Biện pháp đầy mạnh quá trình Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước

Lời mở đầu Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước là một trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Thực tiễn hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hàng chục năm qua cho thấy mặc dù Doanh nghiệp nhà nước được giao phó vai trò chủ đạo song hoạt động của chúng có nhiều điểm bất cập. Doanh nghiệp nhà nước chiếm phần vốn đầu tư chủ yếu từ ngân sách. Đội ngũ cán bộ có đào tạo, cán bộ quản lý có năng lực cũng tập trung chủ yếu trong các D

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1435 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện pháp đầy mạnh quá trình Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh nghiệp nhà nước. Các Doanh nghiệp nhà nước chiếm lĩnh những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như dầu khí, vận tải, bưu chính, điện, khai khoáng và nhiều ngành, lĩnh vực khác như bảo hiểm, ngân hàng… Tuy nhiên, với nhiều thế mạnh như vậy song Doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thực sự phát huy tốt vai trò của nòng cốt của chúng trong việc làm cho kinh tế Nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo. Đa số các Doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, gây thất thoát tài sản của Nhà nước một cách nghiêm trọng. Những vụ tham nhũng điển hình đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến Doanh nghiệp nhà nước. Chính vì vậy, từ trước đến nay, vấn đề sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước để loại hình doanh nghiệp này trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng. Sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước càng trở nên cấp bách khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Một trong những giải pháp đổi mới Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện có hiệu quả và mang lại nhiều thay đổi triệt để trong cấu trúc tổ chức và hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước là cổ phần hoá. Cổ phần hoá được bắt đầu triển khai cách đây 15 năm với những bước đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai rộng khắp trên cả nước. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, cổ phần hoá vẫn chưa mang lại những kết quả mong muốn. Mặc dù hoạt động của các Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá đã chứng tỏ tác dụng to lớn của nó song thực tế số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá ít hơn nhiều so với yêu cầu đặt ra. Chính vì vậy, việc nghiên cứu cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, tìm được những hạn chế của nó, để đưa ra các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là việc làm cần thiết. Đó cũng chính là lý do mà em chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá trong một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu môn học Kinh tế chính trị với mong muốn sẽ hiểu hơn về tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Từ đó thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân cần phải làm gì để góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Là một sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, với vốn kiến thức còn hạn chế, chắc chắn bài viết của em còn nhiều sai sót. Vì thế em rất mong được sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn An Ninh để đề án của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy. nội dung Cơ sở lý luận về việc cổ phân hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước. Dưới góc độ chủ sở hữu, doanh nghiệp được gọi là Doanh nghiệp nhà nước khi Nhà nước là chủ sở hữu. Theo mô hình chủ nghĩa xã hội truyền thống, sở hữu Nhà nước (sở hữu toàn dân) được thiết lập ngoài ý nghĩa chính trị là xoá bỏ bóc lột, về mặt kinh tế nó được dựa trên dự báo có hiệu quả cao hơn so với sở hữu tư nhân. Trên nền tảng sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, Nhà nước tổ chức nền kinh tế có kế hoạch, hiệu quả hơn nền kinh tế thị trường hỗn loạn, mất cân đối. Nhưng trên thực tế, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã vận hành không tốt như mong đợi. Cơ chế kinh tế này có nhiều khuyết tật và điều nan giải nhất là các Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. ở Việt Nam, việc xoá bỏ quá vội vàng sở hữu tư nhân, thiết lập sở hữu Nhà nước và tập thể dựa trên các biện pháp hành chính, đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng kéo dài. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bất chấp mọi nỗ lực đổi mới, hoạt động của các Doanh nghiệp nhà nước có khá hơn nhưng hiệu quả vẫn rất thấp. Bên cạnh đó việc sử dụng các nguồn lực kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp đòi hỏi các Doanh nghiệp nhà nước phải có những đổi mới một cách căn bản. Nếu không chúng sẽ thất bại trong cạnh tranh, trong điều kiện hội nhập hiện nay. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước. Phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Doanh nghiệp nhà nước nắm trong tay phần lớn những nguồn lực của nền kinh tế như tài nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp lại sử dụng lãng phí không hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Điều này chỉ ra trước tương lai không sảng sủa của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế trong những năm qua không có nghĩa là mọi việc của chúng ta đang tiến triển tốt đẹp. Các tổ chức kinh tế thế giới đã cảnh báo không ít lần là tốc độ tăng trưởng cao của chúng ta có một nguyên nhân quan trọng là nền kinh tế có điểm xuất phát thấp. Phát triển kinh tế đòi hỏi xoá bỏ bao cấp đổi với Doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay mối quan hệ giữa Nhà nước và các Doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn không rõ ràng. Nhà nước không nắm rõ ở mỗi thời điểm tổng số doanh nghiệp của mình là bao nhiêu, chứ chưa nói đến các chỉ tiêu phức tạp như vốn nằm ở đâu, tăng giảm như thế nào, hiệu quả sử dụng ra sao? Để duy trì doanh nghiệp kém hiệu quả, Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các biện pháp bao cấp trực tiếp và gián tiếp như : xoá nợ, khoanh nợ, tăng vốn, ưu đãi tín dụng, tính chi phí không đầy đủ… và cuối cùng, không ai biết Doanh nghiệp nhà nước nuôi xã hội hay xã hội phải nuôi Doanh nghiệp nhà nước. Không nên quên rằng Doanh nghiệp nhà nước là phương tiện chứ không phải mục đích. Không thể lấy tiền của dân chúng để nuôi một vài doanh nghiệp thua lỗ triền miên, nhưng đã được các cơ quan chủ quản hà hơi tiếp sức hết đợt này đến đợt khác, với lý do cố vực dậy, lý do bảo vệ người lao động. Nhưng tiền bao cấp cho doanh nghiệp chính là thuế mà dân chúng đóng góp, trong đó có không ít người còn sống trong cảnh đói nghèo. Nhà nước phải là của toàn dân chứ không phải của riêng các Doanh nghiệp nhà nước, và Nhà nước cần hành động vì lợi ích của toàn dân chứ không phải chỉ riêng lợi ích của những người trong Doanh nghiệp nhà nước. Cạnh tranh với khu vực tư nhân. Yêu cầu đổi mới còn xuất phát từ việc cạnh tranh với khu vực tư nhân đang hồi sinh nhanh chóng. Mặt khác, trong quá trình hội nhập, Doanh nghiệp nhà nước không phải chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân trong nước mà với cả các doanh nghiệp tư nhân rất mạnh của nước ngoài. Cạnh tranh trong nước và quốc tế không chấp nhận việc Nhà nước giữ độc quyền cho các doanh nghiệp của mình. Cạnh tranh bình đẳng đòi hỏi không chỉ xoá bỏ độc quyền mà cả bao cấp. Tóm lại, áp lực phát triển kinh tế thị trường đặt dấu chấm hỏi lớn đối với các tương lai của các Doanh nghiệp nhà nước nếu chúng không đổi mới. Cổ phần hoá - giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước tối ưu Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là gì? Khái niệm về Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Phải nói rằng nhân dân ta không còn xa lạ gì với khái niệm cổ phần. Cụm từ “cổ phần” đã rất quen thuộc từ trên 40 năm nay, kể từ khi Đảng ta vận động nhân dân lập hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, lập cửa hàng, xí nghiệp, công ty hợp danh. Vậy Cổ phần hoá là gì? “Cổ phần hoá là quá trình chuyển Doanh nghiệp nhà nước từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu là Nhà nước thành lập doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu”. Người chủ sở hữu của doanh nghiệp là các cổ đông tự do bầu chọn ra Hội đồng quản trị là người đại diện chính thức cho mình. Bản chất và các hình thức Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Xét ở bản chất pháp lý, cổ phần hoá là biến doanh nghiệp một chủ thành doanh nghiệp nhiều chủ tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu chung thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho những người khác. Những người này trở thành sở hữu doanh nghiệp theo tỷ lệ tài sản mà họ sở hữu trong doanh nghiệp cổ phần hoá. Xét dưới góc độ này thì cổ phần hoá dẫn tới sự xuất hiện không chỉ của công ty cổ phần trên nền tảng của doanh nghiệp được cổ phần hoá. Bản chất của cổ phần hoá như đã nêu ở trên không phải cũng được hiểu đúng trong thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật về cổ phần hoá. Có quan điểm đồng nhất cổ phần hoá với tư nhân hoá hay có quan điểm cho rằng cổ phần hoá chỉ liên quân đến Doanh nghiệp nhà nước. Nhìn bề ngoài, cổ phần hoá là quá trình xác định lại mục tiêu phương hướng kinh doanh, nhu cầu vốn điều lệ và chia ra thành cổ phần. Đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp, quyết định mức vốn Nhà nước giữ cần nắm giữ và rao bán rộng rãi phần còn lại. Qua đó làm thay đổi cơ cấu sở hữu, huy động tiền vốn, xác lập cụ thể những người tham gia làm chủ, được chia lợi nhuận và chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần, thuộc sở hữu của tập thể cổ đông và chuyển sang hoạt động theo Luật của doanh nghiệp. Song để hiểu rõ thực chất của cổ phần hoá, cần thấy rằng trong công ty cổ phần, trên cơ sở vốn điều lệ được chia ra thành nhiều phần, thì quyền lợi và trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh cũng được phân ra thành những đơn vị có cơ cấu sở hữu. Sở dĩ cổ phần hoá có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của các Doanh nghiệp nhà nước là do qua cổ phần hoá, cơ cấu sở hữu của doanh nghiệp đã thay đổi, dẫn tới cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh cũng thay đổi theo, từ đó tạo ra một cơ cấu động lực có chủ thể rõ ràng và hợp lực mới mạnh mẽ hơn; đồng thời chuyển doanh nghiệp sang vận hành theo cơ chế quản lý mới, tự chủ, năng động hơn, nhưng có sự giám sát rộng rãi và chặt chẽ hơn. Cho nên, thực chất cổ phần hoá nói chung là giải pháp tài chính và tổ chức, dực trên chế độ cổ phần nhằm đổi mới cơ chế và cơ cấu phân chia quyền lợi và trách nhiệm gắn chặt với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cổ phần hoá theo phương thức hiện hành là giải pháp nhằm làm thay đổi cơ cấu sở hữu, dẫn tới thay đổi cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm từ chỗ chỉ có Nhà nước nắm quyền và chịu trách nhiệm chuyển sang chia sẻ kết quả kinh doanh, cả quyền lợi và trách nhiệm, lợi nhuận và rủi ro cho những người tham gia góp vốn, do đó tạo ra động lực, trách nhiệm và hiệu quả doanh nghiệp. Trên cơ sở mục đích của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là nhằm chuyển doanh nghiệp từ một chủ sở hữu sang doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, cổ phần hoá ở nước ta bao gồm nhiều hình thức khác nhau: Giữ nguyến giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn. Bán một phần giá trị doanh nghiệp cho các cổ đông. Cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của công ty. Chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần. Như vậy, thực chất cổ phần hoá là làm giảm bớt vai trò trực tiếp làm chủ sở hữu các doanh nghiệp, giảm bớt đầu tư của Nhà nước, tăng thêm nguồn vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước để tạo thêm sức mạnh kinh tế cho doanh nghiệp. Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp tối ưu ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ yêu cầu đòi hỏi phải đổi mới các Doanh nghiệp nhà nước, vấn đề cải cách Doanh nghiệp nhà nước từ lâu là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Đã có nhiều giải pháp cải cách được thực hiện. Trong thời gian từ 1960 đến 1990, tức là trước thời điểm thực hiện cổ phần hoá, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều biện pháp nhằm cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh (Doanh nghiệp nhà nước theo tên gọi lúc đó). Tuy nhiên thực tế cho thấy các giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện trước năm 1990 ít mang lại hiệu quả. Vai trò, hiệu quả của Doanh nghiệp nhà nước hầu như không được cải thiện. Tình trạng kém hiệu quả, thua lỗ, tình trạng lãng phí tài sản vẫn là căn bệnh cố hữu của Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Nhiều Doanh nghiệp nhà nước đã trở thành bình phong cho những hoạt động kinh tế phi pháp, trốn thuế, lậu thuế, buôn lậu. Có khá nhiều ý kiến khác nhau về những kết quả hạn chế của các biện pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện trước đây. Tuy nhiên có thể nhận thấy dễ dàng được thừa nhận khá rộng rãi là Doanh nghiệp nhà nước thực tế không có chủ nhân thực sự. Nhà nước cũng là thực thể trừu tượng. Các cán bộ, công nhân trong Doanh nghiệp nhà nước ít quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước nơi mình đang làm việc. Lý do đơn giản là họ vẫn có lương ngay cả khi Doanh nghiệp nhà nước đã bên bờ phá sản. Rõ ràng, vấn đề lợi ích, đặc biệt là lợic ích sở hữu trong Doanh nghiệp nhà nước chính là cội nguồn của những căn bệnh mà chúng gặp phải. Cải cách Doanh nghiệp nhà nước có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau như: bán Doanh nghiệp nhà nước, cho thuê Doanh nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế quản lý Doanh nghiệp nhà nước… Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một trong những giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thập kỷ vừa qua cho thấy cổ phần hoá là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bắt đầu được thực hiện thí điểm thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chương trình này là Quyết định số 143/HĐBT ngày 10-5-1990 của Hội đồng bộ trưởng và sau đó được thực hiện với quy mô rộng hơn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường được Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) khởi xướng đã tạo ra những điều kiện để cải cách triệt để hơn đối với Doanh nghiệp nhà nước, thông qua việc cổ phần hoá chúng. Sở dĩ cổ phần hoá được coi là giải pháp triệt để vì nó giải quyết được căn nguyên của những yếu kém trong tổ chức quản lý và hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước – đó là vấn đề sở hữu. Những giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước khác chỉ động chạm đến cơ chế quản lý theo hướng tăng cường quyền tự chủ của của Doanh nghiệp nhà nước trong một hoặc một số lĩnh vực cụ thể. Cổ phần hoá doanh nghiệp chấp nhận sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể kinh tế vĩ mô mà trước hết là trong các doanh nghiệp. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là giải pháp làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng, điều mà trước đổi mới ít ai dám nghĩ đến chứ chưa nói là triển khai nó. Đối tượng của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là biện pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước tối ưu của nước ta. Tuy nhiên, không phải tất cả các doanh nghiệp đều có thể đổi mới bằng phương thức này. Có những doanh nghiệp mà Nhà nước cần duy trì 100% vốn Nhà nước. Đó là khu vực kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế trên các lĩnh vực sau: Các doanh nghiệp hoạt động nhằm phục vụ cho công tác an ninh và quốc phòng : sản xuất vũ khí, đạn dược, sản xuất thuốc nổ, sản xuất phương tiện phát sóng, truyền tin… Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân, bao gồm các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực : năng lượng, dầu khí, khai thác vàng và đá quý, xây dựng sân bay, bến cảng, đường sắt… Các doanh nghiệp thuộc hạ tầng cơ sở như : giao thông, bưu chính, viễn thông, điện, thuỷ nông… Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thường bị thua lỗ, lãi ít hoặc gặp rất nhiều khó khăn. Theo nguyên tác hạch toán thương mại thì các thành phần kinh tế tập thể, tư nhân không đầu tư vào các lĩnh vực như : vận tải đường sắt, vận tải hàng hoá lên miền núi, ra biên giới, hải đảo, đến vùng kinh tế mới, sản xuất phương tiện cho người tàn tật, đồ chơi cho trẻ em… Để khắc phục nhược điểm đó của cơ chế thị trường, Nhà nước phải tổ chức các Doanh nghiệp nhà nước để duy trì và phát triển các hoạt động này. Có thể làm việc đó nhờ vào việc tài trợ của Ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp thua lỗ. Trong trường hợp này, sự tài trợ cho doanh nghiệp là cần thiết, nên không thể coi đó là bao cấp. Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, không chỉ ở Việt Nam mà dù ở bất kỳ nước nào, sự tồn tại của Doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan. Như vậy, không phải tất cả các Doanh nghiệp nhà nước cần phải đổi mới bằng giải pháp cổ phần hoá, mà chỉ có một bộ phận doanh nghiệp. Bộ phận doanh nghiệp ấy là gì? Căn cứ vào tình hình thực tế ở Việt Nam, Doanh nghiệp nhà nước được chọn lựa cổ phần hoá phải có đủ ba điều kiện sau đây: Là những doanh nghiệp vừa và nhỏ Không thuộc diện những doanh nghiệp cần thiết giữ 100% vốn đầu tư Nhà nước. Có phương án kinh doanh hiệu quả. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp lớn (Tổng công ty Nhà nước) cũng có thể thực hiện cổ phần hoá theo phương thức phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển sản xuất trong khi vẫn giữ nguyên giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp. Theo tinh thần nghị quyết 28/CP các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có tổng số vốn từ 300 tỷ đồng trở xuống và có số lao động dưới 1000 người, không kể số lao động làm hợp đồng theo thời vụ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ dễ xác định giá trị tài sản hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn mà còn phù hợp với sức mua của cán bộ công nhân viên tại nhiệm sở và trong ngành. Mục tiêu cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước Đại hội Đảng lần thứ VIII (1986) đã khẳng định “Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước để huy động vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên chứ không phải tư nhân hoá” Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính Phủ về việc chuyển một số Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ: chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu: Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước. Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước. Qua những văn bản cơ bản đó có thể khẳng định các mục tiêu của cổ phần hoá đã được xác định một cách rõ ràng và nhất quán. Song phải chăng huy động vốn để phát triển doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả là mục tiêu hàng thứ, hay hai mục tiêu ở vị trí ngang nhau. Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay vốn kinh doanh là một trong những vấn đề nan giải của các doanh nghiệp. Để huy động vốn, doanh nghiệp phải đảm bảo nhiều điều kiện, trong đó khả năng kinh doanh có hiệu quả được coi là diều kiện tiên quyết. Đặt việc huy động vốn cho phát triển doanh nghiệp như một mục tiêu hàng đầu sẽ gây cảm nhận việc cổ phần hoá xuất phát từ yêu cầu giải quyết khó khăn của Nhà nước trong việc đảm bảo vốn doanh nghiệp. Điều đó đến lượt mình, có thể gây trở ngại cho việc thực hiện chính mục tiêu ấy, người lao động không thấy được động lực kinh tế trực tiếp trong việc góp vốn của mình. Trong cơ chế thị trường, để thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nằm ở sự gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp, xác định rõ người chủ đích thực của các tài sản đó. Việc huy động thêm vốn từ cổ phần hoá là điều kiện xác lập người chủ một bộ phận tài sản của doanh nghiệp, người chủ ấy cùng với người đại diện Nhà nước ở doanh nghiệp quản lý điều hành hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Hơn nữa, việc huy động thêm vốn chỉ là phương tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế mà thôi. Nếu không được quản lý sử dụng tốt số vốn được huy động đó cũng không thể mang lại hiệu quả mong đợi. Theo những lập luận trên, mục tiêu hàng đầu có là thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những người sở hữu tài sản. Huy động thêm vốn bằng cổ phần và phát hành cổ phần là điều kiện cần thiết để tạo thành những người chủ đích thực của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào sử dụng vốn hiện có và huy động vốn thêm. Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một chủ trương lớn của Đảng va Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã nêu rõ: “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới”. Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 17/3/1995 của Bộ chính trị đã nêu “thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phần doanh nghiệp không cần Nhà nước đầu tư 100% vốn. Tuỳ tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỉ lệ cổ phần cho công nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân ngoài quốc doanh để thu hút vốn, mở rộng quy mô kinh doanh”. Như vậy, Nghị quyết của Đảng chỉ ra mục tiêu, đồng thời cũng nêu khái quát hình thức, mức độ cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước. Chính Phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản luật và dưới luật nhăm thực hiện chương trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước như luật công ty, quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất trong khu vực kinh tế Nhà nước. Chỉ thị 84-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thí điểm cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước… Ngoài ra còn có các quyết định, thông tư của các Bộ và các liên Bộ để cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này góp phần xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện. Tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực: giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi suất đã ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh… Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá. Hoạt động trong cơ chế thị trường mới được hai chục năm nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh lớn; người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả của công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho việc thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước. Với luật đầu tư nước ngoài cà sự xuất hiện của nhiều nhánh ngân hàng kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư bằng cổ phiếu vào các Doanh nghiệp nhà nước sẽ được tiến hành cổ phần hoá. Ngoài ra với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nước trên thế giới trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước sẽ là những bài học bổ ích và quý giá để Nhà nước tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện công việc cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Ngoài ra, ngày nay chúng ta còn có những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Đó là những khó khăn gặp phải trong thời gian đầu thực hiện thí điểm cổ phần hoá đã dần được khắc phục, có thể kể đến như chúng ta đã có một thị trường chứng khoán thực sự, tuy chưa phát triển sôi động như các nước phát triển và khu vực, nhưng đó cũng là môi trường để thực hiện cổ phần hoá. Các Doanh nghiệp nhà nước hiện nay hầu hết đều trang bị máy móc, công nghệ hiện đại, khả năng cạnh tranh cao… do đó có thể tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó tình hình chính trị quốc gia ổn định tạo niềm tin thu hút các nhà đầu tư nước ngoài… Với những tiền đề như thế thì quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước của chúng ta đã diễn ra như thế nào? Chúng ta đã làm được những gì và còn hạn chế gì? Để từ đó có biện pháp thích hợp thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hoá. II. Thực trạng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Từ đầu thập kỷ 90, cùng với đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội, Đảng ta đã có chủ trương chuyển một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Khởi đầu là Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành TW khoá VII tháng 11/1991. Nghị quyết này đã chỉ ra : “chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”. Trải qua 15 năm thực hiện đến hết năm 2005, chúng ta đã thành lập được 2987 công ty cổ phần trên cơ sở cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và bộ phần Doanh nghiệp nhà nước. Kết quả thực hiện qua từng năm như sau: Năm Số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá 1990-1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Không 02 01 03 05 07 100 250 212 204 164 532 753 754 Tổng 2987 Qua những con số trên thấy rõ tiến trình cổ phần hoá đã trải qua những bước thăng trầm, nhưng nói chúng là theo xu hướng mỗi ngày càng được đẩy mạnh. Từ chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu (mỗi năm vài ba doanh nghiệp đến vài trăm) và cho đến ba năm gần đây tiến trình cổ phần hoá được đẩy mạnh hơn, do đó số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá tương đối nhiều. Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình thức cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần vốn nhà nước có tại doanh nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 43,4%) tiếp đó là bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (26%) còn lại là bán toàn bộ vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (15,5%) và giữ nguyên vốn Nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu (15,1%). Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành công nghiệp giao thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65,5%, thương mại dịch vụ chiếm 28,7% và ngành nông - lâm - ngư ngiệp chiếm 5,8%. Nếu phân chia theo địa phương thì tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chiếm 65,7%, bộ ngành TW chiếm 25,8%, tổng công ty 91 chiếm 8,5%. Năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn mạnh là trong số doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn khá, quy mô lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư. Có thể kể đến các công ty như: Công ty khoan và dịch vụ dầu khí, các nhà máy thuỷ điện sông Hinh (Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả Lại, Điện lực Khánh Hoà, công ty giấy Phương Mai, công ty vận tải xăng dầu đường thuỷ I, Vinamilk, công ty Kinh Đô. Giá trị của Vinamilk lên tới 2500 tỷ đồng. Nhà máy thuỷ điện sông Hinh có giá trị 2114 tỷ đồng trong đó vốn Nhà nước là 1253 tỷ đồng. Một điểm khác biệt nữa, đó là việc xác định giá trị cổ phần được thực hiện thông qua đấu giá công khai trên thị trường. Ngay trong ngày đầu tiên bán đấu giá Vinamilk, bán hết hơn 166 triiêụ cổ phiếu với giá trung bình cao gấp 4,89 lần mệnh giá. tính minh bạch và công khai đấu giá cổ phiếu của công ty sữa Việt Nam đã thu hút các nhà đầu tư chiến lược, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý là các nhà mới chiếm tỷ lệ thắng thầu tới 78,4% trên tổng số cổ phần bán ra, các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt Nam chỉ chiếm 21,6% và số vốn thu hút được từ các tổ chức đầu tư mới lên tới 450 tỷ đồng. Sau ba năm chuẩn bị, Vinamilk đã hoàn toàn chuyển đổi từ một Doanh nghiệp nhà nước lớn thành tổng công ty cổ phần đại chúng. Sau 15 năm cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, có thể nhận thấy các chuyển biến sau: Thứ nhất, sự chuyển hướng từ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước trong một số lĩnh vực sang cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở hầu hết ngành, lĩnh vực, trong cả kinh tế, dịch vụ và văn hoá, kể cả ngân hàng thương mại, chỉ trừ loại Doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dầu khí và an ninh quốc phòng. Thành phố Hồ Chí Minh còn kiến nghị Chính Phủ cho phép cổ phần hoá một số bệnh viện công. Thứ hai, chuyển biến từ việc chỉ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ về vốn và lao động làm ăn thua lỗ, nay sang cả những doanh nghiệp lam ăn có lãi với quy mô lớn trong các ngành trọng yếu của nền kinh tế (như điện lực, xi măng, viễn thông, hàng không) với kết quả hoạt động sau ngày một tiến bộ. Tiến hành cổ phần hoá không chỉ được thực hiện đối với từng doanh nghiệp thành viên mà còn triển khai đối với toàn tổng công ty. Đến nay đã có Nghị quyết phê duyệt cổ phần hoá 5 tổng công ty, trong đó có các Tổng công ty thương mại - Xây dựng, Điện tử - Tin học, Vinaconex và Bảo Việt. Thứ ba, việc cổ phần hoá không chỉ nhằm thu hút vốn của các nhà đầu tư, của những người trong doanh nghiệp mà còn thu hút vốn của những người nông dân cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, chuyển họ thành những cổ đông, gắn bó họ với sự phát triển của doanh nghiệp.Công ty mía đường lam Sơn và công ty mía đường La Ngã đã thực hiện cổ phần hoá theo hướng đó. ở Tổng công ty mía đường Lam Sơn, Nhà nước giữ 46%, nông dân trong mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 26% (trong đó có 40.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía), người lao động trong doanh nghiệp mua 24% cổ phần. ở Tổng công ty mí đường La Ngã Nhà nước giữ 35%, nông dân tròng mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 25% (trong đó có 15.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía), người lao động trong doanh nghiệp 40% cổ phần. Sau 5 năm cổ phần hoá (từ năm 2000 đến năm ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0615.doc