, phẩm chất, bao bì, đóng gói, bảo hiểm, giao hàng, thanh toán, khiếu nại, phạt, bồi thường thiệt hại, các trường hợp bất khả kháng và trọng tài. Các hình thức đàm phán chính được sử dụng tại Công ty: Đàm phán qua thư tín: hình thức này tiết kiệm được chi phí nhưng khó đánh giá được đối phương, nhiều nội dung không được đàm phán kỹ và giải quyết triệt để. Đàm phán qua các phương tiện truyền thông: hình thức này ngày càng phát triển khi các phương tiện truyền thông phát triển. Tốn kém ít chi phí, đàm phán được nhiều vấn đề nhưng không đánh giá được nhiều về đối tác. Đàm phán trực tiếp: Do tính chất của hợp đồng nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty thường là những hợp đồng lớn nên việc gặp gỡ giữa các bên để đàm phán trực tiếp là rất cần thiết. Sử dụng phương thức này giúp cho công ty nắm bắt được tâm lý và phản ứng của đối tác nhưng tốn khá nhiều chi phí. Ký kết hợp đồng: Sau khi đàm phán và thống nhất được các nội dung, các bên tiến tới ký kết hợp đồng. Một hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận giữa những bên có quốc tịch khác nhau trong đó một bên là bên bán có nghĩa vụ chuyển nhượng quyền sở hữu cho bên nhập khẩu một hay nhiều loại hàng hoá. Bên mua có trách nhiệm lấy hàng về và trả tiền. Hợp đồng là cơ sở xác định trách nhiệm của các bên, làm căn cứ cho việc phân xử khi xảy ra tranh chấp, vi phạm hợp đồng. Nội dung của hợp đồng nhập khẩu máy móc thiết bị thường gồm những mục sau: Đối tượng của hợp đồng: quy định khái quát về những nét chủ yếu của hợp đồng. Các định nghĩa: giải thích các từ ngữ, thuật ngữ chuyên môn được sử dụng trong hợp đồng. Công suất: các chỉ tiêu mà máy móc xây dựng có thể hoạt động trong một thời gian nhất định. Giá cả và trị giá của hợp đồng: giá thành của máy móc thiết bị nhập khẩu, phương pháp tính giá, cơ sở tính giá, đồng tiền tính giá. Điều kiện giao hàng: ở Công ty cổ phần xây dựng thương mại XNK thường được giao hàng theo giá CIF (Incoterm 2000). Thời gian giao hàng: do tính chất của việc nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng là nhập nhiều chủng loại máy móc thiết bị khác nhau nên có thể giao hàng theo nhiều đợt phù hợp với thời giant hi công công trình. Điều kiện thanh toán: thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ với đồng tiền thanh toán thường là USD. Kiểm tra hàng hoá: quyền và trách nhiệm của mỗi bên trong việc kiểm tra hàng hoá trước khi bốc hàng tại cảng đi và sau khi giao hàng tại cảng đến Tài liệu kỹ thuật: các tài liệu kỹ thuật mà người bán phải cung cấp cho người mua. Bảo hành: gồm bảo hành chung, bảo đảm cơ khí, bảo đảm các chỉ tiêu thực hiện. Chạy thử và nghiệm thu: sau khi nhận hàng, công ty tiến hành lắp đặt máy mọc sau đó cho chạy thử. Nếu phù hợp với yêu cầu, các nên sẽ lập biên bản nghiệm thu và bắt đầu đưa vào vận hành. Trợ giúp kỹ thuật: quy định rõ khối lượng công việc và phạm vi giúp đỡ kỹ thuật như hướng dẫn vận hành, giám sát, sửa chữa, hướng dẫn chuyên gia, công nhân… Ngoài ra còn một số điều kiện khác mà hai bên thoả thuận với nhau rồi tiến hành ký kết hợp đồng. Ký kết hợp đồng ngoại thương là việc xác nhận những nội dung và các điều kiện mua bán đã được hai bên thống nhất dưới dạng văn bản theo những điều kiện và điều khoản. Triển khai thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu phụ thuộc vào những vấn đề sau: phụ thuộc vào loại hình kinh doanh nhập khẩu, phụ thuộc vào điều kiện Incoterms trong hợp đồng, phụ thuộc vào phương thức thanh toán, phụ thuộc vào cơ chế quản lý nhập khẩu của Nhà nước. Có thể tóm tắt các bước triển khai thực hiện hợp đồng nhập khẩu qua 9 bước sau: Bước 1: Xin giấy phép nhập khẩu (nếu có). Doanh nghiệp phải xem mặt hàng nhập khẩu thuộc diện nào, phải xin giấy phép hoặc không. Đối với hàng mậu dịch, Bộ Thương mại là cơ quan cấp giấy phép, còn đối với hàng phi mậu dịch, Tổng cục hải quan là cơ quan cấp giấy phép. Giấy phép nhập khẩu để làm thủ tục hải quan và để thanh toán tiền hàng. Bước 2: Đôn đốc người bán chuẩn bị hàng. Sau khi xin được giấy phép nhập khẩu (nếu có), người mua đôn đốc người bán chuẩn bị hàng để giao hàng đúng với thời gian đã thoả thuận trong hợp đồng. Bước 3: Bước đầu thực hiện yêu cầu của khâu thanh toán. Nếu hợp đồng nhập khẩu thanh toán bằng thư tín dụng. Nhà nhập khẩu phải đến ngân hàng để làm thủ tục mở thư tín dụng cho người bán hàng. Tiến hành kỹ quỹ mở thư tín dụng theo ngân hàng. Ngân hàng yêu cầu nộp và xuất trình chứng từ theo quy định. Nếu hợp đồng nhập khẩu thanh toán bằng phương thức đổi chứng từ trả tiền ngay (CAD). Nhà nhập khẩu đến ngân hàng để ký biên bản ghi nhớ với 4 nội dung: Quy định thanh toán bằng phương thức CAD. Quy định thời hạn trả tiền. Quy định về bộ chứng từ thanh toán. Quy định về người phải trả phí thanh toán. Chuyển đủ 100% số tiền hợp đồng đến ngân hàng để lập tài khoản tín thác để thanh toán cho người bán Nếu hợp đồng nhập khẩu thanh toán bằng phương thức chuyển tiền trả trước: Nhà nhập khẩu phải đến ngân hàng để làm thủ tục chuyển tiền trả trước cho người bán gồm: Hoàn thành đơn yêu cầu chuyển tiền. Có hợp đồng xuất khẩu có điều khoản người mua phải trả tiền trước cho người bán. Có giấy phép nhập khẩu (nếu có). Có giấy phép chuyển tiền của Bộ Tài chính. Nếu hợp đồng nhập khẩu thanh toán bằng phương thức khác: người bán phải chuẩn bị hàng, tiến hành giao hàng thì mới thực hiện việc thanh toán được. Bước 4: Thuê phương tiện vận tải. Nhà nhập khẩu thực hiện theo nhóm E,F trong Incoterms 2000 và phải căn cứ vào đặc điểm và khối lượng vận chuyển của hàng hoá để lựa chọn phương thức thuê tàu cho phù hợp, đảm bảo thuận lợi và nhanh chóng. Nếu hàng hoá có khối lượng lớn thì thường thuê tàu chuyến, có khối lượng nhỏ thì thường thuê tàu chợ. Bước 5: Mua bảo hiểm cho hàng hoá. Để ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm. Có 3 điều kiện bảo hiểm chính: bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A), bảo hiểm có tổn thất riêng (điều kiện B) và bảo hiểm miễn tổn thất riêng (điều kiện C). Ngoài ra còn một số bảo hiểm phụ như: mất trộm, rò gỉ, vỡ…, một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như: bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình công, bạo động và dân biến. Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên 4 căn cứ sau: Điều khoản của hợp đồng theo điều kiện nào trong nhóm E, F. Tính chất của hàng hoá. Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng. Loại tàu chuyên chở. Bước 6: Làm thủ tục hải quan nhập khẩu. Các bước cần tiến hành khi làm thủ tục hải quan gồm: Hoàn thành bộ hồ sơ hải quan theo quy định để nộp cho cơ quan hải quan. + Thời gian khai báo là 30 ngày kể từ khi về đến của nhập khẩu đầu tiên. + Bộ hồ sơ gồm: tờ khai hàng nhập khẩu, hợp đồng nhập khẩu, hoá đơn thương mại, vận đơn, phiếu đóng gói hàng hoá, giấy phép nhập khẩu (nếu có), giấy chứng nhận mã số doanh nghiệp nhập khẩu. Tính thuế cho hàng hoá nhập khẩu: Hiện nay các doanh nghiệp phải tự kê khai tính thuế để ghi vào tờ khai hải quan, còn cơ quan hải quan chỉ kiểm tra. Xuất trình hàng hoá kiểm tra (kiểm hoá). Sau khi kiểm hoá xong, bộ phận có liên quan sẽ xác nhận trên tờ khai và đây là cơ sở để hải quan ra thông báo thuế đến doanh nghiệp. Kết thúc kiểm tra. Nếu hồ sơ hợp lệ, kiểm hoá đúng theo khai báo của doanh nghiệp thì cơ quan hải quan sẽ ra thông báo nộp thuế chuyển đến doanh nghiệp. Bước 7: Nhận hàng từ người vận tải. Nhà nhập khẩu phải liên hệ với chủ tàu, cảng biển, đại lý vận tải trực tiếp hay thông qua một đơn vị đã được uỷ thác để nhận hàng. Toàn bộ hồ sơ đã được cơ quan hải quan thông qua phải gửi kèm cho chủ phương tiện vận chuyển nội địa để thay mặt người nhập khẩu áp tải hàng. Nếu hàng nhập khẩu là hàng rời, hàng theo tàu chuyến phải tổ chức kiểm tra hàng tại thời điểm mở công hàng kiểm hoá. Nếu hàng hoá là nguyên đai nguyên kiện, không có dấu hiệu hư hỏng sẽ được bản giao theo phương thức nguyên đai nguyên kiện. Bước 8: Thanh toán tiền hàng. Nhà nhập khẩu phải thanh toán tiền hàng đầy đủ đúng theo quy địn trong hợp đồng như số lượng tiền cần phải trả, đồng tiền thanh toán, địa điểm, phương thức thanh toán... Các phương thức thanh toán thường được sử dụng trong các giao dịch thanh toán quốc tế là: phương thức giao chứng từ trả tiền, phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ, phương thức chuyển tiền. Ngoài ra còn phương thức ghi sổ hay thanh toán bằng tiền mặt. Bước 9: Khiếu nại (nếu có) Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu có thiếu hụt, mất mát, hư hỏng hàng hoá, người nhập khẩu có thể khiếu nại người bán, người vận tải hoặc công ty bảo hiểm. Đánh giá kết quả hoạt động nhập khẩu và đề ra những kế hoạch tiếp theo. Qua mỗi một hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp cần phải đánh giá những mặt đã làm được, chưa làm được qua đó rút ra bài học kinh nghiệm cho những lần hoạt động nhập khẩu tiếp theo. Qua đây cũng nhằm khen thưởng động viên hoặc phê bình những thành viên chưa tích cực. Kết quả của bước này giúp doanh nghiệp giảm bớt những hạn chế, tăng cường những ưu điểm trong hoạt động nhập khẩu và đưa ra phương hướng cho những kế hoạch kinh doanh tiếp theo. Các chỉ tiêu thường dùng để đánh giá hoạt động nhập khẩu: Chủng loại hàng hoá thực hiện so với kế hoạch. Số lượng hàng hoá nhập khẩu so với đơn đặt hàng. Tiến độ nhập hàng so với hợp đồng. Doanh số mua và bán hàng hoá. Chi phí cho hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận đạt được so với kế hoạch và cùng kỳ năm trước. Các phương thức nhập khẩu máy móc thiết bị. Nhập khẩu hàng hoá trực tiếp. Nhập khẩu trực tiếp là phương thức mua bán quốc tế mà người mua và người bán có thể gặp gỡ trực tiếp hoặc thông qua các thư từ giao dịch để thiết lập quan hệ mua bán. Phương thức này giúp cho doanh nghiệp có thể thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với nhà cung ứng, không mất chi phí cho hoạt động trung gian, việc giao dịch trực tiếp có thể dễ dàng đi đến thống nhất giữa hai bên do nắm bắt được tình hình của đối tác. Để hoạt động nhập khẩu trực tiếp được diễn ra nhanh chóng và thuận tiện thì doanh nghiệp phải có đủ tiềm lực về tài chính cũng như kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh. Nhập khẩu uỷ thác. Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu được hình thành khi một doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu hàng hoá nhưng chưa có đủ điều kiện để nhập khẩu trực tiếp nên doanh nghiệp đã uỷ thác cho một doanh nghiệp khác trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của doanh nghiệp. Bên nhận uỷ thác có trách nhiệm thực hiện đúng các nội dung của hợp đồng uỷ thác và sẽ được nhận một phần thù lao gọi là phí uỷ thác mà bên nhờ uỷ thác sẽ phải trả. Với hình thức nhập khẩu này doanh nghiệp không phải bỏ nhiều vốn vào việc nghiên cứu thị trường và mức độ rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng thấp. Nhưng do đây là hình thức nhập khẩu qua trung gian, chi phí cho việc nhập khẩu hàng hoá nhiều hơn nên lợi nhuận giảm xuống và do không trực tiếp nhập khẩu nên không kiểm soát được nguồn hàng, mất sự liên kết trực tiếp với nguồn hàng. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu hàng hoá phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm của người trung gian nên đôi khi, nhà nhập khẩu phải chịu nhiều hậu quả và rủi ro và doanh nghiệp không thích nghi nhanh được với sự thay đổi của thị trường thế giới. Nhập khẩu đối lưu. Nhập khẩu đối lưu là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, người bán đồng thời là người mua, hình thức thanh toán trong hợp đồng không phải là đồng tiền mà bằng hàng hoá có giá trị tương đương. Hoạt động này không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế cho các bên mà còn về chính trị. Hình thức nhập khẩu này có lợi vì cùng một hợp đồng có thể tiến hành cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu, dó đó có thể thu được lãi từ cả hai hoạt động và doanh nghiệp nhập khẩu có thể tính trực tiếp được cả kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu. Do không sử dụng tiền tệ để thanh toán nên tiết kiệm được chi phí thanh toán và ít bị ảnh hưởng bởi tỷ giá. Hình thức nhập khẩu đối lưu này giúp cho thương mại quốc tế phát triển, đặc biệt đối với những nước có mức độ quản lý ngoại hối chặt chẽ hoặc với các quốc gia kém phát triển. Tuy nhiên, hình thức này có nghiệp vụ phức tạp vì hoạt động nhập khẩu kết hợp với xuất khẩu, người mua đồng thời là người bán nên khó tách được nghĩa vụ và quyền lợi khi xảy ra sai sót. Đấu thầu nhập khẩu. Theo quy chế đấu thầu được ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/ NĐ- CP ngày 1/9/1999 của chính phủ thì đấu thầu được định nghĩa là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu. Trong đó, bên mời thầu là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc pháp nhân đại diện cho chủ dự án, chủ đầu tư; nhà thầu là tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân tham gia đấu thầu. Hàng hóa trong phương thức đấu thầu là những máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển, nguyên vật liệu. Thực chất, đấu thầu là một hình thức để người mua chọn được một loại hàng hóa nào đó thỏa mãn các tiêu chuẩn về kỹ thuật với phương án kinh tế nhất, trong điều kiện có một người mua nhưng lại có nhiều người bán. Tầm quan trọng của đấu thầu cung cấp thiết bị đối với hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng. Việc mua sắm thông qua hình thức đấu thầu giúp cho doanh nghiệp được cạnh tranh một cách lành mạnh đồng thời nó cũng đảm bảo cho nguồn vốn của Nhà nước không bị sử dụng một cách lãng phí. Do tính ưu việt của phương thức này mang lại nên đấu thầu được coi là một thủ tục chính thức trong khu vực kinh tế công cộng, ngày càng được đánh giá như một điều kiện thiết yếu để đảm bảo thành công cho các nhà đầu tư. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp thương mại thì việc tham gia đấu thầu cung cấp máy móc thiết bị xây dựng sẽ giúp cho các đơn vị tìm được những dự án lớn, những nơi tiêu thụ sản phẩm và có thể tìm được cơ hội kinh doanh mới. Mặt khác, việc tham gia đấu thầu còn là cơ hội để các doanh nghiệp nhập khẩu khẳng định được vị thế của mình trên thị trường, tạo lập uy tín với các đối tác và là cơ hội để quảng cáo hình ảnh doanh nghiệp với bạn hàng. Doanh nghiệp có thể phát huy và tận dụng tối đa trình độ và năng lực của mình để xây dựng được phương án kinh doanh tốt nhất khi tham gia vào hoạt động đấu thầu. Từ đó, các doanh nghiệp có thể xây dựng cho mình cách thức nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng sao cho hiệu quả nhất. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị. Nhóm yếu tố bên ngoài doanh nghiệp. Các yếu tố môi trường. Môi trường kinh tế, chính trị trong và ngoài nước. Môi trường chính trị trong và ngoài nước có thể đem lại những cơ hội và những thách thức cho doanh nghiệp nhập khẩu. Vì vậy, am hiểu và kiểm soát được môi trường này là yếu tố quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế của mỗi doanh nghiệp. Nếu môi trường chính trị ổn định sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước hoạt động, hạn chế nhiều rủi ro về chính trị như tịch thu tài sản bằng các biện pháp hành chính, những quy định của Chính phủ tại nước xuất khẩu gây cản trở đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp như việc cấm xuất khẩu hay hạn chế xuất khẩu… Các hoạt động về chính trị luôn là lĩnh vực nhạy cảm nên doanh nghiệp cần có định hình chiến lược về chính trị để có những biện pháp thích hợp cho hoạt động nhập khẩu của mình. Ngoài ra, doanh nghiệp khi tham gia hoạt động nhập khẩu còn chịu sự tác động và ảnh hưởng của những biến động hay ổn định của các nền kinh tế trong nước và thế giới nói chung. Việc hình thành các khối liên kết về kinh tế đã góp phần làm tăng hoạt động kinh doanh buôn bán và đầu tư giữa các quốc gia thành viên. Khi một quốc gia tham gia vào các tổ chức quốc tế như WTO, ASEAN, APEC, EU… đều tạo ra nhiều cơ hội cho nước đó hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp trong nước cũng sẽ có điều kiện tiếp xúc với nhiều bạn hàng, có nhiều sự lựa chọn trong việc tìm đối tác kinh doanh... Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng, khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với nhiều doanh nghiệp ở các nước công nghiệp hơn, các nước chuyên về sản xuất máy móc thiết bị hơn, do đó có rất nhiều sự lựa chọn đối tác kinh doanh. Bên cạnh đó, khi gia nhập các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp trong nước sẽ được đối xử công bằng như những doanh nghiệp ở các nước thành viên khác. Sự thay đổi của thị trường trong nước và quốc tế. Những thay đổi của thị trường quốc tế hiện nay như sự biến động về giá dầu thô trong những năm gần đây khiến việc nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng của Công ty có nhiều khó khăn hơn. Ngoài ra, những thay đổi về nhu cầu trong nước và ngoài nước cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nhập khẩu của Công ty. Nước ta đang trên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới nên cần rất nhiều máy móc thiết bị trong ngành xây dựng để phục vụ cho việc xây dựng cở sở hạ tầng, nâng cao hình ảnh của đất nước, do đó Công ty cần nhập khẩu những mặt hàng có chất lượng tốt, thời hạn sử dụng lâu năm để tối đa hoá việc sử dụng máy móc thiết bị. Tỷ giá hối đoái Hoạt động nhập khẩu chịu ảnh hướng rất nhiều từ sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ giá hối đoái giảm, đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ sẽ khuyến khích xuất khẩu vì doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng nội tệ ít hơn để nhập khẩu hàng về, làm giá hàng hoá rẻ hơn một cách tương đối, cùng với đó là chi phí nhập khẩu giảm sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, kết quả kinh doanh tăng lên và ngược lại. Trong hoạt động thanh toán, Công ty cổ phần xây dựng thương mại XNK thường sử dụng USD để thanh toán bởi đây là ngoại tệ mạnh, có giá trị ổn định để giảm thiểu sự biến động về giá cả những mặt hàng nhập khẩu. Dưới đây là bảng tỷ giá hối đoái giữa USD và VND: Bảng 1: Tỷ giá hối đoái giữa USD và VND Đơn vị: Đồng. Năm 2004 2005 2006 2007 Tỷ giá VND/USD 15733 15863 16051 16173 (Nguồn: Vietcombank,2007) Trong những năm gần đây, do sự bất ổn của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, tỷ giá hối đoái giữa VND và USD có xu hướng tăng qua các năm (trung bình khoảng 147 đồng). Điều này cho thấy đồng Việt Nam có giá trị giảm xuống so với đồng USD và có tác động bất lợi cho hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần ._.xây dựng thương mại XNK nói riêng và các doanh nghiệp trong cả nước nói chung. Sự phát triển của thông tin liên lạc, cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải. Hệ thống thông tin liên lạc có ảnh hưởng nhiều đến hoạt động nhập khẩu bởi nó liên quan đến khả năng nắm bắt những thông tin, về sự biến động của giá cả, về tình hình cung cầu trên thị trường máy móc thiết bị xây dựng… Hệ thống thông tin phát triển sẽ giúp Công ty nắm bắt những cơ hội, xử ký kịp thời khi gặp sự cố và có những quyết định nhập khẩu hàng hoá đúng đắn, đem lại nhiều lợi ích cho Công ty. Mặt hàng máy móc thiết bị xây dựng là những hàng hoá cồng kềnh do đó hầu hết được vận chuyển bằng đường biển. Việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải giúp Công ty giảm chi phí vận chuyển, giảm giá thành của hàng hoá. Đối thủ cạnh tranh Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp nhập khẩu bao gồm đối thủ cạnh tranh hiện tại và đối thủ cạnh tranh tiềm tàng. Các đối thủ cạnh tranh hiện tại là những doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh trong cùng một ngành. Đối thủ lớn nhất của công ty là những công ty của Bộ thương mại trực thuộc nhà nước cũng rất nhiều những công ty cổ phần khác. Do các yếu tố liên quan đến nhà nước nên những công ty này thường nhận được rất nhiều hợp đồng lớn. Tiếp theo, đó là những công ty là đại lý độc quyền cho việc cung cấp máy móc thiết bị của một số hàng nổi tiếng như HITACHI, CAT, KOMATSU… Ngoài ra, đối thủ cạnh tranh của công ty còn là các công ty làm đại lý cho những hãng máy nổi tiếng KOBELKO, HITACHI… Những công ty này được các công ty mẹ giúp đỡ rất nhiều về mặt tài chính, cung cấp hàng hoá nhanh chóng… nên sức cạnh tranh trên thị trường rất lớn. Cuối cùng là những công ty vừa và nhỏ cũng hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng. Đây là những đối thủ trực tiếp của công ty nên công ty cần tìm hiểu kỹ lưỡng để có những chiến lược cạnh tranh thích hợp. Khi phân tích các đối thủ cạnh tranh hiện tại cần tìm hiểu bốn vấn đề cơ bản sau: mục đích tương lai của đối thủ cạnh tranh, các nhận định của đối thủ cạnh tranh, các chiến lược hiện tại và các tiềm năng của đối thủ cạnh tranh để biết rõ hơn về các đối thủ, từ đó doanh nghiệp sẽ có những chiến lược hợp lý trong việc tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu. Các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng do tham gia thị trường sau nên họ có khả năng ứng dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật, công nghệ, khi đó vị thể cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ có nhiều thay đổi. Vì thế, doanh nghiệp cần không ngừng củng cố vị thế cạnh tranh của mình và có những chiến lược hợp lý để nâng cao sức cạnh tranh. Nhóm yếu tố bên trong doanh nghiệp. 2.1 Nhân tố con người. Có thể nói đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp vì con người là chủ thể trực tiếp đưa ra mọi quyết định về hoạt động nhập khẩu, về các chiến lược kinh doanh, kế hoạch kinh doanh và cũng chính con người thực hiện những công việc đó nhằm đạt được các mục tiêu, chiến lược đã đưa ra. Chính vì thế, hoạt động của con người sẽ quyết định đến sự thành công hay thất bại của của doanh nghiệp. Muốn nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khẩu đòi hỏi nguồn nhân lực phải có trình độ quản lý tổ chức kinh doanh, am hiểu thị trường trong và ngoài nước, có khả năng nhạy bén về việc thu thập, xử lý và tổng hợp các nguồn thông tin. Người lãnh đạo còn phải có tài dùng người để sắp xếp cán bộ công nhân viên vào những vị trí phù hợp với năng lực và tầm hiểu biết của họ để đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất. Bên cạnh đó, công tác đào tạo nhân viên là rất quan trọng bởi hiện nay, trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ không ngừng phát triển, do đó cần tạo điều kiện cho việc đào tạo thường xuyên, cập nhật các kiến thức mới cho nhân viên để đảm bảo theo kịp và nắm bắt được những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. 2.2 Tổ chức hoạt động kinh doanh. Việc tổ chức hoạt động kinh doanh phù hợp với nền kinh tế thị trường, với chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp, đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để làm tốt công tác tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp phải làm tốt các khâu như: nghiên cứu thị trường, lập phương án kinh doanh, đàm phán và ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng và tiêu thụ hàng hoá. 2.3 Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp. Bộ máy quản lý của doanh nghiệp có hoạt động hiệu quả hay không sẽ tác động trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp nói riêng. Tổ chức bộ máy của doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ đề ra sẽ tạo lập năng lực và chất lượng hoạt động mới, thúc đẩy kinh doanh phát triển, tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 2.4 Nguồn vốn. Nguồn vốn có vai trò rất lớn trong hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Bởi phải có vốn, doanh nghiệp mới có cơ sở vật chất hay tài chính để trang trải cho những hoạt động kinh doanh và việc chủ động trong nguồn vốn sẽ đảm bảo khả năng thanh toán cho hoạt động nhập khẩu, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Có thể nói, khi nguồn vốn vững chắc, doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội hơn, có thể đối phó linh hoạt hơn trước những tình huống kinh doanh. 2.5 Hình ảnh và thương hiệu của công ty. Một doanh nghiệp xây dựng được thương hiệu tốt sẽ mang lại những lợi ích vô cùng lớn cho doanh nghiệp. Trước hết là sự tin cậy và hình ảnh tốt đẹp của doanh nghiệp trong lòng người tiêu dùng. Sau đó là nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Khi đó, hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp sẽ diễn ra nhanh chóng, thuận tiện hơn do đã có uy tín trên thị trường, góp phần nâng cao hoạt động nhập khẩu. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU Ở CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG THƯƠNG MẠI XUẤT NHẬP KHẨU. I. Giới thiệu tổng quan về công ty. 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty. Công ty Cổ phần xây dựng thương mại xuất nhập khẩu – Tên giao dịch quốc tế: Import - Export Trading Construction Joint Stock Company (IMETRA .,JSC) được thành lập từ năm 2002. Số đăng ký: 0103004925. Địa chỉ trụ sở chính: Số 6, ngõ 160, đường Khuất Duy Tiến, Phường Nhân Chính, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội. Điện thoại: 04.8541691 Fax: 04.8624145 Kể từ ngày thành lập, công ty đã không ngừng phát triển, dần khẳng định được vị thế và thương hiệu của mình trên thị trường trong nước cũng như thị trường ngoài nước, tính tới nay công ty đã xác lập được mối quan hệ buôn bán với hơn 5 nước và khu vực trên thế giới. Bạn hàng trong nước của công ty bao gồm rất những tập đoàn công nghiệp, tổng công ty và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng công trình, các dịch vụ vận tải, bốc xếp hàng hóa… Hiện nay, công ty không ngừng hoàn thiện và phát triển đội ngũ kỹ thuật viên tay nghề cao để có thể làm chủ được những trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến, làm chủ được những sản phẩm của mình, đội ngũ nhân viên kinh doanh chuyên nghiệp và đội ngũ lãnh đạo có nhiều kinh nghiệm giúp công ty ngày càng khẳng định được vị trí của mình. Với tôn chỉ: “Sự thành công của khách hàng là uy tín của chúng tôi” – công ty luôn cam kết sẽ mang lại những dịch vụ và sản phẩm tốt nhất cho những khách hàng của mình. 2. Bộ máy tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban. 2.1 Bộ máy tổ chức của công ty Công ty cổ phần xây dựng thương mại xuất nhập khẩu gồm có 6 cổ đông sáng lập với cơ cấu tổ chức như sau: Giám đốc Phó Giám đốc 2 Phó Giám đốc 1 Bộ phận quản lí Bộ phận kinh doanh - Phòng xuất nhập khẩu. - Phòng dịch vụ. - Phòng xây dựng - Chi nhánh Hải Phòng. - Phòng tài chính kế toán. - Phòng tổ chức lao động. - Phòng hành chính quản trị. Có thể nói cơ cấu tổ chức của Công ty như thế là khá chặt chẽ, các phòng ban quản lí và phòng kinh doanh có cơ hội phát huy hết khả năng của mình, nhưng bên cạnh đó, hoạt động của Công ty vẫn có sự liên kết chặt chẽ với nhau thành một hệ thống. 2.2 Chức năng của công ty và các phòng ban 2.2.1 Chức năng của công ty. Tổ chức xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng, giao thông, thủy lợi. Thông qua những việc tổ chức xây dựng trên, công ty đã góp một phần vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước, giúp đất nước ngày càng phát triển trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Kinh doanh những máy móc, vật tư, nguyên liệu và hàng hóa tiêu dùng nông, lâm hải sản. Bên cạnh đó, công ty còn kinh doanh về dịch vụ văn phòng, bất động sản. Thông qua hoạt động kinh doanh trên, công ty đã thực hiện được phần nào chức năng gắn nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, thực hiện chính sách mở cửa của nền kinh tế thông qua việc xuất nhập khẩu những mặt hàng của công ty. Nhiệm vụ của công ty. Phát triển ngày càng cao vấn đề xây dựng và thương mại dịch vụ đảm bảo cho quá trình hoạt động và quá trình lưu thông hàng hóa của công ty được thông suốt, đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng. Kinh doanh có lãi, lấy thu bù chi, tự bù đắp, trang trải những hoạt động để công ty có thể tồn tại, phát triển và cạnh tranh với những doanh nghiệp khác. Góp phần giải quyết những vấn đề về kinh tế xã hội, dù nhỏ những rất thiết thực đó là về: việc làm, công nghệ, vốn… Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước, xã hội và người lao động. Chấp hành tốt các quy định về pháp luật, cạnh tranh lành mạnh. Thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về hoạt động kinh doanh cũng như các khoản phải nộp vào ngân sách nhà nước. Chức năng của các phòng ban. Mỗi phòng trong công ty có chức năng kinh doanh những mặt hàng riêng biệt. Tuy nhiên, để phát huy hết khả năng và tiềm lực của các phòng nhằm đem lại hiệu quả cao, công ty vẫn cho phép các phòng này có thể mở rộng mặt hàng tuỳ theo yêu cầu của từng hợp đồng ký kết. Trong mỗi phòng, mỗi nhân viên, hoặc hai, ba nhân viên sẽ phụ trách chính một mặt hàng, một thị trường, nhưng luôn có sự hỗ trợ, tương tác lẫn nhau. Chức năng của các phòng: Phòng xuất nhập khẩu: kinh doanh dịch vụ văn phòng, bất động sản, kinh doanh máy móc, vật tư, nguyên liệu và hàng hóa tiêu dùng nông, lâm, hải sản. Phòng dịch vụ: bao gồm dịch vụ sửa chữa, bảo trì, bảo dưỡng mãy móc và sản phẩm cơ khí. Dịch vụ vận tải bốc xếp hàng hóa và tuyển dụng lao động. Phòng xây dựng: xây dựng công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, thủy lợi. Bộ phận quản lý: phụ trách việc quản lý về nhân sự, tài chính, hành chính… Đây là những mặt hàng kinh doanh chính được giao của từng phòng nhưng trên thực tế, mặt hàng xuất nhập khẩu của từng phòng có thể linh hoạt hơn, phù hợp với đặc điểm thị trường cũng như hợp đồng kí kết. 3. Đặc điểm hoạt động của công ty. Lĩnh vực và mặt hàng kinh doanh của công ty. Mặt hàng kinh doanh của công ty ảnh hưởng nhiều đến khả năng tiêu thụ và việc khai thác những cơ hội kinh doanh. Lĩnh vực và mặt hàng kinh doanh của công ty là: Xây dựng công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, thủy lợi. Kinh doanh dịch vụ văn phòng, bất động sản. Dịch vụ sửa chữa, bảo trì, bảo dưỡng máy móc và sản pẩm cơ khí. Dịch vụ vận tải bốc xếp hàng hóa và tuyển dụng lao động (trừ môi giới, giới thiệu, tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động nước ngoài) Kinh doanh máy móc, vật tư, nguyên liệu và hàng hóa tiêu dùng nông, lâm, hải sản. (Doanh nghiệp chỉ kinh doanh khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật). Thị trường tiêu thụ. Hiện nay, công ty đã, đang và sẽ không ngừng cải thiện và phát triển thị trường tiêu thụ của mình. Thông qua việc hoàn thiện bộ máy tổ chức, phòng ban, mở rộng các chi nhánh tại các tỉnh, thành phố lớn, công ty còn tổ chức phân phối những mặt hàng kinh doanh của mình đến những công ty nhỏ, xây dựng mạng lưới kinh doanh một cách hiệu quả, thiết lập những mối quan hệ chặt nhẽ với những bạn hàng trong nước cũng như ngoài nước. Thị trường tiêu thụ trong nước của công ty chủ yếu ở Hà Nội, ngoài ra còn ở những tỉnh lân cận như: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Nam Định, Hải Phòng, Thanh Hóa… Thị trường tiêu thụ ngoài nước của công ty nhìn chung là khá đa dạng. Bên cạnh những thị trường xuất khẩu chính như Philippin, Nhật, Ấn Độ công ty còn mở rộng sang nhiều thị trường mới như: Indonesia, Đức, Lào, Italia… Công ty đang nỗ lực xây dựng và quảng bá thương hiệu của mình trên thị trường giúp cho hình ảnh của công ty luôn đứng vững trong lòng khách hàng. . Vốn. Công ty có vốn điều lệ là 16 tỷ đồng. Với nguồn vốn như vậy, công ty đã trang bị được những trang thiết bị hiện đại để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của thị trường. Vốn của công ty được hình thành từ 3 nguồn cơ bản: vốn tự bổ sung, vốn vay và vốn huy động khác. Với số vốn kinh doanh ban đầu là 16 tỷ (năm 2002), hàng năm công ty phải lập những phương án, kế hoạch vay vốn ngân hàng. Hiện tại, công ty có quan hệ giao dịch với 3 ngân hàng: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Do công ty làm ăn có uy tín trên thị trường nên khả năng vay vốn ngân hàng và khả năng huy động vốn từ những nguồn khác là khá cao. Bên cạnh đó, do hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng phát triển nên việc quay vòng vốn diễn ra nhanh chóng. Bảng 2: Tình hình vốn của công ty từ năm 2004 đến 2007 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Tài sản 25.684 100 38.526 100 48.345 100 60.134 100 TSCĐ 828 3,22 1.171 3,04 1.716 3,55 2.268 3,77 TSLĐ 24.856 96,78 37.355 96,96 46.629 96,45 57.566 96.23 Nguồn vốn 25.684 100 38.526 100 48.345 100 60.134 100 Nợ phải trả 9.663 37,6 10.135 38,01 13.734 35,2 16.566 36.3 NVCSH 16.021 62,4 28.391 61,99 34.611 64,8 43568 63,7 (Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm 2004 - 2007) Qua bảng trên ta thấy, tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định (TSCĐ) của công ty hàng năm đều thấp (trung bình 3,395 %), trong khi đó tỷ lệ tài sản lưu động (TSLĐ) trên tổng tài sản lại rất lớn (trung bình 96,605 %), điều này rất hợp lý đối với một doanh nghiệp thương mại. Tuy nhiên nếu xem xét kỹ nguồn hình thành tài sản cho thấy tài sản hình thành chủ yếu từ các khoản phải thu của khách hàng (chiếm trung bình 72 %) nên có rủi ro cao dù giá trị tổng tài sản lớn. Tổng nguồn vốn của công ty cao, nhưng chiếm tỷ trọng chủ yếu là nguồn vốn chủ sở hữu (NVCSH) chiếm trung bình 63,15 %., còn lại là nợ phải trả 36,85 % , công ty có các khoản nợ ngắn hạn chiếm đa số và không có nợ dài hạn. Nguồn nhân lực Số lượng hiện tại là 40 người, trình độ đại học chiếm đa số, nguồn nhân lực của công ty đã mang lại rất nhiều những thành công cũng như việc tìm kiếm và nắm bắt những cơ hội trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Trình độ sử dụng ngoại ngữ của nhân viên trong công ty gần 80%, tiếng Anh hầu hết được dùng như một ngôn ngữ thứ 2. Khoảng 30% nhân viên công ty sử dụng thành thạo tiếng Trung Quốc và tiếng Nhật Bản. Bên cạnh đó, 80% nhân viên của công ty sử dụng máy tính thành thạo. Nơi làm việc của mỗi nhân viên được trang bị đầy đủ với một máy điện thoại bàn, một máy tính nối mạng, cũng với các trang thiết bị văn phòng khác. Bảng 3: Tình hình nguồn nhân lực của công ty. Đơn vị: Người Trình độ 2004 2005 2006 2007 Trên đại học 4 5 8 10 Đại học 17 19 20 21 Cao đẳng 2 1 1 1 Trung cấp 1 1 1 1 Công nhân kỹ thuật 6 6 7 7 Tổng 30 32 37 40 (Nguồn: Phòng tổ chức lao động) Hình 1: Kết cấu trình độ lao động của công ty năm 2007 Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Bảng 4: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty từ năm 2004 - 2007 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Doanh thu thuần 27.521 72.765 138.796 234.254,6 Giá vốn hàng bán 25.818 68.707 133.213 226.463 Chi phí quản lý kinh doanh 673 1.574 2.152 3.208 Chi phí tài chính 8 14 175 258 Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh 1020 2407 3256 4325,6 Tổng lợi nhuận chịu thuế TNDN 1020 2407 3256 4325,6 Thuế TNDN phải nộp 285,6 609,28 911,68 1211,168 Lợi nhuận sau thuế 734,4 1797,72 2344,32 3114,432 (Nguồn: Bảng báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004 - 2007) Qua bảng kết quả của công ty trong 4 năm gần đây, cho thấy hoạt động kinh doanh của công ty đang diễn ra theo chiều hướng rất tích cực và có những bước tăng trưởng đáng kể. Doanh thu thuần của mỗi năm tăng lên nhanh chóng. Năm 2005, sau một năm để từ khi công ty đi vào hoạt động, doanh thu thuần đã tăng gấp 2,6 lần năm 2004 và trong những năm tiếp theo, năm sau đều gấp gần 1,7 lần năm trước. Đó là một bước tiến rất đáng khích lệ, cho thấy công ty đã dần khẳng định được vị trí của mình trên thị trường. Về lợi nhuận thuần, có thể nói năm 2005, công ty đã có bước nhảy vọt lên gấp 2,4 lần năm 2004, những năm tiếp theo, năm sau gấp 1,8 lần năm trước. Trong năm 2005, công ty có những bước tiến quan trọng như vậy là do công ty đã dần đi vào nề nếp hoạt động. Ngoài ra công ty có thêm nhiều nguồn lực để trang trải cho hoạt động kinh doanh trong việc đầu tư vào công nghệ, thu hút được nhiều nhân lực có kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý cũng như trong lĩnh vực kỹ thuật. Bên cạnh đó, do khi mới bắt đầu kinh doanh (năm 2004) công ty nhận được nhiều gói thầu trong lĩnh vực xây dựng, đến năm 2005 mới được giải ngân xong nên lợi nhuận thuần tăng lên nhanh chóng. II. Thực trạng hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty cổ phần xây dựng thương mại xuất nhập khẩu. Thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty qua các năm. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu. Do là một công ty chuyên về xây dựng là chủ yếu nên Công ty cổ phần xây dựng thương mại XNK chuyên nhập khẩu những máy móc thiết bị phục vụ cho ngành xây dựng. Bên cạnh đó công ty còn nhập khẩu những máy móc và sản phẩm cơ khí, nguyên liệu và hàng hóa tiêu dùng nông, lâm, hải sản nhưng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty. Việc nhập khẩu những mặt hàng này không tốn nhiều chi phí trong tổng nguồn vốn của công ty và thời gian thực hiện hợp đồng ngắn hơn so với việc nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng nên vẫn được công ty chú trọng nhập khẩu để quay vòng vốn, tăng thêm nguồn vốn cho hoạt động nhập khẩu chính của công ty là nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng. Cụ thể là: Bảng 5: Cơ cấu hàng nhập khẩu tại công ty. Đơn vị: USD Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Máy móc thiết bị xây dựng 670.025,7 69,7 1034.083,6 66,4 1270.877,3 58,8 2034.752,1 72,1 Các hàng hoá khác 263.886,3 30,3 523.271,4 33,6 890.478,7 41,2 787.372,9 27,9 Tổng 870.912 100 1557.355 100 2161.356 100 2822.125 100 (Nguồn: Báo cáo hoạt động nhập khẩu năm 2004-2007) Biểu 1: Cơ cấu hàng nhập khẩu tại công ty. Đơn vị: USD Theo bảng trên ta thấy, kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng của công ty tăng đều theo các năm, năm 2004 là 670.025,7 USD, năm 2005 là 1034.083,6 USD, năm 2006 là 1270.877,3 USD, đến năm 2007 thì gia tăng đáng kể là 2034.752,1 USD, gấp 3 lần năm 2004, 1,97 lần năm 2005 và gấp 1,6 lần năm 2006. Trong năm 2005 và 2006 kim ngạch nhập khẩu máu móc thiêt bị tăng chậm là do trong thời gian này, công ty đang tập trung chủ yếu vào hình thức nhập khẩu uỷ thác mà nhiều hợp đồng uỷ thác lớn đã kết thúc, chưa có thêm hợp đồng lớn mới nào. Bên cạnh đó, phải kể đến sự biến động về tỷ giá của các đồng ngoại tệ mạnh so với đồng Việt Nam và sự biến động về giá cả trên thị trường thế giới. Năm 2005 và năm 2006, lãi suất USD luôn có xu hướng tăng và biến động phức tạp, gây bất lợi cho hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty. Bên cạnh đó, giá xăng dầu trên thế giới trong những năm gần đây luôn diễn biễn theo chiều hướng tăng nhanh, làm tăng chi phí vận chuyển, tăng giá thành trong việc nhập khẩu hàng hoá. Năm 2007, khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), Nhà nước đã tạo nhiều điều kiện nhiều cho việc nhập khẩu hàng hoá nói chung và nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng nói riêng, cũng với việc đầu tư mạnh mẽ vào xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước, công ty đã nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị xây dựng làm tỷ trọng nhập khẩu tăng nhanh trong tổng kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty. Thị trường nhập khẩu. Trên con đường tồn tại và phát triển, Công ty cổ phần xây dựng thương mại XNK đã không ngừng đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm, mua hàng đúng chất lượng với giá cả phải chăng từ những nhà cung cấp có uy tín và là bạn hàng lâu năm của công ty. Thị trường nhập khẩu của công ty rất đa dạng. Bên cạnh nhiều thị trường tiềm năng như: Thái Lan, Úc, Thuỵ sĩ, Anh, Italia, …thì Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, được coi là 4 thị trường được công ty nhập khẩu nhiều nhất. Cụ thể là: Bảng 6: Các thị trường nhập khẩu chính Đơn vị: USD Các thị trường nhập khẩu chính 2004 2005 2006 2007 Nhật Bản 350.982 591.802 713.789 894.435 Trung Quốc 238.358 394.642 555.945 765.752 Hàn Quốc 180.171 316.655 437.270 577.582 Đài Loan 101.401 254.256 454.352 584.356 (Nguồn: Báo cáo hoạt động nhập khẩu năm 2004 - 2007) Qua bảng trên ta thấy, kim ngạch nhập khẩu những năm sau luôn cao hơn năm trước do trong những năm này, các phòng kinh doanh đã rất cố gắng trong việc tìm kiếm bạn hàng cũng như tìm hiểu hàng hoá, đã tìm mọi biện pháp “thu gom” nhiều mặt hàng kể cả những mặt hàng có giá trị không lớn. Công ty luôn chú trọng vào hoạt động nhập khẩu hàng hoá để cung cấp tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên trong những năm gần đây, hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty cũng gặp rất nhiều khó khăn như: Giá cả các loại nguyên vật liệu, xăng dầu, sắt thép, kim loại, nhựa đều tăng và giữ ở mức cao, biến động liên tục, ảnh hưởng tới sản xuất trong nước,các đối tác trong nước không chủ động được trong việc tính toán giá cả thị trường, từ đó làm giảm nhu cầu nhập khẩu trong nước. Giá cả các loại ngoại tệ vẫn tiếp tục tăng, mua ngoại tệ khó khăn, thường phải mua kì hạn, ảnh hưởng đến giá thành nhập khẩu. Hơn nữa, giá của các loại ngoại tệ tăng, tỷ giá các loại ngoại tệ ngoài USD như JPY biến động thường xuyên không chỉ ảnh hưởng đến giá thành nhập khẩu mà còn mang lại những rủi ro trong kinh doanh. Hơn nữa, mặc dù hiện nay việc mua ngoại tệ thanh toán hàng nhập khẩu không khó khăn như những năm trước nhưng tỉ giá ngoại tệ của các ngân hàng khác vẫn cao hơn tỉ giá công bố của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nên công ty vẫn tiếp tục phải áp dụng thu thêm 0,05% đối với đồng USD, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng nhập khẩu so với hàng trong nước. Thực trạng hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty. Các hình thức nhập khẩu của Công ty. Hiện nay tại Công ty cổ phần xây dựng thương mại xuất nhập khẩu có hai hình thức nhập khẩu máy móc thiết bị chính đó là nhập khẩu trực tiếp và nhập khẩu uỷ thác. Nhập khẩu trực tiếp. Xu hướng nhập khẩu hàng hoá trực tiếp tại các doanh nghiệp trong nước đang tăng lên nhưng tại Công ty cổ phần xây dựng thương mại XNK thì nó lại chiếm tỷ trọng nhỏ trong kim ngạch nhập khẩu của công ty. Bởi nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng đòi hỏi công ty phải có được lượng vốn lớn trong khoảng thời gian khá dài. Trong khi đó, do công ty mới thành lập nên lượng vốn chỉ có hạn nên công ty khó có thể nhập khẩu trực tiếp máy móc thiết bị. Tuy nhiên, khi tiến hành các hoạt động liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác thì công ty có thể tiến hành nhập khẩu trực tiếp. Hình thức kinh doanh này đạt hiệu quả cao do công ty chủ động được nguồn hàng nhập khẩu, thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với bạn hàng. Hình thức nhập khẩu hàng hoá trực tiếp cũng gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp vì không phải bao giờ nhập khẩu về cũng bán được trong nước vì thế công ty cần nghiên cứu kỹ về nhu cầu thị trường trong nước. Bảng 7: Kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty theo hình thức nhập khẩu trực tiếp. Đơn vị: USD Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Tổng giá trị nhập khẩu 670.025,7 100 1034.083,6 100 1270.877,3 100 2034.752,1 100 Nhập khẩu trực tiếp 174.334 26,019 289.895 28,034 435.872,8 34,297 811.316,7 39,873 (Nguồn: Báo cáo hoạt động nhập khẩu năm 2004-2007) Theo bảng trên ta thấy, kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty theo hình thức nhập khẩu trực tiếp tăng dần qua các năm (chiếm tỷ trọng khoảng 32,055% trong tổng giá trị nhập khẩu máy móc thiết bị) bởi Công ty đã có nhiều vốn và nhiều kinh nghiệm hơn để có thế nhập khẩu trực tiếp hàng hoá. Giá trị kim ngạch nhập khẩu trực tiếp tăng nhanh từ 174.334 USD năm 2004 đến 811.316,7 USD năm 2007, tăng 13,818%. Nhập khẩu uỷ thác. Hình thức nhập khẩu uỷ thác được sử dụng nhiều tại công ty cổ phần xây dựng thương mại xuất nhập khẩu. Bởi công ty chưa có đủ điều kiện để nhập khẩu trực tiếp các loại máy móc thiết bị nên công ty đã uỷ thác cho doanh nghiệp khác trực tiếp giao dịch ngoại thương, tiến hành nhập khẩu máy móc thiết bị theo yêu cầu của công ty. Công ty sẽ trả cho doanh nghiệp nhận uỷ thác một khoản phí gọi là phí uỷ thác. Bảng 8: Kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty theo hình thức nhập khẩu trực tiếp. Đơn vị: USD Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Tổng giá trị nhập khẩu 670.025,7 100 1034.083,6 100 1270.877,3 100 2034.752,1 100 Nhập khẩu uỷ thác 495.691,7 73,981 744.188,6 71,966 835.004,5 65,703 1223.435,4 60,127 (Nguồn: Báo cáo hoạt động nhập khẩu năm 2004-2007) Qua bảng trên ta thấy, kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng của Công ty theo hình thức nhập khẩu uỷ thác tăng theo các năm từ 670.025,7 USD năm 2004 đến 2034.752,1 USD năm 2007 (tăng 3,04 lần), nhưng tỷ trọng lại giảm dần so với hình thức nhập khẩu trực tiếp, từ 73,981 % năm 2004 xuống đến 60,127 % năm 2007 trong tổng kim nghạch nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng của Công ty. Điều này cho thấy, Công ty ngày càng làm ăn có lãi nên có nhiều vốn để có thể chuyển sang hình thức nhập khẩu trực tiếp hàng hoá, nhưng hình thức nhập khẩu uỷ thác vẫn giữ vai trò chủ yếu trong hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị tại Công ty. Đặc điểm về thị trường nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty. Việt Nam là một đất nước đang phát triển, có nền nông nghiệp chiếm chủ yếu nên vấn đề sản xuất máy móc thiết bị phục vụ cho ngành xây dựng còn nhiều khó khăn, do đó nước ta phải nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị xây dựng để phục vụ cho nhu cầu trong nước. Ở những nước phát triển như Mỹ, các nước EU… có khoa học kỹ thuật rất phát triển nên những máy móc thiết bị nhập khẩu từ các nước này sẽ rất hiện đại, có chất lượng tốt nhưng giá thành lại cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty, nên công ty nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng chủ yếu từ những nước Châu Á có giá thành hợp lý hơn phù hợp với nhu cầu trong nước và thuận lợi về việc vận chuyển hàng hoá. Công ty nhập khẩu máy móc thiết bị chủ yếu từ 4 thị trường chính: Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc. Cụ thể là: Về thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là nước có ngành công nghiệp chế tạo máy móc thiết bị rất phát triển. Các loại máy móc thiết bị của Nhật Bản như máy xúc đào KOMASU, máy ủi… phục vụ rất nhiều trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam do máy móc thiết bị sử dụng có hiệu quả tốt, thời gian dung rất lâu. Tuy nhiên, giá cả máy móc thiết bị xây dựng của Nhật Bản thường cao hơn so với các nước Châu Á khác, những phụ tùng thay thế của máy móc thiết bị không thông dụng và một điểm hạn chế lớn của thị trường Nhật Bản đó là thời gian vận chuyển khá dài (thường là trên 6 tháng kể từ khi ký kết hợp đồng). Về thị trường Trung Quốc: Trong nhiều năm trở lại đây, nền kinh tế Trung Quốc có nhiều khởi săc trong đó phải kể đến sự phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp Trung Quốc. Máy móc thiết bị xây dựng của Trung Quốc rất đa dạng, giá thành phù hợp với điều kiện kinh tế của các công ty trong nước. Bên cạnh đó, Việt Nam có nhiều của khẩu buôn bán với Trung Quốc như cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh), cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn)… nên rất thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá. Thời gian vận chuyển thông thường là 45 ngày đến 50 ngày, trong những trường hợp yêu cầu vận chuyển nhanh, phia đối tác có thế giao hàng trong vòng 15 ngày đến 25 ngày. Tuy nhiên, tuổi thọ máy móc thiết bị của Trung Quốc thường không cao so với các máy móc thiết bị cùng loại của Nhật Bản, Đài Loan… Về thị trường Đài Loan: Lựa chọn loại máy móc có lợi ích kinh tế phù hợp nhất sẽ có ảnh hưởng quyết định đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó. Đối với một quốc gia đang tích cực phát triển ngành công nghiệp chế tạo như Việt Nam, việc mua những máy móc của các nước Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu đòi hỏi một nguồn lực tài chính lớn. Do đó, các sản phẩm máy móc thiết bị xây dựng Đài Loan, với những đặc điểm ưu việt về trình độ kỹ thuật và tiêu chuẩn chất lượng gần tương đương với các nước Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu, thêm vào đó giá cả hợp lý, sẽ là lựa chọn tốt nhất cho các doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa, về mặt vị trí địa lý hai bên rất gần nhau, chính vì thế khá thuận tiện cho việc thực hiện các dịch vụ hậu mãi và bảo dưỡng. Đặc điểm chính của ngành công nghiệp thiết bị máy móc Đài Loan là sự ảnh huởng của sự liên kết lớn trong ngành, đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và là một ngành công nghiệp đòi hỏi mật độ kỹ thuật cao, tiết kiệm năng lượng và có giá trị phụ gia lớn. So với thế giới ngành công nghiệp máy móc Đài Loan được đánh giá là trên mức trung bình, tuy nhiên giá cả lại rất hợp lý. Hiện nay, XK máy móc Đài Loan sang thị trường VN đạt 450 triệu USD chủ yếu là các loại máy móc công nghiệp trong các lĩnh vực như: dệt may, da giày, sản xuất gỗ... Về thị trường Hàn Quốc: Hàn Quốc là một nước có nền công nghiệp phát triển ở Châu Á. Mặt hàng chủ yếu mà công ty nhập khẩu từ Hàn Quốc là máy san, máy xúc lật… có chất lượng tương đối tốt, giá thành phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam. Hạn chế của thị trường Hàn Quốc đó là thời gian vận chuyển lâu, thông thường từ 4 tháng đến 6 tháng sau khi ký kết hợp đồng. Kết quả nhập khẩu máy móc thiết bị Kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị qua các năm theo hình thức nhậ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11449.doc
Tài liệu liên quan