Lời nói đầu
Ngày nay, các doanh nghiệp nước ta thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đều phải hoạt động trong một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy, các doanh nghiệp phải chuyển mình và thay đổi hoàn toàn để thích nghi được môi trường và không ngừng đi lên. Để đạt được điều này, doanh nghiệp phải đáp ứng được những yêu cầu, những đòi hỏi của thị trường mà một trong những đòi hỏi bức bách đó là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải thu được lợi nhuận. Với m
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biện pháp để nâng cao lợi nhuận ở Công ty May Xuất khẩu Phương Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột nền kinh tế thị trường thì vấn đề lợi nhuận thực sự đã trở thành nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Lợi nhuận là đòn bảy kinh tế, là mục tiêu hàng đầu, là cái đích cuối cùng mà tất cả các doanh nghiệp đầu theo đuổi.
Từ khi thành lập công ty đến nay, cùng với sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên và sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Tổng công ty xây dựng và phát triển nông thôn-đơn vị chủ quản-công ty may xuất khẩu Phương Mai đã từng bước khắc phục khó khăn, đạt được những bước tiến nhất định. Thành tích đó là những kết quả của những mục tiêu, chính sách đầu tư đúng đắn mà mục tiêu hàng đầu như mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lợi nhuận và lợi nhuận phải tăng theo các năm.
Xuất phát từ tầm quan trọng của lợi nhuận và sự hướng dẫn của cô giáo, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp để nâng cao lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai” làm chuyên đề thực tập.
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận nội dung chuyên đề chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng về việc nâng cao lợi nhuận của công ty may xuất khẩu Phương Mai trong những năm gần đây.
Chương 3: Giải pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai.
Do trình độ còn hạn chế, chuyên đề này không tránh khỏi thiếu sót. Tôi mong nhận được những ý kiến góp ý của độc giả để chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Ngọc Điệp và các cô chú trong công ty may xuất khẩu Phương Mai đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình làm chuyên đề này.
chương 1
Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.1.Khái niệm, nguồn gốc lợi nhuận doanh nghiệp.
Tuỳ theo quan điểm và góc độ xem xét, đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về lợi nhuận:
Các nhà kinh tế học cổ điển trước K.Mark cho rằng: “ Cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất là lợi nhuận”. Theo Ađam Smith, lợi nhuận là “ khoản khấu trừ thứ hai” vào sản phẩm của lao động. Còn theo David Ricardo, lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công.
K.Mark thì khẳng định: “ Giá trị thặng dư hay cái phần trội lên trong toàn bộ giá trị của hàng hóa, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận”.
Các nhà kinh tế học tư sản hiện đại như P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus lại cho rằng: “ Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra, bằng tổng số thu về trừ đi tổng số chi”, hay nói cách khác: “ Lợi nhuận được định nghĩa là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của một doanh nghiệp và tổng chi phí”.
Như vậy, xét về mặt lượng các định nghĩa đều thống nhất rằng: Lợi nhuận là số thu dôi ra so với chi phí đã bỏ ra.
Từ góc độ doanh nghiệp có thể thấy rằng: Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại.
Nguồn gốc của lợi nhuận cũng là một chủ đề được các nhà kinh tế học tranh cãi.
Chủ nghĩa trọng thương cho rằng: “ Lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông. Lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt”.
Chủ nghĩa trọng nông lại khẳng định: “ Nguồn gốc sự giàu có của xã hội là thu nhập trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp”.
Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh mà đại diện là Adam Smith lại cho rằng: “ Lợi nhuận trong phần lớn trường hợp chỉ là món tiền thưởng cho việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu tư tư bản”. Ông đã không thấy được sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư nên đã tuyên bố: “ Lợi nhuận chỉ là những hình thái khác nhau của giá trị thặng dư”. Còn D.Ricardo lại không biết đến giá trị thặng dư.
Kế thừa có chọn lọc các nhân tố khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển, kết hợp với phương pháp nghiên cứu biện chứng duy vật, K.Mark đã xây dựng thành công lý luận về hàng hoá sức lao động – cơ sở để xây dựng học thuyết giá trị thặng dư, đi đến kết luận: “ Giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, mang hình thái biến tướng là lợi nhuận”.
Kinh tế học hiện đại dựa trên quan điểm của các trường phái và sự phân tích thực tế thì kết luận rằng nguồn gốc của lợi nhuận doanh nghiệp gồm: thu nhập mặc nhiên từ các nguồn lực mà doanh nghiệp đã đầu tư cho kinh doanh; phần thưởng cho sự mạo hiểm, sáng tạo đổi mới trong doanh nghiệp và thu nhập độc quyền.
Như vậy từ trên ta có thể thấy rằng: lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại được hay không điều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Vì thế lợi nhuận được coi là đòn bẩy quan trọng, là động lực thúc đẩy doanh nghiệp tìm mọi cách nâng cao năng suất lao động, hiện đại hoá thiết bị, sử dụng nguyên vật liệu tiết kiệm và hợp lý … nhằm tối thiểu hoá chi phí, không ngừng nâng cao lợi nhuận. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến việc sử dụng kĩ thuật sản xuất hiệu quả nhất. Tóm lại, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu , là đích cuối cùng mà mọi doanh nghiệp đều hướng tới. 1.2. Tỷ suất lợi nhuận.
Lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, phản ánh kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau bởi vì:
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng vì thế nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố: có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố thuộc về khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau.
Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ khác nhau thường làm cho lợi nhuận doanh nghiệp cũng không giống nhau.
Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được sẽ khác nhau. Những doanh nghiệp lớn dù công tác quản lý kém số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn những doanh nghiệp quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý tốt hơn.
Cho nên để đánh giá, so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải dùng chỉ tiêu tương đối là tỷ suất lợi nhuận.
Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận, mỗi cách có nội dung kinh tế khác nhau. Sau đây là một số cách tính tỷ suất lợi nhuận thường gặp:
1.2.1. Tỷ suất lợi nhuận vốn.
Tỷ suất lợi nhuận vốn là quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế với tổng nguồn vốn trong kỳ.
Công thức:
Trong đó:
TV :Tỷ suất lợi nhuận vốn.
P : Lợi nhuận sau thuế.
V : Tổng nguồn vốn trong kỳ.
Ta có thể thay mẫu số bằng vốn cố định, vốn lưu động, vốn tự có của doanh nghiệp để tính các tỷ suất lợi nhuận tương ứng.
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn bỏ vào đầu tư sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nó cho phép đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau về quy mô sản xuất.
1.2.2. Tỷ suất lợi nhuận giá thành.
Tỷ suất lợi nhuận giá thành là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận thu được so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ.
Công thức:
Trong đó:
Tg: Tỷ suất lợi nhuận giá thành
P: Lợi nhuận thu được (Lợi nhuận trước thuế hoặc lợi nhuận sau thuế)
Zt: Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận giá thành phản ánh hiệu quả kinh tế tính theo lợi nhuận của chi phí sản xuất. Nó cho biết cứ 100 đồng chi phí sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
1.2.3. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế so với doanh thu thuần của doanh nghiệp.
Công thức:
Trong đó:
Tdt: Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
P: Lợi nhuận sau thuế
T: Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết trong 100 đồng doanh thu có bao nhiêu lợi nhuận sau thuế.
Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ suất chung của toàn ngành chứng tỏ doanh nghiệp bán hàng với giá thấp hoặc giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn so với doanh nghiệp cùng ngành. Chỉ tiêu cao hay thấp phụ thuộc vào đặc thù của từng ngành sản xuất vào phương hướng sản xuất kinh doanh của từng ngành.
Như vậy, nhiệm vụ đối với các doanh nghiệp không chỉ là phấn đấu tăng lợi nhuận mà hơn thế phải làm tăng tỷ suất lợi nhuận.
1.3.Vai trò của lợi nhuận.
Để thấy được vai trò của lợi nhuận, trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu lợi nhuận được phân phối như thế nào.
Phân phối lợi nhuận không phải là việc phân chia số tiền lãi một cách đơn thuần mà là việc giải quyết tổng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra đối với doanh nghiệp. Việc phân phối đúng đắn sẽ trở thành động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp tục công việc kinh doanh của mình.
Lợi nhuận thực hiện cả năm được phân phối theo thứ tự sau đây;
Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định.
2. Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước ( áp dụng đối với doanh nghiệp có sử dụng vốn ngân sách Nhà nước).
3. Trả các khoản tiền bị phạt, các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ chưa được trừ khi xây dựng thuế thu nhập phải nộp.
4.Trả các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế.
Trích lập các quỹ đặc biệt theo tỷ lệ do Nhà nước quy định (đối với doanh nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù mà pháp luật quy định.
6. Chia lãi cho các đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh.
7. Trích lập các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp gồm:
Quỹ đầu tư phát triển: dùng để đầu tư phát triển kinh doanh.
Quỹ dự phòng tài chính: dùng để bù đắp những thiệt hại về tài sản mà doanh nghiệp phải chịu trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm: dùng để chi cho việc đào tạo công nhân do thay đổi công nghệ, đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ, trợ cấp mất việc làm cho lao động thường xuyên trong doanh nghiệp nay bị mất việc làm.
Quỹ phúc lợi: dùng để đầu tư cho các công trình phúc lợi cho doanh nghiệp, chi cho các hoạt động phúc lợi của doanh nghiệp, làm công tác từ thiện…
Quỹ khen thưởng: dùng để thưởng cuối năm hoặc thường kỳ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp; thưởng đột xuất cho cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có sáng kiến mang lại hệu quả trong kinh doanh…
Từ việc sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp, ta thấy lợi nhuận không những duy trì sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp nói riêng mà còn góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Lợi nhuận đáp ứng và kết hợp hài hoà các lợi ích, lợi ích của người lao động và toàn xã hội.
1.3.1. Vai trò của lợi nhuận đối với nền kinh tế quốc dân.
Thông qua việc nộp thuế thu nhập cho Nhà nước của các doanh nghiệp, lợi nhuận đã góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Thực tế ở Việt Nam, thuế đã trở thành nguồn thu quan trọng, chiếm khoảng 80% tổng thu của ngân sách Nhà nước mà trong đó thuế thu nhập doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Như vậy, lợi nhuận góp phần để ngân sách Nhà nước thực hiện các vai trò của mình về mặt kinh tế,đó là để khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường, là tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh tức là lợi nhuận đã trở thành nguồn tích luỹ cơ bản để mở rộng tái sản xuất xã hội, là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân.
1.3.2. Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp.
Nếu như cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã biến các doanh nghiệp trở thành những tổng kho thực hiện việc giao nộp, cung ứng một cách đơn thuần dẫn đến thủ tiêu tính năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bởi tách rời chức năng sản xuất và kinh doanh, doanh nghiệp sẽ hoàn toàn không quan tâm đến mục tiêu lợi nhuận vì giá cả thì được định trước còn sản phẩm thì luôn luôn có người mua. Ngược lại trong cơ chế thị trường, lợi nhuận lại giữ một vị trí quan trọng trọng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường đòi hỏi doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không, điều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không? Vì thế, lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng, là động lực thúc đẩy doanh nghiệp tìm mọi cách để nâng cao năng suất lao động, hiện đại hoá trang thiết bị, sử dụng nguyên vật liệu tiết kiệm và hợp lý….nhằm tối thiểu hoá chi phí, không ngừng nâng cao lợi nhuận. Lợi nhuận đã trở thành động lực chi phối hoạt động của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ các khu vực có ít người tiêu dùng, lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất hiệu quả nhất. Tóm lại, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, là cái đích cuối cùng mà mọi doanh nghiệp đều hướng tới.
Lợi nhuận là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thật vậy lợi nhuận chính là thước đo đo lường kết quả của sự nỗ lực của doanh nghiệp, của tất cả những cố gắng từ khâu tìm hiểu thị trường, tiến hành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đến phân phối sản phẩm. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, phản ánh kết quả của việc sử dụng các yếu tố cơ bản của sản xuất. Có thể nói, vai trò đầu tiên của lợi nhuận là thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Và sau đó nó lại đo lường, phản ánh kết quả của roàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận tác động đến tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Thật vậy, lợi nhuận sau khi nộp thuế cho Nhà nước và chi trả các khoản phạt, các chi phí khác sẽ được dùng để hình thành và phát triển các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp. Các quỹ này thể hiện khả năng tài chính của doanh nghiệp để mà tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng. Có tự chủ về tài chính, doanh nghiệp mới có thể thực hiện tái sản xuất mở rộng, không ngừng mở rộng quy mô sản xuất. Rõ ràng lợi nhuận là yếu tố quết định cho sự tồn tại và đi lên của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt như ngày nay.
1.3.3.Vai trò của lợi nhuận đối với người lao động.
Lợi nhuận góp phần nâng cao đời sống người lao động thông qua các hình thức khen thưởng, trợ cấp … mà các hình thức này chỉ có khi doanh nghiệp thu được lãi. Lãi càng lớn, người lao động càng được hưởng nhiều. Bởi vậy lợi nhuận cũng là một nhân tố khuyến khích người lao động nâng cao năng suất lao động,tiết kiệm nguyên vật liệu….nhằm hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận.
Từ vai trò của lợi nhuận đối với toàn xã hội cũng như với doanh nghiệp ta thấy sự cần thiết tất yếu của việc doanh nghiệp phải phấn đấu kinh doanh thu được lợi nhuận và hơn thế, lợi nhuận ngày càng phải tăng.
Phương pháp xác định và các yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp.
2.1. Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp.
2.1.1. Các bộ phận cấu thành lợi nhuận doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường gồm:
Hoạt động sản xuất kinh doanh: là hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ của các ngành kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ.
Hoạt động tài chính: là hoạt động đầu tư về vốn và đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn với mục đích kiếm lời như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh doanh bất động sản, mua bán ngoại tệ…
Hoạt động bất thường: là hoạt động diễn ra không thường xuyên, không dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít có khả năng thực hiện như giải quyết các vấn đề tranh chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế, xử lý tài sản thừa, thiếu chưa rõ nguyên nhân…
Trên cơ sở ba hoạt động chính, lợi nhuận của doanh nghiệp thường được cấu thành từ ba bộ phận sau:
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính.
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường.
Thực tế tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp do các lĩnh vực kinh doanh khác nhau cũng như môi trường kinh tế khác nhau. Điều này được thể hiện như sau:
Thứ nhất: Cơ cấu lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường khác với các doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hàng. Với các doanh nghiệp thông thường, hoạt động sản xuất kinh doanh tách biệt với hoạt động tài chính. Vì thế vơ cấu lợi nhuận trong doanh nghiệp thường có ba bộ phận: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường. Trong ba bộ phận kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh là bộ phận lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn nhất. Trong khi đó, khác với nhóm doanh nghiệp thông thường cơ cấu lợi nhuận của các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hàng chỉ gồm 2 bộ phận là lợi nhuận từ hoạt động trên lĩnh vực tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường.ở các doanh nghiệp này, lợi nhuận từ hoạt động tài chính chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng lợi nhuận đó là do họ thực hiện kinh doanh hàng hoá đặc biệt- kinh doanh tiền tệ nên hoạt động tài chính cũng chính là hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ hai: Trong các môi trường kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp cùng loại có sự khác về tỷ trọng các bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận của mình. Lấy ví dụ là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường cơ cấu tổng lợi nhuận gồm 3 phần.Khi nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ cao hoạt động thị trường tài chính, thị trường chứng khoán diễn ra sôi nổi, hiệu quả thì tất yếu hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng được phát triển. Lúc này, lợi nhuận từ hoạt động tài chính sẽ chiếm một tỷ trọng đáng kể, không kém gì lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại khi nền kinh tế thị trường ở trình độ thấp, hoạt động thị trường tài chính và hoạt động thị trường chứng khoán chưa phát triển, hoạt động tài chính sẽ rất hạn chế. Doanh nghiệp không có cơ sở đầu tư tài chính thậm chí không có khả năng về vốn để thực hiện hoạt động đầu tư đó. Vì vậy, lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận doanh nghiệp, đóng vai trò quyết định đến mọi hoạt động doanh nghiệp.
Tóm lại, cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp thông thường gồm 3 bộ phận: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Nhìn chung, lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh (đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng là lợi nhuận từ hoạt động tài chính) luôn chiếm tỷ trọng lớn và quyết định trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều này cho ta một định hướng rõ nét khi phân tích lợi nhuận của doanh nghiệp.
Về nguyên tắc khi phân tích lợi nhuận của doanh nghiệp, cần phải phân tích các bộ phận cấu thành nên tổng lợi nhuận. Nhưng trong thực tế đôi khi nguyên tắc đó có thể thay đổi. Đó là khi phân tích lợi nhuận doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong một nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp còn rất hạn chế, còn lợi nhuận từ hoạt động bất thường chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ như bản chất của nó. Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động chủ đạo và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận cơ bản trong tổng lợi nhuận. Trong điều kiện đó sẽ thiết thực khi ta tiến hành phân tích lợi nhuận doanh nghiệp chủ yếu dựa trên bộ phận lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó chính là lý do lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh được quan tâm hơn trong đề tài này.
2.1.2. Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp thu được từ ba hoạt động bao gồm: Hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường. Vì vậy lợi nhuận doanh nghiệp đựoc tính như sau:
Lợi nhuận doanh nghiệp = Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh + lợi nhuận hoạt động tài chính + lợi nhuận hoạt động bất thường.
- Xác định lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh:
Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ của các ngành sản xuất kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ trong doanh nghiệp.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh được xác định bằng công thức sau:
LN = S QiPi – ( QiZi + Qi*CPi + QiTi)
Trong đó:
LN: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Qi: Khối lượng sản phẩm hàng hóa tiêu thụ thứ của sản phẩm thứ i.
Pi: Giá bán đơn vị của sản phẩm thứ i.
Zi: Giá thành hay giá vốn hàng bán thứ của sản phẩm thứ i.
CPi: Chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng của sản phẩm thứ i.
Ti: Thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế VAT của sản phẩm thứ i.
Như vậy, bộ phận lợi nhuận này được xác định là chênh lệch giữa doanh thu thuần với tổng chi phí tương ứng với số sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã tiêu thụ.
Lợi nhuận hoạt động = Doanh thu thuần – Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh
Xác định doanh thu thuần.
Doanh thu thuần = Tổng doanh thu –các khoản giảm trừ chi phí
=tổng doanh thu – chiết khấu giảm giá bán hàng – hàng bán bị trả lại – thuế phải nộp.
Trong đó :
+Doanh thu thuần : là chênh lệch giữa tổng doanh thu và các khoản trừ doanh thu.
+Tổng doanh thu (doanh thu bán hàng): là tổng giá trị được thực hiện do việc bán sản phẩm, hàng hoá, cung cấp, lao vụ, dịch vụ cho khách hàng. Thời điểm để xác định doanh thu là từ khi người mua chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc vào việc tiền đã thanh toán hay chưa.
+ Các khoản giảm trừ doanh thu gồm:
Chiết khấu bán hàng: là số tiền thưởng tính trên tổng số doanh thu trả cho khách hàng do đã thanh toán tiền hàng trước thời hạn quy định.
Giảm giá hàng bán: là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách …. Ngoài ra còn bao gồm khoản thưởng cho khách hàng do trong một khoảng thời gian nhất định đã tiến hành mua một khối lượng hàng lớn hoặc giảm trừ cho khách hàng mua khối lượng hàng hoá trong một đợt.
Hàng bán bị trả lại: là số hàng đã được coi là tiêu thụ (đã chuyển giao quyền sở hữu, đã thu tiền hay được người mua chấp nhận thanh toán) nhưng bị người mua từ chối trả lại do người bán không tôn trọng hợp đồng kinh tế đã ký kết.
Các khoản thuế phải nộp như: VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu….
Xác định chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chi phí tương ứng với lượng hàng hoá, lao vụ, dịch vụ cung cấp cho khách hàng trong một thời kỳ ( tương ứng với kỳ tính doanh thu) được xác định bằng công thức:
Chi phí sản xuất kinh doanh doanh nghiệp = Giá vốn hàng bán + Chi phí quản lý doanh nghiệp + Chi phí bán hàng.
Trong đó:
+ Giá vốn hàng bán được xác định như sau:
Đối với doanh nghiệp sản xuất:
Giá vốn hàng bán = Giá vốn hàng mua +Chênh lệch hàng hoá tồn kho.
Chênh lệch hàng tồn kho = Hàng hoá tồn kho đầu kỳ – Hàng hoá tồn kho cuối kỳ.
Giá thành sản xuất bao gồm 3 yếu tố chi phí: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
+ Chi phí bán hàng: là những khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, lao vụ, dịch vụ trong kỳ như chi phí nhân viên bán hàng, chi phí dịch vụ bán hàng, chi phí quảng cáo…
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: là những khoản chi phí phát sinh co liên quan chung đến toàn bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất kỳ một hoạt động nào như chi phí quản lý kinh doanh,quản lý hành chính và chi phí chung khác.
Tóm lại:
Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh = Tổng doanh thu
- Chiết khấu bán hàng – Giảm giá hàng bán
- Hàng bán bị trả lại- Thuế gián thu
- Giá vốn hàng bán- Chi phí quản lý
- doanh nghiệp – Chi phí bán hàng.
= Doanh thu thuần
- Giá vốn hàng bán- Chi phí quản lý
doanh nghiệp – Chi phí bán hàng.
= Lãi gộp
– Chi phí quản lý doanh nghiệp – Chi phí bán hàng.
Như vậy, để xác định lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải căn cứ vào toàn bộ số liệu kế toán của kỳ sản xuất.Mặc dù những khái niệm và công thức trên rất đơn giản nhưng trong thực tiễn để đảm bảo cho việc tính toán được chính xác thì lại rất phức tạp.
- Xác định lợi nhuận từ hoạt động tài chính:
Lợi nhuận thu được từ hoạt động tài chính: là lợi nhuận thu được từ các hoạt động tài chính như lợi nhuận do tham gia góp vốn liên doanh, do hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn, cho thuê tài sản, cho vay vốn, bán ngoại tệ…
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định là chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính.
Lợi nhuận hoạt động tài chính = Thu nhập hoạt động tài chính – Chi phí hoạt động tài chính.
Trong đó:
+ Thu nhập hoạt động tài chính là những khoản thu do hoạt động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn đưa lại.
+ Chi phí hoạt động tài chính: là những chi phí cho các hoạt động đầu tư tài chính và các chi phí liên quan đến các hoạt động về vốn như lỗ liên doanh, lỗ do kinh doanh chứng khoán.
- Xác định lợi nhuận từ hoạt động bất thường.
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường là những khoản thu được từ các hoạt động xảy ra ngoài dự kiến của doanh nghiệp như lợi nhuận thu được từ thanh lý, nhượng bán tài sảncố định, từ các khoản nợ khó đòi đã xoá sổ nay thu lại được…
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường được xác định là chênh lệch giữa thu nhập hoạt động bất thường và chi phí hoạt động bất thường
Lợi nhuận hoạt động bất thường = Thu nhập hoạt động bất thường – Chi phí hoạt động bất thường.
Trong đó
+ Thu nhập hoạt động bất thường là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc những khoản thu không xảy ra một cách thường xyuên như thu tiền phạt do vi phạm hợp đồng, thu được từ các khoản nợ khó đòi, thu về do thanh lý, nhượng bán tài sản cố định…
+ Chi phí hoạt động bất thường là những khoản chi do các nghiệp vụ riêng biệt với những hoạt động thông thường của doanh nghiệp đem lại như chi phạt thuế, truy nộp thuế, bị phạt tiền do vi phạm hợp đồng, chi cho thanh lý, nhượng bán tài sản cố định…
Tóm lại, việc xác định lợi nhuận doanh nghiệp phải xuất phát từ việc xác định các bộ phận cấu thành lợi nhuận. Cách xác định lợi nhuận như trên là đơn giản, dễ tính vì thế nó được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp. Tuy vậy đối với những doanh nghiệp sản xuất nhiều mặt hàng thì khối lượng công việc sẽ rất lớn. Tập hợp chi phí chung và phân bổ chúng cho các đối tượng thích hợp là công việc khó khăn nhất trong việc xác định lợi nhuận. Nó đòi hỏi sự phản ánh chính xác, trung thực mới không bị sai lệch.
2.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp.
Lợi nhuận là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vậy nó chịu ảnh hưởng của tất cả các khâu trong quá trình này. Vì thế, để có thể “ tối đa hoá lợi nhuận”, điều tất yếu là doanh nghiệp phải xem xét, đánh giá các yếu tố tác động tới nó, nhằm khuyến khích, phát triển các yếu tố tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực.
Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp.
- Quan hệ cung- cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường
Doanh nghiệp nào cũng phải hoạt động trong một môi trường nhất định nên yếu tố đầu tiên tác động tới doanh nghiệp nói chung cũng như hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nói riêng chính là thị trường với các mối quan hệ của nó. Thị trường trả lời cho doanh nghiệp ba câu hỏi lớn: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Trên cơ sở đó, doanh nghiệp lựa chọn sản phẩm mà thị trường cần, tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, mới bỏ ra chi phí và thu về doanh thu.
Thị trường là một quá trình mà trong đó người mua và người bán hàng hoá tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá. Như vậy, nói đến thị trường và cơ chế thị trường trước hết phải nói đến hàng hoá, người mua, người bán.
Cung cầu hàng hóa là khái quát của hai lực lượng người mua và người bán trên thị trường. Khi nói đến cung, cầu hàng hóa, dịch vụ ở đây là chúng ta nói đến cung có khả năng đáp ứng và cầu có khả năng thanh toán.
Chính nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ trên thị trường sẽ quyết định lượng cung ứng của doanh nghiệp. Khi cầu có khả năng thanh toán của xã hội đối với sản phẩm của doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp sẽ bán được nhiều sản phẩm với mức giá có xu hướng tăng, nên thu được nhiều lợi nhuận. Ngược lại, khi nhu cầu này giảm xuống lượng sản phẩm tiêu thụ giảm đi, mức lợi nhuận của doanh nghiệp cũng sẽ giảm xuống. Như vậy, quan hệ cung cầu có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
-Doanh thu.
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, doanh thu có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận: Doanh thu tăng, lợi nhuận tăng và ngược lại. Đồng thời, lợi nhuận cũng chịu sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu như sau:
+ Khối lượng sản phẩm tiêu thụ.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khối lượng sản phẩm tiêu thụ có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận doanh nghiệp. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng, lợi nhuận tăng và khi khối lượng sản phẩm tiêu thụ giảm, lợi nhuận giảm. Đây được coi là yếu tố chủ quan tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, việc ký kết hợp đồng tiêu thụ, việc vận chuyển giao hàng, thu tiền hàng… Khối lượng tiêu thụ tăng phản ánh những nỗ lực của doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ.
+ Thuế gián thu.
Đây là khoản nộp có tích chất nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước. Mặc dù là thuế đánh vào người tiêu dùng nhưng nó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì thế, khi bước vào hoạt động kinh doanh đối với mặt hàng hay một nhóm hàng nào đó, ngoài việc tính toán các chi phí nguyên vật liệu sẽ tiêu hao, chi phí trả lương cho người lao động thì doanh nghiệp phải tính là phải nộp bao nhiêu tiền thuế về loài mặt hàng đó. Bởi mặc dù thuế là một khoản chi phí ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp phải luôn thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình theo nguyên tắc nộp đúng, nộp đủ và nộp kịp thời.
+ Hàng bán bị trả lại:
Hàng bán bị trả lại làm giảm lợi nhuận doanh n._.ghiệp, phản ánh sự yếu kém của doanh nghiệp trong việc quản lý chất lượng và tổ chức công tác tiêu thụ. Bởi vậy, doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao, đầu tư sản xuất nhằm tránh trường hợp này.
Các yếu tố bên trong ảnh hưởng đến lợi nhuận.
- Chi phí.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, chi phí và lợi nhuận có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau: chi phí tăng, lợi nhuận giảm và ngược lại.
+ Giá vốn hàng bán.
Giá vốn hàng bán là một trong những yếu tố quan trọng, chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí sản xuất, thu mua liên quan đến hàng tiêu thụ sẽ làm cho lợi nhuận tăng lên và ngược lại. Yếu tố này chịu ảnh hưởng của nhiều tác động khác như công tác quản lý, sử dụng vật tư, tiền vốn, lao động… nên doanh nghiệp cần có các biện pháp thích hợp để giảm chi phí, quản lý tốt nguồn sử dụng.
+ Chi phí bán hàng.
Chi phí bán hàng là toàn bộ các khoản chi liên quan đến hoạt động tiêu thụ như tiền lương nhân viên bán hàng, chi vật liệu bao gói, chi dụng cụ bán hàng, chi quảng cáo, chi vận chuyển, bốc dỡ, hao hồng.. những khoản chi này phát sinh sẽ làm giảm lợi nhuận. Bởi vậy, cần xem xét để đánh giá tính hợp lý của từng khoản chi.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp.
Chi phí quản lý doanh nghiệp thường là những chi phí cố định, ít biến đổi theo quy mô kinh doanh. Đây cũng là những chi phí phát sinh làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trên đây là những nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến lợi nhuận doanh nghiệp. Trên thực tế ở mỗi doanh nghiệp mức độ ảnh hưởng các nhân tố là khác nhau. Các doanh nghiệp cần dựa trên thực tế doanh nghiệp mình để đánh giá, phân tích các nhân tố nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình, cũng là không ngừng nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp.
- Giá bán sản phẩm.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, đây là yếu tố có quan hệ cùng chiều với lợi nhuận: giá bán tăng thì lợi nhuận tăng và ngược lại. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là khi nhu cầu tăng lên hay giảm xuống doanh nghiệp nên đưa ra mức giá nào cho phù hợp? Giá cao, thu lợi nhuận nhiều thì sau một thời gian khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ giảm bớt. Giá thấp thì lợi nhuận thu được ít. Vì vậy, doanh nghiệp cần xây dựng một chính sách giá cả hợp lý nhằm đáp ứng được các mục tiêu trong từng giai đoạn nhất định.
- Kết cấu sản phẩm tiêu thụ.
Mỗi loại mặt hàng do doanh nghiệp sản xuất có mức lỗ lãi khác nhau bởi chúng có doanh thu và chi phí khác nhau. Vì thế khi các yếu tố không thay đổi thì sự biến đổi của kết cấu mặt hàng tiêu thụ sẽ có ảnh hưởng đến doanh thu và sự tăng giảm lợi nhuận. Trong thực tế, nếu tăng tỷ trọng bán ra của những mặt hàng có lợi nhuận cao, đồng thời giảm tỷ trọng những mặt hàng có lợi nhuận thấp thì tổng lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tăng lên. Việc thay đổi kết cấu tiêu thụ trước hết là do tác động của thị trường. Do vậy nhà quản lý cần đi sâu tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu thị trường để có những biện pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng thêm lợi nhuận doanh nghiệp.
Chương 2
Thực trạng về việc nâng cao lợi nhuận của công ty may xuất khẩu Phương Mai trong những năm gần đây
Giới thiệu về công ty
Khái quát quá trình hình thành và phát triển của công ty may xuất khẩu Phương Mai.
Công ty may xuất khẩu Phương Mai thuộc Tổng Công ty Xây dựng và Phát triển nông thôn-Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Điện thoại: 8523373-8525054
FAX: 844524492
Công ty được thành lập theo Quyết định 02 NN-TCCB/QĐ ngày 02/10/1990 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc thành lập xí nghiệp may xuất khẩu.
Xí nghiệp nằm ngay ven sông Lữ thuộc khu D phường Phương Mai- Quận Đống Đa- Hà Nội, có tổng diện tích mặt bằng là: 3.200m2.
Phía Đông Nam là sông Lữ
Phía Đông Bắc giáp khu nhà dân
Phía Tây Nam giáp với Công ty xây lắp và vật tư xây dựng
Với nhiệm vụ chủ yếu của xí nghiệp là sản xuất quần áo BHLĐ và may quần áo xuất khẩu.
Cơ sở ban đầu của xí nghiệp gồm một dãy nhà kho khung Tiệp, một dãy nhà kho cấp 4 đã hỏng nát cùng với một số thiết bị máy móc cơ bản như: máy khâu, bàn là, máy chữ Đức, két sắt...
Trong quá trình hoạt động xí nghiệp được đầu tư cải tạo lại nhà kho thành một xưởng sản xuất gồm hai tầng.Tầng 1 dùng làm kho chứa nguyên liệu, thành phẩm. Tầng 2 làm phân xưởng sản xuất và xây dựng thêm 1 dãy nhà tầng mới.
Ngoài ra máy móc thiết bị cũng được mua sắm thêm, cụ thể là năm 1997 xí nghiệp mua thêm 50 máy may cùng với những phụ liệu và thiết bị điện.
Sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu tan rã, xí nghiệp may xuất khẩu Phương Mai đã gặp rất nhiều khó khăn do phần lớn các hợp đồng xuất khẩu là nằm ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Trong bối cảnh đó xí nghiệp đã tổ chức lại bộ máy quản lý, sắp xếp lại tổ chức sản xuất, đổi mới phương thức hoạt động và mua sắm thêm máy móc thiết bị, mở rộng thị trường tiêu thụ. Nhờ vậy xí nghiệp đã có thêm khách hàng mới và bước đầu chính thức ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng như: Nam Triều Tiên, áo, Bỉ....
Đầu năm 1992, xí nghiệp ký hợp đồng với Nhật Bản và đến quý 2/1992 đã chuyển giao chuyến hàng đầu tiên cho Nhật Bản đúng thời hạn và đạt chất lượng yêu cầu. Phải nói rằng, đây là một trong những thành công trong qúa trình tạo lập và tìm kiếm thị trường của xí nghiệp. Sau hợp đồng với Nhật Bản, khách hàng trong và ngoài nước đến quan hệ và tham quan, đặt hàng của xí nghiệp ngày một đông hơn.
Đến tháng 3/1993, Nhà nước sắp xếp lại sản xuất theo Nghị định số 338-HĐBT/QĐ ngày 24/3/1993- đổi tên xí nghiệp thành công ty may xuất khẩu Phương Mai. Địa điểm hiện nay của công ty thuộc phường Phương Mai – quận Đống Đa – thành phố Hà Nội.
Trong quá trình hoạt động công ty đã đầu tư, cải tạo lại nhà kho thành một xưởng sản xuất hai tầng. Tầng một được dùng làm nhà kho chứa nguyên vật liệu và thành phẩm. Tầng hai làm phân xưởng sản xuất. Bên cạnh đó, máy móc thiết bị cũng được mua sắm, bổ sung thêm. Năm 1997, công ty đã mua thêm 50 máy may công nghiệp Textima cùng những phụ liệu và thiết bị điện lắp cho dàn máy trị giá gần 65 triệu VNĐ. Đầu năm 1998, công ty đã đầu tư một dây chuyền máy khâu Tây Đức hiện đại cùng 100 bàn là treo Nam Triều Tiên.
Là một doanh nghiệp có cơ sở vật chất tương đối tốt, đội ngũ lao động và quản lý có chuyên môn, công ty đã dần tạo được uy tín trên thị trường, ký được hợp đồng với nhiều khách hàng như: Triều Tiên, Nhật Bản, Hồng Kông, Singapo, Đức, Bỉ, áo... Đặc biệt đầu năm 1995, công ty đã ký được hợp đồng hợp tác gia công dài hạn với hãng Lasen Hàn Quốc, tạo ra khả năng sản xuất ổn định, giải quyết được công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên của công ty.
Trong qúa trình hoạt động công ty đã không ngừng đầu tư, mua sắm thêm máy móc thiết bị. Do đó máy móc, thiết bị của công ty rất hiện đại.
Là một doanh nghiệp có máy móc hiện đại, dây chuyền sản xuất tương đối đồng bộ, khép kín nên năng suất lao động và giá trị sản lượng ngqày càng tăng. Và chính những yếu tố đó đã tạo cho công ty vững bước hơn khi nước ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á nổ ra đã ảnh hưởng nhiều đến công ty. Song với sự cố gắng của Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ, công nhân viên công ty đoàn kết phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, xây dựng chiến lược mới nhằm đưa công ty ngày càng phát triển. Kết quả là cuối năm 2000 đầu năm 2001 công ty đã có thêm hợp đồng gia công xuất khẩu với hãng Vinex, Flexcal, Venture... để xuất khẩu sản phẩm sang Tiệp Khắc, Đức, Tây Ban Nha, Mỹ…
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng công ty xây dựng và phát triển nông thôn cùng với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên, công ty may xuất khẩu Phương Mai đã đạt được những kết quả khả quan. Đó là nhờ vào một đội ngũ cán bộ công nhân trẻ khoẻ đã được đào tạo khá cơ bản, hệ thống máy móc thiết bị tương đối hiện đại cũng như sự giúp đỡ, ủng hộ của Tổng công ty. Tuy nhiên những khó khăn mà công ty phải đối mặt cũng không phải là ít như diện tích mặt bằng nhà xưởng còn chật hẹp, chưa đáp ứng được nhu cầu vệ sinh công nghiệp, vốn lưu động thiếu phải thường xuyên đi vay…
Chính vì vậy, công ty cần có những biện pháp cụ thể để khắc phục khó khăn tồn tại, không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng lợi nhuận, khẳng định sự phát triển đi lên trong cơ chế thị trường.
1.2. Đặc điểm kinh tế – kỹ thuật ảnh hưởng đến việc nâng cao lợi nhuận.
1.2.1. Bộ máy quản lý.
Trong quá trình xây dựng và phát triển để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả tốt, công ty đã từng bước kiện toàn bộ máy quản lý cho phù hợp.
Hình1.1: Sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty may xuất khẩu Phương Mai
Giám đốc
Phó giám đốc
Phòng
Bảo
Vệ
Phòng
Kỹ
Thuật
Phòng
Thiết
bị
Phòng
Kế
Toán
Phòng
Kế
Hoạch
Phòng
Tổ
Chức
Ban lãnh đạo công ty gồm:
Giám đốc: trực tiếp phụ trách một số phòng ban chính, quản lý giám sát mọi hoạt động của công ty, chịu tránh nhiệm trước Nhà nước và Tổng công ty về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cũng như việc chấp hành luật hiện hành.
Phó giám đốc: phụ trách sản xuất và kinh doanh trợ giúp giám đốc trong việc điều hành công ty.
Ngoài ra, công ty còn có các phòng ban sau:
Phòng kế toán : có nhiệm vụ quản lý tiền, phân tích toàn bộ tình hình kiểm tra giám sát việc thực hiện công tác kế toán tài chính theo đúng quy định của Nhà nước và Tổng công ty ngoài ra còn có nhiệm vụ ghi chép, tính toán, tổng hợp, phản ánh trung thực về tình hình hiện có cũng như sự biến động của nguồn vốn và tài sản của doanh nghiệp trong mỗi kỳ hách toán. Đồng thời, tham mưu cho Giám đốc trong lĩnh vực tài chính, kế hoạch thu nộp ngân sách và kế hoạch sử dụng vật tư tiền vốn.
Phòng kỹ thuật: triển khai thực hiện các đơn đặt hàng, dán mẫu lên bảng phân phối mẫu cho từng mẫu hàng, tham mưu xây dựng quy trình công nghệ bảo đảm yêu cầu kỹ thuật cho từng mẫu hàng cụ thể. Tham gia với các tổ sản xuất để thiết kế, bố trí sắp xếp dây chuyền sản xuất phù hợp với từng mã hàng, quản lý thiết bị, đề xuất các giải pháp kỹ thuật trong sản xuất.
Phòng kế hoạch sản xuất: Có nhiệm vụ xây dựng các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn cho sản xuất, điều hành sản xuất theo kế hoạch được thông qua và hợp đồng sản xuất đã ký, tiếp nhận và cung ứng vật tư phục vụ cho sản xuất. Ngoài ra còn xây dựng phương án sản xuất kinh doanh của công ty, điều độ, bố trí cân đối sản xuất giữa các xí nghiệp may.
Phòng tổng hợp: Có nhiệm vụ giúp giám đốc trong công tác tổ chức lao động, tiền lương, tổ chức bộ máy quản lý sản xuất, triển khai nhiệm vụ của công ty đến các bộ phận khác. Bên cạnh đó thực hiện công việc hành chính tiếp tân quản lý phương tiện vật tư, truyền tin y tế.
Phòng thiết bị: Có nhiệm vụ thực hiện việc lắp đặt, sửa chữa bảo dưỡng máy móc, thiết bị đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục. Quản lý toàn bộ máy móc thiết bị, lập kế hoạch cung ứng thiết bị, sửa chữa bảo dưỡng và thay thế các máy móc thiết bị.
Phòng bảo vệ: Có nhiệm vụ bảo đảm an ninh và an toàn trong nhà máy.
1.2.2. Lĩnh vực kinh doanh.
Công ty may xuất khẩu Phương Mai là công ty thành viên của Tổng công ty xây dựng và phát triển nông thôn – Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh trên lĩnh vực sản xuất, gia công sản phẩm may mặc trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó công ty còn tham gia kinh doanh sản phẩm, vật tư ngành may mặc dưới hình thức mua vào, bán ra và hưởng chênh lệch. Cụ thể công ty kinh doanh kinh doanh trên 4 lĩnh vực sau:
Sản xuất hàng xuất khẩu: là những mặt hàng mà công ty sản xuất để xuất khẩu. Các nguyên phụ liệu công ty có thể tự chọn mua hoặc do khách hàng cung cấp.
Gia công hàng xuất khẩu: là những mặt hàng mà công ty được bạn hàng thuê gia công để xuất khẩu. Nguyên vật liệu do khách hàng cung cấp.
Kinh doanh vật tư ngành may mặc như vải, sợi, chăn, màn, quần áo may mặc….
Sản xuất để tiêu thụ trong nước bao gồm các loại.
Các sản phẩm chủ yếu mà công ty đã sản xuất các sản phẩm cùng với giá cả phù hợp có thể cạnh tranh được với các cơ sở sản xuất khác.
Các sản phẩm của công ty đã sản xuất:
1. áo Jackét 3 lớp . 4. Quần thể thao.
2. áo Jackét 2 lớp . 5. Váy hoa ngắn.
3. áo gió 1 lớp . 6. Váy hoa dài.
Để thực hiện hoạt động của mình công ty đã xây dựng được cơ cấu tổ chức sản xuất.
Cơ cấu tổ chức sản xuất.
Xưởng sản xuất của công ty được phân chia làm 4 phân xưởng, các phân xưởng đều có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một dâychuyền công nghệ khép kín để sản xuất sản phẩm theo hình thức đơn chiếc hay hàng loạt theo nhu cầu thị trường.
Phân xưởng 1: thường đảm nhiệm về may quần áo bảo hộ.
Phân xưởng 2,3: thường may hàng gia công xuất khẩu.
Phân xưởng 4 : phân xưởng thêu.
Công ty
Phân xưởng may 4
Phân xưởng may 3
Phân xưởng may 2
Phân xưởng thêu 1
1.2.4. Công tác kế toán.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất và phục vụ cho việc chỉ đạo tập trung của ban giám đốc, bộ máy kế toán của công ty được tổ chức theo hình thức tập trung.
Toàn bộ công tác kế toán được thực hiện tập trung tại phòng kế toán, từ khâu ghi chép ban đầu đến khâu tổng hợp, lập báo cáo và kiểm tra kế toán.
Bộ máy kế toán của công ty được tổ chức gọn nhẹ, phù hợp với tình hình thực tế của công ty. Phòng kế toán của công ty được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc công ty. Các nhân viên kế toán chịu sự lãnh đạo trực tiếp của kế toán trưởng và được tổ chức như sau:
Kế toán trưởng kiêm trưởng phòng
Kế toán nhập xuất thành phẩm, thanh toán lương và bảo hiểm
Kế toán thu chi
Thủ quỹ
Kế toán tài sản cố định và xây dựng cơ bản
Kế toán trưởng kiêm trưởng phòng kế toán chịu trách nhiệm trước giám đốc và cơ quan tài chính cấp trên về các vấn đề liên quan đến tài chính của công ty, tổ chức hoạt động huy động vốn, chỉ đạo chuyên môn các nhân viên kế toán trong phòng. Kế toán trưởng là người điều hành, phụ trách công tác kế toán trong công ty và là người giúp việc cho giám đốc về công tác chuyên môn. Ngoài ra, kế toán trưởng còn là người chịu tráhc nhiệm thanh toán các hợp đồng xuất nhập khẩu, tổng hợp số liệu và báo cáo.
Một kế toán viên theo dõi vấn đề nhập xuất thành phẩm, thanh toán lương và bảo hiểm xã hội.
Một kế toán viên theo dõi các khoản vốn vay, tiền gửi ngân hàng, các khoản thu chi hàng ngày của công ty phát sinh bằng tiền mặt và séc.
Một kế toán viên theo dõi tài sản cố định và xây dựng cơ bản, phản ánh số liệu hiện có, tình hình tăng giảm tài sản cố định.
Thủ quỹ có nhiệm vụ thu- chi và bảo quản tiền mặt trong công ty, thông báo thường xuyên tình hình thu – chi đảm bảo đúng chế độ thanh toán và thu chi.
Chế độ kế toán áp dụng trong doanh nghiệp.
Niên độ kế toán áp dụng từ ngày 1/1 đến ngày 31/12.
Đơn vị tiền tệ sử dụng trong ghi chép kế toán: đồng Việt Nam.
Nguyên tắc, phương pháp chuyển đổi các đồng tiền khác: theo tỷ giá ngân hàng Ngoại thương.
Hình thức sổ kế toán áp dụng: chứng từ ghi sổ.
Các nguyên tác đánh giá tài sản.
Phương pháp khấu hao áp dụng: phương pháp khấu hao bình quân.
Phương pháp kế toán hàng tồn kho: phản ánh theo giá trị thực tế.
Phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho: phương pháp kê khai thường xuyên.
Phương pháp tính các khoản dự phòng, tình hình trích lập và hoàn nhập dự phòng: theo phương pháp công khai nhất quán.
1.2.5. Đặc điểm về lao động.
Kể từ khi nền kinh tế có sự chuyển dịch từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, công ty đã có những chính sách nhằm thay đổi, nâng cao trình độ của cán bộ quản lý và tay nghề của công nhân lao động nhằm phù hợp với điều kiện kinh doanh mới. Hiện nay đội ngũ CBCNV của công ty như sau:
Tổng số lao động: 170 người (trong đó nữ chiếm 82%).
Tuổi đời bình quân: 22:35 tuổi
Cán bộ quản lý: 21 người (10 người trình độ đại học chiếm 40%, còn lại là trình độ cao đẳng và trung cấp) chiếm 12,35%.
Lực lượng lao động trực tiếp 149 người chiếm 87,64%.
1.2.6.Đặc điểm về tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật.
Bảng 1: Tình hình tài sản năm 2001.
Chỉ tiêu. nhóm TSCĐ
Thiết bị
Nhà cửa vật kiến trúc
Tổng cộng
Nguyên giá
2.107.039.841
706.431.399
2.813.453.240
Giá trị còn lại
737.518.657
406.215.814
1.143.734.471
Tỷ lệ từng loại TSCĐ theo giá trị còn lại
64,48%
35,52%
100%
Nguồn: Công ty may xuất khẩu Phương Mai.
Qua bảng trên, ta thấy tỷ lệ kết cấu giữa nhà cửa và máy móc thiết bị của công ty tương đối hợp lý. Là một doanh nghiệp sản xuất nên tỷ lệ máy móc thiết bị chiếm 64,48% trong tổng số tài sản, điều này làm hạn chế sự tăng lợi nhuận của doanh nghiệp và làm tăng khoản tiền khấu hao hàng năm. Một cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối tốt sẽ là cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát triển.
Ta đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định của công ty thông qua chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định = DTT/ Giá trị TSCĐ.
Năm 2000 hiệu suất = 15,475.
Năm 2001 hiệu suất = 16,883.
Hiệu suất tăng chứng tỏ tài sản cố định của công ty năm 2001 được sử dụng nhiều hơn, hiệu quả hơn. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu suất tăng chứng tỏ hoạt động sản xuất cũng tăng.
1.2.7.Đặc điểm về vốn.
Tính đến năm 2001 thì công ty có tổng vốn: 1.563.589.805 đồng.
Trong đó:
Vốn cố định: 1.023.532.981 đồng.
NSNN cấp: 93.093.323 đồng.
Công ty tự bổ sung: 930.439.658 đồng.
Vốn lưu động: 540.056.824 đồng (NSNN cấp).
Công ty có đặc điểm là sản xuất hàng may mặc và bảo hộ lao động (ít), nguyên vật liệu chủ yếu là do các chủ hàng cung cấp bảo đảm thường xuyên. vì vậy nguyên vật liệu dự trữ rất ít, do đó công ty thường gặp khó khăn về vốn lưu động. Bởi công ty thường ký hợp đồng là sau hai tháng xuất hàng mới nhận được tiền của người mua nên công ty phải vay ngắn hạn của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đây là yếu tố làm giảm lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp. Tuy nhiên có sự cải tiến về khoa học kỹ thuật, có sự nâng cấp cả về chiều rộng và chiều sâu trong sản xuất kinh doanh nên công ty đã chiếm được sự tín nhiệm của bạn hàng, có chỗ đứng ở thị trường trong nước và quốc tế.
1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh trong vài năm gần đây.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty may xuất khẩu Phương Mai được khái quát qua bảng sau:
Bảng 2: Khái quát kết quả kinh doanh của công ty.
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Biếnđộng 2000/1999
Biếnđộng 2001/2000
Mức
Tỷlệ %
Mức
Tỷlệ %
Tổng doanh thu
21791,32
20907
22586
-884,32
95,94
1679
108,03
Doanh thu thuần từ hoạt động kinh doanh
21635,05
20716,43
22983,1
-918,62
95,75
2266,67
110,94
Tổng lợi nhuận trước thuế
375,84
316,21
390,58
-59,63
84,13
74,37
123,52
Tổng lợi nhuận sau thuế
255,5712
215,0228
265,5944
-41,5484
84,13
50,5716
123,52
Thu nhập bình quân (đồng/tháng/người)
825000
815000
900000
-10000
098,79
85000
110,43
Nguồn: Công ty may xuất khẩu Phương Mai.
Từ bảng 2 ta thấy hoạt động của công ty có sự chênh lệch.
Chênh lệch lợi nhuận sau thuế:
Lợi nhuận2000 – Lợi nhuận1999 = 215,0228-255,5712=-41,5484
( triệu đồng).
Lợi nhuận 2001 – Lợi nhuận 2000 = 265,5944-215,0228=50,5716 (triệu đồng).
Chênh lệch mức thu nhập bình quân:
Thu nhập 2000 – Thu nhập 1999 = 815.000 –825000=-10000( đồng).
Thu nhập 2001 – Thu nhập 2000 = 900.000 – 815.000 = 85.000 (đồng)
Như vậy nhìn vào bảng 2 ta thấy: lợi nhuận sau thuế hoạt động kinh doanh của công ty năm 2000 giảm đi so với năm 1999 là - 21,3125 triệu đồng thế nhưng năm 2001 đã có bước tăng mạnh vượt qua cả năm 1999.
1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình tài chính của công ty.
Tỷ trọng TSCĐ/TổngTS tăng lên chứng tỏ công ty mua sắm, đầu tư thêm máy móc, thiết bị. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, hệ thống dây chuyền công nghệ hiện đại, tiến tiến là một trong những ưu thế lớn khi cạnh tranh, bởi vậy việc đầu tư cho tài sản cố định là cần thiết.
Năm 2000 nguồn vốn là 1.408.668.903 đồng so với năm 2001 có nguồn vốn là 1.563.589.805 đồng thì chênh lệch nguồn vốn giữa hai năm là:
DV = 1.563.589.805-1.408.668.903= 154.920.902 (đồng).
Như vậy nguồn vốn năm 2000 và năm 2001 tăng không nhiều nên tài sản cố định tăng tức là tài sản lưu động giảm. Điều này cũng ảnh hưởng đến hoạt động doanh nghiệp.
Về khả năng thanh toán từ bảng 3 (dưới) ta thấy:
Tỷ suất thanh toán hiện hành năm 2000 là 103,89% và năm 2001 là 104,41% cả hai năm đều lớn hơn 1, điều này chứng tỏ công ty có khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn.
Còn tỷ suất thanh toán nhanh năm 2001 là 16,5% cũng lớn hơn năm 2000 chỉ đạt 16,16% chứng tỏ khả năng hoàn trả khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ của công ty cũng tăng lên.
Bảng 3: Hệ thống chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính của công ty.
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
I. Bố trí cơ cấu vốn
1. TSCĐ/TổngTS
60,05
66,38
2. TSLĐ/TổngTS
39,95
33,62
II. Tình hình tài chính
1. Vốn chủ sở hữu/Tổng vốn
67,3
69,9
2. Tỷ lệ nợ phải trả/Tổng tài sản
30,8
27,77
3. Khả năng thanh toán
-Thanh toán hiện hành: TSLĐ/nợ ngắn hạn
103,89
104,41
- Thanh toán nhanh: Tiền/ Nợ ngắn hạn
16,16
16,5
Nguồn: Công ty may xuất khẩu Phương Mai.
Tóm lại, tình hình tài chính của công ty may xuất khẩu Phương Mai là tương đối tốt vì so với năm 2000 thì năm 2001 lợi nhuận cũng có sự tăng lên đó là do công ty đã không ngừng mua sắm máy móc thiết bị nên máy móc hiện nay của công ty khá hiện đại và đồng bộ. Cơ sở vật chất của doanh nghiệp tương đối tốt, sản phẩm của doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu thị trường nên giá trị sản lượng tiêu thụ tăng dẫn đến lợi nhuận ngày một tăng lên.Tuy nhiên, tổng vốn hoạt động vẫn nhỏ, cần tăng thêm.
Thực trạng lợi nhuận của công ty may xuất khẩu Phương Mai.
Đánh giá chung tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty trong những năm qua.
Để đánh giá tình hình lợi nhuận của công ty, chúng ta đánh giá sự biến động lợi nhuận của toàn công ty, của từng bộ phận cấu thành lợi nhuận giữa kỳ này so với kỳ trước nhằm thấy khái quát tình hình lợi nhuận và những nguyên nhân ban đầu ảnh hưởng đến tình hình trên.
Để đánh giá có hiệu quả thì khi phân tích ta cần tính và so sánh tỷ lệ biến động của kỳ cần đánh giá so với kỳ gốc trên từng chỉ tiêu. Đồng thời so sánh tình hình biến động của từng chỉ tiêu với tổng doanh thu thuần ( lấy doanh thu thuần làm gốc). Căn cứ vào các bảng báo cáo kết quả kinh doanh ta lập bảng đánh giá.
Bảng 4: Đánh giá chung tình hình lợi nhuận công ty.
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Mức biến động 2000/1999
Mức biến động 2001/2000
Tỷ lệ so với DTT (%)
Số tiền
Tỷlệ %
Số tiền
Tỷlệ %
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Tổng doanh thu
21791,32
20907
22586
-884,32
95,94
1679
108,03
100,72
100,92
98,27
Các khoản giảm trừ
156,27
190,57
-397,1
34,3
121,95
-587,67
0,72
0,92
-1,73
Doanh thu thuần
21635,05
20716,43
22983,1
-918,62
95,75
2266,67
110,94
100,00
100,00
100,00
Giá vốn hàng bán
20321
19545,27
21582
-775,73
96,18
2036,73
110,42
93,93
94,35
93,9
Lợi tức gộp
1314,05
1171,16
1401,1
-142,89
89,13
229,94
119,63
6,07
5,65
6,10
Chi phí KD
1002,7
896,9
1079,5
-105,8
89,45
182,6
120,36
4,63
4,33
4,69
Lợinhuận từ HĐKD
311,35
274,26
321,6
-37,09
88,09
47,34
117,26
1,44
1,32
1,39
Lợi nhuận từ HĐTC
23,67
21,98
25,56
-1,69
92,86
3,58
116,29
0,11
0,11
0,11
Lợi nhuận từ HĐBT
40,82
19,97
43,42
-20,85
48,92
23,45
217,43
0,19
0,10
0,21
Lợinhuận trước thuế
375,84
316,21
390,58
-59,63
84,13
74,37
123,52
1,74
1,53
1,69
Thuế thu nhập
120,2688
101,1872
124,9856
-19,0816
84,13
23,7984
123,52
0,56
0,49
0,54
Lợi nhuận sau thuế
255,5712
215,0228
265,5944
-40,5484
84,13
50,5716
123,52
1,18
1,04
1,16
Nguồn: Phụ biểu báo cáo kết quả kinh doanh.Báo cáo quyết toán năm1999, năm 2000 và năm 2001 – công ty may xuất khẩu Phương Mai.
Như đã trình bày ở chương 1, lợi nhuận doanh nghiệp được cấu tành từ ba bộ phận: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Lợi nhuận sau thuế được xác định bằng tổng lợi nhuận trước thuế trừ thuế thu nhập.
Nhìn vào bảng 4 ở trên ta thấy: Lợi nhuận sau thuế năm 2001 tăng so với năm 2000 một lượng là +50,5716 (triệu đồng) hay đạt 123,52%, còn lợi nhuận sau thuế năm 2000 lại giảm so với năm 1999 là :- 40,5484 (triệu đồng) hay chỉ bằng 84,13% lợi nhuận sau thuế năm 1999. Như vậy, lợi nhuận sau thuế của năm 2001 so với năm 2000 đã tăng cả về mặt lượng cũng như tốc độ so với lợi nhuận sau thuế năm 2000 so với năm 1999. Xét trên tổng thể có thể nói rằng, hoạt động kinh doanh của công ty năm 2001 có bước phát triển tốt.
Tình hình lợi nhuận của công ty được biểu diễn qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: Khái quát lợi nhuận của công ty may xuất khẩu Phương Mai
Nguồn: Phụ biểu báo cáo kết quả kinh doanh. Báo cáo quyết toán năm 1999, 2000,2001- Công ty may xuất khẩu Phương Mai
Nhìn vào biểu đồ 1 ta thấy: Mặc dù năm 2000 lợi nhuận giảm so với năm 1999 nhưng năm 2001 lợi nhuận công ty đã tăng mạnh vượt qua cả mức năm 1999.
Lợi nhuận sau thuế tăng là do :
- Lợi nhuận trước thuế tăng : +74,37 (triệu đồng)
Lợi nhuận trước thuế tăng do:
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh tăng: +47,34 (triệu đồng) hay (117,26%).
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính tăng: 3,58 (triệu đồng) hay (116,29%).
- Lợi nhuận từ hoạt động bất thường tăng: +23,45 (triệu đồng) hay (217,43%).
+74,37 (triệu đồng)
Như vậy, lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh của công ty đều tăng. Vấn đề đặt ra là tìm nguyên nhân để giải thích tại sao tốc độ tăng của lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chỉ lớn hơn của lợi nhuận từ hoạt động tài chính một ít mà thôi và bản thân lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh mặc dù tăng nhiều nhất nhưng thực chất vẫn quá bé trong khi hoạt động sản xuất kinh doanh lại là lĩnh vực chính của công ty. Còn lợi nhuận từ hoạt động bất thường tăng gấp hai lần (217,43%) mà lợi nhuận thu được chủ yếu từ hoạt động thanh lý, nhượng bán tài sản cố định và bán vật tư dư thừa. Thanh lý, nhượng bán tài sản cố định vì công ty đã đầu tư, mua sắm máy móc mới là điều cần thiết. Nhưng bán vật tư thừa thể hiện công tác kế hoạch hoá mua sắm vật tư của doanh nghiệp chưa tốt. Mua với giá cao, bán lại với giá thấp hơn điều này ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty. Vì vậy công ty cần xem xét hoạt động này của mình.
Ta xây dựng biểu đồ thể hiện tỷ trọng của từng bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận trước thuế của công ty.
Có thể khẳng định rằng, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận trước thuế của công ty. Là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đây là một đều hết sức phù hợp với công ty may xuất khẩu Phương Mai. Tuy nhiên, tỷ trọng này hình như đang có xu hướng giảm dần, đây là một điều cần quan tâm.
Biểu đồ 2: Tỷ trọng lợi nhuận thành phần trong tổng lợi nhuận trước thuế.
Lợi nhuận tuyệt đối không phải là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá hiệu quả hoạt động của toàn doanh nghiệp. Để có cái nhìn tổng quan hơn về hiệu quả hoạt động của công ty ta cần tính chỉ tiêu lợi nhuận tương đối là tỷ suất lợi nhuận.
Bảng 5: Hệ thống chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận.
Đơn vị: %.
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
1. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu = LNST/DTT*100%
1,18
1,04
1,16
2. Tỷ suất lợi nhuận vốn = LNST/ Tổng nguồn vốn*100%
5,2
4,83
5,36
3. Tỷ suất lợi nhuận vốn tự có = LNST/Vốn tự có *100%
23,7
20,87
28,55
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 1999,2000,2001 – Công ty may xuất khẩu Phương Mai.
Năm 1999 cứ 100 đồng doanh thu thuần thì thu được 1,18 đồng lợi nhuận. Năm 2000 con số đó giảm xuống chỉ còn 1,04 đồng đến năm 2001 thì con số đó đã tăng lên 1,16 đồng. Mặc dù có sự gia tăng nhưng con số 1,16 đồng vẫn còn thấp nguyên nhân là do các chi phí phát sinh còn lớn, sau đây là sự phân tích cụ thể:
Tỷ suất lợi nhuận vốn và vốn tự có năm 1999 cao hơn năm 2000 chứng tỏ năm 2000 hoạt động công ty có sự giảm sút nhưng đến năm 2001 thì tỷ suất lợi nhuận vốn và vốn tự có không những cao hơn năm 2000 mà còn vượt qua được năm 1999 chứng tỏ năm 2001 hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty tốt hơn.
Như vậy, căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối và chỉ tiêu lợi nhuận tương đối ta có thể khái quát tình hình lợi nhuận của công ty may xuất khẩu Phương Mai như sau: Năm 2000, do công ty có một lượng máy móc thiết bị đã đi vào thời kỳ quá cũ nát nên chất lượng cũng như tiến độ sản xuất ra những mặt hàng xuất khẩu thấp vì vậy việc xuất khẩu rất khó khăn. Do vậy lợi nhuận công ty giảm sút. Năm 2001, công ty công ty đã đầu tư một số trang thiết bị hiện đại, do vậy chất lượng sản phẩm tăng và đã kịp thời gian hợp đồng nên khâu tiêu thụ tốt, lợi nhuận đã được nâng lên, không những đạt mức bằng năm 1999 mà còn vượt so với năm 1999 là: +10,0232 (triệu đồng), tăng so với năm 2000 là: +50,5716 (triệu đồng). Chính vì vậy mà tỷ suất lợi nhuận năm 2001 cũng cao hơn năm 2000.
Tuy nhiên lợi nhuận của công ty năm 2001 có tăng so với năm 2000 nhưng vấn đề đặt ra là tại sao lợi nhuận năm 2001 so với năm 2000 chỉ tăng ở mức như vậy mà không thể lớn hơn? Đó chính là vấn đề mà mọi doanh nghiệp đều quan tâm mà cũng có nghĩa là các nhà doanh nghiệp phải tiến hành phân tích, đánh giá lợi nhuận nhằm tìm ra yếu tố có ảnh hưởng không tốt đến từ đó để có biện pháp khắc phục hoặc hạn chế nhằm giảm thiểu sự tác động của nó tới lợi nhuận để thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình.
Như đã phân tích ở trên, lợi nhuận sau thuế của công ty năm 2001 so với năm 2000 tăng là: 50,5716 (triệu đồng) do lợi nhuận trước thuế tăng: 74,37 (triệu đồng) . Vấn đề cần xem xét ở đây là tìm nguyên nhân lý giải tại sao lợi nhuận trước thuế chỉ tăng ở mức như vậy.
Lợi nhuận trước thuế được hình thành từ ba bộ phận, đó là: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Tuy nhiên, bài viết này chỉ đi sâu phân tích lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.2.1.Đánh giá chung tình hình thực hiện lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm lao vụ, dịch vụ của hoạt động sản xuất kin._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0204.doc