Tài liệu Biện pháp hoàn thiện công tác tổ chức lao động tại Bưu điện Thành phố Vinh - Nghệ An: ... Ebook Biện pháp hoàn thiện công tác tổ chức lao động tại Bưu điện Thành phố Vinh - Nghệ An
98 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1396 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biện pháp hoàn thiện công tác tổ chức lao động tại Bưu điện Thành phố Vinh - Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, mọi doanh nghiệp đều chịu sự tác động bởi môi trường đầy cạnh tranh và thách thức, để tồn tại và phát triển bền vững thì vấn đề được quan tâm chú trọng hàng đầu là việc quản trị nguồn nhân lực một cách có hiệu quả.
Trải qua 60 năm trưởng thành và phát triển, ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, phát triển với tốc độ thần kỳ trong thời kỳ đổi mới và trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Thành công ấy có sự đóng góp của nhiều yếu tố nhưng trong đó yếu tố con người - nguồn nhân lực và quản trị nhân lực có vai trò vô cùng quan trọng.
Bước sang giai đoạn mở cửa, cạnh tranh và hội nhập, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam nói chung và các đơn vị thành viên nói riêng đang và sẽ gặp phải những cơ hội và thách thức lớn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, ngành Bưu chính – Viễn thông đã chuyển sang mô hình Tập đoàn, bóc tách Bưu chính - Viễn thông, trước vận hội này, việc đổi mới và hoàn thiện hoạt động quản lý, trong đó có quản trị nguồn nhân lực là hết sức cần thiết để khai thác tối đa tiềm năng nhân lực, nâng cao khả năng cạnh tranh, đứng vững trong nền kinh tế thị trường.
Bưu điện thành phố Vinh là đơn vị kinh doanh và phục vụ các dịch vụ bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố và trực thuộc Bưu điện Tỉnh Nghệ An, Trong những năm qua, Bưu điện Thành phố Vinh luôn là đơn vị đạt hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch, góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch chung của Bưu điện Tỉnh và của ngành đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân trên địa bàn thành phố. Hoạt động của Bưu điện thành phố Vinh có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân trên địa bàn, góp phần giữ vững tình hình an ninh, chính trị, an toàn xã hội của tỉnh nhà, thực hiện kết luận 20 của bộ chính trị xây dựng thành phố Vinh trở thành trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hoá của khu vực Bắc Miền Trung.
Hoạt động trên địa bàn rộng, nhiều tiềm năng, nhưng nhu cầu sử dụng dịch vụ Bưu chính - Viễn thông còn thấp, cơ sở vật chất chưa hoàn thiện, sự hạn chế về trình độ nghiệp vụ của người lao động trong đơn vị là những khó khăn, thách thức không nhỏ đối với Bưu điện Thành phố Vinh.
Vì vậy để hoàn thành vai trò nhiệm vụ của mình đối với Bưu điện Tỉnh Nghệ An và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông giao cho, Bưu điện thành phố Vinh cần phải có những biện pháp tổ chức quá trình lao động của con người, phù hợp với quá trình đổi mới cũng như yêu cầu của quy mô và hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện mới.
Xuất phát từ vấn đề bức thiết đó và cũng trong quá trình làm việc tại đơn vị nên tôi đã chọn đề tài: "Biện pháp hoàn thiện công tác tổ chức lao động tại Bưu điện Thành phố Vinh - Nghệ An" làm luận văn tốt nghiệp.
Luận văn tốt nghiệp kết cấu thành ba chương:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tổ chức lao động trong doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng công tác tổ chức lao động tại Bưu điện Thành phố Vinh - Nghệ An.
Chương III: Một số biện pháp hoàn thiện công tác tổ chức tại Bưu điện Thành phố Vinh - Nghệ An.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP.
1.1. Vai trò của công tác tổ chức lao động trong doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm về tổ chức lao động.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người, nhằm thoả mãn những nhu cầu về đời sống của con người và của xã hội. Đó chính là điều kiện tất yếu để tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Quá trình lao động là một hiện tượng kinh tế - xã hội cho nên nó gồm hai mặt: mặt vật chất và mặt xã hội.
Về mặt vật chất, quá trình lao động dưới bất kỳ hình thái nào cũng bao gồm ba yếu tố: lao động, đối tượng lao động và công cụ lao động. Trong doanh nghiệp, quá trình lao động là quá trình người lao động sử dụng công cụ lao động để tác động lên đối tượng lao động, làm cho chúng thay đổi về chất và biến thành sản phẩm tại các chỗ làm việc. Còn về mặt xã hội, quá trình lao động thể hiện ở sự phát sinh các mối quan hệ qua lại giữa những người lao động với nhau trong lao động và hình thành tính chất xã hội của lao động.
Tổ chức quá trình lao động được hiểu là tổ chức quá trình hoạt động của con người, trong sự kết hợp giữa ba yếu tố cơ bản (lao động, công cụ lao động, đối tượng lao động) và các mối quan hệ qua lại giữa chúng.
Tổ chức lao động khoa học là tổ chức lao động ở trình độ cao, trên cơ sở áp dụng những biện pháp tổng hợp về kỹ thuật, tổ chức, kinh tế, tâm sinh lý và xã hội vào sản xuất nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn vật chất và lao động, tăng năng suất lao động không ngừng, bảo đảm sử dụng tiết kiệm sức lao động và gìn giữ sức khoẻ con người.
Nhận thức được người lao động là yếu tố trung tâm và cũng là mục đích của nền sản xuất, nên trong công tác quản lý nguồn nhân lực, mọi biện pháp phải nhằm vào việc tạo điều kiện cho con người lao động có hiệu quả hơn và làm cho bản thân người lao động ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Hiện nay, tổ chức lao động trong các doanh nghiệp có ban nhiệm vụ chính sau đây:
* Nhiệm vụ về kinh tế: đảm bảo sử dụng tiết kiệm và hợp lý các nguồn vật tư, lao động và tiền vốn, tăng năng suất lao động và đạt hiệu quả sản xuất kinh tế cao nhất.
* Nhiệm vụ về tâm lý: tạo ra các điều kiện lao động thuận lợi nhất cho người lao động, nhằm bảo vệ sức khoẻ và khả năng làm việc lâu dài.
* Nhiệm vụ về xã hội: bảo đảm điều kiện để thường xuyên nâng cao trình độ văn hoá - kỹ thuật cho người lao động và làm cho họ phát triển một cách toàn diện, nâng cao tính phong phú và hấp dẫn của công việc và biến nó thành nhu cầu thân thiết của con người.
1.1.2. Vai trò của công tác tổ chức lao động trong doanh nghiệp.
1.1.2.1. Vai trò của người lao động trong doanh nghiệp.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người, là quá trình lao động tác động lên đối tượng lao động thông qua tư liệu sản xuất nhằm tạo nên những vật phẩm, những sản phẩm theo ý muốn. Vì vậy, lao động là điều kiện cơ bản và quan trọng nhất trong sự sinh tồn và phát triển của xã hội loài người. Quá trình lao động là quá trình kết hợp giữa 3 yếu tố của sản xuất, đó là: Sức lao động - Đối tượng lao động - Tư liệu lao động. Quá trình lao động hình thành các mối quan hệ giữa lao động với các yếu tố khác của quá trình sản xuất như:
Mối quan hệ giữa con người với đối tượng lao động: ở đây cũng có những mối quan hệ tương tự như trên, đặc biệt là mối quan hệ giữa kỹ năng, hiệu suất lao động với khối lượng chủng loại lao động yêu cầu và thời gian các đối tượng lao động được cung cấp phù hợp với quy trình công nghệ và trình tự lao động. Mối quan hệ giữa người với người lao động gồm: Quan hệ giữa lao động quản lý và lao động sản xuất. Quan hệ giữa lao động công nghệ và lao độg phụ trợ; Kết cấu từng loại lao động và số lượng lao động trong kết cấu đó; Quan hệ hiệp tác giữa các loại lao động.
Mối quan hệ giữa tư liệu lao động và sức lao động: Yêu cầu của máy móc thiết bị với trình độ kỹ năng của người lao động. Yêu cầu điều khiển và công suất thiết bị với thể lực con người. Tính chất đặc điểm của thiết bị tác động về tâm sinh lý của người lao động. Số lượng công cụ thiết bị so với số lượng lao động các loại.
Mối quan hệ giữa người lao động với môi trường xung quanh: Mọi quá trình lao động đều phải diễn ra trong một không gian nhất định, vì thế con người có mối quan hệ mật thiết với môi trường xung quanh như: gió, nhiệt độ, thời tiết, địa hình, tiếng ồn, ánh sáng.
Nghiên cứu, nắm được và hiểu rõ các mối quan hệ trên để đánh giá một cách chính xác là vấn đề rất quan trọng, làm cho quá trình sản xuất đạt được hiệu quả tối ưu đồng thời đem lại cho con người những lợi ích ngày càng tăng về vật chất và tinh thần, con người ngày càng phát triển toàn diện và có phúc lợi ngày càng cao.
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp hay một tổ chức nào cũng được cấu thành nên bởi các cá nhân, các thành viên là con người cụ thể. Trước sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh cùng với xu thế tự do hoá, cạnh tranh ngày càng gay gắt, vai trò của yếu tố con người - lao động trong các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Bưu chính - Viễn thông nói riêng đã và đang được quan tâm theo đúng tầm quan trọng của nó. Là vai trò trọng tâm đặt ra cho các doanh nghiệp là phải quản lý, khai thác và phát huy tiềm năng của đội ngũ cán bộ, lao động của doanh nghiệp làm sao có hiệu quả, tạo nên được lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác. Lực lượng lao động này phải là những người có trình độ, được đào tạo tốt, có đạo đức, có văn hoá và đặc biệt là phải có phương pháp làm việc có hiệu quả.
1.1.2.2. Vai trò của công tác tổ chức lao động trong doanh nghiệp.
Lao động trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực sản xuất - kinh doanh đều có những đặc điểm đặc thù của nó. Đặc điểm của lao động trong mỗi lĩnh vực trước hết phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm kinh tế, xã hội của ngành. Lao động trong doanh nghiệp cũng không nằm ngoài sự phụ thuộc đó. Do vậy, trước khi tìm hiểu đặc điểm lao động trong doanh nghiệp.
1.2. Nội dung của công tác tổ chức lao động trong doanh nghiệp.
Nội dung của công tác tổ chức lao động trong các doanh nghiệp là rất phong phú và bao gồm:
1.2.1. Phân công và hợp tác lao động trong doanh nghiệp.
Quá trình sản xuất trong xã hội nói chung và trong doanh nghiệp nói riêng thường là phức tạp và đa dạng; và ở các quá trình đó mỗi tập thể và cá nhân chỉ có thể làm được một số sản phẩm hay một số công việc nhất định. Chính vì vậy đã tất yếu hình thành phân công và hiệp tác trong quá trình lao động sản xuất, ý nghĩa của phân công và hiệp tác lao động thể hiện ở chỗ:
Trước hết, nhờ có sự phân công lao động, mà tất cả các cơ cấu về lao động trong doanh nghiệp được hình thành tạo nên một bộ máy với tất cả các bộ phận, chức năng cần thiết theo các tỷ lệ tương ứng với yêu cầu của sản xuất. Hơn nữa, phân công lao động cũng cho phép mỗi cá nhân và mỗi tập thể có điều kiện thực hiện chuyên môn hoá sản xuất, nhờ đó mà họ sẽ nhanh chóng tích luỹ kinh nghiệm, góp phần nâng cao chất lượng công tác, nâng cao năng suất lao động. Còn đối với doanh nghiệp, nhờ có chuyên môn hoá mà doanh nghiệp giảm được chi phí đào tạo, lại có điều kiện thiết kế và sử dụng các máy móc và các trang thiết bị chuyên dùng, vừa góp phần nâng cao năng suất lao động, vừa bảo đảm chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế cao.
Mặt khác, hiệp tác lao động trong doanh nghiệp tạo điều kiện phối hợp một cách tích cực và hài hoà nhất các nguồn lực của doanh nghiệp cũng như mọi sự cố gắng của mỗi cá nhân và tập thể trong một điều kiện tổ chức - kinh tế - kỹ thuật - xã hội hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cũng nhờ có sự tiếp xúc xã hội và hiệp tác lao động giữa các con người mà hiệu suất công tác của mỗi con người, mỗi bộ phận được bộc lộ và tăng lên; nảy sinh sự thi đua giữa họ và xuất hiện những động cơ mới, kích thích mới trong mối quan hệ giữa người với người lao động.
* Phân công lao động trong doanh nghiệp.
Hoạt động sản xuất của bất kỳ nền kinh tế nào cũng gồm có ba hình thức phân công lao động sau:
- Phân công lao động chung: phân công lao động trong nội bộ một nền kinh tế quốc dân, tức là chia các hoạt động của nền kinh tế thành các ngành độc lập riêng biệt.
- Phân công lao động đặc thù: phân công lao động trong nội bộ một ngành thành các ngành hẹp và phân đến các doanh nghiệp trong ngành.
- Phân công lao động cá biệt: phân công lao động trong nội bộ của một ngành doanh nghiệp.
Ở đây, luận văn chỉ phân tích đến sự phân công lao động cá biệt tức là sự phân công lao động trong doanh nghiệp. Quá trình sản xuất - kinh doanh trong một doanh nghiệp, dù đơn giản nhất cũng phải diễn ra trong một không gian và theo một thời gian nhất định. Một cá nhân, một bộ phận chỉ có thể thực hiện được một phần của quá trình sản xuất đó. Và mọi hoạt động này đều phải có sự liên hệ hữu cơ, mật thiết với nhau để cuối cùng tạo ra được sản phẩm đạt chất lượng, với chi phí nhỏ nhất. Phân công lao động là một quá trình tách riêng các loại lao động khác nhau theo một tiêu thức nhất định trong một điều kiện xác định, mà thực chất là chia quá trình sản xuất - kinh doanh thành các bộ phận và giao cho mỗi cá nhân phù hợp với năng lực sở trường và đào tạo của họ để tạo tiền đề nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế trong sản xuất - kinh doanh. Trong các doanh nghiệp hiện nay thường có ba hình thức phân công lao động sau đây:
Phân công lao động theo chức năng: Đây là hình thức chia tách các hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp theo các chức năng nhất định để từ đó giao cho các bộ phận và từng người lao động trong doanh nghiệp. Lao động trong doanh nghiệp được chia thành 2 loại lao động gián tiếp và trực tiếp sản xuất mà trong đó, nhóm chức năng lớn nhất là các công nhân chính, là những người trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm chính của doanh nghiệp. Lao động gián tiếp gồm các lao động quản lý ở các công nhân trực tiếp sản xuất, tác động lên các đối tượng lao động. Các công nhân cũng được chia thành công nhân sản xuất chính và công nhân sản xuất phụ.
Như vậy, phân công lao động theo chức năng trong doanh nghiệp sẽ tách riêng từng nhóm người lao động theo vai trò của họ trong sản xuất, góp phần tạo nên cơ cấu lao động chung trong toàn doanh nghiệp. Nhiệm vụ quan trọng của tổ chức lao động là tạo quy định các tỷ lệ biên chế hợp lý giữa các chức năng này. Ngoài ra, tác dụng của sự phân công này giúp cho mọi cá nhân và bộ phận làm việc đúng nhiệm vụ, đúng phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình, đồng thời thực hiện tốt các mối quan hệ trong sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân công lao động theo công nghệ (theo nghề): Đây là hình thức phân công lao động trong đó tách riêng các loại công việc khác nhau theo tính chất của quy trình công nghệ để thực hiện chúng. Hình thức phân công này là rất cơ bản và quan trọng nhất trong doanh nghiệp bởi vì nó phụ thuộc nhiều vào tính chất kỹ thuật và công nghệ để sản xuất ra sản phẩm của doanh nghiệp. Khi thực hiện phân công theo chức năng sẽ góp phần hình thành các nghề và các chuyên môn khác nhau. Như vậy là bên trong từng nhóm chức năng đều có sự phân công theo nghề, theo chuyên môn và tính chất của quá trình công nghệ. Phân công lao động theo công nghệ cho phép hình thành một đội ngũ những người thợ chuyên môn có tay nghề, đảm bảo chế tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng cao, thoar mãn nhu cầu ngày càng tăng lên của khách hàng.
Phân công lao động theo mức độ phức tạp của công việc: Đây là hình thức phân công lao động trong đó tách riêng các hoạt động, các công việc khác nhau theo tính chất phức tạp của nó. Thực chất là căn cứ vào độ phức tạp khác nhau của công việc mà bố trí người lao động có trình độ lành nghề tương ứng. Trong doanh nghiệp công nghệ người ta dựa theo tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật để xác định mức độ phức tạp của công việc và trình độ lành nghề của công nhân. Tuỳ theo ngành nghề của các doanh nghiệp có các công nhân từ bậc 1 đến bậc 5 hoặc từ bậc 1 đến bậc 7. Trong các công việc hành chính và quản lý người ta chia ra các trình độ tư sơ cấp, trung cấp, kỹ sư, kỹ sư chính và kỹ sư cao cấp. Hình thức phân công này cho phép sử dụng một cách hợp lý nhất cán bộ công nhân viên; vừa tạo điều kiện trả công lao động hợp lý, vừa tạo điều kiện nâng cao trình độ lành nghề cho mọi người lao động trong doanh nghiệp. Mối liên hệ giữa các hình thức phân công lao động có thể được mô tả theo sơ đồ dưới đây (hình 1.1).
Phân công lao động theo chức năng
Nhóm chức năng gián tiếp tác động lên các sản phẩm
Nhóm chức năng trực tiếp tác động lên các sản phẩm
Công nhân sản xuất
Các chức năng cụ thể trong quản lý: Marketing, kế hoạch
Chính Phụ
Phân công lao động theo các nhóm chuyên môn
Phân công lao động theo nguyên công
Phân công lao động theo nghề, theo chuyên môn
Phân công lao động theo đối tượng
Phân công lao động theo trình độ lành nghề
Hình 1.1: Sơ đồ quan hệ giữa các hình thức phân công lao động
trong doanh nghiệp
1.2.2. Tổ chức và phục vụ nơi làm việc.
Nơi làm việc là một phần diện tích và không gian sản xuất, mà trên đó được trang bị các phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết để một người hay một nhóm người lao động hoàn thành công việc của mình. Trong một doanh nghiệp, các nơi làm việc đều có mối quan hệ mật thiết và chặt chẽ với nhau trong một quá trình sản xuất thống nhất.
Nơi làm việc là nơi mà tại đó các yếu tố của sản xuất (máy móc thiết bị, vật tư - đối tượng lao động và sức lao động) được tổ chức và kết hợp để tạo ra các sản phẩm theo các yêu cầu của sản xuất. Hay nói cụ thể hơn, ở đó con người vận dụng các khả năng thể lực và trí lực, sử dụng các công cụ lao động, tác động lên các đối tượng lao động, làm cho chúng thay đổi về chất và biến thành sản phẩm.
Xét về mặt xã hội, thì nơi làm việc là nơi rèn luyện, giáo dục và đào tạo mỗi người lao động; là nơi thể hiện rõ nhất tài năng, sáng tạo và nhiệt tình của mọi người lao động trong doanh nghiệp.
Muốn nâng cao năng suất lao động và đạt hiệu quả sản xuất cao, nhất thiết phải tổ chức và phục vụ tốt các chỗ làm việc. Trong các doanh nghiệp, tổ chức và phục vụ tốt các nơi làm việc là một trong các nhân tố quan trọng nhất nhằm nâng cao năng suất lao động cũng như nâng cao trình độ sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn nhân lực của doanh nghiệp.
Do tính chất phong phú và phức tạp của nơi làm việc, và để thuận lợi cho công việc nghiên cứu và tổ chức lao động, chúng ta cần thiết phải đi phân loại chúng. Các nơi làm việc được phân loại theo các dấu hiệu như: theo nghề nghiệp, theo trình độ chuyên môn hoá, theo số lượng người: chỗ làm việc cá nhân, tập thể, theo trạng thái làm việc: nơi làm việc đứng, ngồi, thay đổi...
Để tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc, phải thoả mãn một cách đồng bộ các yêu cầu sau đây:
- Về mặt kỹ thuật: bảo đảm sử dụng hợp lý và có hiệu quả các phương tiện sản xuất hiện đại, bảo đảm chất lượng sản phẩm cao và tạo ra các phương pháp lao động tiên tiến.
- Về mặt kinh tế: bảo đảm giảm chi phí thời gian lao động và các chi phí sản xuất khác, góp phần hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Về mặt tâm sinh lý: tạo ra các điều kiện lao động tiện nghi, phù hợp với các giới hạn về tâm sinh lý con người, tiết kiệm sức lực và an toàn lao động.
- Về mặt xã hội: tạo điều kiện trao đổi thông tin giữa các cá nhân, tạo hứng thú, hấp dẫn trong mọi công việc và hình thành các tập thể lao động tốt.
Do vậy nhiệm vụ của tổ chức và phục vụ nơi làm việc là:
- Tạo ra đầy đủ các điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết để tiến hành sản xuất liên tục, nhịp nhàng, với năng lực sản xuất và chất lượng cao.
- Bảo đảm khả năng tiết kiệm các yếu tố sản xuất (chi phí sản xuất và hợp lý nhất).
- Bảo đảm cho người lao động có tư thế làm việc thoải mái, ít mệt mỏi nhất và duy trì được khả năng làm việc lâu dài, cũng như góp phần phát triển họ một cách toàn diện.
Tổ chức nơi làm việc là một hệ thống các biện pháp nhằm thiết kế nơi làm việc với các trang thiết bị cần thiết và sắp xếp, bố trí chúng theo một cách hợp lý và khoa học để thực hiện một cách có hiệu quả nhiệm vụ sản xuất của nơi làm việc.
Chuyên môn hoá nơi làm việc là ổn định một số công việc nhất định trên chỗ làm việc nhằm tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Trang bị nơi làm việc là bảo đảm các loại máy móc, thiết bị, trang bị công nghệ và trang bị tổ chức cần thiết theo yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất và chức năng lao động.
Thiết bị chính (thiết bị công nghệ) là những thiết bị mà người công nhân dùng để tác động trực tiếp vào đối tượng lao động, làm cho chúng biến đổi về chất và biến thành sản phẩm (các máy công cụ, các tổ hợp máy, các bảng điều khiển...). Thiết bị phụ là các thiết bị giúp cho người công nhân làm việc có hiệu quả hơn (thiết bị bốc xếp, vận chuyển...). Thiết kế hoặc lựa chọn các thiết bị chính và thiết bị phụ cần đảm bảo các yêu cầu sau đây:
+ Chất lượng máy móc, thiết bị phải phù hợp với các thông số của quy trình công nghệ và đạt năng suất cao.
+ Máy móc và thiết bị phải thay thế tối đa con người trong các quá trình sản xuất chân tay nặng nhọc và độc hại.
+ Việc sử dụng chúng phải tiện lợi, thao tác nhẹ nhàng, an toàn lao động, không gây ô nhiễm môi trường xung quanh.
+ Máy móc và thiết bị phải được thiết kế sao cho phù hợp với nhân trắc học, cơ sinh học và sinh lý lao động của người sử dụng...
Thiết kế hoặc lựa chọn các trang bị công nghệ cần lưu ý đến các yêu cầu sau đây:
+ Các trang bị công nghệ ở các nơi làm việc được thiết kế hay được lựa chọn cần phải bảo đảm tính thống nhất hoá và tiêu chuẩn hoá để giảm chi phí thiết kế và giảm giá thành sản xuất.
+ Tình hình, số lượng và chất lượng của các trang bị công nghệ ở các chỗ làm việc phải phù hợp với các đặc điểm của quy trình công nghệ, loại hình sản xuất của đơn vị, bảo đảm được sử dụng tối ưu các tính năng kỹ thuật của chúng và đạt năng suất cao.
+ Các trang bị công nghệ ở các nơi làm việc cần bảo đảm tính thẩm mỹ công nghiệp, phù hợp với người sử dụng (các bộ phận cầm nắm có kết cấu thích hợp với lòng bàn tay của con người) để thao tác nhẹ nhàng, thoải mái và đạt năng suất lao động cao...
Các trang bị tổ chức là các trang bị dùng để phân phối và bảo quản các trang bị công nghệ như bàn ghế, giá đỡ, tủ dụng cụ, bục đứng... Khi thiết kế hoặc lựa chọn các trang bị tổ chức cũng cần lưu ý đến các yêu cầu sau đây:
+ Đáp ứng tốt yêu cầu về công dụng và chức năng của chúng.
+ Có kết cấu vững chắc, hợp lý và có tính thẩm mỹ công nghệ.
+ Phù hợp với nhân trắc của người sử dụng.
+ Sử dụng hợp lý diện tích sản xuất.
+ Thống nhất chế tạo và rẻ tiền...
Các trang bị thông tin liên lạc và an toàn lao động như các loại chuông còi, đèn chiếu sáng và tín hiệu, các lưới che chắn và các phương tiện bảo hộ lao động khác... Việc lựa chọn các phương tiện này cần dựa vào điều kiện kỹ thuật cho phép, tuỳ thuộc vào đặc điểm của sản xuất và cũng cần chú ý các yêu cầu sau:
+ Có độ tin cậy cao, nhanh, chính xác.
+ Không gây ồn hoặc loá mắt cho người lao động.
+ Bố trí hợp lý trên chỗ làm việc để người lao động dễ cảm nhận và sễ điều khiển.
+ Các phương tiện an toàn cần bảo đảm an toàn tối đa cho con người...
Bố trí (quy hoạch) nơi làm việc: Bố trí nơi làm việc là sắp xếp một cách hợp lý trong không gian của nơi làm việc tất cả các phương tiện vật chất, kỹ thuật cần thiết có tính đến đặc điểm nhân trắc của người lao động thực hiện công việc. Việc bố trí phương tiện và đối tượng trong phạm vi nơi làm việc sẽ quyết định thành phần của các chuyển động lao động, số lượng, chất lượng và hiệu suất công tác cũng như diện tích của nơi làm việc. Bố trí nơi làm việc phải được xem xét trên nhiều phương diện như: kỹ thuật, sản xuất, vệ sinh tâm lý lao động, an toàn và thẩm mỹ. Nhiệm vụ (yêu cầu) của quy hoạch, bố trí nơi làm việc là:
+ Bố trí hợp lý và khoa học mọi đối tượng vật chất - kỹ thuật và lao động để thực hiện công việc đúng quy trình công nghệ, nhanh và năng suất cao.
+ Đảm bảo lựa chọn hợp lý trạng thái và tư thế làm việc cho người lao động.
+ Bố trí các đối tượng phù hợp với tầm nhìn và vùng thao tác của người lao động.
+ Đảm bảo tiết kiệm diện tích sản xuất nhưng vẫn thuận tiện cho công tác phục vụ nơi làm việc.
+ Đảm bảo an toàn lao động và có tính thẩm mỹ kỹ thuật.
Khi quy hoạch hay bố trí nơi làm việc cần vận dụng một cách tổng hợp thành tựu của các ngành khoa học có liên quan đến sản xuất và con người nhằm tạo ra nơi làm việc tối ưu, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động. Các cơ sở khoa học đó cần chú ý tới là: vùng làm việc (vùng thao tác), tư thế lao động, phương pháp lao động, vệ sinh và tâm sinh lý người... Sau khi bố trí nơi làm việc xong, cần đánh giá toàn diện công tác này theo các yêu cầu và mục tiêu đã vạch ra.
Diện tích nơi làm việc: Diện tích sản xuất của nơi làm việc được hình thành sau khi bố trí các thiết bị, các trang bị công nghệ, các trang bị tổ chức và các đối tượng lao động cũng như việc phân chia giữa các nơi làm việc có tính đến sự di chuyển của người công nhân trong quá trình lao động.
Diện tích của nơi làm việc: S = (a + b + 0,5c).(d + 0,5e).
Trong đó:
a: Chiều dài của thiết bị chính;
b: Khoảng cách từ tường đến cột hoặc từ cột đến máy;
c: Bề rộng của đường đo giữa các nơi làm việc;
d: Chiều rộng của các thiết bị chính;
e: Khoảng cách giữa các nơi làm việc.
Điều kiện quan trọng nhất để bố trí hợp lý nơi làm việc là bảo đảm cho nó phù hợp với tính chất lao động khoa học của mỗi con người. Tính chất đó có thể hiểu là tập hợp các tính chất về sinh học, tâm lý học và nhân trắc học, tạo điều kiện cho con người làm việc có hiệu quả nhất trong một hệ thống "người - máy - môi trường".
Lựa chọn trạng thái (tư thế) làm việc: Trong quá trình lao động, con người thường có một số trạng thái (tư thế) làm việc phổ biến như: đứng, ngồi, thay đổi (đứng - ngồi) và nằm. Việc lựa chọn đúng đắn trạng thái (tư thế) sẽ cho phép tiết kiệm sức lao động, tránh được các lãng phí sức không cần thiết và góp phần bảo đảm khả năng làm việc lâu dài của người lao động. Sự lựa chọn trạng thái (tư thế) làm việc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tính chất công việc, sự đòi hỏi về tác động lực, phạm vi vùng và nhịp độ thao tác...
1.2.3. Điều kiện lao động.
Quá trình lao động của con người bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường sản xuất nhất định. Sau các quá trình lao động đó, người lao động thường bị mệt mỏi do đã tiêu hao năng lượng của mình và cũng chịu nhiều các tác động các yếu tố của môi trường. Điều kiện lao động là tổng hợp của các nhân tố trong môi trường có tác động lên con người trong quá trình lao động sản xuất cũng như trong quá trình sinh hoạt của họ. Các điều kiện lao động đó có ảnh hưởng tốt cũng như xấu đến sức khoẻ, khả năng làm việc của người lao động và qua đó đã ảnh hưởng đến chất lượng công tác. Tác động của các nhân tố thuộc điều kiện lao động được phân thành hai loại:
+ Loại có tác động tốt, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho con người.
+ Loại tác động xấu, tạo ra các yếu tố không thuận lợi dẫn tới những ảnh hưởng xấu cho sức khoẻ và khả năng làm việc của con người.
Điều kiện lao động trong thực tế rất phong phú và đa dạng. Người ta đã phân các nhân tố của điều kiện lao động ra thành năm nhóm:
* Nhóm các nhân tố thuộc về vệ sinh - sức khoẻ như: điều kiện vi khí hậu (nhiệt độ, độ ẩm, sự di truyền, bức xạ nhiệt và áp suất của không khí); Tiếng ồn, rung động, siêu âm; Độc hại trong sản xuất; Tin bức xạ và trường điện từ cao; Ánh sáng và chế độ chiếu sáng; Điều kiện vệ sinh.
* Nhóm các nhân tố thuộc về tâm - sinh lý lao động như sự căng thẳng về thể lực: Sự căng thẳng về thần kinh; Nhịp độ lao động; Trạng thái và tư thế lao động; Tính đơn điệu trong lao động.
* Nhóm các nhân tố thuộc về thẩm mỹ học như bố trí không gian sản xuất và sự phù hợp với thẩm mỹ công nghiệp; Kiểu dáng và sự phù hợp của các trang thiết bị với tính thẩm mỹ cao; Âm nhạc chức năng; Màu sắc; Cây xanh và cảnh quan môi trường.
* Nhóm các nhân tố thuộc về Tâm lý - xã hội như tâm lý cá nhân trong tập thể; Quan hệ giữa các nhân viên với nhau và quan hệ giữa nhân viên với thủ trưởng; Tiếng đồn, dư luận, mâu thuẫn và xung đột; Bầu không khí tâm lý của tập thể.
* Nhóm nhân tố thuộc về điều kiện sống của người lao động như vấn đề nhà ở, đi lại và gia đình của mỗi người lao động; Chế độ làm việc và nghỉ ngơi; Điều kiện địa lý và khí hậu; Tình trạng xã hội và pháp luật...
Do đó, nhiệm vụ cải thiện điều kiện lao động là đưa các nhân tố đó đạt trạng thái tối ưu để một mặt chúng không ảnh hưởng xấu tới hoạt động sống của con người và mặt kia chúng có tác động thúc đẩy và củng cố khả năng làm việc của con người. Để đạt được mục tiêu đó, các doanh nghiệp phải tiến hành đồng bộ các biện pháp cải thiện điều kiện lao động, áp dụng các tiêu chuẩn quy định của Nhà nước về vệ sinh, an toàn lao động trong điều kiện nước ta hiện nay:
- Thực hiện tốt các quy định về an toàn lao động và vệ sinh lao động như luật lao động đã ban hành.
- Thay thế các thiết bị, các quy trình công nghệ phát sinh ra các yếu tố độc hại.
- Tách công nhân ra khỏi môi trường độc hại bằng cách cơ khí hoá, tự động hoá sản xuất.
- Đảm bảo các yêu cầu về thẩm mỹ và tâm lý lao động.
- Sử dụng các phương tiện phòng hộ cá nhân để giảm bớt mức độ tác động của các nhân tố đến cơ thể con người.
- Hạn chế tác hại bằng cách tăng cường sức khoẻ của người lao động...
Cải thiện điều kiện lao động còn là một nhân tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động và bảo vệ sức khoẻ cho người lao động cũng góp phần nâng cao sự hứng thú trong lao động của con người.
1.2.4. Chế độ làm việc, nghỉ ngơi.
Tổ chức lao động trong các doanh nghiệp luôn quan tâm đến thời gian làm việc và sự nghỉ ngơi của người lao động. Nền sản xuất càng phát triển ở mức cao thì càng phải quan tâm đến con người trong lao động.
* Khả năng làm việc của người lao động.
Khả năng làm việc của người lao động là một phạm trù sinh học thể hiện ở mức độ hình thành và duy trì các chức phận của cơ thể con người, để hoàn thành một khối lượng công việc nhất định với một chất lượng nhất định trong một khoảng thời gian xác định. Chỉ tiêu cơ bản của khả năng làm việc là sự thể hiện của trình độ năng suất lao động. Khả năng làm việc của con người phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như: đặc điểm công việc, điều kiện lao động, sự rèn luyện và yếu tố thời gian... Theo thời gian khả năng làm việc thay đổi trong một ca công tác: theo thời gian trong một ngày đêm, theo ngày trong tuần lễ...
* Sự mệt mỏi của người lao động.
Mệt mỏi là một loại cảm giác phản ánh những quá trình khách quan đang diễn ra trong cơ thể con người. Cảm giác mệt mỏi, mệt là một tín hiệu báo trước độ mệt mỏi đang hình thành trong con người. Mức độ mỏi mệt được thể hiện qua sự giảm sút tạm thời khả năng làm việc của người lao động do công việc và các nhân tố của điều kiện lao động trước đó gây ra và nó là một tất yếu khách quan. Người ta chia ra thành ba loại mệt mỏi: Mệt mỏi về thể lực (cơ bắp); Mệt mỏi về trí óc; Mệt mỏi về tâm lý. Tuy nhiên cả ba loại mỏi mệt này khi bộc lộ ra đều khá giống nhau và khó phân biệt, bởi vì chúng đều do não bộ của con người chỉ đạo. Các dấu hiệu đặc trưng của sự mệt mỏi thường là giảm năng suất và có nhiều sai sót trong lao động, không còn duy trì được mức độ tập trung chú ý khi làm việc; Thiếu sự phối hợp ăn ý, nhịp nhàng trong vận động giữa các bộ phận cơ thể; Rối loạn, đảo lộn các thói quen và các phản xạ cũ, hoạt động kém sáng tạo... Nếu các nguyên nhân gây ra mệt mỏi mà không được khắc phục kịp thời hay không được nghỉ ngơi thì cơ thể sẽ tích tụ mỏi mệt hơn, dần dần dẫn tới mỏi mệt kinh niên, suy nhược cơ thể, thậm chí mắc bệnh nghề nghiệp...
* Nghỉ ng._.ơi.
Trong lao động sản xuất nghỉ ngơi là rất cần thiết để phục hồi khả năng làm việc của người lao động. Nghỉ ngơi được tổ chức đúng sẽ càng góp phần phục hồi nhanh chóng và nâng cao khả năng làm việc của con người trong các quá trình lao động. Chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý là sự luân phiên một cách hợp lý giữa các kỳ làm việc và các kỳ nghỉ ngơi trên cơ sở phân tích khoa học khả năng làm việc và điều kiện lao động của người lao động.
1.2.5. Công tác xây dựng định mức lao động.
Định mức lao động là một nội dung cơ bản của tổ chức lao động khoa học nhưng đồng thời cũng chính là cơ sở, là điều kiện để tiến hành tổ chức lao động khoa học trong thực tiễn. Định mức lao động được hiểu là lượng hao phí lao động sống cần thiết để sản xuất một đơn vị sản xuất, dịch vụ (hoặc để hoàn thành khối lượng công việc) theo tiêu chuẩn chất lượng quy định trong điều kiện tổ chức sản xuất, kỹ thuật nhất định. Mức lao động được chia thành một số loại: mức thời gian, mức sản lượng, mức phục vụ, mức biên chế, mức tổng hợp. Vai trò của mức lao động được thể hiện qua một số nội dung sau:
- Định mức lao động có căn cứ khoa học tạo điều kiện để phân công và hợp tác lao động hợp lý.
- Định mức lao động là cơ sở để kế hoạch hoá nguồn lao động.
- Định mức lao động tạo điều kiện để cải thiện điều kiện lao động, thực hiện tốt hơn tổ chức lao động.
- Định mức lao động tạo điều kiện tăng cường kỷ luật lao động đối với người lao động.
- Định mức lao động là cơ sở để trả lương theo lao động.
Các căn cứ để xây dựng định mức lao động hiện nay là:
- Căn cứ theo quy định của Nhà nước, ngành, doanh nghiệp. Dựa theo các hệ thống tiêu chuẩn.
- Căn cứ vào thực tế tổ chức sản xuất, trình độ công nghệ máy móc thiết bị.
- Căn cứ trên cơ sở tổ chức lao động và nội dung của lao động, điều kiện làm việc, tổ chức nơi làm việc.
Trong thực tế hiện nay có nhiều phương pháp xây dựng mức nguyên công lao động khác nhau, tuy nhiên để xây dựng mức lao động có cơ sở khoa học, sử dụng hai phương pháp định mức chủ yếu là:
* Phương pháp phân tích khảo sát: phương pháp này được tiến hành theo quy trình sau:
- Phân tích quá trình sản xuất, bước công việc thành các bộ phận hợp thành: mục đích nhằm xác định rõ quy trình sản xuất và quy trình thực hiện bước công việc, trên cơ sở đó loại bỏ được những bộ phận thừa, thay thế những bộ phận lạc hậu bằng những bộ phận tiên tiến có được kết cấu quy trình sản xuất bước công việc hợp lý nhất để định mức lao động.
- Phân tích thời gian làm việc của người lao động: mục đích nhằm xác định những hao phí thời gian có ích để có biện pháp khắc phục, trên cơ sở đó xác định trình độ lành nghề của người lao động cần có, máy móc, dụng cụ cần dùng, chế độ làm việc tối ưu và tổ chức nơi làm việc hợp lý.
- Khảo sát hao phí thời gian làm việc của người lao động tại nơi làm việc: được thực hiện theo phương pháp chụp ảnh hoặc bấm giờ.
- Tổng hợp, phân tích xác định mức lao động.
* Phương pháp phân tích tính toán: là phương pháp xây dựng mức dựa vào tài liệu tiêu chuẩn được xây dựng sẵn, vận dụng các phương pháp toán, sử dụng các công thức để tính toán các thời gian chính và thời gian trong mức. Xây dựng mức lao động nguyên công làm cơ sở để xác định mức lao động tổng hợp, đơn giá tiền lương cho sản phẩm dịch vụ. Tuỳ theo từng doanh nghiệp cụ thể mà sử dụng phương pháp thích hợp.
1.2.6. Kích thích vật chất, tinh thần đối với người lao động.
Mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là làm cho thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất, tinh thần của người lao động. Muốn đạt được mục đích đó thì phải không ngừng tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một trong những nhân tố quan trọng để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất là thường xuyên áp dụng các biện pháp khuyến khích vật chất và tinh thần đối với người lao động rất phong phú và đa dạng, nó có tính lịch sử và tính giai cấp rõ rệt.
Trong đó nhu cầu về vật chất là hàng đầu đảm bảo cho họ sống và tồn tại, tuy nhiên nhu cầu này ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng, trình độ phát triển của xã hội ngày càng cao thì nhu cầu ngày càng nhiều và phức tạp hơn. Nhu cầu về tinh thần cũng rất phong phú và đa dạng gồm: Nhu cầu lao động, làm việc có ích đem lại hiệu quả cho bản thân và xã hội; nhu cầu về học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nhận thức; nhu cầu về thẩm mỹ và giao tiếp xã hội; nhu cầu công bằng trong xã hội, trong lao động. Những nhu cầu của con người cần phải được quan tâm đúng mức và đáp ứng kịp thời như vậy sẽ có tác dụng kích thích rất lớn trong quá trình lao động, làm cho họ làm việc hiệu quả hơn, có trách nhiệm hơn.
Trong các doanh nghiệp hiện nay đều có xây dựng các hình thức trả lương hợp lý, tuỳ thuộc vào đặc điểm của Ngành sản xuất. Song đều phải dựa trên một số những nguyên tắc nhất định, đặc biệt là đảm bảo tái sản xuất xã hội và công bằng lao động, không ngừng nâng cao đời sống cho người lao động.
1.2.7. Tổ chức đào tạo nâng cao trình độ cho người lao động.
Trong thực tế sản xuất luôn có sự thay đổi không ngừng về tiến bộ kỹ thuật công nghệ, sản phẩm được cải tiến không ngừng cả về mẫu mã, bao bì lẫn chất lượng, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Không chỉ trong lĩnh vực các ngành sản xuất vật chất mà cả trong các ngành sản xuất dịch vụ luôn có nhiều sản phẩm - dịch vụ mới. Để đáp ứng được yêu cầu của thực tế sản xuất, làm chủ được kỹ thuật công nghệ mới các doanh nghiệp phải có kế hoạch tổ chức đào tạo nâng cao trình độ lành nghề cho người lao động. Tuỳ theo yêu cầu và điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp lựa chọn phương pháp đào tạo hợp lý đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
1.2.8. Tổ chức kỷ luật và thi đua trong lao động.
Trong các phương pháp tổ chức quản lý doanh nghiệp thì phương pháp quan trọng nhất là phương pháp hành chính. Do đó bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải xây dựng nội quy hoạt động, nội quy về lao động, an toàn lao động, phòng chống cháy nổ... nhằm mục đích hướng người lao động làm việc theo những nguyên tắc nhất định, đảm bảo yêu cầu về lợi ích cho doanh nghiệp và cho cả bản thân người lao động.
Tăng cường công tác tổ chức kỷ luật lao động thường gắn liền với công tác tổ chức thi đua, đây là hai mặt của một vấn đề đảm bảo tính công bằng trong lao động và thúc đẩy người lao động làm việc hiệu quả có trách nhiệm cao. Trong doanh nghiệp có chế độ thưởng phạt phân minh, có chế độ đãi ngộ hợp lý là một biện pháp hiệu quả thu hút nhân tài.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới công tác tổ chức lao động của doanh nghiệp.
1.3.1. Nhân tố bên trong doanh nghiệp:
1. Nhân tố về lực lượng lao động
Con người là một trong các nguồn lực của sản xuất. Con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội. Sự thành bại trong sản xuất kinh doanh có liên quan mật thiêt đến vấn đề lợi ích, nghệ thuật quản lý, sự nghiệp đào tạo và lao động sáng tạo, năng lực tiềm tàng của mỗi con người là vô hạn. Xu hướng cạnh tranh hoá toàn cầu hiện nay đang dấy lên một vấn đề cạnh tranh mới đó là cạnh tranh về nguồn nhân lực. Nhiệm vụ của các nhà lãnh đạo, quản lý là làm thế nào để khai thác và phát huy được tiềm năng con người trong sản xuất kinh doanh. Tuy khoa học kỹ thuật công nghệ ngày nay đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, áp dụng kỹ thuật công nghệ tiến bộ mới là điều kiện để tăng hiệu quả sản xuất nhưng cần có sự đóng góp của con người. Bởi vì máy móc có tối tân đến đâu cũng đều do con người tạo ra. Nếu không có lao động sáng tạo của con người sẽ không có máy móc, thiết bị đó. Mặt khác, máy móc, thiết bị có hiện đại tối tân đến đâu cũng phải phù hợp với trình độ tổ chức, trình độ kỹ thuật, trình độ sử dụng của người công nhân thì mới phát huy được tác dụng, tránh lãng phí, thậm chí hỏng hóc.
Chăm lo đến việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động được coi là nhiệm vụ hàng đầu của nhiều doanh nghiệp hiện nay và thực tế cho thấy những doanh nghiệp mạnh trên thương trường là những doanh nghiệp có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao, có tác phong làm việc tốt và có kỷ luật nghiêm minh.
2. Nhân tố môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là những đặc điểm của hệ thống kinh tế mà trong đó doanh nghiệp BCVT hoạt động. Môi trường kinh tế gồm những yếu tố tác động đến hoạt động của doanh nghiệp BCVT.
- Tăng trưởng kinh tế: theo nghĩa rộng là sự tăng khả năng sản xuất ra
các hàng hoá- dịch vụ, nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội và nâng cao mức sống nhân dân mà không để lại những nguy hại trong tương lai cho nền kinh tế. Thước đo chủ yếu sự thành công kinh tế của một quốc gia là có GDP cao và mức tăng trưởng nhanh.
Sự tăng trưởng của các doanh nghiệp BCVT đóng góp cho sự tăng trưởng chung cho nền kinh tế. Ngược lại mức tăng trưởng chung của xã hội lại ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp BCVT: lạm phát, cơ cấu kinh tế, mức tăng trưởng GDP…
Các biện pháp khai thác và sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường là thước đo sự đóng góp cho doanh nghiệp vào sự tăng trưởng kinh tế.
Chính sách kinh tế quốc gia: Chính sách kinh tế thể hiện quan điểm, định hướng phát triển nền kinh tế của Nhà nước. Chính sách kinh tế thể hiện: ưu đãi hay hạn chế đối với một ngành hay lĩnh vực nào đó. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, công nghệ là yếu tố quyết định cho sự phát triển của sản xuất kinh doanh, là cơ sở để doanh nghiệp khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng và Nhà nước chính là để khuyến khích các doanh nghiệp thích ứng tốt hơn với những thay đổi trong môi trường công nghệ. Sự thay đổi của công nghệ tác động tới doanh nghiệp nhiều khía cạnh khác nhau, đặc biệt nó không tách rời khỏi yêú tố con người. Hơn nữa yếu tố con người còn quyết định đến sự thành công hay thất bại của những thay đổi lớn trong công nghệ.
Công nghệ và đổi mới công nghệ là động lực, là nhân tố của phát triển trong các doanh nghiệp. Đổi mới công nghệ là yếu tố, là biện pháp cơ bản giữ vai trò quan trọng để doanh nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh. Mục đích chính và quan trọng nhất của đổi mới công nghệ là nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao, duy trì và phát triển doanh nghiệp ngày càng đi lên. Mục đích đổi mới công nghệ cần phải tập trung là :
Tăng sức mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp về chiến lược sản phẩm thông qua chiến lược sản phẩm trên cơ chế thị trường
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật đòi hỏi phải đổi mới công nghệ. Kết quả là sản phẩm mới, nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp không ngừng tăng lên và có gía trị cao hơn sản phẩm cũ cùng chủng loại.
Việc áp dụng công nghệ tiên tiến cho phép các doanh nghiệp cải tiến mẫu mã và đổi mới chất lượng sản phẩm của mình đồng thời cũng làm tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí tạo điều kiện cho việc hạ gía thành sản phẩm. Khi quyết định phương án đổi mới công nghệ doanh nghiệp phải xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật trên cả hai mặt: khối lượng sản phẩm và khả năng tiêu thụ, đồng thời sản phẩm phải nắm bắt được thông tin chính xác về nhu cầu thị trường để có phương án đầu tư tiên tiến, thích hợp, và công tác tổ chức lao động hợp lý phù hợp với điều kiện mới.
Tăng năng suất lao động và tạo ra hiệu quả cao cho các doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường chênh lệch giữa giá trị cá biệt và giá trị xã hội đem lại lợi nhuận. Vì vậy tất yếu các nhà doanh nghiệp phải tìm mọi cách nâng cao giá trị sản phẩm của mình bằng cách giảm chi phí lao động cá biệt cần thiết trong mỗi đơn vị sản phẩm của mình.
- Góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về hiện đại hoá công nghiệp hoá, phù hợp với xu hướng chung của cả nước.
Sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước dựa trên nền tảng của khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp sẽ đáp ứng được yêu cầu đó thông qua việc áp dụng thiết bị, năng lượng, vật liệu mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và đổi mới sản phẩm.
3. Nhân tố tiến bộ khoa học công nghệ
Công nghệ là nhân tố có sự thay đổi năng động nhất trong các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh. Sự thay đổi của công nghệ mang lại những thách thức và nguy cơ đối với doanh nghiệp BCVT. Sự thay đổi của công nghệ luôn mang lại những sản phẩm dịch vụ mới, nâng cao năng lực của con người, thay đổi phương pháp làm việc của họ…
Tự động hoá và năng suất lao động tăng làm giảm số lượng công nhân. Tự động hoá giúp các nhà quản lý kiểm soát công nhân, thu thập và xử lý thông tin được nhanh chóng và thuận tiện hơn. Tự động hoá yêu cầu doanh nghiệp BCVT phải đầu tư cho việc nghiên cứu tạo ra những sản phẩm mới.
Sự kết hợp giữa tự động hoá và mạng thông tin toàn cầu cho phép các nhà doanh nghiệp BCVT thực hiện các giao dịch kinh doanh quốc tế, luân chuyển vốn đầu tư một cách nhanh chóng, nhờ đó nâng cao khả năng hoạt động, năng suất và hiệu quả. Dẫn tới công tác tổ chức lao động cụ thể, hiệp tác lao động chặt chẽ và đồng bộ hơn.
4. Nhân tố tổ chức sản xuất và quản lý
Trong quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, nhân tố tổ chức bảo đảm dây chuyền sản xuất cân đối cho phép các doanh nghiệp khai thác tối đa các yếu tố vật chất trong sản xuất, nhờ đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nhân tố quản lý tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm và hợp lý các yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh, giúp lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra những quyết định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp chính xác, kịp thời tạo ra những động lức to lớn để khuyến khích sản xuất phát triển.
Kinh doanh là hoạt động thể hiện sự kết hợp chặt chẽ ngày càng tối ưu các yếu tố sản xuất bằng các kiến thức hoa học và nghệ thuật kinh doanh. Nhà quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là nhà lãnh đạo doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong việc duy trì, thành đạt cho một tổ chức công ty và như trên đã phân tích, hiệu quả kinh doanh bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, những nhân tố này có thể tác động tích cức hoặc tiêu cực đến hiệu quả và kết quả kinh doanh thông qua hoạt động quản trị của bộ máy quản trị doanh nghiệp và đội ngũ các nhà quản trị nó. Như vậy, cần phải tạo ra cơ cấu sản xuất cũng như trình độ sản xuất, khả năng quản lý, phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến quá trình sản xuất kinh doanh để mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh.
5. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin
Đối với tất cả các nước trên thế giới hiện nay, khoa học kỹ thuật tiến bộ đang làm thay đổi hẳn nhiều lĩnh vực sản xuất. Đặc biệt trong ngành BCVT, thông tin được coi là vấn đề quan trọng. Trong điều kiện cạnh tranh trong nước và quốc tế phát triển, các doanh nghiệp cần có nhiều thông tin chính xác về thị trường, thông tin công nghệ, thông tin của các đối thủ cạnh tranh, thông tin về tỷ giá, giá cả…Những thông tin kịp thời, chính xác là cơ sở vững chắc để các doanh nghiệp BCVT xác định phương hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn cũng như hoạch định các chương trình sản xuất kinh doanh ngắn hạn.
1.3.2. Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp:
1. Nhân tố chính trị- pháp lý
Nhân tố chính trị- pháp lý bao gồm: Luật, các văn bản dưới luật, quy trình, quy phạm kỹ thuật sản xuất, những hoạt động của cơ quan Nhà nước có ảnh hưởng đến hoạ động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp…Tất cả những quy định pháp luật về sản xuất kinh doanh đều có tác động gián tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành thuận lợi các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình lại vừa điều chỉnh các hoạt động kinh tế vĩ mô theo hướng không phải chú ý đến kết quả riêng của mình mà còn phải chú ý đảm bảo lợi ích kinh tế của mọi thành viên trong toàn xã hội.
Sự tác động của chính trị: Thể chế chính trị, xu hướng chính trị, tương quan giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội ổn định… cũng có tác động đến hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp Bưu chính Viễn thông. Có sự ổn định về chính trị, các doanh nghiệp Bưu chính Viễn thông sẽ đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu và các loại tài sản khác.
Sự tác động của hệ thống pháp lý: Hệ thống pháp lý là một khung các nguyên tắc và luật lệ do xã hội quy định để chế tài hành vi của thành viên trong xã hội. Như vậy với tư cách là một công dân tập thể các doanh nghiệp Bưu chính Viễn thông phải hoạt động dưới một thể chế pháp luật của một quốc gia.
2. Các nhân tố văn hoá- xã hội
Tình trạng việc làm, điều kiện xã hội, trình độ giáo dục, phong cách lối sống, những đặc điểm truyền thống, tâm lý xã hội…Mọi yếu tố văn hoá xã hội đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trình độ văn hoá cao sẽ tạo điều kiện rất lớn cho doanh nghiệp đào tạo đội ngũ lao động có chuyên môn cao và có khả năng tiếp thu nhanh các kiến thức cần thiết, cho nên có thác động tích cực đến việc nâng cao kết quả, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp và ngược lại….
3. Nhân tố sinh thái và cơ sở hạ tầng
Tình trạng môi trường, xử lý phế thải ô nhiễm, các ràng buộc xã hội về môi trường… đều tác động trong một chừng mực nhất định đến hiệu quả kinh tế. Môi trường trong sạch thoáng mát sẽ trực tiếp làm giảm chi phí kinh doanh để cải thiện môi trường bên trong doanh nghiệp và tạo điều kiện để nâng cao năng suất lao động, làm tăng hiệu quả kinh tế và ngược lại.
Cơ sở hạ tầng tác động trực tiếp đến chi phí kinh doanh cũng như thời gian vận chuyển hàng hoá của doanh nghiệp và do đó tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp BCVT. Điều kiện cơ sở hạ tầng thấp kém ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí đầu tư hoặc gây cản trở đối với việc cung ứng vật tư kỹ thuật, mua bán hàng hoá. Việc phát triển cơ sở hạ tầng là điều kiện tiên quyết đối với sự phát triển kinh tế.
4. Các nhân tố môi trường quốc tế
Các xu hướng chính trị trên thế giới, chính sách bảo hộ và mở cửa của thế giới…ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động mở cửa thị trường, mua bán của doanh nghiệp và do đó tác động đến kết quả, hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Môi trường khu vực (như hiệp hội ASEAN) là cơ sở để doanh nghiệp trong khu vực tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển kinh doanh trong toàn khu vực (trong đó có các doanh nghiệp nước ta).
5. Các nhân tố công nghệ
Tăng trưởng kinh tế quốc dân, các chính sách kinh tế của chính phủ, lạm phát, biến động tiền tệ, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh….là các nhân tố tác động trực tiếp đến các quyết định cung cầu của từng loại doanh nghiệp và có tác động mạnh mẽ đến kết quả kinh doanh của từng doanh nghiệp.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC LAO ĐỘNG BƯU ĐIỆN
THÀNH PHỐ VINH - NGHỆ AN
2.1. KHÁI QUÁT VỀ BƯU ĐIỆN THÀNH PHỐ VINH.
2.1.1 Quá trình phát triển của bưu điện Thành phố Vinh - Nghệ An.
Bưu điện Thành phố Vinh là một đơn vị trực thuộc Bưu điện tỉnh Nghệ An. Trong thời kỳ phục vụ kháng chiến mô hình tổ chức có Trung tâm Bưu chính Nghệ An ( Còn gọi là 241 ) và Bưu điện thành phố Vinh là đơn vị làm nhiệm vụ sản xuất kinh doanh phục vụ bưu chính viễn thông .
Sau năm 1975 hai đơn vị này được sát nhập thành Trung tâm Bưu chính tỉnh Nghệ An. Năm 1976 khi nhập hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thành Tỉnh Nghệ Tĩnh thì Trung tâm Bưu chính Hà Tĩnh nhập với trung tâm Bưu chính Tỉnh nghệ An thành Trung tâm Bưu chính tỉnh Nghệ Tĩnh.
Cuối năm 1979 Trung tâm Bưu chính Nghệ Tĩnh được sát nhập với Trung tâm PHBC Nghệ Tĩnh thành Trung tâm Bưu chính phát hành báo chí Nghệ Tĩnh.
Năm 1985 Trung tâm điện báo điện thoại được sát nhập với Trung tâm Bưu chính PHBC gọi là Phòng Bưu điện Thành phố Vinh, trực thuộc Bưu điện Nghệ Tĩnh; Chức năng, nhiệm vụ là phục vụ, kinh doanh dịch vụ Bưu chính Viễn thông, khai thác vận chuyển văn kiện, báo chí cho đường nội tỉnh và tổ chức, quản lý, phát triển mạng Viễn thông trên địa bàn Thành phố Vinh.
Cuối năm 1987 do quy mô phát triển mạng lưới Viễn thông trên địa bàn Thành phố và căn cứ mô hình tổ chức chung của ngành, đã thực hiện tách phòng Bưu điện Thành phố Vinh thành 2 đơn vị là: Công ty Bưu chính phát hành báo chí và Công ty Điện báo điện thoại.
Ngày 1/1/1988 chính thức thành lập Công ty bưu chính phát hành báo chí tỉnh Nghệ Tĩnh. Chức năng nhiệm vụ của Công ty Bưu chính PHBC lúc này là phục vụ kinh doanh dịch vụ Bưu chính, Phát hành báo chí trên địa bàn Thành phố Vinh và khai thác, vận chuyển Bưu chính và báo chí nội tỉnh.
Năm 1993 Bưu điện Nghệ Tĩnh được tách thành Bưu điện Nghệ an và Bưu điện Hà Tĩnh , công ty Bưu chính PHBC là đơn vị kinh tế trực thuộc bưu điện tỉnh Nghệ an.
Với sự chuyển biến không ngừng của nền kinh tế thị trường, thực hiện chủ trương bóc tách Bưu chính viễn thông, ngày 31/5/2002 Tổng Công ty Bưu chính –Viễn thông Việt nam đã ra Quyết định số 1794/QQĐ-TCCB về việc tổ chức lại Công ty Bưu chính- Phát hành báo chí thuộc Bưu điện tỉnh Nghệ An và được đổi tên thành Bưu điện Thành phố Vinh.
* Chức năng nhiệm vụ chủ yếu:
Bưu điện Thành phố Vinh là đơn vị hạch toán phụ thuộc Bưu điệnTỉnh Nghệ an, hoạt động chuyên ngành bưu chính viễn thông.
Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Bưu điện Thành phố Vinh là sản xuất kinh doanh dịch vụ trên các lĩnh vực:
- Khai thác và vận chuyển Bưu phẩm, Bưu kiện, báo chí nội tỉnh.
- Kinh doanh các dịch vụ Bưu chính – phát hành báo chí trên địa bàn Thành phố
- Cung cấp các dịch vụ viễn thông tại các điểm giao dịch và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh viễn thông trên địa bàn Thành phố.
- Kinh doanh vật tư, thiết bị bưu chính viễn thông liên quan đến dịch vụ do đơn vị cung cấp.
- Kinh doanh các ngành nghề khác khi được Tổng công ty BCVT cho phép
* Những khó khăn và thuận lợi cơ bản trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại Bưu điện Thành phố Vinh giai đoạn 2002-2006:
a. Khó khăn:
- Từ đặc điểm sản xuất của ngành Bưu chính Viễn thông là hoàn thành một sản phẩm phải do nhiều đơn vị tham gia, trong khi ngành chưa có hạch toán từng phần công đoạn của quá trình công nghệ sản xuất: Đi - Đến – Qua, nên đặc điểm doanh thu hiện tại chỉ có ở công đoạn nhận gửi ( Đi). Trong khi Bưu điện thành phố Vinh sản xuất kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông trên địa bàn kinh tế chưa phát triển, nên lượng khách hàng sử dụng các dịch vụ bưu chính viễn thông đi ít hơn so với sản lượng dịch vụ bưu chính viễn thông qua và đến dẫn đến tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu khó khăn hơn.
- Trong giai đoạn hiện nay thị trường kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông cạnh tranh ngày càng gay gắt do có nhiều doanh nghiệp cùng tham gia kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông trên cùng địa bàn
- Liên tục trong những năm 2004-2005- 2006 là những năm thực hiện của lộ trình giảm giá giá cước viễn thông trong nước và quốc tế nên cũng ảnh hưởng đến doanh thu.
- Lực lượng lao động chuyển đổi từ sản xuất kinh doanh trong môi trường độc quyền nhà nước sang môi trường cạnh tranh thị trường , nên trình độ đội ngũ chưa đáp ứng kịp với yêu cầu sản xuất kinh doanh hiện nay.
- Lao động đơn vị chủ yếu là nữ chiếm tỷ lệ 85% CBCNV, nên việc bố trí ca kíp cho chị em nuôi con nhỏ, làm việc ở các bộ phận công việc nặng, môi trường độc hại… gặp nhiều khó khăn.
* Thuận lợi:
- Bưu điện Thành phố Vinh được sản xuất kinh doanh, phục vụ trên địa bàn thành phố đang xây dựng phát triển, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của tỉnh Nghệ an, là điểm tham quan du lịch của khách trong nước và quốc tế, là Thành phố có đầu tư lớn của Trung ương, của Tỉnh, nhất là những năm gần đây … nên nhu cầu về các hoạt động của lĩnh vực thông tin Bưu chính- Viễn thông tương đối phong phú, đa dạng và phát triển.
- Lãnh đạo Bưu điện Tỉnh thường xuyên quan tâm đầu tư có trọng điểm về cơ sở vật chất, Mạng lưới của đơn vị luôn được nâng cấp, khang trang, mở rộng diện tích mặt bằng, đầu tư trang thiết bị máy móc đáp ứng các yêu cầu phục vụ kịp thời cho công tác quản lý và sản xuất ở Bưu điện Thành phố.
- Có qui chế khoán tiền lương hiệu quả đến các bưu cục, ki ốt và người lao động nhằm tăng năng suất – Chất lượng – hiệu quả là điều kiện tốt để người lao động phấn đấu tăng doanh thu.
2.1.2. Đặc điểm về tổ chức bộ máy.
Hình 2.1 Sơ đồ cơ cấu tổ chức.
Ban giám đốc
Tổ phát nhanh
Tổ Tổng hợp
Tổ Bưu tá
Tổ lái xe
Tổ kế
toán
TT
khai
thác
TT
Qlý
thu
cước
TT
Giao
dịch
4
TT
Giao
dịch
3
TT
Giao
dịch
2
TT
Giao
dịch
1
Tổ
kiểm
soát
Các bộ phận
giao
dịch
Q.lý
Mạng
Tổ
Chức
Các
bưu cục
ki ốt
Các
bưu cục
ki ốt
Các bưu cục
ki ốt
Kế hoạch TT cskh
(Nguồn: Phòng TCCB - LĐ - BĐ TP Vinh)
Bưu điện Thành phố Vinh là đơn vị kinh tế hạch toán phụ thuộc Bưu điện tỉnh Nghệ An, Có con dấu riêng theo tên gọi; được mở tài khoản tại các Ngân hàng Nhà nước tỉnh Nghệ An, có Giám đốc và các phó Giám đốc giúp việc quản lý điều hành đơn vị.
Mô hình tổ chức sản xuất của Bưu điện Thành phố hiện nay gồm Có:
* Bộ phận quản lý:
- Giám đốc và các phó giám đốc.
- Các chức năng làm nhiệm vụ quản lý kinh tế và nghiệp vụ.
* Tổ chức bộ máy sản xuất:
- Các Trung tâm giao dịch
- Trung tâm khai thác Trung tâm thu cước
- Các tổ sản xuất trực thuộc
Chức năng nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các Trung tâm tổ như sau:
b. Chức năng nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các bộ phận:
+ Chức năng nhiệm vụ
Ban giám đốc: Gồm có giám đốc và phó giám đốc. Giám đốc chịu trách nhiệm trước Bưu điện Thành phố và Bưu điện tỉnh Nghệ An nhiệm vô ®îc giao, phục vụ nhu cầu về dịch vụ bưu chính Viễn thông và kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện tốt mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong mọi lĩnh vực, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động. Giám đốc phụ trách chung, chủ tài khoản và trực tiếp chỉ đạo các bộ phận chức năng, các trung tâm, các tổ … dưới giám đốc là phó giám đốc giúp giám đốc giải quyết công việc theo sự phân công của giám đốc. Phó giám đốc phụ trách các lĩnh vực mạng lưới, vận chuyển, khai thác, kinh doanh và phụ trách chất lượng.
* Tổ tổng hợp: Là tổ tập trung các chức năng bộ phận quản lý tham mưu như : kế hoạch - Tiếp thị - Chăm sóc khách hàng – Tin học - Mạng lưới- Tổ chức và bộ phận phục vụ văn thư, hành chính. Tổ có quan hệ chặt chẽ với các trung tâm tổ trong đơn vị về các chức năng quản lý hỗ trợ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mỗi bộ phận thực hiện nhiệm vụ của mình theo chức năng nhiệm vụ được phân công.
* Bộ phận tổ chức: Chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc và có các nhiệm vụ:
- Nghiên cứu, đề xuất phương án cái tiến và tổ chức thực hiện mô hình TCSX, TCLĐ phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh của đơn vị trong từng giai đoạn.
- Xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ CNV trong đơn vị;
- Tham mưu cho Giám đốc về công tác xây dựng quy hoạch cán bộ của đơn vị và tổ chức thực hiện sau khi được duyệt
- Căn cứ vào quy chế phân phối thu nhập của Bưu điện tỉnh, xây dựng, bổ sung quy chế trả lương cho người lao động của đơn vị phù hợp thực tế SXKD của đơn vị
* Bộ phận kế hoạch SXKD – Tiếp thị – bán hàng– chăm sóc khách hàng:
Là bộ phận tham mưu cho giám đốc trong công tác xây dựng kế hoạch hoạt động SXKD , tiếp thị quảng cáo, chăm sóc khách hàng và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc với nhiệm vụ:
- Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho toàn doanh nghiệp, cho từng bộ phận trên cơ sở chỉ tiêu kế hoạch mà Bưu điện tỉnh giao cho.
- Hướng dẫn tổng hợp thực hiện công tác thi đua khen thưởng của đơn vị, của ngành.
- Thực hiện tổng kết kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để lập báo cáo lên giám đốc và cấp trên đồng thời để làm căn cứ xây dựng kế hoạch cho những năm kế tiếp.
- Thực hiện quảng cáo giới thiệu sản phẩm, nghiên cứu thị trường nắm tình hình để tham mưu cho giám đốc các biện pháp trong thực hiện kế hoạch doanh thu.
- Theo dõi khuyến mại đánh giá kết quả mỗi đợt làm báo cáo gửi Bưu điện Tỉnh.
- Theo dõi quản lý khách hàng lớn , thường xuyên , tham mưu cho giám đốc các chính sách đối với các đối tượng khách hàng.
* Bộ phận Quản lý mạng lưới: Chịu sự quản lý trực tiếp của giám đốc, có trách nhiệm tham mưu cho giám đốc về tổ chức, quản lý mạng lưới, đầu tư, bảo dưỡng, lắp đặt, cung ứng các thiết bị, mở rộng phát triển mạng lưới dịch vụ của đơn vị.
* Tổ kế toán tài chính: Chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tổng hợp kế hoạch sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở để xây dựng kế hoạch tài chính trong năm.
- Thực hiện công tác tài chính kế toán một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh theo pháp lệnh kế toán thống kê trên cơ sở thực hiện tốt các chế độ chính sách theo luật doanh nghiệp.
- Thực hiện chế độ báo cáo hàng tháng, quý, năm đối với công ty cấp trên và các cơ quan cấp trên.
* Các trung tâm giao dịch 1,2,3,4: Các trung tâm giao dịch 1, 2, 3, 4 có nhiệm vụ tổ chức , quản lý , khai thác, kinh doanh có hiệu quả các dịch vụ bưu chính phát hành báo chí, tiết kiệm bưu điện, dịch vụ viễn thông công cộng tại các điểm giao dịch trên địa bàn được phân quản lý. Hàng năm căn cứ kế hoạch doanh thu Bưu điện tỉnh giao, đơn vị giao khoán kế hoạch doanh thu cho từng trung tâm, bưu cục, ki ốt.
- Trung tâm giao dịch 1 là điểm giao dịch chính của bưu điện thành phố vinh có doanh thu chiếm 20% doanh thu toàn đơn vị , tại trung tâm giao dịch 1 cung cấp đầy đủ các dịch vụ bưu chính - phát hành báo chí – tiết kiệm bưu điện – các dịch vụ viễn thông ...là điểm kinh doanh có vị trí thuận lợi là trung tâm thành phố, tập trung các đối tượng khách hàng là các cơ quan doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng dịch vụ tương đối lớn
- Trung tâm giao dịch 2, giao dịch 3, giao dịch 4 là các khu vực kinh doanh theo thứ tự là các vùng phía Đông Nam, Đông Bắc, Tây Bắc của Thành phố có hệ thống mạng lưới các bưu cục, ki ốt trên địa bàn thành phố thực hiện nhiệm vụ kế hoạch doanh thu, kinh doanh các dịch vụ Bưu chính - Viễn thông.
- Tham gia thực hiện kế hoạch doanh thu cung cấp các dịch vụ bưu chính viễn thông tại Bưu điện thành phố còn có hệ thống mạng lưới gần 200 đại lý
* Trung tâm khai thác: chịu sự quản lý trực tiếp của giám đốc với nhiệm vụ: Tổ chức , quản lý khai thác thông tin, thư từ, báo chí, bưu phẩm, bưu kiện... đi, đến , qua . Đóng, mở tuí thư, thực hiện giao nhận ._.i, hàng năm chiếm tỷ lệ từ 14 - 17% lao động toàn đơn vị. Bình quân lao động trình độ trung cấp các năm 2002 - 2006 chiếm tỷ lệ 15,34%
- Số lao động có trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật năm 2002 - 2006 không tăng, chiếm tỷ lệ 60-75% lao động toàn đơn vị. Bình quân lao động trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật các năm 2002 - 2006 chiếm tỷ lệ 71,22% Tốc độ tăng trưởng bình quân các năm là 0,87% .
Bình quân số lao động chưa qua đào tạo của các năm chiếm tỷ lệ 3,54%
Từ thực tế hiệu quả sử dụng lao động của Bưu điện thành phố thể hiện những ưu nhược điểm sau:
- Tốc độ tăng lao động hàng năm đều thấp hơn tốc độ tăng năng suất lao động của đơn vị, thể hiện tính hiệu quả của việc sử dụng bố trí lao động của đơn vị tốt.
- Với hiệu quả sử dụng lao động của đơn vị nên hàng năm năng suất lao động bình quân đều được tăng lên 17,25 %.
- Chất lượng đội ngũ ngày một nâng cao thể hiện ở tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng đại học ngày càng tăng, tốc độ tăng trưởng của lao động trình độ đại học ngày càng cao, tỷ lệ lao động trình độ sơ cấp, công nhân giảm dần do đơn vị thực hiện tốt công tác đào tạo , nâng cao trình độ đội ngũ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Tuy nhiên về đội ngũ lao động tại Bưu điện thành phố vẫn còn một số tồn tại, tỷ lệ lao động có trình độ sơ cấp chuyên môn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số lao động của đơn vị, thậm chí còn có số lao động chưa qua đào tạo nghề.
Xuất phát từ đặc điểm: Bưu điện Nghệ An là đơn vị kinh tế thành viên của Tổng công ty BC - VT Việt Nam, hạch toán phụ thuộc và Bưu điện Thành phố Vinh là đơn vị trực thuộc Bưu điện Nghệ An, do đó chức năng tuyển dụng lao động là do giám đốc Bưu điện Tỉnh tuyển và phân phối cho các đơn vị trực thuộc trong đó có Bưu điện Thành phố Vinh.
Qui trình tuyển dụng và phân bổ lao động của Bưu điện Tỉnh là căn cứ vào kế hoạch lao động hàng năm của đơn vị trực thuộc xây dựng và trình lên Bưu điện Tỉnh.
Bưu điện Thành phố Vinh hàng năm căn cứ vào các yếu tố sau đây để xây dựng kế hoạch lao động trình Bưu điện Tỉnh:
- Định mức lao động, công nghệ của Bưu điện Tỉnh và cơ sở hàng năm
- Phương án cải tiến tổ chức sản xuất và bố trí sắp xếp lao động phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh và phát triển mạng lưới dịch vụ của đơn vị.
- Dự kiến số lao động nghỉ các chế độ hàng năm.
Từ đó xây dựng kế hoạch lao động, tiền lương cho năm, kế hoạch trình Bưu điện Tỉnh gồm:
+ Nhu cầu lao động định biên cần tăng thêm.
+ Nhu cầu về trình độ và nghề đào tạo của lao động.
Bưu điện Thành phố chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp lực lượng lao động, bố trí sắp xếp lao động theo nhu cầu thực tế tổ chức sản xuất của đơn vị.
Ví dụ:
Năm 2006 Bưu điện Thành phố Vinh lập kế hoạch nhu cầu lao động căn cứ các điều kiện:
- Qua khảo sát đường thư Bưu tá, dự kiến tổ chức lại sản xuất, năm 2007 tăng thêm 2 đường thư.
- Để đáp ứng nhu cầu khách hàng và tăng khả năng cạnh tranh mở thêm dịch vụ Phát tại nhà.
- Tăng cường công tác tiếp thị bán hàng và chăm sóc khách hàng.
- Trong năm có 7 người ở các bộ phận về nghỉ hưu theo chế độ.
Bưu điện Thành phố Vinh lập nhu cầu lao động gửi Bưu điện Tỉnh như sau:
3.1.3. Yêu cầu đối với đội ngũ lao động tại đơn vị.
Bưu điện Thành phố Vinh là đơn vị sản xuất kinh doanh bởi vậy đội ngũ lao động tại đơn vị được chia thành hai nhóm.
+ Đối với công tác làm quản lý:
Cán bộ làm công tác quản lý được đơn vị cử đi đào tạo, bồi dưỡng trình độ cao đẳng, đại học quản lý kinh tế và kinh doanh, các khoá bồi dưỡng ngắn hạn về chuyên môn nghiệp vụ… ở các cơ sở đào tạo trong và ngoài ngành Bưu điện. Trên cơ sở làm việc gì, sắp xếp vị trí nào thì có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn , nghiệp vụ đó. Đặc biệt từ năm 2003 đến nay, do đơn vị thay đổi mô hình tổ chức sản xuất, các tổ giao dịch, tổ khai thác được nâng tầm từ Tổ thành Trung tâm, yêu cầu về công tác quản lý của trung tâm cũng đòi hỏi cao hơn trước, nên các trưởng, phó Trung tâm đều được cử đi đào tạo trình độ đại học tại trường ở địa phương để vừa học vừa có điều kiện tham gia công tác
+ Đối với lao động trực tiếp sản xuất:
Việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh đã được đơn vị hết sức chú trọng vì đây là đội ngũ thực sự tạo ra doanh thu cho đơn vị.
- Đối với nhóm lao động tạo doanh thu như nhân viên tiếp thị, giao dịch viên tại các Bưu cục, ki ốt: Nhóm lao động này thường xuyên được cử đi bồi dìng các khoá ngắn hạn như Marketing, chăm sóc khách hàng, giao tiếp và ứng xử… tại trường ngành hoặc tổ chức ở Bưu điện Tỉnh nhằm nâng cao kỹ năng giao dịch khách hàng, nâng cao trình độ nghiệp vụ, hiểu biết về các sản phẩm mới.
- Đối với nhóm lao động thực hiện nhiệm vụ khối lượng như: Công nhân khai thác Bưu phẩm, Bưu kiện, EMS, đối soát chuyển tiền, do việc đầu tư về công nghệ và máy tính, sự đổi mới về tổ chức khai thác và vận chuyển đơn vị đã phối hợp với phòng quản lý nghiệp vụ Bưu điện Tỉnh tổ chức đào tạo tại chỗ về quy trình nghiệp vụ đồng thời cử đi đào tạo bồi dưỡng tại trường ngành và tham gia tập huấn theo tổ chức của ngành.
3.2. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TỔ CHỨC LAO ĐỘNG TẠI BƯU ĐIỆN THÀNH PHỐ VINH - NGHỆ AN.
Qua tìm hiểu, tiếp cận hoạt động của bưu điện Thành phố Vinh cho thấy công tác tổ chức lao động đã được đơn vị quan tâm và đã đưa lại hiệu quả cao cho quá trình công tác tổ chức lao động, tuy nhiên cũng qua nghiên cứu tình hình thực tế vẫn còn một số vấn đề chưa phù hợp, những điểm thiếu sót cần khắc phục. Để góp phần tạo điều kiện nâng cao hiệu quả công tác tổ chức lao động, tôi xin được đưa ra một số biện pháp hoàn thiện công tác tổ chức lao động tại Bưu điện Thành phố Vinh như sau.
3.2.1 Hoàn thiện các hình thức kích thích vật chất, tinh thần cho người lao động.
Trong thời gian qua, Bưu điện Thành phố đã có những chính sách khuyến khích động viên CBCNV lao động theo cơ chế của Bưu điện Tỉnh và cơ chế riêng của đơn vị, tuy nhiên việc động viên khen thưởng có nhiều lúc còn hình thức, chiếu lệ, thiếu sâu sát, đặc biệt là đối với việc sáng tạo cái mới đem lại hiệu quả, chỉ đánh giá ở mức chung chung, nên chưa phát huy được tiềm năng sẵn có trong đội ngũ đông đảo nhân viên. Do vậy, theo tôi trong thời gian tới Bưu điện Thành phố cần thực hiện một số biện pháp theo các hướng sau:
+ Khuyến khích, ưu tiên những ý tưởng mới, những sáng tạo mới có thể đem lại kết quả thiết thực cho đơn vị trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho những ý tưởng có điều kiện thực nghiệm tại đơn vị.
+ Phát động thành phong trào thi đua sâu rộng trong toàn đơn vị và mỗi nhóm - tổ , trung tâm trực tiếp thực hiện, sáng tạo trên nhiều phương diện.
+ Có bộ phận trực tiếp thu nhận ý kiến góp ý của các nhân viên trên toàn mạng lưới để ngày càng hoàn thiện hơn các dịch vụ, thể lệ quy trình.
+ Để phát huy tính sáng tạo của người lao động, việc vận động và tổ chức các phong trào thi đua củađơn vị cần phải chú ý các bài học sau:
Thứ nhất, phải thấm nhuần tư tưởng thi đua là một tất yếu khách quan, nảy sinh trong lao động tập thể, gắn liền với phong trào quần chúng, là một trong những biện pháp quan trọng để xây dựng các nhân tố mới, thông qua phong trào thi đua biến nó thành một trường học đặc biệt để đào tạo xây dựng đội ngũ, đồng thời thi đua là một biện pháp tích cực để thực hiện tốt công tác quản lý, là cơ sở để khen thưởng một cách đích thực và có tác dụng động viên giáo dục nêu gương.
Thứ hai, đề ra được các chính sách thi đua khen thưởng cho phù hợp, tạo được các phong trào thi đua sâu rộng, liên tục và nhiều mặt, từ quản lý, sản xuất kinh doanh đến văn hoá, văn nghệ thể thao, tạo thêm nhiều khí thế sôi nổi, tạo thêm sức khoẻ để thực hiện tốt công việc được giao. Đồng thời, các biện pháp, hình thức tổ chức động viên thi đua đa dạng, phong phú, khơi dậy được tính tự giác, sáng tạo, vượt khó của cán bộ công nhân viên.
Thứ ba, là phong trào thi đua phải được duy trì thường xuyên, liên tục ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh.
Thứ tư, là việc xây dựng các mục tiêu, nội dung của các phong trào thi đua bám sát chủ trương, đờng lối của Đảng, Nhà nước và của ngành. Chỉ tiêu và nội dung thi đua phải thiết thực, phù hợp với tình hình đặc điểm của đơn vị.
Trong công tác thi đua đơn vị cần thực hiện tốt hơn một số nội dung sau:
- Làm tốt công tác tuyên truyền phổ biến sâu rộng để mọi người nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của công tác thi đua khen thưởng, để công tác thi đua tiếp tục là động lực của mọi cá nhân, tập thể.
- Xây dựng hoàn thiện các quy chế thi đua khen thưởng. Gắn kết chặt chẽ thi đua với khen thưởng, có tiêu chuẩn khen thưởng thiết thực, đúng đối tượng, chú trọng khen thưởng các đơn vị cơ sở và các cá nhân. Khen thưởng đồng thời cả về mặt tinh thần lẫn vật chất để nâng cao tác dụng động viên khuyến khích. Về chế độ khen thưởng đơn vị nên thực hiện việc bình bầu khen thưởng các tháng, quý thay vì thực hiện bình bầu khen thưởng khi sơ kết 6 tháng và tổng kết cuối năm nhằm tạo động lực thúc đẩy kịp thời cán bộ công nhân viên chức hăng say hơn trong công việc. Tiếp tục khuyến khích các cá nhân, tổ sản xuất kinh doanh đăng ký thi đua giành danh hiệu lao động giỏi; chiến sỹ thi đua; tập thể lao động giỏi; tập thể lao động xuất sắc.
Thứ 5: Đảm bảo các chế độ đãi ngộ và phúc lợi
Chế độ trả lượng hiện nay của Bưu điện Tành phố Vinh bưu điện tỉnh nghệ An về cơ bản là dựa trên nguyên tắc trả lương theo chất lượng và hiệu quả công việc, đảm bảo công khai, mọi người lao động có thể tính toán được tiền lương mà bản thân được hưởng. Cơ cấu tiền lương được chia làm 2 phần, gồm lương chính sách theo quy định của Nhà nước và phần lương khoán được gắn kết giữa giá trị lao động của cá nhân và kết quả thực hiện chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của đơn vị. Phần lương khoán chiếm từ 70% đến 75% trong tổng số lương, như vậy trong cơ cấu lương đã coi trọng đến chất lượng và hiệu quả công việc, do đó khuyến khích người lao động hăng say, tích cực làm việc.
Tuy nhiên, cơ chế trả lương như đã nói ở trên chưa có tác dụng khuyến khích người lao động. Đơn vị nên tiến hành trả lương khuyến khích căn cứ vào mức độ cống hiến, mức độ hoàn thành công việc được đánh giá hàng tháng, hàng quy, năm
3.2.2 Tăng cường kỷ luật lao động:
Kỷ luật và thi hành kỷ luật là khía cạnh quan trọng trong công tác quản trị nguồn nhân lực. Thi hành kỷ luật bao gồm hình phạt một nhân viên không đáp ứng tiêu chuẩn đã ấn định. Thi hành kỷ luật có hiệu quả là nhằm vào hành vi sai trái của nhân viên. Thi hành kỷ luật một cách tuỳ tiện, không chính xác không những nguy hại đến nhân viên mà còn có hại với tổ chức. Do đó, thi hành kỷ luật không nên áp dụng bừa bãi. Thi hành kỷ luật thường không phải là một giải pháp tối ưu. Do đó tiến hành thi hành kỷ luật cần phải năng động
Thực trạng việc thực hiện chấp hành kỷ luật lao động của cán bộ công nhân viên tại Bưu điện Thành phố trong những năm qua tương đối tốt. Tuy nhiên, để duy trì được thành quả này đòi hỏi sự cố gắng rất cao của toàn thể các đơn vị, cụ thể đơn vị cần tập trung lãnh đạo thực hiện tốt một số việc sau đây:
+ Cần tăng cường việc giáo dục nhận thức về kỷ luật lao động như: Tuyên truyền phổ biến các nội quy lao động, thảo luận kiểm điểm tình hình kỷ luật lao động ở các cuộc họp tổ, trung tâm sản xuất, bộ phận sản xuất và toàn đơn vị. Dùng các phương tiện thông tin như: Bản tin, thông báo bằng công văn trong toàn đơn vị để thông báo kịp thời tình hình kỷ luật lao động trong đơn vị.
+ Khi biện pháp giáo dục thuyết phục kém hiệu quả đối với cán bộ công nhân viên vi phạm kỷ luật lao động hoặc là lỗi vi phạm kỷ luật lao động ở mức nặng thì bắt buộc phải sử dụng biện pháp như: phê bình, cảnh cáo, hạ cấp bậc (nếu giữ vị trí cán bộ), buộc thôi việc. Tuy nhiên, nếu người vi phạm có thành khẩn thì giảm nhẹ hình phạt.
+ Mỗi khi có xử lý kỷ luật cần thông báo cho các trung tâm tổ biết và yêu cầu thông báo đến toàn thể CBCNV trong đơn vị.
+ Việc thi hành kỷ luật phải theo một trình tự khoa học, hợp lý, theo đúng thủ tục. Việc thi hành kỷ luật cần phải tuỳ theo mức độ mà áp dụng đi từ thấp đến cao, tuỳ theo mức độ nặng hay nhẹ. Tuỳ cơ ứng biến.
Cho nghỉ việc là hình thức nặng nhất nó luôn gây tổn thương cho người bị kỷ luật và cho cả gia đình họ. Ngoài ra còn gây cú xốc tâm lý cho bạn bè đồng nghiệp, với người lãnh đạo khi giải quyết công việc này sao cho khéo léo và tạo sự thải mái trong tâm lý chung trong đơn vị.
3.2.3 Đào tạo và nâng cao trình độ cho người lao động:
Trong công tác đào tạo và nâng cao trình độ cho người lao động của Bưu điện Thành phố Vinh trong 4 năm qua đã thực hiện khá tốt, đến năm 2005 số lao động có trình độ Đại học và Cao đẳng tăng dần, tỷ lệ lao động trình độ sơ cấp ngày một giảm. Lao động thuộc các bộ phận: Tiếp thị bán hàng, kiểm soát viên, giao dịch viên đều được tham dự những khoá đào tạo ngắn hạn để nâng cao trình độ, Bưu điện Thành phố có kế hoạch cụ thể về số lao động được đi đào tạo Đại học tại chức về quản trị kinh doanh cho cán bộ trưởng phó các trung tâm. Tuy nhiên, do điều kiện trường đào tạo nghiệp vụ của ngành ở xa (Hà Đông), thời gian, phương tiện đi lại khó khăn, nên việc nâng cao trình độ cho số công nhân lên trung cấp chưa được nhiều. Qua phân tích, đến thời điểm năm 2006, số lao động có trình độ trung cấp tại đơn vị chỉ chiếm 17,3% và số lao động sơ cấp chiếm tới 60,7%. Tỷ lệ này còn quá thấp so với yêu cầu ngày càng cao của xã hội.Trong thời gian tới Bưu điện Thành phố cần tập trung đào tạo người lao động theo các nội dung chính sau đây:
Trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp đặc biệt là giai đoạn chuẩn bị chia tách Bưu chính và Viễn thông như hiện nay, đã buộc làm các doanh nghiệp Bưu chính phải “tự vận động mạnh mẽ hơn” để tồn tại. Không chỉ các dịch vụ mới ra đời mà ngay cả các dịch vụ Bưu chính truyền thống cũng có nhiều sự thay đổi về phương thức sản xuất kinh doanh. Do đó việc nghiên cứu và xây dựng hoàn thiện thể lệ quy trình một cách chuẩn mực là yếu tố tất yếu.
Vì vậy, các cán bộ công nhân viên Bưu điện Thành phố cần phải được bồi dưỡng nâng cao, đào tạo kịp thời kiến thức về chuyên môn để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Đảm bảo nhân viên trong toàn đơn vị hiểu rõ sản phẩm, dịch vụ mà mình cung cấp, hiểu rõ quá trình sản xuất kinh doanh, nhận thức được một cách sâu sắc về yêu cầu chất lượng sản phẩm mà mình cung cấp, từ đó đáp ứng khách hàng tốt hơn.
3.2.4 Tổ chức phân công và hiệp tác lao động khoa học hợp lý:
a. Phân công lao động khoa học hợp lý.
Phân công lao động chính là quá trình tách riêng các hình thức khác nhau trong hoạt động lao động, đem quá trình lao động căn cứ vào những điều kiện nhất định mà phân chia ra các loại công việc khác nhau. Thực hiện tốt công tác phân công và hiệp tác lao động sẽ giúp cho đơn vị đạt được hiệu quả cao hơn trong sản xuất kinh doanh và trong công tác quản trị nhân lực.
Đối với Bưu Điện Thành phố Vinh, do đặc điểm riêng của quá trình sản xuất là: Lượng tải đi - đến – qua không đồng đều; yêu cầu sản phẩm Bưu chính - Viễn thông không có thứ phẩm; mạng thông tin trải rộng… nên việc phân công lao động cần chú trọng ở những điểm sau:
- Phân công lao động toàn năng: Tức là kiêm nhiệm chức năng của một nghề và một số chức năng của các nghề khác. Phân công lao động toàn năng được ứng dụng ở những nơi có lượng tải nhỏ như các bưu cục 3; Những lao động làm nhiệm vụ thay thế nghỉ bù, phép … Những lao động này phải làm việc toàn năng mới có thể thay thế được.
- Phân công lao động chuyên nghề: Đây là hình thức phân công lao động làm các chức năng trong sản xuất của từng nghề như trong sản xuất Bưu chính – Phát hành báo chí hoặc sản xuất điện chính (kiêm khai thác điện thoại, điện báo).
- Phân công lao động chuyên sâu: Là việc phân công các lao động làm các công việc chuyên sâu theo từng loại sản phẩm hay từng loại thiết bị. Hình thức phân công này áp dụng cho những nơi có khối lượng sản phẩm thông tin lớn và làm việc liên tục như: Giao dịch trung tâm - Bưu cục đa dịch vụ có doanh thu cao
Ngoài các hình thức phân công lao động nêu trên, căn cứ vào những đặc điểm riêng có của sản xuất Bưu chính - Viễn thông là: Khối lượng sản phẩm không đồng đều giữa các giờ trong ngày; Giữa các ngày trong tháng; Giữa các tháng trong năm để phân công lao động. Vì vậy, việc phân công lao động còn chú ý bao hàm cả khái niệm điều độ lao động tức là: Điều độ lao động trong ca (Giờ nhiều việc nhiều người, ít việc ít người ); Điều độ lao động trong tuần (Điều độ giữa ngày thường và ngày chủ nhật, thứ 7…); Điều độ lao động trong tháng (bố trí lao động thay thế nghỉ lễ, phép, thứ 7, chủ nhật) và điều độ lao động trong năm.
Ngoài ra, sự phân công lao động luôn gắn liền với sự thay đổi về TCSX và TCLĐ, công việc đó thường xuyên được xem xét và có kế hoạch tiến hành đồng thời với kế hoạch sản xuất hàng năm.
Việc tổ chức lại sản xuất, sắp xếp lại lao động cần phải được thực hiện hàng năm để phù hợp với tình hình thị trường và sản xuất kinh doanh của đơn vị. Khối giao dịch, kinh doanh cần được phân bổ hợp lý theo nguyên tắc phân đoạn thị trường, phân đoạn khách hàng và phù hợp với quy mô của trung tâm. Sắp xếp lại lao động tại các bưu cục nhằm bổ sung và hỗ trợ cho nhau giữa các lao động có trình độ chênh lệch. Xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn cho bưu cục kiểu mẫu và đơn vị điển hình tiên tiến. Từ đó triển khai trên diện rộng thực hiện xây dựng bưu cục kiểu mẫu.
Trung tâm khai thác bưu chính là bộ phận quan trọng trong quá trình sản xuất của đơn vị, hiện tại lao động ở bộ phận này đang thiếu và yếu cả về sức khoẻ và yếu về chất lượng (việc vận chuyển, khai thác các túi bưu phẩm , bưu kiện , hàng hoá nặng ở đây phù hợp với lao động nam), trong thời gian tới cần khảo sát , định mức lại lao động để kịp thời bổ sung, điều chỉnh lao động có đủ điều kiện về sức khoẻ về chuyên môn để bố trí cho bộ phận này.
Khảo sát khối lượng các tổ bưu tá, phát nhanh, lái xe để tổ chức, sắp xếp lại lao động phục vụ trong việc tăng tốc độ về chuyển phát, khai thác và tăng năng suất lao động, đảm bảo định mức hợp lý chế độ làm việc 40 giờ/ tuần. Đặc biệt là tổ bưu tá và tổ phát nhanh. Hiện nay các khu nhà chung cư cao tầng ở Thành phố Vinh phát triển tương đối nhanh vì vậy đơn vị cần nghiên cứu phương án phát thư báo, bưu phẩm cho nhân dân ở khu chung cư cao tầng để vừa tạo điều kiện thuận tiện cho lực lượng bưu tá, đồng thời cũng đảm bảo chỉ tiêu nhanh chóng, chính xác, an toàn tiện lợi cho khách hàng, vừa giảm được chi phí .
b. Hợp tác lao động chặt chẽ, đồng bộ:
Hợp tác lao động là sự phối hợp các dạng lao động trong một dây chuyền sản xuất. Quá trình hợp tác lao động luôn gắn liền với sự phân công lao động, phân công lao động càng hợp lý thì hợp tác lao động càng chặt chẽ và điều này sẽ góp phần củng cố sự phân công lao động; Phân công lao động càng sâu thì hợp tác lao động càng rộng. Nhiệm vụ của hợp tác lao động là quy định một cách có kế hoạch và duy trì một cách tự giác tỷ lệ hợp lý giữa các hình thức lao động chuyên môn hoá; xác định các mối quan hệ sản xuất hợp lý giữa các bộ phận cấu thành của doanh nghiệp và từng người lao động.
Đặc điểm sản xuất của nghành Bưu chính - Viễn thông đòi hỏi phải có sự hợp tác lao động chặt chẽ và chính xác cao trên toàn mạng lưới. Với mạng lưới sản xuất kinh doanh của Bưu điện Thành phố trên một địa bàn rộng và phức tạp càng đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ, chính xác và đồng bộ, không những đồng bộ trong đơn vị mà đòi hỏi đồng bộ nhịp nhàng với mạng toàn tỉnh và Quốc gia.
Trong sản xuất thông tin chúng ta áp dụng hình thức hợp tác cơ bản là: chế độ điều khiển nghiệp vụ, chế độ điều độ thông tin, các quy trình quy phạm kỹ thuật, các chế độ thủ tục khai thác. Các quy định về tổ chức lao động nh tổ chức các ca làm việc hợp lý, quy định nội dung kỹ thuật và tổ chức ca sản xuất. Đó là các hình thức hợp tác nhiều người, nhiều nghề, nhiều chức danh trên toàn bộ dây chuyền sản xuất trong phạm vi toàn Bưu Điện Thành phố. Ngoài ra còn có hình thức hợp tác bằng hợp đồng kinh tế, đây là hình thức hợp tác có bảo đảm cho quá trình sản xuất có đủ điều kiện tiến hành liên tục.
Việc hợp tác lao động chặt chẽ và đồng bộ là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho hoạt động SXKD trở nên nhịp nhàng, cân đối đem lại hiệu quả kinh tế cao cho Đơn vị.
3.2.5 Thực hiện việc đánh giá lao động và tình hình sử dụng lao động làm căn cứ cho công tác lập kế hoạch nhân lực và khuyến khích nhân viên
Đánh giá thực trạng lao động và tình hình sử dụng lao động là bước rất quan trọng trong công tác lập kế hoạch nhân lực. Việc đánh giá lao động và tình hình sử dụng lao động hiện tại sẽ cho cái nhìn tổng thể về nguồn nhân lực, xác định được điểm mạnh, điểm yếu về mặt nhân lực của đơn vị, từ đó có thể xác định sẽ thừa hay thiếu những loại lao động nào, những kỹ năng nào còn yếu, còn thiếu, cần củng cố, bố sung thêm… từ đó xác định các chương trình và chính sách của quản trị nhân sự tiếp theo để giải quyết các vấn đề này.
Áp dụng căn cứ chính xác
Điều quan trọng nhất của công tác đánh giá là đưa ra được những tiêu chí để làm căn cứ cho đánh giá. Những tiêu chí này cần chính xác, phù hợp đối với mỗi loại lao động khác nhau. Việc đánh giá cần công bằng và công khai nên các căn cứ đưa ra phải có tác dụng khuyến khích người lao động phấn đấu hoàn thiện mình, mặt khác giúp đơn vị đánh giá được mức độ hoàn thành công việc của người lao động, đánh giá được mức độ đóng góp của người lao động đối với thành quả chung.
Hiện tại Bưu điện Thành phố Vinh tiến hành đánh giá nhân viên theo phương pháp chấm điểm. Phương pháp này do Tổng công ty hướng dẫn nay là tập đoàn BCVT và thống nhất thực hiện trong các đơn vị thành viên. Do vậy để làm tốt công tác đánh giá nhân viên, đơn vị cần chú trọng trong cách thực hiện.
Cách thức thực hiện có hiệu quả
Thực hiện chấm điểm chất lượng theo ngày, theo ca làm việc: Dựa vào hệ thống chỉ tiêu chất lượng công tác đã được ban hành, từng tổ đội sản xuất; phòng ban sẽ theo dõi và chấm điểm cho từng ngày hoặc từng ca một. Cuối tháng sẽ thống kê tổng hợp để đánh giá chất lượng cho cả tháng.
Thường xuyên cập nhật, bổ sung chức danh mới chưa có trong bảng xác định hệ số mức độ phức tạp công việc: Bảng xác định hệ số mức độ phức tạp công việc cho từng chức danh, nội dung công việc của toàn đơn vị được thực hiện tại một thời điểm. Trong quá trình phát triển, với sự thay đổi về công nghệ, mở rộng thêm thị trường, triển khai dịch vụ mới, áp dụng những tiến bộ mới vào trong sản xuất và quản lý sẽ nảy sinh những công việc mới, yêu cầu những chức danh mới. Bởi vậy việc cập nhật, bổ sung thường xuyên những chức danh, nội dung công việc này sẽ làm cho người lao động thực hiện công việc nhận thức được trách nhiệm, từ đó xác định được các mục tiêu phấn đấu đồng thời có cơ sở để trả lương, thưởng một cách xứng đáng.
Lập Hội đồng đánh giá chất lượng hàng tháng cho tập thể và cá nhân: Căn cứ bảng chấm điểm chất lượng theo ngày, theo ca làm việc, căn cứ vào tình hình khiếu nại của khách hàng, các chỉ tiêu thực hiện so với kế hoạch được giao, Hội đồng đánh giá chất lượng sẽ xếp loại chất lượng cho từng đơn vị.
Tiến hành cung cấp thông tin phản hồi cho CBCNV và nhận thông tin phản hồi cho phía CBCNV: Đây thực chất là một cuộc thảo luận với CBCNV và kết quả thực hiện công việc của họ, Thông qua cuộc thảo luận, người lao động biết mình được đánh giá như thế nào và họ cần làm gì để thực hiện công việc tốt hơn. Sẽ có những phản ứng khác nhau từ phía CBCNV, họ có thể nói ra trong cuộc thảo luận hoặc không nói, hoặc tỏ ra bất mãn. Do vậy cần khuyến khích tất cả CBCNV chủ động, tích cực tham gia và quá trình đánh giá. Đơn vị có thể lập các hòm thư để nhận ý kiến phản hồi khi người lao động không muốn phản hồi trực tiếp.
Căn cứ sự công bằng trong đánh giá và khuyến khích tất cả CBCNV chủ động, tích cực tham gia vào quá trình đánh giá.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI BƯU ĐIỆN TỈNH NGHỆ AN.
Trong điều kiện hiện nay khi mà Việt Nam đã gia nhập WTO thì việc tự chủ trong kinh doanh là yếu tố quan trọng để làm nên thành công cho doanh nghiệp. Ngoài ra tiến trình chia tách bưu chính viễn thông đã chuẩn bị hoàn tất. Vậy Bưu điện Thành phố Vinh có một số kiến nghị sau:
- Nhu cầu đào tạo bổ sung lao động nam có nghiệp vụ cho bộ phận khai thác là rất cần thiết.
- Dịch vụ kinh doanh hàng hoá khác cần phát triển bởi ngành bưu chính phát triển phải quan tâm đến đội ngũ có trình độ, có kiến thức về Marketing, luật thương mại bổ sung vào bộ phận kế hoạch, tiếp thị bán hàng.
KẾT LUẬN
Ngành Bưu chính – Viễn thông là một ngành thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế, hoạt động của ngành Bưu chính Viễn thông ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất xã hội. Trong xu thế kinh tế hoá toàn cầu, môi trường kinh doanh trong nước đang từng bước thay đổi, bưu điện Thành phố Vinh thuộc Bưu điện Tỉnh Nghệ An cũng đang từng bước đổi thay cho phù hợp với điều kiện kinh doanh mới, trong đó yếu tố công tác tổ chức lao động là vấn đề bức thiết và quan trọng hàng đầu.
Qua thời gian thực tập, được tiếp cận và nghiên cứu về tình hình thực trạng công tác tổ chức lao động tại Bưu điện Thành phố Vinh, cùng với việc phân tích đánh giá để thấy rõ được những khó khăn thuận lợi, ưu nhược điểm và nguyên nhân , trên cơ sở đó em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức lao động tại Bưu điện Thành phố Vinh.
Mặc dù đã rất cố gắng để nghiên cứu, phân tích và đánh giá, song do khả năng kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian thực tập ngắn nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Những giải pháp đưa ra có thể còn mang tính chủ quan của cá nhân em. Rất mong được sự bổ sung và góp ý của cô giáo để em hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn tập thể ban lãnh đạo Bưu điện Thành phố Vinh, các phòng chức năng đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình thực tập, xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa quản trị kinh doanh, Thạc sĩ Trần Thị Hoà đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn để em có được kiến thức hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Thành phố Vinh, tháng 6 năm 2007
Môc lôc
Trang
Ch¬ng I: Mét sè vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ tæ chøc lao ®éng trong doanh nghiÖp
1
1.1. Vai trß cña c«ng t¸c tæ chøc lao ®éng trong doanh nghiÖp
1
1.1.1. Kh¸i niÖm vÒ tæ chøc lao ®éng
1
1.1.2. Vai trß cña c«ng t¸c tæ chøc lao ®éng trong doanh nghiÖp
2
1.2. Néi dung cña c«ng t¸c tæ chøc lao ®éng trong doanh nghiÖp
4
1.2.1. Ph©n c«ng vµ hîp t¸c lao ®éng trong doanh nghiÖp
4
1.2.2. Tæ chøc vµ phôc vô n¬i lµm viÖc
8
1.2.3. §iÒu kiÖn lao ®éng
13
1.2.4. ChÕ ®é lµm viÖc, nghØ ng¬i
14
1.2.5. C«ng t¸c x©y dùng ®Þnh møc lao ®éng
16
1.2.6. KÝch thÝch vËt chÊt, tinh thÇn ®èi víi ngêi lao ®éng
17
1.2.7. Tæ chøc ®µo t¹o n©ng cao tr×nh ®é cho ngêi lao ®éng
18
1.2.8. Tæ chøc kû luËt vµ thi ®ua trong lao ®éng
18
1.3. Nh©n tè ¶nh hëng tíi c«ng t¸c tæ chøc lao ®éng cña doanh nghiÖp
19
1.3.1. Nh©n tè bªn trong doanh nghiÖp
19
1.3.2. Nh©n tè bªn ngoµi doanh nghiÖp
23
Ch¬ng II: Thùc tr¹ng c«ng t¸c tæ chøc lao ®éng bu ®iÖn TP.Vinh - NghÖ An
26
2.1. Kh¸i qu¸t vÒ bu ®iÖn Thµnh phè Vinh
26
2.1.1. Qu¸ tr×nh ph¸t triÓn cña bu ®iÖn Thµnh phè Vinh - NghÖ An
26
2.1.2. §Æc ®iÓm vÒ tæ chøc bé m¸y
29
2.1.3. §Æc ®iÓm vÒ lao ®éng
34
2.1.4. §Æc ®iÓm vÒ c¬ së vËt chÊt kü thuËt m¹ng líi phôc vô
36
2.1.5. §Æc ®iÓm vÒ ho¹t ®éng s¶n xuÊt kinh doanh
38
2.1.6. KÕt qu¶ ho¹t ®éng s¶n xuÊt kinh doanh cña bu ®iÖn Thµnh phè Vinh
39
2.2. Thùc tr¹ng c«ng t¸c tæ chøc lao ®éng cña Bu ®iÖn TP.Vinh - NghÖ An
41
2.2.1. Thùc tr¹ng viÖc ph©n c«ng vµ hîp t¸c lao ®éng trong ®¬n vÞ
41
2.2.2. Thùc tr¹ng c«ng t¸c tæ chøc vµ phôc vô n¬i lµm viÖc
44
2.2.3. Thùc tr¹ng ®iÒu kiÖn lao ®éng
48
2.2.4. Thùc tr¹ng chÕ ®é lµm viÖc nghØ ng¬i
51
2.2.5. Thùc tr¹ng c«ng t¸c x©y dùng ®Þnh møc lao ®éng
51
2.2.6. Thùc tr¹ng c«ng t¸c kÝch thÝch vËt chÊt, tinh thÇn ®èi víi ngêi lao ®éng
61
2.2.7. Thùc tr¹ng c«ng t¸c ®µo t¹o n©ng cao tr×nh ®é cho ngêi lao ®éng
63
2.2.8. Thùc tr¹ng c«ng t¸c kû luËt vµ thi ®ua trong lao ®éng
64
2.3. ý kiÕn nhËn xÐt rót ra tõ thùc tr¹ng c«ng t¸c tæ chøc lao ®éng t¹i bu
®iÖn Thµnh phè Vinh - NghÖ An
69
2.3.1. Nh÷ng kÕt qu¶ ®¹t ®îc
69
2.3.2. Nh÷ng vÊn ®Ò cßn tån t¹i vµ nguyªn nh©n cña tån t¹i
70
2.3.3. Nh÷ng thuËn lîi vµ khã kh¨n trong c«ng t¸c tæ chøc lao ®éng t¹i bu
®iÖn Thµnh phè Vinh - NghÖ An
72
Ch¬ng III: Mét sè biÖn ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c tæ chøc lao ®éng t¹i
Bu ®iÖn Thµnh phè Vinh
74
3.1. Môc tiªu ph¸t triÓn cña bu ®iÖn Thµnh phè Vinh - NghÖ An
74
3.1.1. Môc tiªu ph¸t triÓn kinh doanh
74
3.1.2. Môc tiªu ph¸t triÓn nguån nh©n lùc
78
3.2. §Ò xuÊt mét sè biÖn ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c tæ chøc lao ®éng t¹i
Bu ®iÖn Thµnh phè Vinh - NghÖ An
81
3.2.1. Hoµn thiÖn c¸c h×nh thøc kÝch thÝch vËt chÊt, tinh thÇn cho ngêi lao ®éng
82
3.2.2. T¨ng cêng kû luËt lao ®éng
84
3.2.3. §µo t¹o vµ n©ng cao tr×nh ®é cho ngêi lao ®éng
85
3.2.4. Tæ chøc ph©n c«ng vµ hiÖp t¸c lao ®éng khoa häc hîp lý
86
3.2.5. Thùc hiÖn viÖc ®¸nh gi¸ lao ®éng vµ t×nh h×nh sö dông lao ®éng lµm
c¨n cø cho c«ng t¸c lËp kÕ ho¹ch nh©n lùc
89
3.3. Mét sè kiÕn nghÞ víi bu ®iÖn tØnh NghÖ An
91
KÕt luËn
92
Phô lôc
93
Tµi liÖu tham kh¶o
Tµi liÖu tham kh¶o
1. TS. Vò Träng Phong: Gi¸o tr×nh tæ chøc lao ®éng khoa häc. Häc viÖn C«ng nghÖ Bu chÝnh ViÔn th«ng, 2005.
2. TS. Hµ V¨n Héi: Qu¶n trÞ nguån nh©n lùc. Häc viÖn C«ng nghÖ Bu chÝnh ViÔn th«ng, 2005.
3. TS. Hµ V¨n Héi - GS.TS. Bïi Xu©n Phong - TS. Vò Träng Phong: Qu¶n trÞ nguån nh©n lùc trong doanh nghiÖp bu chÝnh viÔn th«ng. NXB Bu ®iÖn, 2002.
4. §ç ViÕt ThuÇn: §Þnh møc kinh tÕ kü thuËt trong ngµnh bu chÝnh viÔn th«ng. ViÖn kinh tÕ Bu ®iÖn, 2004.
5. Tæ chøc lao ®éng trong doanh nghiÖp. NXB Thanh niªn, 1999.
6. TS. NguyÔn V¨n Vinh: Bµi gi¶ng "Tæ chøc lao ®éng khoa häc trong doanh nghiÖp bu chÝnh viÔn th«ng". ViÖn kinh tÕ Bu ®iÖn.
7. Bµi gi¶ng "Tæ chøc lao ®éng". Khoa qu¶n trÞ kinh doanh I - Häc viÖn C«ng nghÖ Bu chÝnh ViÔn th«ng.
8. TS. NguyÔn ThÞ Minh An: Bµi gi¶ng kinh tÕ bu chÝnh viÔn th«ng. Khoa qu¶n trÞ kinh doanh I - Häc viÖn C«ng nghÖ Bu chÝnh viªn th«ng.
9. §Þnh luËt vµng - Cernergie - NXB Thanh niªn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KhL.doc
- PHLC~1.DOC