Tài liệu Biện pháp để vượt qua những rào cản thương mại với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam: LỜI NÓI ĐẦU
Dệt may là một ngành sản xuất truyền thống của nước ta. Kết thúc năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt khoảng 7,8 tỷ USD, tăng 31% so với cùng kì năm 2006, vượt chỉ tiêu đề ra, trở thành mặt hàng có kim ngạch lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, góp phần đáng kể vào việc hoàn thành mục tiêu xuất khẩu 48,1 tỷ USD năm 2007. Điều này cho thấy ngành dệt may là một trong những ngành công nghiệp chủ chốt, quan trọng hàng đầu của Việt Nam, chiếm tỷ trọng ngày càng ca... Ebook Biện pháp để vượt qua những rào cản thương mại với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
21 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1698 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Biện pháp để vượt qua những rào cản thương mại với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o trong xuất khẩu của nước ta.
Hiện nay chúng ta đang bước vào thời kì hội nhập, việc gia nhập WTO sẽ là một cơ hội cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tăng tốc và tiến xa hơn.Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập cạnh tranh gay gắt, khi đưa hàng ra những thị trường lớn, dệt may Việt Nam cũng gặp phải không ít những thách thức khó khăn. Những khó khăn thách thức này có từ nhiều phía,nhưng chủ yếu đến từ những rào cản thương mạicủa cấc nước nhập khẩu hàng dệt may của nước ta như là Mỹ,Nhật,EU… Đây đều là những nước công nghiệp phát triển,môt mặt họ luôn đi đầu trong đàm phán để mở của thị trường, mặt khác họ lại luôn đưa ra các biên pháp tinh vi để xây dựng các rào cản phi thuế quan nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, đạt được mục tiêu xác định của họ. Vì vậy việc nghiên cứu để tìm ra những “Biện pháp để vượt qua những rào cản thương mại với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam” là hết sức cần thiết để có thể giúp các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng thị trường.
Trong khuôn khổ một đề án nhỏ, em xin trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về rào cản thương mại,thực trạng rào cản thương mại với hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam, trên cơ sở đó em xin đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm vượt qua các rào cản thương mại này.
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RÀO CẢN THƯƠNG M ẠI .
1. Khái niệm “rào cản thương mại”.
Toàn cầu hoá kinh tế được thông qua một kênh chủ yếu đó là hoạt động thương mại tự do - chiếc cầu khổng lồ nối vòng tay lớn và đồng thuận giữa các nước trên thế giới.
Tuy nhiên, để có sự đồng thuận vận hành suôn sẻ, tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng phải có những quy định thống nhất, tạo sự bình đẳng, công khai, và theo đó là giám sát việc thực hiện của các thành viên mà ta thường gọi là những “rào cản” thương mại.
Trong thực tế, các nhà khoa học có rất nhiều định nghĩa khác nhau về rào cản thương mại. Song, tựu trung, các rào cản đó được hiểu là các luật lệ, chính sách, quy định hay tập quán của Chính phủ mỗi nước trong khuôn khổ pháp lý chung nhằm hạn chế hay ngăn cản hoạt động thương mại hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài.
2. Sự hình thành của rào cản thương mại.
Các loại rào cản trong thương mại quốc tế nói chung và rào cản thưong mại nói riêng đều được hình thành liên quan tới lợi ích của 1 nhóm người nhất định và nhóm người này có khả năng tác động tới chính sách của Nhà Nước. Xét trên khía cạnh này nó có thể xuất phát từ 1 trong 3 chủ thể sau :
- Từ phía doanh nghiệp:
Điều đầu tiên là hầu hết các Doanh Nghiệp của bất kì một nghành sản xuất kinh doanh nào cũng muốn được bảo hộ. Một mặt để tránh với sự cạnh tranh của nước ngoài. Mặt khác rào cản thương mại của nhà nước còn giúp cho họ có thêm vị trí trên thị trường và có khả năng thu được lợi nhuận cao hơn , để tạo ra áp lực tác động tới các chính sách của chính phủ ,các Doanh nghiệp sẽ tập hợp lại dưới danh nghĩa :Hiệp hội ngành nghề để tiến hành vận động hành lang đối với Chính phủ. Sự tác động của các Doanh nghiệp là hết sức mạnh mẽ và có tổ chức với rất nhiều hình thức khác nhau .Các doanh nghiệp sẽ đưa ra các lý do như :ngành công nghiệp non trẻ cần được bảo hộ, hoặc là ngành sản xuất liên quan đến việc làm của nhiều người lao động, hay ngành xản xuất liên quan đến an ninh quốc gia (an ninh về lương thực).Các lý do như thế này đều rất chính đáng và hợp lý. Và do vậy, dưới sự tác động của các doanh nghiệp ,chính phủ có thể sẽ phải đưa ra các rào cản thuế quan hoặc phi thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước.
- Từ phía người lao động và người tiêu dùng :
Đây là một lý do khác dẫn tới việc hình thành rào cản thương mại. Trước hết là để bảo vệ cho người lao động (thuộc nghành được bảo hộ) có công ăn việc làm , sau đó là để bảo hộ cho họ có thu nhập ổn định.Người lao động tác động tới Chính phủ thông qua các nghiệp đoàn để đấu tranh,cũng có khi họ mượn cớ rằng để bênh vực người lao động nước khác phải làm việc trong điều kiện không được đảm bảo, hoặc rằng vì lý do sử dụng lao động trẻ em hay tù nhân nên sản phẩm đưa vào thị trường với giá rẻ..v.v. Đây là lý do chính phủ phải dựng nên rào cản với tên gọi là trách nhiệm xã hội theo SA8000.
Người tiêu dùng cũng có tác động rất lớn đến việc hình thành rào cản trong thương mại quốc tế với lý do để bảo vệ sức khoẻ con người ,bảo vệ động thực vật, hoặc là bảo vệ môi trường.
- Từ phía chính phủ :
Xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và vận động của các nhóm khác nhau ,chính phủ sẽ phải cân nhắc đến lợi ích của từng nhóm .Bởi vì với bất kì chính sách rào cản nào có lợi cho doanh nghiệp và người lao động trong ngành được bảo hộ cũng có thể sẽ gây hại cho các ngành khác,người lao động trong ngành khác hoặc gây hại cho người tiêu dùng nói chung .Những người bị hại sẽ có biện pháp phản kháng để đòi lại quyền lợi của họ. Tuy vậy , chính phủ vẫn phải đưa ra các quyết định dựa trên sự cân nhắc và điều hoà lợi ích một cách hợp lý.
Ngoài ra trong nhiều trường hợp luôn có sự câu kết giữa Doanh nghiệp và nhà nước vì lợi ích của 2 phía có sự liên hệ chặt chẽ với nhau .Bên cạnh đó còn là sự “ xoa dịu” của chính phủ đối với người lao động hoặc người tiêu dùng đề họ đặt lòng tin vào chính phủ .
3. Các loại rào cản thương mại.
a) Hàng rào thuế quan.
Thuế quan được áp dụng trước hết là nhằm mục đích tăng nguồn thu ngân sách cho chính phủ, sau đó là vì những mục đích khác như ngăn chặn hàng nhập khẩu và bảo vệ hàng trong nước, trả đũa một quốc gia khác, bảo vệ một ngành sản xuất quan trọng hay còn non trẻ của nước mình.
Thông qua các vòng đàm phán, WTO luôn hướng mục tiêu cắt giảm thuế quan. Các nước thành viên không được phép tăng thuế lên trên mức trần đã cam kết trong biểu. Qua tám vòng đàm phán trong khuôn khổ GATT trước đây, đặc biệt là sau vòng Uruguay, thuế công nghiệp bình quân của các nước phát triển được giảm xuống 3,8%, các nước này cũng đồng ý cắt giảm 36% mức thuế công nghiệp. Riêng các nước đang phát triển đồng ý cắt giảm 24% thuế nông nghiệp.
Với nước ta, có 10.687 dòng thuế phải qua đàm phán, đến nay mức thuế suất chung đã giảm từ 17,4% xuống còn 13,6%, trong đó hàng công nghiệp còn 21%, hàng nông nghiệp 12,6%...
b) Các hàng rào phi thuế quan.
Các hàng rào này bao gồm: hạn ngạch, cấp phép, định giá hải quan, quy định về xuất xứ, các quy định về kỹ thuật, vệ sinh, nhãn mác, trợ cấp, chống bán phá giá, sở hữu trí tuệ... Trong đó, các biện pháp đang được sử dụng rộng rãi là:
- Các biện pháp cấm :
Trong số các biện pháp cấm được sủ dụng trong thực tiễn thương mại quốc tế có các biện pháp như : Cấm vận toàn diện ,cấm vận từng phần ,cấm xuất khẩu hoặc nhập khẩu với 1 số hàng hoá nào đó …v..v
- Hạn chế định lượng (quota) :
Đó là hạn nghạch về số lượng hoặc giá trị được phép xuất khẩu ,nhập khẩu trong 1 thời kì nhất định (thường là 1 năm )hạn ngạch này có thể do nước nhập khẩu hoặc xuất khẩu tự áp đặt một cách đơn phương ,nhưng cũng có loại hạn ngạch được áp đặt trên cơ sỏ tự nguyện của bên thứ 2(hạn ngạch xuất khẩu tự nguyện).
Hạn chế định lượng đang được coi là có tác dụng bảo hộ mạnh hơn các biện pháp thuế quan và dễ bóp méo thương mại. Cho nên, điều XI của Hiệp định GATT không cho phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu hoặc xuất khẩu hàng hoá.
Tuy nhiên, Hiệp định GATT cũng đưa ra một số ngoại lệ, cho phép các nước thành viên được áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng theo những điều kiện nghiêm ngặt. Ví dụ như để đối phó với tình trạng thiếu lương thực trầm trọng, bảo vệ cán cân thanh toán, bảo vệ sức khoẻ con người, động thực vật, bảo vệ an ninh quốc gia..v.v.
- Cấp phép nhập khẩu :
Phải tuân thủ Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu của WTO, tức là đáp ứng các tiêu chí như đơn giản, minh bạch và dễ dự đoán. Trình tự, thủ tục xin cấp phép cũng như lý do áp dụng giấy phép phải được thông báo rõ ràng, nhất là đối với các loại giấy phép không tự động.
- Các thủ tục hải quan :
Nếu các thủ tục hải quan đơn giản ,nhanh chóng , đây chỉ là biện pháp quản lý thông thường ,nhưng nếu thủ tục quá chậm chạp , phức tạp có thể trở thành rào cản phi thuế quan .Sử dụng các quy định về kiểm tra trước khi xếp hàng ,quy định về cửa khẩu thông quan,quy định về giá trị tính thuế hải quan…cũng sẽ trỏ thành rào cản khi mà nó chưa hoặc không phù hợp với quy định về hài hoà thủ tục hải quan. Định giá hải quan để tính thuế cũng có thể trở thành một rào cản lớn với hoạt động thương mại. Ví dụ như quy định về áp giá tối thiểu để tính thuế nhập khẩu. Chính vì vậy, Hiệp định về định giá hải quan của WTO đã quy định các nguyên tắc cụ thể trong việc xác định giá trị tính thuế của hàng hoá, bắt buộc các thành viên phải thực thi đúng và minh bạch.
- Về trợ cấp:
Đây là một công cụ chính sách được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở hầu hết các nước nhằm đạt các mục tiêu của Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị... Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trợ cấp, nhưng, theo WTO, trợ cấp là một khoản đóng góp về tài chính do Chính phủ hoặc một tổ chức Nhà nước cung cấp, hoặc là một khoản hỗ trợ thu nhập, hoặc hỗ trợ giá và mang lại lợi ích cho đối tượng nhận trợ cấp.
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO được chia ra làm ba cấp độ rõ rệt là đèn đỏ, đèn vàng và đèn xanh như trong giao thông. Với “đèn đỏ” cấm hoàn toàn - bao gồm các khoản trợ cấp căn cứ vào thành tích xuất khẩu hay khuyến khích sử dụng hàng trong nước; “đèn vàng” tức là các loại trợ cấp được phép sử dụng, song cũng có thể bị kiện hoặc áp dụng biện pháp đối kháng; cuối cùng là cấp “đèn xanh” là những trợ cấp chung được thả nổi hoàn toàn, bởi ít bóp méo hoạt động thương mại như phổ biến và hỗ trợ nghiên cứu phát triển, hỗ trợ vùng khó khăn, hỗ trợ cải tiến trang thiết bị đang sử dụng để đáp ứng các quy định mới về môi trường..v.v.
- Rào cản về chống bán phá giá:
Đây là hành vi bán hàng hoá tại thị trường nước nhập khẩu thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu nhằm chiếm lĩnh thị trường, hay cạnh tranh giành thị phần. Việc làm này bị coi là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh vì không dựa trên những tiêu chí thương mại chung, gây ảnh hưởng tới ngành công nghiệp nước nhập khẩu.
Việc áp dụng thuế chống bán phá giá là để làm tăng giá hàng hoá nhập khẩu, khắc phục tác động xấu của hành vi bán phá giá. Hiệp định về chống bán phá giá của WTO đã quy định cụ thể về các tiêu chí để xác định hành vi phá giá và biện pháp khắc phục.
Trong thực tế, việc bán phá giá, không chỉ xảy ra ở các nước đang phát triển mà diễn ra ngay cả ở các nước công nghiệp phát triển như EU, Canada, Hoa Kỳ... Theo số liệu của Ban thư ký WTO, từ năm 1995 đến tháng 6 năm 2005, các nước thành viên WTO đã tiến hành điều tra 2.741 vụ kiện bán phá giá. Nhiều nhất là Ấn Độ 412 vụ, kế đến là Mỹ 358 vụ, EU 318 vụ... Rốt cuộc, chỉ có 63% số vụ bị áp thuế bán phá giá, cao nhất là Trung Quốc, tiếp đến Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan...
- Các quy định về kỹ thuật, vệ sinh, nhãn mác...:
Cùng với những nỗ lực giảm thuế và điều chỉnh các biện pháp phi thuế truyền thống trong WTO, ngày càng xuất hiện nhiều hình thức rào cản thương mại mang tính kỹ thuật như các quy định về vệ sinh, kỹ thuật, môi trường, nhãn mác sản phẩm. Đây là phạm vi chứa đựng nhiều quy định khá phức tạp và hết sức chặt chẽ.
Hiện nay, trong WTO, Hiệp định SPS điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động, thực vật và Hiệp định TBT điều chỉnh việc áp dụng các quy định liên quan đến tiêu chuẩn sản phẩm, dán nhãn, chứng nhận và công nhận hợp chuẩn. Mục tiêu của hai hiệp định này là cho phép các nước thành viên một mặt duy trì các biện pháp vệ sinh và kỹ thuật vì các lý do chính đáng, mặt khác hạn chế khả năng lạm dụng các biện pháp này để bóp méo hoạt động thương mại toàn cầu.
- Các quy định về thương mại dịch vụ:
Các quy định như quy định về lập công ty, chi nhánh và văn phòng của nước ngoài tại nước sở tại, quy định về xây dựng và phát triển hệ thống phân phốI hàng hoá, quy định về quyền được tiếp cận các dịch vụ công một cách bình đẳng, quy định về thanh toán và kiểm soát ngoại tệ, quy định về quảng cáo và xúc tiến thương mại . . . đều trở thành các rào cản trong thương mại quốc tế nếu các quy định này không minh bạch và có sự thiên vị, phân biệt đối xử.
- Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại:
Ví dụ như các quy định yêu cầu các nhà đầu tư phải sử dụng nguyên liệu trong nước, quy định tỉ lệ xuất khẩu sản phẩm hay hạn chế nguồn ngoại tệ dùng để thanh toán hàng nhập khẩu của công ty... Các biện pháp này thường được các nước đang phát triển sử dụng rộng rãi để hạn chế nhập khẩu và phát triển ngành công nghiệp trong nước.
Để khắc phục tình trạng này, Hiệp định TRIMS đã đưa ra một danh mục các biện pháp đầu tư bị coi là không phù hợp với các quy định về tự do hoá thương mại của WTO và yêu cầu các nước thành viên không duy trì những biện pháp này.
- Rào cản về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ:
Việc thực thi không đầy đủ quyền sở hữu trí tuệ cũng được coi là một rào cản lớn với hoạt động thương mại quốc tế, vì hàng nhái, hàng giả, hàng vi phạm bản quyền với giá rẻ sẽ hạn chế khả năng tiếp cận thị trường của sản phẩm đích thực. Vấn đề này thực sự trở nên nghiêm trọng với những quốc gia mà việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ không nghiêm ngặt, ví dụ như Trung Quốc.
Trên thực tế, trong quan hệ thương mại Mỹ - Trung, vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ đã không ít lần trở thành một đề tài căng thẳng. Hiệp định TRIPS của WTO điều chỉnh các vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, gồm các quyền chính như quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa lý, thiết kế công nghiệp, các bí mật thương mại.
Ngoài những biện pháp chủ yếu kể trên, trong hoạt động thương mại quốc tế còn tồn tại rất nhiều hình thức rào cản thương mại khác. Ví dụ, như mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước, quy tắc xuất xứ, các quy định về kiểm định hàng hoá trước khi xuống tàu...
Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại và xu hướng điều tiết các rào cản truyền thống, ngày càng xuất hiện nhiều hình thức rào cản trá hình và tinh vi hơn, thường là liên quan tới các tiêu chuẩn về kỹ thuật, môi trường, lao động, với mục đích cuối cùng là đạt được nhiều giá trị thặng dư cho doanh nghiệp mình, đất nước mình trong sân chơi chung toàn cầu.
Thương mại tự do là một trong những động lực to lớn phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Vì vậy, trong quá trình hội nhập sâu vào hệ thống thương mại đa phương, việc đầu tư nguồn lực và thời gian để nghiên cứu, hiểu rõ để phòng tránh hiệu quả những rào cản này là vô cùng cần thiết.
Theo đó, các biện pháp đấu tranh phòng tránh các rào cản không công bằng để bảo vệ lợi ích cho mình là một vấn đề lớn không chỉ đối với các nhà quản lý vĩ mô, hoạch định chính sách, xây dựng luật pháp mà còn là một nhiệm vụ quan trọng số một đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
PHẦN 2.THỰC TRẠNG RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM.
1. Tổng quan về dệt may Việt Nam.
Năm 2007 vừa qua, trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước là 48 tỷ USD, thì ngành dệt may đạt 7,78 tỷ USD, chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Với thành tích xuất khẩu này, ngành dệt may đã vươn lên là một trong những mặt hàng đứng đầu trong danh mục mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và đưa Việt Nam đứng trong danh sách 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Những kết quả này cần được phát huy mạnh mẽ hơn trong năm 2008.
Mục tiêu kế hoạch của Dệt may Việt Nam trong năm 2008 là: Kim ngạch xuất khẩu 9,5 tỷ USD, tăng 21,8% so với ước thực hiện, trong đó dự kiến: thị trường Hoa Kỳ ước đạt 5,3-5,5 tỷ USD, thị trường EU đạt khoảng 1,6-1,8 tỷ USD, Nhật Bản đạt khoảng 800 triệu USD. Cụ thể: Sợi toàn bộ là 100 nghìn tấn, tăng 8,7% so với ước thực hiện 2007. Vải lụa thành phẩm là 683 triệu m2 , tăng 9,1% so với ước thực hiện 2007. Quần áo dệt kim là 188,5 triệu sản phẩm tăng 8,1% ước thực hiện 2007. Quần áo may sẵn là 1.591triệu sản phẩm, tăng 16,6% ước thực hiện 2007.
Trong bối cảnh hiện nay , đây là mục tiêu lớn đòi hỏi ngành dệt may phải có chiến lược cụ thể cả về thị trường, về công nghệ kỹ thuật, về nguyên phụ liệu và thiết kế sản phẩm. Bởi vì bên cạnh những thành tích đã đạt được,trong ngành dệt may vẫn còn rất nhiều những tồn tại cần được sửa chữa.
Trước hết phải kể đến là yêu cầu về đổi mới mẫu mã, thiết kế để nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh. Thực hiện yêu cầu này, đòi hỏi có sự đầu tư đồng bộ, trong đó có việc đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực thiết kế một cách bài bản, theo hướng chuyên nghiệp hóa.
Tiếp theo,một trong những vấn đề được đề cập nhiều để ngành dệt may phát triển bền vững là làm sao chủ động được nguồn nguyên phụ liệu. Thực tế, trong những năm qua, ngành dệt may của ta chủ yếu là gia công hàng hóa và xuất khẩu qua nước thứ ba, nên hàm lượng giá trị gia tăng còn thấp, thương hiệu sản phẩm dệt may chưa thực sự khẳng định được tên tuổi. Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam phải nhập khẩu đến 70% nguyên liệu, phụ liệu cho sản xuất. Nhiều ý kiến cho rằng: việc thành lập trung tâm nguyên phụ liệu là điều cần thiết cho doanh nghiệp xuất khẩu khi mà có đến 60 - 70% sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam đều làm gia công cho nước ngoài. Vì vậy, việc có một trung tâm nguyên phụ liệu, trước mắt sẽ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, sau đó từng bước phát triển ngành nguyên phụ liệu Việt Nam. Ông Lê Quốc Ân – Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn dệt may Việt Nam cho biết: “Chúng tôi tập trung tăng tốc việc sản xuất nguyên liệu và phụ liệu, tăng tốc bằng cách liên kết tất cả các đơn vị trong nước và ngoài nước. Chúng tôi sẽ có những nhà máy sản xuất vải, sản xuất các phụ liệu mới ra đời và hiện nay, các dự án đang được triển khai. Hiện nay, chúng tôi đang liên kết với một tập đoàn của Hàn Quốc để xây dựng 2 nhà máy nhuộm, một nhà máy ở Phố Nối – Hưng Yên và một nhà máy ở Nam Định. Chúng tôi cũng đang đàm phán với tập đoàn Ramatex của Malaysia để xây dựng 2 nhà máy mới, 1 nhà máy ở Thành phố Hồ Chí Minh và một nhà máy ở phía Bắc để cung cấp vải cho ngành may Việt Nam”.
Trong ngành Dệt-May Việt Nam, cho đến nay, việc sản xuất các sản phẩm “xanh” chưa được quan tâm đúng mức. Một số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp còn chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với các sản phẩm dệt- may xuất khẩu. Ngoài ra, phần lớn các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm- hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hoá chất, chất trợ, thuốc nhuộm và các công nghệ gây ô nhiễm môi trường. Có thể nêu lên vài ví dụ nổi bật sau đây. Trong hồ sợi, ngày càng sử dụng nhiều PVA làm tăng tải lượng COD (nhu cầu oxy hoá học) trong nước thải và PVA khó xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ thông thường chứa 4000- 8000 mg/l COD. Kỹ thuật “giảm trọng” polieste bằng kiềm được áp dụng phổ biến làm sản sinh một lượng lớn terephtalat và glycol trong nước thải sau sử dụng 5-6 lần, đưa COD có thể lên tới 80.000 mg/l Trong thành phần nước thải của các công ty, nhà máy dệt – nhuộm hiện nay, có khoảng 300- 400 mg/l COD (đã vượt tiêu chuẩn nước thải loại B 3- 4 lần) dự đoán sẽ tăng lên mức 700- 800mg/l và có thể còn tăng hơn nữa trong tương lai.
Nếu như tình hình ô nhiễm môi trường, trước hết là ô nhiễm nước thải không được kiểm soát, thì các doanh nghiệp dệt- nhuộm phải đương đầu với nhiều vấn đề nghiêm trọng, phải tốn rất nhiều kinh phí cho việc xử lý môi trường, mới đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định về môi trường, cũng như để phát triển sản xuất, xuất khẩu bền vững, đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn “Eco friendly” về môi trường.
2. Các rào cản thương mại đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
Việt Nam là một nước xuất khẩu dệt may lớn, hàng dệt may Việt Nam gặp phải những rào cản thương mại là điều khó tránh khỏi. Trong những năm gần đây, ngành dệt may của chúng ta đã gặp phải khá nhiều những rào cản thương mại đến từ các nước nhập khẩu,chủ yếu là từ Mỹ và EU. Sau đây là một số những rào cản chính mà Dệt may Việt Nam đã gặp phải trong thời gian qua:
- Trước hết phải nói đến là rào cản về “ hạn chế định lượng “đối với hàng dệt may của chúng ta khi xuất khẩu vào Mỹ và EU. Như đã nói ở phần 1, hạn chế định lượng là hạn nghạch về số lượng hoặc giá trị được phép xuất khẩu ,nhập khẩu trong 1 thời kì nhất định. Hàng dệt may của chúng ta đã gặp phải rất nhiều khó khăn trước loại rào cản này khi xuất khẩu vào 2 thị trường lớn là Mỹ và EU. Trước ngày 1/1/2005,hàng dệt may của chúng ta phải chịu hạn nghạch của EU,do đó mà các sản phẩm là thế mạnh của chúng ta như quần tây, áo thun… không khai thác hết được tiềm năng. Trong vài chục chủng loại hàng dệt may được quản lý bằng hạn nghạch thì chỉ có từ 5-7 chủng loại được tập trung sản xuất và xuất khẩu, còn những chủng loại hàng còn lại thì thường không sử dụng hết. Hơn nữa, giá bán của các sản phẩm dệt may xuất khẩu của chúng ta lại cao do phải cộng thêm phí quota, do đó mà kim nghạch xuất khẩu chưa cao, ngay cả ở những chủng loại hàng có nhu cầu sử dụng cao ( còn gọi là Cat nóng ). Đối với thị trường Mỹ cũng vậy, có nhiều chủng loại hàng bị áp đặt hạn nghạch, chỉ có vài chủng loại hàng được tập trung sản xuất để xuất khẩu, sử dụng hết hạn nghạch. Còn lại đều không tận dụng hết hạn nghạch, có chủng loại hạn nghạch quá ít, không có doanh nghiệp nào đề nghị sử dụng. Do vậy kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may của chúng ta năm 2004 khá khiêm tốn, khoảng 4,35 tỷ USD. Hạn nghạch ở thị trường EU đối với hàng dệt may Việt Nam được xoá bỏ vào ngày 1/1/2005, và Mỹ cũng xoá bỏ hạn nghạch với hàng dệt may Việt Nam ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Kể từ thời gian này, Dệt may Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường, giảm chi phí, do vậy kim nghạch xất khẩu đã tăng đáng kể qua từng năm. Như vậy, vấn đề về hạn nghạch đối với hàng dệt may xuất khẩu của chúng ta đã tạm được giải quyết sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải thận trọng bởi lẽ, trên nguyên tắc thỏa thuận thương mại song phương với Hoa Kỳ khi Việt Nam gia nhập WTO không bị áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt nhưng do dệt may thuộc nhóm hàng đặc biệt nhạy cảm, hơn nữa quan hệ thương mại có thể chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố phi thương mại nên mặc dù hiện tại xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản chỉ chiếm thị phần dưới 3% nhưng nếu có sự tăng trưởng xuất khẩu nhanh trong thời gian ngắn, không loại trừ khả năng các nước này có thể sử dụng biện pháp tự vệ để hạn chế nhập khẩu.
- Tiếp theo là rào cản về kỹ thuật, về môi trường, hay còn gọi là rào cản “ xanh “đối với hàng dệt may. Nói tới hàng may mặc “xanh” là nói tới các sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khoẻ đối với người sử dụng và không gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất.
Hiện tại, trình độ phát triển ngành dệt của Việt Nam ở dưới mức trung bình so với mặt bằng chung, vì vậy năng suất chưa cao, chất lượng hạn chế, sử dụng nhiều hóa chất thuốc nhuộm… Trong khi đó, các quy định về nhãn mác an toàn sức khỏe với người sử dụng, tiêu chuẩn thân thiện môi trường, trách nhiệm của các thị trường nhập khẩu lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản…vốn rất khắt khe.
Thời gian gần đây ngày càng có nhiều sản phẩm dệt may của Trung Quốc bị khách hàng từ chối hoặc đòi bồi thường vì không phù hợp với những tiêu chuẩn “xanh”, tức không đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn về sức khỏe đối với người sử dụng và không gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất. Một khi tình trạng này xảy ra với hàng dệt may Trung quốc thì cũng có thể xảy ra với các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Như vậy là, trong cuộc cạnh tranh quyết liệt sau khi hạn ngạch dệt- may được rỡ bỏ và tiêu chuẩn “Eco friendly” được EU áp dụng, thì rào cản thương mại “xanh” là một thách thức, trở ngại lớn đối với tất cả các nước xuất khẩu hàng dệt- may vào các thị trường nói trên. Cơ hội và thách thức là giống nhau đối với các nước này.
- Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu trọng điểm của Dệt may Việt Nam, và vấn đề bức xúc nhất đối với hàng dệt may xuất khẩu của chúng ta là “ cơ chế giám sát hàng dệt may “ của Mỹ. Thực tế rằng, khi rào cản hạn ngạch bị dỡ bỏ thì các nước nhập khẩu lớn như Mỹ hay châu Âu thường dựng lên những rào cản thương mại như về vấn đề môi trường, lao động và đặc biệt là chống bán phá giá để ngăn cản làn sóng nhập khẩu. Kể từ năm 2007, khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, ngành dệt may không bị áp dụng cơ chế hạn ngạch thì lập tức gặp rào cản giám sát chống bán phá giá. Hàng dệt may Việt Nam phải chịu sự giám sát của Mỹ cho đến cuối năm 2008, tập trung vào hai nội dung chủ yếu là : có bán phá giá và có được trợ cấp của chính phủ Việt Nam trái với nguyên tắc WTO hay không?. Để làm rõ được điều này, Mỹ sẽ dựa vào sự suy giảm về đơn giá nhập khẩu so với thời kỳ trước, để họ xem xét và quyết định có điều tra hay không. Đây là một thiệt thòi lớn cho dệt may Việt Nam vì các nhà nhập khẩu Mỹ e ngại rủi ro do có thể bị điều tra và áp mức thuế chống bán phá giá. Chính phủ Mỹ sẽ giám sát chặt chẽ việc nhập khẩu hàng dệt may từ VN định kỳ 6 tháng một lần .Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 5 mặt hàng bị giám sát gồm áo sơ mi, quần dài, đồ bơi, đồ lót, áo thun len chiếm đến 60% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ. Nói là 5 mặt hàng, nhưng 5 chủng loại này lại được phân thành 500 sản phẩm đơn lẻ tại thị trường Mỹ chứ không ít. Trao đổi với báo Thanh Niên, ông Lê Quốc Ân nói: "Các nhà nhập khẩu Mỹ than phiền với chúng tôi rằng cơ chế này còn nguy hiểm hơn hạn ngạch, thà chịu hạn ngạch còn tốt hơn! Hiện tại cũng đã có một số nhà nhập khẩu muốn chuyển đơn hàng sang nước khác vì họ cho rằng rủi ro lơ lửng trên đầu khi nhập hàng dệt may VN". Tuy nhiên, qua đợt điều tra lần 1 (6 tháng đầu 2007 và công bố vào tháng 10/2007), Bộ Thương mại Mỹ khẳng định: chưa phát hiện một dấu hiệu nào cho thấy hàng dệt may Việt Nam bán phá giá. Điều này có thể làm các nhà nhập khẩu Mỹ yên tâm hơn. Hiện tại, phía Mỹ chưa công bố kết quả giám sát lần hai nhưng Vitas đã tự theo dõi và đánh giá số liệu và thấy rằng: thứ nhất, năm 2007 so với 2006 thì: giá trị đạt: 4.557.000.000 triệu USD, tăng 34%; số lượng: 1.506.000.000 triệu m2 sản phẩm quy đổi, tăng 31%; đơn giá bình quân: 3,03 USD/m2 sản phẩm, tăng 2,3%. Đánh giá chung, đơn giá hàng dệt may vào Hoa Kỳ tăng chứ không giảm. Mặc dù vậy nhưng cho đến nay Bộ Thương mại Hoa Kỳ vẫn chưa đưa ra bất kỳ một hành động cụ thể nào nhằm giảm bớt tác động tiêu cực của chương trình này như: không giảm bớt số lượng mặt hàng nằm trong diện giám sát và cũng không nêu các tiêu chí, điều kiện cụ thể làm cơ sở tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam. Năm 2008 sẽ là năm căng thẳng nhất bởi có tới 2 lần Hoa Kỳ sẽ tiến hành đánh giá vào tháng 3 và tháng 8 trong khi tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của DN Việt Nam vào thị trường này sẽ không dưới 40% và giá đang có xu hướng giảm. Như vậy các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may vẫn cần phải thận trọng, bởi vì vẫn còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro do chương trình giám sát này của Hoa Kỳ.
Trên đây chỉ là những rào cản thương mại mà hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam đã gặp phải trong thời gian gần đây. Trong tương lai sẽ còn nhiều những loại rào cản khác từ các thị trường nhập khẩu được dựng lên, cho nên việc tìm ra hướng đi đúng đắn cho xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vượt qua những rào cản này là hết sức cấp thiết hiện nay.
PHẦN 3. BIỆN PHÁP VƯỢT QUA NHỮNG RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM.
1. Các giải pháp từ phía nhà nước.
Sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và đối với hoạt động xuất khẩu dệt may nói riêng là hết sức cần thiết và là một yêu cầu có tính khách quan. Để có thể giúp các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may vượt qua được những rào cản thương mại, nhà nước cần có những giải pháp thích hợp và kịp thời, cụ thể :
- Tạo môi trường , điều kiện thuận lợi để cho các doanh nghiệp dệt may có thể sản xuất vải và phụ liệu với số lượng và chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu khắt khe về kỹ thuật của các nước nhập khẩu. Nhà nước cần có những chính sách chủ trương kêu gọi đầu tư giúp các doanh nghiệp và hiệp hội dệt may xây dụng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo tiền đề vững chắc cho việc sản xuất nguyên phụ liệu, từng bước phát triển ngành nguyên phụ liệu Việt Nam. Cần có quy hoạch, tính toán dài hạn cho vấn đề này.
- Nhà nước cần có biện pháp giám sát chặt chẽ về chất lượng hàng dệt may xuất khẩu, về công nghệ và quá rình sản xuất, đảm bảo hàng xuất khẩu của chúng ta đáp ứng được các yêu cầu về kỹ thuật ,về môi trường của các nước nhập khẩu. Xây dựng ban hành chuẩn mực quốc gia về nước thải ngành dệt nhuộm với những chỉ tiêu ô nhiễm phù hợp khả thi. Có như vậy mới vượt qua được rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe mà các thị trường nhập khẩu đặt ra.
- Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội dệt may để có sự thống nhất trong hành động. Chấp hành đúng các quy định của WTO, đồng thời phải có những hình thức, biện pháp thật hiệu quả để kiểm tra về số lượng và giá cả hàng dệt may xuất khẩu, đảm bảo cho hàng dệt may của chúng ta tránh được các vụ kiện bán phá giá. Nên thành lập những bộ phận chuyên trách có nhiệm vụ thu thập thông tin về tình hình sản xuất và xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may, kiểm tra những dấu hiệu gian lận thương mại, nhằm ngăn chăn các hành vi sai trái có thể gây tổ hại cho xuất khẩu dệt may, góp phần đảm bảo uy tín hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Tổ chức đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực đàm phán và giải quyết các tranh chấp thương mại phát sinh. Mặc dù đã có các quy định của WTO về các nguyên tắc và biện pháp có thể được áp dụng khi ban hành các chính sách thương mại và các quy định về tiêu chuẩn kĩ thuật có tính chất như rào cản thương mại để thực hiện mà không vi phạm quy định về đối xử quốc gia. Tuy nhiên, trong thực tế quan hệ thương mại song phương vẫn thường phát sinh những vấn đề tranh chấp, vì vậy kinh nghiệm giải quyết vấn đề này thường là chủ động đàm phán để có được các nhân nhượng thương mại tạm thời.
2. Giải pháp từ phía Hiệp hội và các doanh nghiệp.
- Hiệp hội và các doanh nghiệp dệt may nên đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá chủng loại và mặt hàng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20398.doc