Tài liệu Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Giang: ... Ebook Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Giang
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1368 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trương hiện nay, hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam đang bước những bước hội nhập và phát triển, cũng như mọi doanh nghiệp khác, mục tiêu của ngân hàng là đạt đươc hiệu quả kinh tế cao nhất với mức rủi ro hạn chế nhất, công cụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, do vậy đối tượng khách hàng của ngân hàng là toàn bộ các thành phần kinh tế, bởi vậy ngân hàng phải đối phó với rất nhiều rủi ro khác nhau. Những rủi ro này gây ra thiệt hại không nhỏ cho các ngân hàng thương mại và là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà kinh tế nói chung và các nhà quản lý ngân hàng nói riêng.
Tuy nhiên, với đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh tiền tệ, nhu cầu về vốn của các thành phần kinh tế trong cơ chế kinh tế mới - nền kinh tế thị trường - rủi ro tín dụng cần phải được đề cập một cách cơ bản, toàn diện và cụ thể khi đánh giá hiệu quả hoạt động của một ngân hàng.
Trong điều kiện mới - điều kiện không còn bao cấp về vốn, NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang cố gắng rất lớn trong việc tự cân đối vốn và nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng ngày càng tăng và đa dạng hơn. Cũng như các Ngân hàng khác bước vào môi trường kinh tế mới, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bắc Giang gặp phải rất nhiều khó khăn và rủi ro trong kinh doanh đặc biệt là rủi ro tín dụng. Do vậy, để thực sự kinh doanh có hiệu quả, các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Giang nói riêng cần nắm vững các loại rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng và những biện pháp nhằm hạn chế những rủi ro đó. Để góp phần vào quá trình phát triển ngân hàng an toàn và vững mạnh , em đã chọn đề tài: ” Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Bắc Giang” này như để tiếp xúc với ngân hàng trong thực tế, làm quen và bổ sung vào kiến thức cho quá trình sau này.
Chuyên đề gồm ba chương chính như sau:
Chương I: Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Giang
Chương III: Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Giang
Tuy nhiên, do thời gian tìm hiểu cũng như trình độ nhận thức còn hạn chế, bài chuyên đề không tránh khỏi những sơ sài và thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo của thầy giáo và các cán bộ tín dụng tại NHNo & PTNT Bắc Giang để em hoàn thiện chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện :
Nguyễn văn Luyến
Chương I
Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1. hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Trong quá trình phát triển kinh tế thế giới, hệ thống Ngân hàng Thương Mại đã trở thành những trung gian tài chính lớn nhất và quan trọng nhất. Có rất nhiều định nghĩa về Ngân hàng Thương Mại:
- “ Ngân hàng Thương Mại là tổ chức tài chính nhận tiền gởi và cho vay tiền “ .
- “ Ngân hàng Thương Mại là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở các khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi mà đưa vào đó có thể dùng các tờ séc “ .
- “ Ngân hàng Thương Mại là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư “.
- “ Ngân hàng Thương Mại là loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với khách hàng, thường xuyên nhận tiền gửi với trách nhiệm có hoàn trả và sử dụng số tiền đó để đáp ứng cho những nhu cầu về vốn trong nền kinh tế “ .
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng có thể hiểu Ngân hàng Thương Mại một cách chung nhất như sau: Ngân hàng Thương Mại là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng, là doanh nghiệp tiến hành thường xuyên các nghiệp vụ huy động vốn, làm công tác tín dụng, cung cấp phương tiện thanh toán, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và cung cấp các nghiệp vụ tài chính khác.
1.1.2 Đặc điểm hoạt động tín dụng của NHTM
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh riêng mà thuật ngữ tín dụng có nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau:
· Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
· Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty thương nghiệp hoặc thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thoả thuận bên mua sẽ trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền cho bên đi vay và sau đó một thời gian nhất định ngưòi đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi .
· Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các địng chế tài chính cung cấp cho khách .
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các địng chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác )trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoán trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Từ những nhận định trên, bản chất của tín dụng là mộ giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc điểm:
¨ Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất dộng sản và động sản ). Trong những năm trở về trước, hoạt động tín dụng chỉ có cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được co là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực (nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc –thiết bị).
¨ Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng .Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đén bảo đảm, chính quan điểm này ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng .
¨ Giá hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc đi vay, tức là người đi vay phải trả thêm một số tiền ngoài vốn gốc. Để thực hiện nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay chính xác là phải xác định lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên vì lãi suát chịu ảnh hưởng của nhiều yéu tố khác, nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa thấp hơn tỷ lệ lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn .
¨ Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện .Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước .....thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán .
1.1.3 Phân loại hoạt động tín dụng của NHTM
a- Căn cứ vào mục đích:
Dựa vào căn cứ này tín dụng được chia làm các loại:
* Cho vay bất động sản: Loại cho vay liên quan đén việc mua sắm và xây dựng bát động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
* Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ xung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ .
* Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu.
* Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
* Thuê mua và các loại khác.
b) Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Theo căn cứ này thì chia làm 3 loại:
- Cho vay ngắn hạn.
- Cho vay trung hạn .
- Cho vay dài hạn.
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn , nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng.
c) Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
Theo căn cứ này bao gồm:
- Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng . Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ bổ sung.
- Cho vay có đảm bảo là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba.
d) Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng:
Theo căn cứ này thì được chia thành:
- Cho vay bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền .Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và việc thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau như: tín dụng ứng trước, thấu chi, dễ dãi ngân quỹ, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp...
- Cho vay bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng, riêng đối với ngân hàng cho vaybằng tài sản được áp dụng phổ biến là tài trợ thuê mua. Theo phương thức cho vay này ngân hàng hoặc công ty thuê mua cung cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay được gọi là người đi thuê, và theo định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và lãi.
e- Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
- Cho vay trả góp .
- Cho vay phi trả góp.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
f) Căn cứ vào xuất xứ tín dụng.
Dựa vào căn cứ này chia thành:
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn cho người có nhu cầu, đòng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng
- Cho vay gián tiếp: Khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.Trong cho vay gián tiếp có các loại sau:
+ Chiết khấu thương mại.
+ Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp.
+ Mua các khoản nợ của doanh nghiệp.
+ Tín dụng chấp nhận .
+ Tín dụng chứng từ .
+ Bảo lãnh của ngân hàng.
+ Bảo lãnh thuế quan .
+ Bảo lãnh tiền giữ lai.
+ Bảo đảm thanh toán khoản tạm ứng.
+ Bảo lãnh thực hiện hợp đồng .
1.2.Rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng ngân hàng.
Rủi ro tín dụng phát sinh trong thường hợp không thu được khoản gốc và lãi của khoản vay,hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Nếu tất cả các khoản đầu tư của ngân hàng được thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn thì ngân hàng không chịu bất cứ rủi ro nào. Trong trường hợp người vay tiền phá sản, thì việc thu hồi gốc và lãi tín dụng đầy đủ là không chắc chắn, do đó ngân hàng có thể gặp rủi ro tín dụng.
Hoạt động sinh lời chủ yếu của các Ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng. Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng cộng đồng, đồng thời phải đảm bảo sự an toàn vốn. Tuy nhiên, các khoản vay có khả năng sinh lời thì độ rủi ro cũng cao.
Có thể định nghĩa rủi ro tín dụng như sau: "Rủi ro tín dụng là sự xuất hiện các biến cố không bình thường trong quan hệ tín dụng, gây hậu quả xấu đến hoạt động ngân hàng như mất mát thiệt hại về tài sản, thu nhập của ngân hàng ...". Những biến cố trong rủi ro tín dụng là những biến cố xảy ra khi cho vay không thu hồi được nợ.
Rủi ro cho vay không thu hồi được nợ hay còn gọi là rủi ro phát sinh trong khâu cho vay. Rủi ro này xảy ra do người vay không trả được toàn bộ hoặc một phần nợ vay đầy đủ và đúng hạn cho Ngân hàng. Biểu hiện của tình trạng này là tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng tăng cao, các khoản lãi chưa thu ngày càng lớn, Ngân hàng không thu hồi được các khoản vốn đã cho vay để duy trì hoạt động tín dụng và hoàn trả vốn cho người gửi tiền. Đây là rủi ro lớn nhất và có tác dụng cơ bản đến sự an toàn của toàn bộ hoạt động Ngân hàng.
Rủi ro thiếu vốn chi trả cho khách hàng hay còn gọi là rủi ro phát sinh ở khu cho vay và thu nợ của ngân hàng. Trên lý thuyết, nếu tất cả các rủi ro ở khâu cho vay và thu nợ của ngân hàng đã được phòng ngừa và bù đắp kịp thời thì ngân hàng có đầy đủ khả năng hoàn trả các khoản tiền gửi của khách hàng. Tuy nhiên, trên thực tế, các khoản rủi ro này vẫn phát sinh ở khâu này và xảy ra nặng nề nhất là trong trường hợp khách hàng ồ ạt rút tiền gửi tại Ngân hàng do tác động của yếu tố tâm lý trước các biến động về kinh tế và chính trị. Như vậy, nguyên nhân gây ra rủi ro ở khâu này không chỉ do ngân hàng không thu hồi được nợ để chi trả tiền gửi mà còn có nguyên nhân phổ biến hơn là do các tác động bên ngoài gây áp lực dẫn đến tình trạng bất ổn định của mỗi ngân hàng và cả hệ thống ngân hàng. Có thể thấy rằng, rủi ro ở khâu cho vay chỉ là một trong nhiều nguyên nhân và chỉ là tiền đề dẫn đến rủi ro nghiêm trọng hơn ở khâu huy động vốn, chi trả tiền gửi của hệ thống Ngân hàng.
Như vậy, rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất trong các loại rủi ro ngân hàng, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề nhất. Việc đánh giá rủi ro này thường là trách nhiệm chính của ngành ngân hàng. Hoạt động của Ngân hàng thương mại chủ yếu là hoạt động tín dụng và đầu tư, thông thường trên thế giới nó mang lại 2/3 thu nhập, còn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại thường chiếm 90% tổng thu nhập của mỗi Ngân hàng. Thu nhập cao nhưng đồng thời rủi ro trong lĩnh vực này cùng đưa lại cho ngân hàng những thiệt hại nặng nề có thể dẫn tới phá sản. Sự phức tạp trong quản lý và phòng ngừa rủi ro tín dụng xuất phát từ đặc tính "rủi ro nào đó của người vay cũng có thể đưa đến rủi ro cho Ngân hàng". Do vậy, rủi ro tín dụng thường nằm ngoài khả năng đánh giá bình thường của một cán bộ tín dụng. Nó đòi hỏi Ngân hàng phải có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro, giảm tối đa những thiệt hại có thể xảy ra.
1.2.2. Các loại rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng Ngân hàng thường do khách hàng mang lại, sự yếu kém về quản lý của Ngân hàng, do hoàn cảnh Ngân hàng mang lại ... Tuy nhiên, khả năng gây ra rủi ro tín dụng phổ biến nhất, hay gặp nhất trong thực tế là từ phía khách hàng vay vốn mang lại. Ta có thể đưa ra một số loại rủi ro đối với một số hình thức tín dụng chủ yếu như sau:
- Rủi ro đối với tín dụng ngắn hạn:
Mục đích của tín dụng ngắn hạn là nhằm bổ sung vốn lưu động tạm thời thiếu cho các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh với thời hạn ngắn (thường dưới 1 năm). Các khoản tín dụng ngắn hạn thường được kiểm tra qua tính toán hiệu quả đầu tư giản đơn và nhanh chóng, lãi suất cho vay thấp, phương pháp này dễ xảy ra tình trạng khách hàng sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư trung và dài hạn, sử dụng sai mục đích, gây thiệt hại cho ngân hàng.
- Rủi ro đối với tín dụng trung và dài hạn:
Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn là thời hạn thu hồi vốn dài, có khối lượng lớn, vòng quay vốn chậm (từ một năm trở lên) chủ yếu cấp vốn để mua Tài sản cố định, cải tiến mở rộng sản xuất, đầu tư cho các công trình và dự án lớn mà hiệu quả của công việc đầu tư này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như biến động về chính trị, xã hội, thiên tai địch hoạ... Những yếu tố có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả đầu tư. Những hoạt động tiêu cực gây ra sự đình trệ, thất thoát vốn của doanh nghiệp, trì hoãn thời gian thu vốn của dự án gây ảnh hưởng đến các món nợ của ngân hàng.
- Rủi ro trong nghiệp vụ chiết khấu:
Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
Tái chiết khấu là việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
Chiết khấu có thể xảy ra rủi ro trong các trường hợp sau:
+ Thương phiếu giả mạo:
Thương phiếu là một loại giấy xác nhận nợ được lập trên cơ sở thương mại vì vậy khi thực hiện tín dụng tái chiết khấu Ngân hàng được đảm bảo bằng một lượng hàng hoá ở người mua. Thương phiếu bị giả mạo nghĩa là không có lượng hàng hoá tương ứng đảm bảo kèm theo nên Ngân hàng cho vay trên cơ sở thương phiếu này sẽ phải chịu rủi ro.
+ Người nhận trả không có khả năng trả nợ:
Trên thực tế có những doanh nghiệp đang có nguy cơ bị phá sản hoặc không còn khả năng huy động vốn nào khác, muốn dùng số tiền chiết khấu thương phiếu để thanh toán công nợ, vì vậy nếu Ngân hàng không nghiên cứu kỹ đến khách hàng mà thực hiện tín dụng chiết khấu sẽ xảy ra rủi ro không thu hồi được khoản nợ này. Để hạn chế rủi ro trong tín dụng tái chiết khấu, Ngân hàng phải xem xét kỳ phiếu, hối phiếu của người trả trước đây có được thanh toán sòng phẳng hay không.
- Rủi ro đối với tín dụng thuê mua:Nói chung đây là một hình thức tín dụng có độ an toàn tương đối cao vì trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng thuê mua, tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của người cho thuê.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng của NHTM
Chỉ tiêu1: Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Tỷ lệ nợ qúa hạn =
Nợ quá hạn
*100%
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ này gián tiếp cho thấy quy mô của các khoản vay có vấn đề của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này lớn, chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là kém ,ngân hàng phải xem xét lại khả năng đánh giá lại các khoản cho vay của mình , đánh giá lại quy trình thủ tục cho vay , đặc biệt xem xét khả năng thực hiện nhiệm vụ của cán bộ tín dụng.
Theo quy định của ngân hàng Nhà nước Việt Nam ,các ngân hàng có tỷ lệ dư nợ quá hạn trên 7% thì là các ngân hàng yếu kém. Ngân hàng có tỷ lệ dư nợ quá hạn nhỏ hơn 5% là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt , chất lượng cho vay cao.
Tuy nhiên , ta cũng phải nhận thức rõ ràng hai vấn đề dường như trái ngược nhau là : Thứ nhất , chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn có thể thấp , có thể giảm đi qua các năm nhưng là do dư nợ của ngân hàng tăng nhanh chóng (nợ quá hạn của ngân hàng có thể vẫn tăng đều đặn ). Nếu ngân hàng quá tin tưởng vào chỉ tiêu này cho rằng rủi ro tín dụng đối với ngân hàng là không đáng kể khi chỉ tiêu này thấp thì rất nguy hiểm. Bởi vì rất có thể việc mở rộng quy mô cho vay của ngân hàng không gắn liền với việc nâng cao chất lượng sẽ làm cho rủi ro của khoản cho vay mới đó trong tương lai mới bộc lộ. Thứ hai, nợ quá hạn chưa hản đã là tổn thất của ngân hàng, đây vẫn là chỉ tiêu gián tiếp. Bởi vì không phải tất cả các khoản nợ quá hạn đều dẫn đến rui ro.
Chỉ tiêu 2:
Khả năng mất vốn =
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
*100%
Dư nợ quá hạn
Đây là chỉ tiêu trực tiếp phản ánh rủi ro , ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng. Nó cho thấy trong một đồng nợ quá hạn thì có bao nhiêu đồng tổn thất tức là không có khả năng thu hồi. Nói cách khác , chỉ tiêu này phản ánh mức độ có thể gây ra rủi ro trong số nợ quá hạn của ngân hàng.
Chỉ tiêu 3: Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ.
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Nợ khó đòi
*100%
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng:
Tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng =
Giá trị dự phòng tổn thất trong kỳ
*100%
Doanh số cho vay trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh trong một đồng cho vay trong kỳ thì ngân hàng bỏ ra bao nhiêu đồng dự phòng tổn thất.
1.2.4.Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Nguyên nhân khách quan:
* Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên:
Là các nguyên nhân bất khả kháng thường thuộc về thiên nhiên, thiên tai, địch hoạ, gây mất mát thiệt hại về tài sản của Ngân hàng.
*Nguyên nhân về phía người vay:
- Năng lực của người đi vay yếu kém.
Điều này thể hiện trong khả năng sử dụng vốn của người vay. Một nguồn vốn sử dụng có hiệu quả khi nó tạo ra của cải vật chất phù hợp và được xã hội chấp nhận. Với năng lực kém, người vay không có khả năng nhận biết được sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ thưởng thức cũng như sự đòi hỏi của nhu cầu trên thị trường, do vậy sử dụng vốn một cách không hợp lý dẫn đến không có khả năng chi trả, phá sản và gây tổn thất cho ngân hàng.
- Do sự yếu kém của người điều hành.
Người điều hành không có khả năng dự đoán được sự biến động của giá cả thị trường, không xác định được thị phần của các đối thủ cạnh tranh, không nắm được thị hiếu của người tiêu dùng ... dẫn đến sự tồn đọng hàng hoá, bị cạnh tranh mất thị phần. Điều này ảnh hưởng không chỉ tới kết quả sản xuất kinh doanh của người vay mà còn ảnh hưởng tới khả năng thu hồi các khoản vay của nhà ngân hàng.
- Do không nắm bắt kịp thời các thông tin.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, sự nắm bắt tình hình về giá cả, sự xuất hiện của các hàng hoá cùng loại, thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường là điều kiện cần thiết nhất quyết định kinh doanh đúng đắn nhất, có hiệu quả nhất. Do vậy, sự thiếu thông tin có thể dẫn người vay tới tình trạng thua lỗ do mất thị trường, tồn đọng hàng hoá ... gây ra sự mất chi trả đối với các khoản nợ của Ngân hàng.
- Do thiếu tính cạnh tranh.
Nền kinh tế thị trường đem lại một nền kinh tế với sự đa dạng về chủng loại và chất lượng hàng hoá. Do vậy, để hàng hoá của mình có chỗ đứng trên thị trường, thu được lợi nhuận, hàng hoá của người vay phải có khả năng cạnh tranh với các loại hàng hoá đồng loại khác trên thị trường. Nếu hàng hoá của người vay thiếu tính cạnh tranh ở chất lượng, giá cả, mẫu mã... thì thị trường sẽ tìm kiếm các loại hàng hoá khác phù hợp với nhu cầu xã hội để tiêu dùng, người vay phải bán rẻ hoặc bị tồn kho ... gây ra sự thua lỗ, phá sản.
- Do tư cách người vay kém.
Hiện nay, phương châm của mọi nhà Ngân hàng là mở rộng tín dụng nhằm thu hút lợi nhuận. Do vậy không tránh khỏi sự quản lý lỏng lẻo, sự xuất hiện của các loại rủi ro. Nhân đà này, không ít những kẻ có tư cách đạo đức kém, đã đưa ra những dự án giả, chứng từ giả, sử dụng sai mục đích tín dụng trong hợp đồng... nhằm mục đích chiếm dụng vốn của Ngân hàng.
* Nguyên nhân từ môi trường cho vay:
Môi trường kinh tế không lành mạnh, nhịp độ tăng trưởng không ổn định, chu kỳ của nền kinh tế ngắn, Ngân hàng rất khó nắm bắt được thị trường, sản xuất trong nước không ổn định, dễ đình trệ, không có hiệu quả. Mặt khác, nền kinh tế xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội như buôn lậu, hàng giả ... dẫn đến sự phá sản của các doanh nghiệp. Do vậy, Ngân hàng rất khó khăn trong các mục tiêu mở rộng tín dụng, đánh giá môi trường tín dụng ...
Môi trường pháp lý không thuận lợi. Hệ thống pháp luật ban hành không đồng bộ và không phù hợp với yêu cầu của hoạt động kinh doanh, nhiều khi cản trở hoạt động kinh doanh. Cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật kém hiệu lực.
b) Nguyên nhân chủ quan:
Các khoản cho vay có vấn đề và các thiệt hại cho vay có thể xảy ra do sơ hở về thủ tục trong nội bộ Ngân hàng. Đây được gọi là các hoạt động cho vay không hoàn hảo và nó xuất hiện do các nguyên nhân sau đây:
+ Do thông tin tín dụng không đầy đủ, Ngân hàng có một cái nhìn không toàn diện về bản thân khách hàng cũng như tình hình tài chính của họ. Điều đó dẫn tới sự sai lệch trong việc đánh giá hiệu quả của các khoản vay, cho vay quá khả năng chi trả của khách hàng.
+ Các nhân viên tín dụng thiếu khả năng kỹ thuật và không có khả năng phân tích các báo cáo tài chính, thiếu sự hiểu biết về khách hàng.
+ Ngân hàng quá chú trọng về lợi tức, đặt mong ước về lợi tức cao hơn các khoản cho vay lành mạnh do vậy độ rủi ro của khoản vay càng cao.
+ Sự cạnh tranh không lành mạnh với các Ngân hàng khác để mong muốn có tỷ trọng cho vay nhiều hơn. Cạnh tranh không lành mạnh ở đây có thể hiểu rằng Ngân hàng đã bỏ qua một số bước kiểm định các khoản cho vay, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng... nhằm lôi kéo khách hàng.
+ Các nhân viên tín dụng thực hiện thế chấp không tốt, không đánh giá được sự biến động giá trị của tài sản thế chấp, nguồn gốc và sự tồn tại của tài sản thế chấp ... gây ra tổn thất do các khoản vay không được bù đắp khi rủi ro.
+ Hoạt động kiểm tra, kiểm soát chưa được tiến hành thường xuyên. Nhân viên tín dụng không nắm bắt được tình hình tín dụng của khách hàng cũng như môi trường tín dụng của nền kinh tế dẫn đến những sai sót khi cho vay, không nắm bắt kịp thời các khoản cho vay có vấn đề.
+ Sản phẩm của ngân hàng còn đơn điệu, phần lớn là cho vay trực tiếp do vậy rủi ro cao và Ngân hàng là đối tượng phải trực tiếp chịu tổn thất.
1.2.5. Hậu quả của rủi ro tín dụng
a) Rủi ro làm giảm uy tín của nhà Ngân hàng:
Một Ngân hàng có rủi ro lớn là một ngân hàng hoạt động không có hiệu quả, không được lòng tin của quần chúng và do vậy khó có thể thực hiện nghiệp vụ huy động vốn, không có khả năng mở rộng tín dụng cũng như vay từ các tổ chức tín dụng khác ...
- Rủi ro làm cho khả năng thanh toán của ngân hàng giảm sút
Các khoản tín dụng rủi ro - các khoản cho vay không thu hồi được nhưng các khoản tiền gửi, các khoản tiết kiệm của dân cư vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn, khiến cho Ngân hàng gặp khó khăn trong việc hoàn trả. Mặt khác, nếu rủi ro này càng cao, Ngân hàng mất uy tín, không huy động được một nguồn vốn khác để bù đắp thì Ngân hàng có thể bị phá sản.
- Rủi ro đưa đến kết quả là lợi nhuận bị suy giảm.
Do rủi ro đưa đến những thiệt hại về tài chính, đồng thời hoạt động của Ngân hàng bị đình trệ, không những không mở rộng mà còn có thể bị thu hẹp qui mô hoạt động kinh doanh, do vậy lợi nhuận của Ngân hàng bị giảm sút.
- Rủi ro có thể dẫn tới phá sản.
Sự tăng cường độ của các tác động trên đều có thể dẫn tới lợi nhuận bằng không, đẩy nhà Ngân hàng đến chỗ phá sản.
Đối với nền kinh tế: Hoạt động kinh doanh của ngân hàng có liên quan trực tiếp và là "mạch máu" toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nếu rủi ro ở mức độ nặng làm phá sản một số Ngân hàng và từ đó có khả năng lan truyền sang các Ngân hàng đang hoạt động lành mạnh. Do tâm lý sợ hãi, khách hàng đua nhau rút tiền ồ ạt gây ra sự thâm hụt vốn, đình trệ hoạt động của các Ngân hàng. Cũng do vậy, lượng vốn cung ứng cho sản xuất bị hạn chế, hàng hoá khan hiếm... gây biến động xấu cho nền kinh tế.
b) Đối với khách hàng:
Nếu rủi ro xảy ra từ phía Ngân hàng, khách hàng có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, nếu rủi ro xảy ra đối với chính khách hàng, các khoản nợ của họ sẽ trở thành các khoản nợ khó đòi, gây khó khăn và ảnh hưởng đến quan hệ của họ đối với Ngân hàng. Khi đó, nếu khách hàng cần vốn, họ buộc phải đặt quan hệ với các Ngân hàng khác và phải chịu một khoảng thời gian tìm hiểu gây trì hoãn cho quá trình sản xuất. Đồng thời, nếu rủi ro lớn, chính họ sẽ bị phá sản.
chương ii
thực trạng rủi ro tín dụng
tại NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang
2.1. khái quát về NHNo&PTNT Bắc Giang
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển.
Ngày 15/10/1996 Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ra quyết định số 280/NĐ-Ngân hàng thành lập ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Việt Nam trên cơ sở kế thừa mô hình tổ chức của ngân hàng nông nghiệp trước đây.
NHNo&PTNT Bắc Giang là một chi nhanh cấp 1 trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam, được thanh lập từ 1-1-1997 trên cơ sơ chia tách từ NHNo&PTNT Hà Bắc cũ.
NHNo&PTNT Bắc Giang trong quá trình xây dựng và phát triển ngân hàng luôn đạt được mức tăng trưởng cao và ổn định. NHNo&PTNT Bắc Giang đã thự sự trở thành người bạn đồng hành tin cậy của nông dân góp phần xoá đói giảm nghèo, góp phần làm tăng trưởng KT-XH trên địa bàn tỉnh Bắc Giang thông qua việc đầu tư vốn cho nông nghiệp – nông thôn và nông dân.
2.1.2.Nội dung và phạm vi hoạt động của ngân hàng nông nghiệp.
a>Huy động vốn.
Ngân hàng Nông nghiệp huy động vốn dưới các hình thức sau:
+Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
+Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp nhận.
+Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt nam và tổ chức tín dụng nước ngoài.
+Vay vốn ngắn hạn của ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn.
+Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Việc huy động vốn có thể bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ, vàng và các công cụ khác theo qui định của pháp luật.
b>Hoạt động tín dụng
Ngân hàng Nông nghiệp cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài sản chính và các hình thức khác theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng Nông nghiệp cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau đây:
+ Cho vay hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
+Cho vay trung hạn, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đời sống
+Cho vay theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong trường hợp cần
thiết.
Ngân hàng Nông nghiệp có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay; có quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng.
Ngân hàng Nông nghiệp có quyền sử dụng tài sản bảo đảm tiền vay của khách hàng vay, tài sản của người bảo lãnh trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh để thu hồi nợ theo qui định tại Nghị định của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng và người bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh theo qui định của pháp luật.
Ngân hàng Nông nghiệp có quyền miễn, giảm lãi suất cho vay, phí ngân hàng; gia hạn nợ; mua bán nợ theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng Nông nghiệp thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh:
+Bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh đối ứng và các hình thức baỏ lãnh Ngân hàng khác cho các tổ chức, cá nhân trong nước theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
+Bảo lãnh vay, bả._.o lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác mà người nhận bảo lãnh là tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Ngân hàng Nông nghiệp chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức, cá nhân.
Ngân hàng Nông nghiệp tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
Ngân hàng Nông nghiệp thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính thông qua các công ty cho thuê tài chính trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp, theo qui định
của pháp luật.
c>Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
Ngân hàng Nông nghiệp mở tài khoản tiền gửi tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
Mở tài khoản tại các ngân hàng khác trong nước và nước ngoài theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
Sở giao dịch, chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp mở tài khoản tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, nơi đặt trụ sở của Sở giao dịch, chi nhánh.
Ngân hàng Nông nghiệp mở tài khoản cho khách hàng trong nước và ngoài nước theo qui định của pháp luật.
Ngân hàng Nông nghiệp thực hiện các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:
+Cung ứng các phương tiện thanh toán.
+Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
+Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ.
+Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo qui định của Ngân hàng nhà Nước.
+Thực hiện dịch vụ thu và phát triển mặt hàng cho khách hàng.
+Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế theo qui định của pháp luật.
Ngân hàng Nông nghiệp tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Tham gia các hệ thống thanh toán theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
d>Các hoạt động khác
Ngân hàng Nông nghiệp thực hiên các hoạt động khác sau đây:
+Dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo qui định của pháp luật.
+Góp vốn với tổ chức tín dụng nước ngoài để thành lập tổ chức tín dụng liên doanh tại Việt nam theo qui định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt nam.
+Tham gia thị trường tiền tệ theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
+Kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
+Uỷ thác, nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác, đại lý.
+Cung ứng dịch vụ baỏ hiểm, thành lập công ty trực thuộc, công ty liên doanh để liên doanh bảo hiểm theo qui định của pháp luật.
+Kinh doanh chứng khoán theo qui định của pháp luật.
Cung ứng các dịch vụ:
+Tư vấn tài chính, tiền tệ, tín dụng cho khách hàng dưới hình thức trực tiếp tư vấn cho khách hàng.
+Bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá,cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo qui định của pháp luật.
Trực tiếp kinh doanh, thành lập công ty trực thuộc để thực hiện kinh doanh những ngành nghề khác có liên quan đến hoạt động ngân hàng theo qui định của pháp luật.
Ngân hàng Nông nghiệp không trực tiếp kinh doanh bất động sản.
Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng Nông nghiệp tuân thủ các quy định về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động theo qui định ; dự phòng giảm giá hàng tồn kho, giảm giá chứng khoán theo qui định của nhà nước.
2.2. thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Bắc
giang
2.2.1 Thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Bắc
Giang
Huy động vốn trong điều kiện thị trường có cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng hiện nay là một vấn đề rất khó khăn. Nhưng có được nguồn vốn trong tay, ngân hàng tổ chức sử dụng nó vào hoạt động tín dụng sao cho có hiệu quả lại là điều khó khăn hơn.
Từ khi thực hiện Chỉ thị 202/HĐBT và Nghị định 14 của Chính phủ về chính sách cho hộ nông dân vay vốn để sản xuất, kinh doanh thì hệ thống ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam nói chung và Ngân hàng Phát triển nông thôn Bắc Giang nói riêng đã có những chuyển biến tích cực trong đầu tư tín dụng, từ chỗ đầu tư cho doanh nghiệp Nhà nước là chủ yếu, chuyển sang đầu tư chủ yếu cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân, đồng thời thực hiện từng bước chọn lọc khách hàng trên cơ sở phân loại, xếp loại khách hàng là doanh nghiệp, HTX để thực hiện đầu tư tập trung, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Song song với việc phân xếp loại khách Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bắc Giang còn tập trung đầu mối, phối hợp với các cấp chính quyền, cơ quan ban ngành trong tỉnh xử lý các khoản nợ tồn đọng ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, thu hồi vốn để cho vay phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn mà đối tượng đầu tư chủ yếu là phát triển kinh tế hộ sản xuất.
Bảng 1: Tổng dư nợ cho vay tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang Đơn vị :Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
So sánh +/-
So sánh %
Năm
2005/2003
Năm 2005/2004
Năm 2005/2003
Năm
2005/2004
Tổng dư nợ cho vay
1.251
1.540
1.866
615
326
49%
21,2%
-Nội tệ
1.242
1.508
1.835
593
327
47,7%
21,7%
-Ngoại tệ
29
32
31
2
-1
6,9%
-3%
(Nguồn: Bảng báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm tại phòng kế toán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang)
Bằng nguồn vốn huy động tại chô, nguồn vốn điều lệ của NHNo&PTNT Việt Nam, vốn uỷ thác đầu tư và nguồn vốn uỷ thác của Ngân hàng phục vụ người nghèo, NHNo&PTN Bắc Giang đã không ngừng tổ chức mở rộng đầu tư tăng trưởng tín dụng cho các khu vực kinh tế, các ngành nghề kinh tế. Dư nợ tín dụng hàng năm tăng trưởng đáng kể cả về số tuyệt đối và số tương đối, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế cuối năm 2003 là 1.251 tỷ đồng, cuối năm 2004 là 1.540 tỷ đồng, cuối năm 2005 là 1.866 tỷ đồng. Tốc đốc độ tăng của năm 2005 so với năm 2003 là 615 tỷ, về số tương đối là 49%, so với năm 2004 la 326 tỷ đồng, về số tương đối la 21,2%.
Khối lượng tín dụng đầu tư cho cho nền kinh tế hàng năm đều đạt tốc độ tăng trưởng khá là do: trong những năm qua NHNo&PTNT Bắc Giang đã thực hiện tích cực việc chuyển đổi cơ cấu đầu tư, tập trung mở rộng đầu tư theo dự án, tăng trưởng tín dụng dài hạn, ưu tiên vốn cho các chương trình kinh tế trọng điểm như: chương trình mía đường, chương trình vườn rừng, cây ăn quả, chương trình thuỷ sản, lương thực...Vốn cho các chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn như: đầu tư thay đổi bộ giống lúa lai, ngô lai, sin hoá đàn bò, nạc hoá đàn lợn…
Dư nợ nội tệ cuối năm 2003 là 1.242 tỷ. Đến cuối năm 2003, dư nợ nội tệ là 1580 tỷ đồng, tăng so với năm 2003 là 338 tỷ. Cuối năm 2005, con số này tăng lên là 1835 tỷ, tăng so với năm 2004 là 327 tỷ, tốc đọ tănng là 21,7% và so với năm 2003 là 593 tỷ tốc độ tăng bình quân là 47,7%. Tổng dư nợ nội tệ có chiều hướng ra tăng qua các năm. Nguyên nhân của tăng tín dụng kể từ năm 2003 chủ yếu là do ngân hàng có chính sách cho vay thông thoáng hơn, cùng với việc người dân đã bước đầu làm quen và có những kế hoạch đầu tư mang tính khoa học. Năm 2003 dư nợ ngoại tệ là 29 tỷ đồng. Sang năm 2004 con số này là 32 tỷ. Đến cuối năm 2005 dư nợ ngoại tệ là 31 tỷ đồng tăng 2 tỷ so với năm 2003 và giảm so với năm 2004.
Trong cơ chế thị trường, dười sự quản lý của nhà nước các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển, một số Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại, nhiều Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân...) ra đời và phát triển, hệ thống Hợp tác xã đang được củng cố và chuyển đổi theo cơ chế mới, hộ sản xuất đã thực sự trở thành kinh tế tự chủ. Điều đó đã tạo thành điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng lựa chọn đánh giá xếp loại khách hàng ... xác định mục tiêu và phương hướng đầu tư phù hợp, đảm bảo vốn tín dụng phát triển vững chắc, hiệu quả và an toàn.
Bảng 2: Tổng dư nợ theo thành phần kinh tế
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tỷ trọng
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Dư nợ theo thành phần kinh tế
1.251
1.540
1866
100
100
100
-Trong đó
+HTX và DNngoài quôc doanh
42,53
83,16
190,33
3.4%
5,4%
10,2%
+DNNN
187,65
224,84
186,6
15%
14,6%
10%
+Tư nhân cá thể
1.021
1.232
1489,1
81,6%
80%
79,8%
( Nguồn: Bảng báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh hàng năm tại phòng kế toán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang)
Dư nợ Doanh nghiệp Nhà nước năm 2005đã giảm so với các năm trước đây, dư nợ bình quân là 199,7 tỷ. Đồng thời tỷ trọng về dư nợ ngày càng giảm, từ 15% năm 2003 xuống còn 10% năm 2005. Trong khi đó dư nợ HTX, Doanh nghiệp ngoại quốc doanh, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn tăng nhanh, đến cuối năm 2005 tăng lên 109,33 tỷ, tốc độ tăng là trung bình là 120% và tỷ trọng về dư nợ đối với thành phần kinh tế này cũng tăng trong các năm. Điều này cũng dễ giải thích. Các năm về trước, các doanh nghiệp quốc doanh thường có nhu cầu vốn lớn để phục vụ sản xuất và đổi mới công nghệ, lại được vay theo hình thức tín chấp. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh quy mô nhỏ lẻ, lại bị hạn chế vay do các điều kiện như thế chấp, cầm cố...Tuy nhiên, mấy năm lại đây cho vay đối với thành phần quốc doanh có tỷ trọng ngày càng giảm trong khi cho vay kinh tế ngoài quốc doanh có xu hướng tăng. Nó thể hiện một sự thay đổi cơ cấu tương đối hợp lý bởi cùng với sự phát triển của kinh tế đất nước, hiện nay nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã nắm bắt được thời cơ, hoà nhập vào nền kinh tế đầy cơ hội và làm ăn có hiệu quả. Việc ngân hàng đầu tư vào doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm ăn có hiệu quả, triển vọng đã giúp ngân hàng có được những khách hàng trung thành, đó là điều rất quan trọng.
Tư nhân cá thể và hộ sản xuất tăng trưởng mạnh, bình quân năm tăng 35% đưa dư nợ tư nhân và hộ sản xuất từ 1.021 tỷ năm 2003 lên 1489,4 tỷ năm 2005 chiếm tỷ trọng 80% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của NHNo&PTNT Bắc Giang. Tuy tỷ trọng này có giảm trong từng năm lại đây nhưng giảm rất nhỏ và kinh tế hộ vẫn là thành phần kinh tế chiếm tỷ trọng dư nợ lớn nhất trong ngân hàng. Trong năm 2005, số lượng khách hàng và thị phần tín dụng tăng trưởng khá : đã thu hút thêm được nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư nhân cá thể.
Biểu đồ 1: Cơ cấu tổng dư nợ theo thành phần kinh tế
- ở trong tỉnh, các ngành Nông, Lâm, Ngư nghiệp luôn là đối tượng được quan tâm hàng đầu, dư nợ cho vay các năm tăng trưởng nhanh. Hàng năm, NHNo&PTNT Băc Giang luôn bám sát các trương trinh, dự án…nhằm muc tiêu phát triển kinh tế địa phương. Đăc biệt la mở rộng đầu tư tín dụng để hát huy có hiệu quả nhưng lợi thế của của vùng như: Dự án trồng cây vải thiêu Lục Ngạn, dự án vùng nguyên liệu dứa, hồng không hạt tại huyện Sơn Động, Lục Ngạn…
- Dư nợ cho vay công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ( chủ yếu là cơ khí hoá nông nghiệp và dịch vụ phục vụ nông nghiệp nông thôn ) đã được chọn lọc đầu tư đúng mức, đến cuối năm 2003 mức dư nợ cho vay hai ngành này đều tăng hơn 2 lần. Dư nợ cho vay các ngành khác (chủ yếu là cho vay tiêu dùng và phát triển đời sống) sau khi triển khai thực hiện thể lệ cho vay mới, NHNo&PTNT Bắc Giang đã tăng cường khảo sát kiểm tra, nghiên cứu mở rộng đối tượng cho vay này.
NHNo&PTNT Bắc Giang là một trong nhiều chi nhanh NHTM như ngân hàng Đầu tư và phát triển nhà đất, ngân hàng VPB…. đang hoạt động phục vụ phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Băc Giang, trong đó đối tượng và địa bàn phục vụ chủ yếu của NHNo&PTNT là nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong những năm qua, NHNo&PTNT Bắc Giang đã không ngừng tổ chức mở rộng mạng lưới, sắp xếp bố trí lao động hợp lý, tăng lao động trực tiếp tiếp cận khách hàng, tăng cường khả năng giao dịch phục vụ. Đồng thời tiếp tục sàng lọc, thực hiện chiến lược đào tạo, nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ thích ứng kịp thời với tình hình và môi trường kinh doanh mới, do đó đã thu được những thành tích đáng kể cho sự nghiệp phát triển của tỉnh cũng như nền kinh tế nông nghiệp nông thôn tại tỉnh nhà. Kết quả đạt được là tổng dư nợ cuối năm 2005 đạt 1.866 tỷ tăng 615 tỷ so với năm 2003. Tốc độ tăng bình quân đạt 49%, cơ cấu đầu tư được chuyển dịch theo hướng tích cực phục vụ đắc lực cho chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại trong công tác tín dụng mà ngân hàng gặp phải.
2.2.2 Thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Bắc Giang
Hoạt động của NHNo&PTNT chủ yếu trên thị trường nông nghiệp, nông thôn và nông dân, đối tượng đầu tư chủ yếu là các cơ thể sống, thường xuyên chịu tác động của môi trường tự nhiên như: thời tiết, khí hậu, một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro bất thường không báo trước với tỷ lệ rủi ro cao. Bên cạnh đó các yếu tố khách quan về cơ chế chính sách có những vấn đề bất cập ở từng thời kỳ đã có tác động bất lợi tới sản xuất, từ đó làm ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Bắc Giang.
Tình hình nợ quá hạn.
Nợ quá hạn nói chung được xem như một dấu hiệu của rủi ro tín dụng tiềm ẩn. Tuy nhiên, thực tế một khoản vay quá hạn cho biết rất ít về rủi ro tín dụng. Để xác định bản chất cần phải tìm hiểu nguyên nhân của việc nợ quá hạn. Nếu nợ quá hạn là một biểu hiện của doanh nghiệp không muốn hoặc không có khả năng trả nợ thì khoản vay đó có rủi ro rất cao và có thể không cứu vãn được. Nếu nợ quá hạn hình thành do việc tiêu thụ hàng hoá hoặc thu hồi các khoản phải thu chậm hơn dự tính, hay do việc chậm trễ không lường trước được trong việc chuyển từ sản xuất đến tiêu thụ thì vấn đề có thể chưa đến mức trầm trọng, doanh nghiệp có khả năng thanh toán trong tương lai. Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại cần phải luôn quan tâm tới nợ quá hạn, nguyên nhân và tìm mọi giải pháp để hạn chế nó tới mức tối đa có thể.
Bảng 3: Bảng dư nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn của NHNo&PTNT Bắc Giang
Đơn vị : tỷ đồng
ChỉhØ tiêuªu
ĐVTVT
Năm¨m 2003
Năm¨m 2004
Năm¨m 2005
Tổngng dưd nợnî
TỷTû
1.251
1.540
1.866
DưD nợnî quáu¸ hạn¹n
“
11,447
11,921
68,25
TỷTû lệlÖ nợnî quáu¸ hạn¹n/Tổngng dưd nợnî
%
0,9
0,77
3,66
(Nguồn: Bảng báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh hàng năm tại phòng kế toán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang)
Để hoạt động ngân hàng ngày càng có hiệu quả, vừa đảm bảo tăng khối lượng hoạt động, vừa củng cố và nâng cao chất lượng phục vụ. Trong thời gian qua NHNo&PTNT Bắc Giang không ngừng chỉ đạo thực hiện chấn chỉnh công tác Ngân hàng theo công văn chỉ đạo 756 của Thống đốc NHNN và các văn bản chỉ đạo của NHNo&PTNT Việt Nam, từ mấy năm lại đây tín dung luôn được mở rộng và tăng trưởng với nhịp độ cao, chất lượng tín dụng đã được cải thiện nhiều, nợ quá hạn chiếm tỷ lệ thấp. Tuy nhiên, nợ quá hạn trọng thời gian qua vẫn có những thay đổi mà lãnh đạo Ngân hàng phải lưu tâm. Năm 2003 và năm 2004 chi nhánh đã chỉ đạo thực hiện nghiêm ngặt quy trình cho vay , để hạn chế nợ phát sinh mới, thường xuyên kiểm tra phân tích từng khoản nợ đến hạn, nợ quá hạn để có biện pháp xử lý thu hồi nợ phù hợp với điều kiện và tính chất của từng khoản nợ như : khai thác triệt để các nguồn thu của khách hàng để thu nợ quá hạn, phát mại tài sản đối với các khoản nợ có đảm bảo bằng tài sản, phối hợp với cơ quan pháp luật để cưỡng chế thu hồi nợ, phân tích từng khoản nợ để xử lý bằng nguồn vốn dự phòng rủi ro... Tổng dư nợ quá hạn năm 2003 là 11,447, năm 2004 con số này là 11,921. Tổng dư nợ quá hạn năm 2005 đã tăng lên 68,25 tỷ.
Để hiểu thêm về nợ quá hạn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang ta đi vào phân tích cụ thể chỉ tiêu này theo nhiều khía cạnh khác nhau.
Bảng 4: Kết cấu nợ quá hạn theo thành phần kinh tế
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Nợ quá hạn
11,447
100
11,921
100
68,25
100
+ Quốc doanh
9,4
82,1
9,42
84
60,067
88
+ Ngoài quốc doanh
2,049
17,9
2,5
16
8,19
12
( Nguồn: Bảng báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh hàng năm tại phòng kế toán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang)
Qua bảng số liệu ta thấy, nợ quá hạn của thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng chủ yếu. Cụ thể là năm 2003, tỷ lệ này là 81,2% tổng dư nợ quá hạn, năm 2004 là 84%, đến năm 2005 tỷ lệ này lên đến 88%. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp quốc doanh đang trong tình trạng máy móc thiết bị lạc hậu , bộ máy quản lý cồng kềnh kém năng động, năng suất lao động thấp. Nhiều doanh nghiệp có máy móc thiết bị hiện đại nhưng hàng sản xuất ra lại không tiêu thụ được do không đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng hoặc không cạnh tranh được với hàng giả, hàng nhập lậu tràn lan trên thị trường, đặc biệt là hàng hoá trà lan từ Trung Quốc. Vì là doanh nghiệp quốc doanh lên phần lớn các doanh nghiệp này sử dụng hình thức tín dụng là tín chấp, do vậy nợ quá hạn của thành phần kinh tế này tăng theo từng năm. Điển hình trong thành phần kinh tế này là nhà máy gạch Tân Xuyên hay như công ty dứa Sơn Động, nhà máy phân đạm Hà Bắc...Trong khi tỷ lệ nợ quá hạn của doanh nghiệp quốc doanh tăng thì tỷ lệ nợ quá hạn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm dần qua các năm. Năm 2003 là 17,9% thì đến năm 2005 tỷ lệ này là 12%. Tuy nhiên về số tuyệt đối thì nợ quá hạn lại tăng trong thành phần kinh tế này, từ 2,047 tỷ năm 2003 lên 2,5 tỷ năm 2004 và 8,19 tỷ năm 2005. Điều này có thể hiểu là tại vì trong thời gian gần đây Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang đang mở rộng thị phần tín dụng sang doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn khá thì cũng có doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, chính vì vậy mà nợ quá hạn tăng lên nhưng tỷ lệ nợ quá hạn lại giảm.
Biểu đồ 2: Tỷ trọng nợ quá hạn theo thành phần kinh tế.
Xét cơ cấu nợ quá hạn theo thời hạn cho vay ta có bảng sau:
Bảng 5: Nợ quá hạn theo thời gian cho vay
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Nợ quá hạn
11,447
100
11,921
100
68,25
100
-Ngắn hạn
4,24
37
4
34
19,8
29
-Trung, dài hạn
7,21
63
7,87
66
48,45
71
( Nguồn: Bảng báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh hàng năm tại phòng kế toán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang)
Qua bảng trên ta thấy, xu hướng đang diễn ra về nợ quá hạn theo thời hạn cho vay rất rõ ràng, tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn có xu hướng giảm, trong khi đó tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn tăng theo từng năm. Cụ thể là trong năm 2003 nợ quá hạn ngắn hạn là 4,23 tỷ, chiếm 37% tổng nợ quá hạn. Con số này giảm từ 34% (tương ứng 4tỷ năm 2004) xuống còn 29% năm 2005 (tương ứng 19,8tỷ). Tuy nhiên cũng phải thấy rằng tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn giảm nhưng về số tuyệt đối thì vẫn tăng, Trong khi đó tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn tăng lên qua các năm đồng thời số tuyệt đối cũng tăng lên tương ứng, từ 7,21 tỷ ( 63% năm 2003) lên 7,87tỷ năm 2004 ( 66% ) và lên 48,45 tỷ năm 2005 ( 71% ). Tuy có sự tăng giảm về tỷ lệ nợ quá hạn theo thời gian cho vay nhưng sự tăng giảm này còn nhỏ. Điều đó có thể được giải thích như sau: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang đang dần chuyển dịch đầu tư cho vay từ ngắn hạn là chủ yếu sang trung dài hạn, chính điều đó đã làm cho tổng dư nợ của các khoản vay ngắn hạn và trung dài hạn thay đổi. Một điều cần nhấn mạnh ở đây là cho vay trung dài hạn có thể mang lại lợi nhuận cao hơn ngắn hạn nhưng nó lại tiềm ẩn rủi ro cao hơn, điều đó có thể thấy được một phần qua bảng đã nêu trên.
Biểu đồ 3: Tỷ trọng nợ quá hạn theo thời gian
Xét về nợ quá hạn nói chung thì tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang đã giữ được ở mức an toàn cho phép qua các năm trở lại đây. Mức an toàn này là động lực để cho ngân hàng có những quyết định sáng suốt trong quá trình hoạt động tín dụng thời gian tới. Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần lưu ý bởi vì bên cạnh đó vẫn tồn tại những khoản tín dụng mang lại tổn thất cho ngân hàng.
Ta sẽ xem xét vấn đề này qua vấn đề về nợ khoanh.
Bảng 6: Tỷ lệ nợ khoanh trên tổng dư nợ
đơn vị: tỷ đồng
ChỉhØ tiêuªu
ĐVTVT
Năm¨m 2003
Năm¨m 2004
Năm¨m 2005
Tổngng dưd nợnî
TỷTû
2019
2718
3397
NợNî khoanhnh
“
16,362
21,373
8
NợNî khoanhnh
%
1,3
1,4
0,4
Tổngng dưd nợnî
( Nguồn: Bảng báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh hàng năm tại phòng kế toán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang )
Qua bảng trên ta thấy tỷ lệ nợ khoanh tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang đạt thấp. Sở dĩ năm 2004 tăng hơn so với năm 2003 là vì trong thời gian này ngân hàng đang có sự dịch chuyển dần về thành phần cho vay cũng như về thời gian cho vay. Lúc này có nhiều doanh nghiệp chưa có khả năng thanh toán cho ngân hàng gây ra tình trạng nợ khoanh tăng lên. Trong quá trình thay đổi cơ cấu cho vay và dần hoàn thiện các bước, các chính sách cho vay, điều đó làm cho nợ khoanh giảm cả về số tuyệt đối và số tương đối. Cụ thể là năm 2003 nợ khoanh chiếm tới 16,461 tỷ ( bằng 1,3% tổng dư nợ), năm 2004 con số này là 21,37 (chiếm 1,4% tổng dư nợ) thì đến thời điểm năm 2005 còn 8 tỷ nợ khoanh và chỉ chiếm 0,4% tổng dư nợ giảm 1% so với năm 2004. Cho dù vẫn tồn tại những khoản nợ khoanh, là một điều mà các ngân hàng đều không muốn xảy ra tại ngân hàng mình – là một khoản nợ mà các ngân hàng đều muốn giảm thiểu tối đa, nhưng cũng phải thấy được sự cố gắng của các cán bộ công nhân viên của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang.
Biểu đồ 3 : Tỷ lệ % nợ khoanh trên tổng dư nợ
Nhìn vào biểu đồ ta có thể thấy ngay rằng tỷ lệ nợ khoanh đang đi xuống tức là giảm dần qua các năm .
Khi đánh giá về rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thì cũng không thể bỏ qua chỉ tiêu về tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng. Chỉ tiêu này là phản ánh một cách gián tiếp xem liệu ngân hàng đang ở trong tình trạng rủi ro ra sao. Nói là gián tiếp vì có thể có ngân hàng có tỷ lệ này cao song rủi ro của ngân hàng đó lại thấp hoặc ngược lại có ngân hàng có tỷ lệ này thấp nhưng không có nghĩa là ngân hàng đang trong tình trạng an toàn.
Bảng 7: Tỷ lệ dự phòng tổn thất.
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Dự phòng tổn thất
Tỷ đồng
4,9
7,2
32
Doanh số cho vay trong kỳ
“
52,8
130
150
Tỷ lệ dự phòng tổn thất/ doanh số cho vay
%
9,3
5,45
2,14
(Nguồn: Bảng báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh hàng năm tại phòng kế toán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang)
Qua bảng phân tích trên ta thấy Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang đã có sự chuẩn bị đề phòng trường hợp xấu nhất xảy ra. Tuy tại ngân hàng tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng với vấn đề an toàn là quan trọng, quỹ dự phòng hàng năm vẫn duy trì ở mức ổn định tương ứng với doanh số cho vay của ngân hàng
2.3. Đánh giá rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Bắc Giang
NHNo&PTNT Bắc Giang chiếm thị phần tín dụng lớn trên địa bàn, điều đó chứng minh vào sự uy tín của Ngân hàng đối với người dân. Chính vì vậy Ngân hàng đã cố gắng hết sức để bảo vệ uy tín của mình bằng nhiều hoạt động đặc biệt là hoạt động tín dụng.
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ >7% thì bị coi là Ngân hàng hoạt động yếu kém, còn Ngân hàng có tỷ lệ <5% thì được xem là Ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt. Qua phân tích bảng 3 cho ta thấy chất lượng tín dụng của NHN0&PTNT Bắc Giang mấy năm lại đây tương đối tốt, tỷ lệ nợ quá hạn từ năm 2003 luôn đạt dưới 0,9%. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng mức độ tín dụng còn thấp, khả năng mở rộng tín dụng ngân hàng còn hạn chế. Mặc dù từ năm 2003-2004, nợ quá hạn có giảm nhưng chủ yếu là do khoanh nợ số nợ tồn đọng cũ thì khó thu hồi. Năm 2005, tổng dư nợ có tăng nhưng song song với nó là tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ cũng tăng(3,66%), điều đó cho thấy sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro nếu không có biên pháp quản lý, phòng ngừa rủi ro hữu hiệu.
Tỷ lệ rự phòng tổn thất/ doanh số cho vay tương đối cao: năm 2003 la 9,3%, 2004 là 5,45% điều đó chứng tỏ NHNo&PTNT Bắc Giang đã có sự chuẩn bị tương đối tốt trong việc đề phòng với những rủi ro có thể xảy ra.
* Những tồn tại
- Đối tượng cho vay được mở rộng, dư nợ cho vay hàng năm không ngừng tăng lên cả về quy mô và cơ cấu nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu về vốn cho các chương trình phát triển kinh tế của tỉnh, đặc biệt là vốn để khai thác các tiềm năng về đất đai, khai thác các tài nguyên rừng, tài nguyên biển hiện có. Cho vay để phát triển các mô hình sản xuất hàng hoá, mô hình kinh tế trang trại, đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn, cho vay kinh tế hợp tác xã, cho vay nhu cầu đánh bắt hải sản chưa được nhiều.
- Diện cho vay tuy đã được mở rộng song mức cho vay đối với kinh tế hộ còn thấp, địa bàn cho vay nông nghiệp, nông thôn rộng lớn ,món vay nhỏ lẻ nên chi phí hoạt động cao, khối lượng công việc nhiều, lượng khách hàng là nông dân đông dẫn tới việc quá tải cho cán bộ tín dụng, từ đó gây không ít khó khăn cho công tác kiểm tra kiểm soát các món vay.
Chưa áp dụng rộng rãi các phương thức, các hình thức cho vay mới. Hình thức cho vay chủ yếu vẫn là cho vay trực tiếp. Trong những năm qua NHNo&PTNT Bắc Giang đã áp dụng hình thức cho vay thông qua tổ, nhóm hội nông dân, hội phụ nữ …đến tận các xác xã phường tuy nhiên thực hiện chưa đuợc nhiều và quán triệt.
Vấn đề tài sản thế chấp bảo đảm vốn vay, chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất nhưng giá trị quyền sử dụng đất được tính theo khung giá thường rất thấp, do đó hạn chế các diện cho vay và mức cho vay. Việc xử lý thu hồi nợ cũng gặp không ít những khó khăn, nhất là đối với nợ quá hạn, nợ tồn đọng.Việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ không mấy thuận lợi, thủ tục phức tap rườm rà, chi phí phát mại tài sản thu hồi quá cao vì phải qua nhiều khâu, nhiều bước gây ảnh hưởng rất lớn tới việc mở rộng đầu tư, đặc biệt là các món đầu tư lớn, yêu cầu phải thực hiện bảo đảm nợ vay bằng tài sản.
Công tác chỉ đạo điều hành của một số giám đốc chi nhánh cấp I, cấp II chưa thực sự sâu sát, chưa thực sự đi cơ sở, chưa sử lý dứt điểm các tồn tại.
Việc thuc hiên phân tích nợ xấu, quá hạn, nợ đã sử lý rủi ro chưa thường xuyên, sau khi phân tích chưa đề ra các biện pháp tích cực để sử lý thu hồi nợ.
Triển khai thực hiện đề án củng cố huy động và vay vốn còn châm.
Trình độ nghiệp vụ của một số cán bộ kế toán, tín dụng còn hạn chế.
Trong một số lĩnh vực hoạt động việc cung ứng công nghệ tin học chưa phát huy hiệu quả tối đa, thông tin khach hàng vay vốn chưa kịp thời, thiếu chinh xác do số lương khách hàng lớn, phần mềm tin học hiếu đồng nhất, kết nối giữa các nghiệp vụ chưa triển khai kịp thời các ứng dụng tin học của một ngân hàng bán lẻ hiện đại.
*Một số nguyên nhân dẩn đến rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang
Hiệu quả sử dụng vốn vay của các DN chưa cao, nợ đến hạn không trả được để phát sinh nợ quá hạn còn nhiều, nhiều trường hợp đã được Chính phủ cho giãn nợ, khoanh nợ nhưng vẫn không khôi phục được sản xuất. Trách nhiệm của các ngành quản lý theo dõi giúp đỡ doanh nghiệp chưa cao, khi doanh nghiệp khó khăn phó mặc cho ngân hàng và giám đốc doanh nghiệo tự xoai sở, nhiều doanh nghiệp lúng túng không tìm được lối thoát, điều này đã ảnh hưởng lớn tới việc phòng ngừa rủi ro và mở rộng tín dụng của ngân hàng .
Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thấp, đặc biệt là các DNNN địa phương quản lý, hiệu suất sử dụng tài sản cố định vào sản xuất thấp, sản xuất kinh doanh không hiệu quả, tài sản đảm bảo nợ không đáng kể lại không đủ điều kiện đảm bảo. Bên cạnh đó công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa cao, việc chấp hành chế độ báo cáo thống kê, báo cáo tài chính chưa nghiêm túc, đã làm ảnh hưởng tới chất lượng kiểm tra, thẩm định của Ngân hàng trước, trong và sau khi cho vay.
Đối với các HTX đã được chuyển đổi từ mô hình cũ sang mô hình HTX kiểu mới và HTX thành lập mới theo Luật nhưng hầu hết chưa đủ vốn, tài sản, cơ sở vật chất để hoạt động kinh doanh. Hơn nữa trình độ quản lý còn yếu kém, chưa có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, doanh số hoạt động trong năm thấp, không đủ bù đắp chi phí, không trả được lãi cổ tức, một số nơi tái xuất hiện nợ khê đọng.
Hiện nay do việc đổi điền dồn thửa nên còn một tỷ lệ rất lớn các hộ chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc UBND xã xác nhận diện tích đất hộ đang sử dụng không có tranh chấp, đã tạo điều kiện thuận lợi cho vay các hộ. Song bản thân chính quyền địa phương cũng gặp khó khăn trong việc theo dõi và xác nhận, về phía ngân hàng gặp khó khăn trong việc kiểm soát cho vay, dễ dẫn đến việc cho vay chồng chéo, vượt quá nhu cầu thực tế cho sản xuất kinh doanh .
Mặt khác trong quá trình hoạt động, ngân hàng gặp phải trở ngại rất lớn là việc thiếu thông tin tín dụng. Để có thể phòng ngừa rủi ro tín dụng thì cần phải nắm bắt được những thông tin chủ yếu như: Về khách hàng, về các chính sách mới được ban hành, sửa đổi, bổ sung, về các thông tin về biến động kinh tế thị trường, lãi suất ... .Nhưng hiện nay, việc không lắm bắt được thông tin hay không cập nhật đầy đủ, cập nhật quá muộn dẫn đến ảnh hưởng công tác rủi ro tín dụng.
Ngoài ra cũng cần phải kể đến nguyên nhân từ phía ngân hàng dẫn đến tinhg trạng nợ quá hạn.Việc cấp tind dụng không đúng do đánh giá sai lệchphương án sản xuất kinh doanh,tình hình tài chính của công ty có thể do thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệmt thiếu kiến thức dẫn đến đánh giá sai lệch.Việc cố ý đánh giá sai cũng cũng co thể do xuất phát từ tình hình thực tế, nếu đánh giá đúng thực chất thì rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện cho vay dẫn đến hoạt động tín dụng bị thi hẹp.Trong xuốt qúa trình cấp tín dụng, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng là pahi thương xuyên theo dõi việc sử dụng vốn cũng như biến độngcủa doanh nghiệp đẻ kịp thời sử lýkhi có tinh huống xấu.hiện nay cán bộ tín dụng đã thực thiện việc theo dõi này nhưng còn nhiều hạn chế do cán bộ tín dụng it đi xuống thực tế, giám sát trực tiếp mà chỉ nhận thông tin từ khách hàng. Ngoài ra sự tập chung tín dụng qú mức vào một khu vực khách hàng, sự thiếu vắng các biện pháp điều chỉnh danh mục tín dụng trước các diễn biến vĩ mô bất lợi ………là những yếu tố đẩy ngân hàng vào các khoản nợ xấu.
Bên cạnh đố cần kể đến một số nguyên nhân khác như: Tình trạng suy thoái kinh tế và giảm phát lớn, tỷ giá ngoại tệ tăng cao đầu tư nước ngoài giảm sút. Do sức mua của thị trường giảm sút nên h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5579.doc