Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, các thành phần kinh tế, các hình thức kinh doanh, các mặt hàng trở nên đa dạng và phong phú. Khi đời sống của người dân ngày càng cải thiện thì nhu cầu tiêu dùng hàng hoá ngày càng tăng. Do đó các hoạt động mua, bán các hình thức tổ chức thương mại diễn ra tấp nập hơn và ngày càng mở rộng.
Là một loại hình tổ chức thương mại hỗn hợp, chợ ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Tính chất và trình độ xã hội ho
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1369 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biện pháp chuyển đổi mô hình quản lý chợ trên địa bàn Q. Cầu Giấy hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á nền sản xuất ngày càng cao, sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc thì nhu cầu trao đổi hàng hoá ngày càng lớn và chợ với tư cách là nơi trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa người sản xuất với người sản xuất, giữa người sản xuất với người tiêu dùng ngày càng phát triển. Thông qua bộ mặt và tình hình sinh hoạt chợ có thể đánh giá được trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và đời sống dân cư của một vùng, địa phương.
Tuy nhiên, trên thực tế hệ thống chợ nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều yếu kém như cơ sở vật chất nhìn chung còn nghèo nàn, lạc hậu, việc đầu tư xây dựng chợ mới chỉ do Nhà nước làm, chưa thực hiện xã hội hoá trong công tác đầu tư xây dựng chợ theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", nhiều chợ chưa đáp ứng được yêu cầu vệ sinh, an toàn thực phẩm, văn minh thương mại. Công tác quản lý chợ còn nhiều hạn chế và yếu kém, đội ngũ cán bộ quản lý còn nhiều người chưa qua đào tạo và hạn chế về năng lực chuyên môn... Trên cở sở đó ta thấy được sự cần thiết phải phát triển mạng lưới chợ theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động.
Một trong những biện pháp nhằm tạo ra sự phát triển đột biến mạng lưới chợ là chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ, cho phép các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, xây dựng, kinh doanh chợ. UBND quận Cầu Giấy đã lên kế hoạch và đề án để thực hiện việc chuyển đổi này. Tuy nhiên, việc triển khai có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, mới chỉ dừng lại ở giai đoạn thí điểm bước đầu. Vì thế đòi hỏi chúng ta cần nhanh chóng có những biện pháp để tạo môi trường pháp lý thuận lợi, khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân đầu tư, kinh doanh chợ, từ đó làm cho việc chuyển đổi được triển khai nhanh chóng trong thực tế.
Xuất phát từ thực tiến đó, em xin chọn đề tài "Phương hướng và biện pháp chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho mình.
Mục đích của đề tài: Hệ thống các cơ sở lý luận về chợ và các mô hình tổ chức quản lý chợ ở nước ta. Trên cơ sở phân tích thực trạng về phát triển và quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy, đưa ra phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm nhanh chóng chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận trong giai đoạn hiện nay.
Bố cục của đề tài bao gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về chợ và mô hình tổ chức quản lý chợ.
Chương II: Thực trạng phát triển và tổ chức quản lý chợ trên đại bàn quận Cầu Giấy hiện nay.
Chương III: Phương hướng và biện pháp nhằm chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý trên đại bàn quận Cầu Giấy trong giai đoạn hiện nay.
Với trình độ còn hạn chế, đề tài hoàn thành có thể còn nhiều thiếu sót nhất định, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và toàn thể các bạn để đề tài của em được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Mai Văn Bưu cùng các cô, chú trong phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Chương I
Một số vấn đề lý luận về chợ và mô hình tổ chức quản lý chợ
I. Chợ và vai trò của chợ trong nền kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay
1. Khái niệm, đặc trưng của chợ
1.1. Khái niệm:
Trên thực tế tuỳ theo lĩnh vực nghiên cứu mà có rất nhiều khái niệm khác nhau về chợ:
Theo định nghĩa trong các từ điển tiếng Việt đang được lưu hành: "Chợ là nơi công cộng để đông người đến mua bán vào những ngày hoặc những buổi nhất định"(1) Theo Đại Từ điển tiếng Việt - NXB Từ điển Bách Khoa - 2003 (tr.138)
(2) Theo Đại Từ điển tiếng Việt - NXB Văn hoá Thông tin - 2004 (tr.155)
; "Chợ là nơi tụ họp giữa người mua và người bán để trao đổi hàng hoá, thực phẩm hàng ngày theo từng buổi hoặc từng phiên nhất định (chợ phiên)...
Theo Thông tư số 15/TM-CSTTTN ngày 16/10/1996 của Bộ Thương Mại hướng dẫn tổ chức và quản lý chợ "Chợ là mạng lưới thương nghiệp được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội".
Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính Phủ về phát triển và quản lý chợ "Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát triển mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm theo quy hoạch, đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng của khu vực dân cư".
(1) Phạm vi chợ: là khu vực được quy hoạch dành cho hoạt động chợ, bao gồm diện tích để bố trí các điểm kinh doanh, khu vực dịch vụ (như: bãi để xe, kho hàng, khu ăn uống, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác) và đường bao quanh chợ.
(2) Chợ đầu mối: là chợ có vai trò chủ yếu thu hút, tập trung lượng hàng hoá lớn từ các nguồn sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế hoặc của ngành hàng để tiếp tục phân phối tới các chợ và các kênh lưu thông khác.
(2) Điểm kinh doanh tại chợ: bao gồm quầy hàng, sạp hàng, ki-ốt, cửa hàng được bố trí cố định trong phạm vi chợ theo thiết kế xây dựng chợ, có diện tích quy chuẩn tối thiểu là 3 m2/điểm.
Từ những điểm hội tụ chung của nhiều định nghĩa, ta có thể rút ra kết luận: Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát triển mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm công cộng, tập trung đông người mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nhau, được hình thành do yêu cầu của sản xuất, lưu thông và đời sống tiêu dùng xã hội và hoạt động theo các chu kỳ thời gian nhất định.
1.2. Đặc trưng của chợ:
Chợ có những đặc trưng sau:
Chợ là một nơi (địa điểm) công cộng để mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ của dân cư, ở đó bất cứ ai có nhu cầu đều có thể đến mua, bán và trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nhau.
Chợ được hình thành do yêu cầu khách quan của sản xuất và trao đổi hàng hoá, dịch vụ của dân cư, chợ có thể được hình thành một cách tự phát hoặc do quá trình nhận thức tự giác của con người. Vì vậy trên thực tế có nhiều chợ đã được hình thành từ việc quy hoạch, xây dựng, tổ chức, quản lý chặt chẽ của các cấp chính quyền và các ngành quản lý kinh tế kỹ thuật. Nhưng cũng có rất nhiều chợ được hình thành một cách tự phát do nhu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá của dân cư, chưa được quy hoạch, xây dựng, tổ chức, quản lý chặt chẽ.
Các hoạt động mua, bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ tại chợ thường được diễn ra theo một quy luật và chu kỳ thời gian (ngày, giờ, phiên) nhất định. Chu kỳ họp chợ hình thành do nhu cầu trao đổi hàng hoá, dịch vụ và tập quán của từng vùng, từng địa phương quy định.
1.3. So sánh chợ với siêu thị:
Theo từ điển Kinh tế thị trường: "Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ bày bán nhiều mặt hàng đáp ứng tiêu dùng hàng ngày của người tiêu dùng như thực phẩm, đồ uống, dụng cụ gia đình và các loại vật dụng cần thiết khác".
Như vậy, những nét đặc trưng cơ bản của siêu thị khác với chợ là:
Siêu thị là một cửa hàng bán lẻ.
Siêu thị áp dụng phương thức tự phục vụ.
Giá ở siêu thị được niêm yết công khai.
Siêu thị thường chú trọng ở nghệ thuật trưng bày hàng hoá.
Siêu thị áp dụng các hình thức quản lý, bán hàng và thanh toán bằng những tiến bộ của khoa học, công nghệ (tin học, điện tử, khoa học xã hội trong bán hàng…).
2. Phân loại chợ trong mạng lưới chợ ở nước ta
Hiện nay ở nước ta tồn tại rất nhiều các loại chợ khác nhau, dựa theo những tiêu thức khác nhau ta có những cách phân loại sau:
2.1. Theo địa giới hành chính:
Có hai loại chợ tồn tại theo tiêu thức này là chợ đô thị và chợ nông thôn.
2.1.1. Chợ đô thị:
Là các loại chợ được tổ chức, tụ họp ở thành phố, thị xã, thị trấn. Do ở đây, đời sống và trình độ văn hoá có phần cao hơn ở nông thôn, cho nên các chợ thành phố có tốc độ hiện đại hoá nhanh hơn, văn minh thương mại trong chợ cũng được chú trọng, cơ sở vật chất ngày càng được tăng cường, bổ sung và hoàn chỉnh. Phương tiện phục vụ mua bán, hệ thống phương tiện truyền thông và dịch vụ ở các chợ này thường tốt hơn các chợ ở khu vực nông thôn.
2.1.2. Chợ nông thôn:
Là chợ thường được tổ chức tại trung tâm xã, trung tâm cụm xã. Hình thức mua bán ở chợ đơn giản, dân dã (có nơi, như ở một số vùng núi, người dân tộc thiểu số vẫn còn hoạt động trao đổi bằng hiện vật tại chợ), các quầy, sạp có quy mô nhỏ lẻ, manh mún. Nhưng ở các chợ nông thôn thể hiện đậm đà bản sắc truyền thống đặc trưng ở mỗi địa phương, của các vùng lãnh thổ khác nhau.
2.2. Theo tính chất mua bán:
Dựa theo tiêu thức này, ta có thể phân chia thành hai loại là chợ bán buôn và bán lẻ.
2.2.1. Chợ bán buôn:
Là các chợ lớn, chợ trung tâm, chợ có vị trí là cửa ngõ của thành phố, thị xã, thị trấn, có phạm vi hoạt động rộng, tập trung vói khối lượng hàng hoá lớn. Hoạt động mua bán chủ yếu là thu gom và phân luồng hàng hoá đi các nơi. Các chợ này thường là nơi cung cấp hàng hoá cho các trung tâm bán lẻ, các chợ bán lẻ trong và ngoài khu vực, nhiều chợ còn là nơi thu gom hàng cho xuất khẩu. Các chợ này có doanh số bán buôn chiếm tỷ trọng cao (trên 60%), đồng thời vẫn có bản lẻ nhưng tỷ trọng nhỏ.
2.2.2. Chợ bán lẻ:
Là những chợ thuộc phạm vi xã, phường (liên xã, liên phường), cụm dân cư, hàng hoá qua chợ chủ yếu để bán lẻ, phục vụ trực tiếp cho người tiêu dùng.
2.3. Theo đặc điểm mặt hàng kinh doanh:
Có chợ tổng hợp và chợ chuyên doanh.
2.3.1. Chợ tổng hợp:
Là chợ kinh doanh nhiều loại hàng hoá thuộc nhiều ngành hàng khác nhau. Trong chợ tồn tại nhiều loại mặt hàng như: hàng tiêu dùng (quần áo, giày dép, các mặt hàng lương thực thực phẩm, hàng gia dụng…), công cụ lao động nông nghiệp (cuốc, xẻng, liềm búa…), cây trồng, vật nuôi…, chợ đáp ứng toàn bộ các nhu cầu của khách hàng. Hình thức chợ tổng hợp này thể hiện khái quát những đặc trưng của chợ truyền thống, và ở nước ta hiện nay loại hình này vẫn chiếm ưu thế về số lượng cũng như về thời gian hình thành và phát triển.
2.3.2. Chợ chuyên doanh:
Là loại chợ chuyên kinh doanh một mặt hàng chính yếu, mặt hàng này thường chiếm doanh số trên 60% đồng thời vẫn có bán một số mặt hàng khác, các loại hàng này có doanh số dưới 40% tổng doanh thu. Hình thức chợ này cũng tồn tại ở nước ta như chợ vải, chợ hoa tươi, chợ vật liệu xây dựng, chợ rau quả, chợ giống cây trồng…
2.4. Theo số lượng hộ kinh doanh, vị trí và mặt bằng của chợ:
Dựa theo cách phân loại trong Điều 3 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ thì chợ được chia thành 3 loại: chợ loại 1, chợ loại 2 và chợ loại 3.
2.4.1. Chợ loại 1 là chợ phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
Là chợ có trên 400 điểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố, hiện đại theo quy hoạch;
Được đặt ở các vị trí trung tâm kinh tế thương mại quan trọng của tỉnh, thành phố hoặc là chợ đầu mối của ngành hàng, của khu vực kinh tế và được tổ chức họp thường xuyên;
Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ chức đầy đủ các dịch vụ tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản hàng hoá, dịch vụ đo lường, dịch vụ kiểm tra chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm và các dịch vụ khác.
2.4.2. Chợ loại 2 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau:
Là chợ có trên 200 diểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc là bán kiên cố theo quy hoạch;
Được đặt ở trung tâm giao lưu kinh tế của khu vực và được tổ chức họp thường xuyên hay không thường xuyên;
Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ chức các dịch vụ tối thiểu tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản hàng hoá, dịch vụ đo lường.
2.4.3. Chợ loại 3 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau:
Là chợ có dưới 200 điểm kinh doanh hoặc các chợ chưa được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố;
Chủ yếu phục vụ nhu cầu mua bán hàng hoá của nhân dân trong xã, phường và địa bàn phụ cận.
2.5. Theo tính chất và quy mô xây dựng:
Theo tiêu chí này, chợ được chia thành chợ kiên cố, chợ bán kiên cố và chợ tạm:
2.5.1. Chợ kiên cố:
Là chợ được xây dựng hoàn chỉnh với đủ các yếu tố của một công trình kiến trúc, có độ bền sử dụng cao (thời gian sử dụng trên 10 năm). Chợ kiên cố thường là chợ loại 1 có diện tích đất hơn 10.000 m2 và chợ loại 2 có diện tích đất từ 6000-9000 m2. Các chợ kiên cố lớn thường nằm ở các tỉnh, thành phố lớn, các huyện lỵ, trị trấn và có thời gian tồn tại lâu đời, trong một thời kỳ dài và là trung tâm mua bán của cả vùng rộng lớn.
2.5.2. Chợ bán kiên cố:
Là chợ chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Bên cạnh những hạng mục xây dựng kiên cố (tầng lầu, cửa hàng, sạp hàng) còn có những hạng mục xây dựng tạm như lán, mái che, quầy bán hàng…, độ bền sử dụng không cao (dưới 10 năm) và thiếu tiện nghi. Chợ bán kiên cố thường là chợ loại 3, có điện tích đất 3000-50000 m2. Chợ này chủ yếu phân bổ ở các huyện nhỏ, khu vực thị trấn xa xôi, chợ liên xã, liên làng, các khu vực ngoài thành phố lớn.
2.5.3. Chợ tạm:
Là chợ mà những quầy, sạp bán hàng là những lều quán được làm có tính chất tạm thời, không ổn định, khi cần thiết có thể dỡ bỏ nhanh chóng và ít tốn kém. Loại chợ này thường hay tồn tại ở các vùng quê, các xã, các thôn, có chợ được dựng lên để phục vụ trong một thời gian nhất định (như tết, lễ hội…).
3. Vai trò của chợ trong nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay
Trong những năm qua, mạng lưới chợ ở nước ta đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là từ thập niên 80 và những năm đầu của thập niên 90. Đây là giai đoạn mà mạng lưới siêu thị và trung tâm thương mại chưa hình thành và phát triển, chợ vẫn là nơi tiêu thụ hàng hóa chủ yếu của các doanh nghiệp sản xuất cũng như là nơi mua sắm chủ yếu của người dân. Tuy nhiên, hiện nay chợ vẫn giữ một vai trò rất quan trọng thể hiện trên các mặt sau:
3.1. Về mặt kinh tế
Chợ là một bộ phận quan trọng trong cấu thành mạng lưới thương nghiệp xã hội :
Đối với vùng nông thôn: Chợ vừa là nơi tiêu thụ nông sản hàng hoá, tập trung thu gom các sản phẩm, hàng hoá phân tán, nhỏ lẻ để cung ứng cho các thị trường tiêu thụ lớn trong và ngoài nước, vừa là nơi cung ứng hàng công nghiệp tiêu dùng cho nông dân và một số loại vật tư cho sản xuất nông nghiệp ở nông thôn.
Ở khu vực thành thị: Chợ cũng là nơi cung cấp hàng hoá tiêu dùng, lương thực thực phẩm chủ yếu cho các khu vực dân cư. Tuy nhiên hiện nay đã xuất hiện khá nhiều hình thức thương mại cạnh tranh trực tiếp với chợ, vì thế bên cạnh việc mở rộng hay tăng thêm số lượng chợ chúng ta sẽ đầu tư nâng cấp chất lượng hoạt động của chợ và đầu tư nâng cấp chất lượng dịch vụ của chợ.
Hoạt động của các chợ làm tăng ý thức về kinh tế hàng hoá của người dân, rõ nét nhất là ở miền núi, vùng cao từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần tích cực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, miền núi. Trong các phiên chợ, các buổi chợ là cơ hội của người dân giao lưu trao đổi, mua bán, lưu thông hàng hoá của mình, cập nhật thông tin, ý thức xã hội, nó làm tăng khả năng phản ứng của người dân với thị trường, với thời thế và tự mình có thể ý thức được công việc làm ăn buôn bán của mình trong công cuộc đổi mới.
Chợ là một nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước. Mặc dù Nhà nước chưa có thể nâng cấp đủ hệ thống chợ ở nước ta, chưa đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển, nhưng các chợ trong cả nước đã đem lại cho Ngân sách Nhà nước khoảng 300.000 triệu đồng mỗi năm (chưa kể các nguồn thu từ thuế trực tiếp).
Sự hình thành chợ kéo theo sự hình thành và phát triển các ngành nghề sản xuất. Đây chính là tiền đề hội tụ các dòng người từ mọi miền đất nước tập trung để làm ăn, buôn bán. Chính quá trình này làm xuất hiện các trung tâm thương mại và không ít số đó trở thành những đô thị sầm uất.
3.2. Về giải quyết việc làm
Chợ ở nước ta đã giải quyết được một số lượng lớn việc làm cho người lao động. Hiện nay trên toàn quốc có hơn 2,3 triệu người lao động buôn bán trong các chợ và số người tăng thêm có thể tới 10%/năm.
Nếu mỗi người trực tiếp buôn bán có thêm 1 đến 2 người giúp việc (phụ việc bán hàng, tổ chức nguồn hàng để đưa về chợ, đưa hàng tới các mối tiêu thụ theo yêu cầu của khách…) thì số người lao động có việc tại chợ sẽ gấp đôi, gấp ba lần số lượng người chỉ buôn bán ở chợ, và như thế chợ giải quyết được một số lượng lớn công việc cho người lao động khi hoạt động.
3.3. Về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
Có thể nói, chợ là một bộ mặt kinh tế - xã hội của một địa phương và là nơi phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của một vùng dân cư. Tính văn hoá ở chợ được thể hiện rõ nhất là ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Đối với người dân: Đồng bào đến chợ ngoài mục tiêu mua bán còn lấy chợ làm nơi giao tiếp, gặp gỡ, thăm hỏi người thân, trao đổi công việc, kể cả việc dựng vợ gả chồng cho con cái. Chợ còn là nơi hò hẹn của lứa đôi, vì vậy người dân miền núi thường gọi là đi "chơi chợ" thay cho từ đi chợ mua sắm như là người dưới xuôi thường gọi. Các phiên chợ này thường tồn tại từ rất lâu đời, và nó là những bản sắc văn hoá vô cùng đặc trưng của các dân tộc ở nước ta.
Đối với chính quyền: ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa chợ là địa điểm duy nhất hội tụ đông người. Tại chợ có đại diện của các lứa tuổi, tất cả các thôn bản và các dân tộc. Vì thế, đã từ lâu, Chính quyền địa phương đã biết lấy chợ là nơi phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi tuyên truyền cảnh giác và đấu tranh với những phần tử xuyên tạc đường lối của Đảng. Từ phong trào kế hoạch hoá gia đình đến kỹ thuật chăm sóc cây trồng vật nuôi, vệ sinh phòng dịch… đều có thể được phổ biến một cách hiệu quả ở đây. Chính vì lý do đó, chợ miền núi hay miền xuôi đều được bố trí ở trung tâm cụm, xã (nhất là miền núi). Trong mỗi chợ đều giành vị trí trung tâm làm công tác tuyên truyền.
Trên thực tế, một số chợ truyền thống có từ rất lâu đời đang trở thành một địa điểm thu hút khách du lịch (như Chợ Tình Sa Pa, chợ Cầu Mây ở Nam Định…). Nếu được đầu tư thoả đáng cả về cở sở vật chất cũng như sự quan tâm quản lý của Nhà nước, đây sẽ là các địa danh hấp dẫn đối với khách du lịch trong và ngoài nước, và nó sẽ là tiềm năng về kinh tế du lịch quốc gia.
Hiện nay, khi mạng lưới siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ đã hình thành và phát triển mạnh, mặc dù vẫn có tầm quan trọng trong sinh hoạt của người dân, nhưng không vì thế mà chợ mất đi vai trò của mình mà có thể nói chợ đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình và sự phát triển mạng lưới chợ chính là sự hỗ trợ cho sự hình thành và phát triển của các loại hình kinh doanh mới, đó là siêu thị và trung tâm thương mại.
II. Một số mô hình tổ chức quản lý chợ hiện nay ở nước ta
1. Tổ chức, quản lý chợ theo mô hình Ban quản lý
1.1. Khái niệm:
Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 về phát triển và quản lý chợ: "Ban quản lý chợ là đơn vị sự nghiệp có thu, tự trang trải các chi phí hoạt động thường xuyên, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và có tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước, thực hiện chức năng quản lý các hoạt động của chợ và tổ chức kinh doanh các dịch vụ tại chợ theo quy định của pháp luật".
Căn cứ vào tính chất, đặc điểm và quy mô của chợ, Uỷ Ban Nhân Dân các cấp có thẩm quyền quyết định lập và giao cho Ban quản lý chợ quản lý một hoặc một số chợ (liên chợ) trên địa bàn theo phân cấp quản lý. Trường hợp lập Ban quản lý liên chợ thì ở từng chợ có thể lập Ban hay tổ điều hành chợ.
Ban quản lý chợ có trách nhiệm quản lý tài sản Nhà nước và các hoạt động trong phạm vi chợ của một hoặc một số chợ; thực hiện ký kết hợp đồng với thương nhân về thuê, sử dụng điểm kinh doanh; kinh doanh các dịch vụ tại chợ; tổ chức bảo đảm công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ; xây dựng Nội quy của chợ trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp quản lý chợ; tổ chức thực hiện Nội quy chợ và xử lý các vi phạm về Nội quy chợ; điều hành chợ hoạt động và tổ chức phát triển các hoạt động tại chợ; tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý Nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Thương mại.
Trưởng BQL chợ
Bộ phận tổng hợp
Phó BQL
Đội bảo
vệ
Tổ quản lý ngành hàng
Tổ vệ sinh môi trường
Tổ điện nước
Tổ kiểm tra
Các
tổ dịch vụ
Đội bốc xếp vận chuyển
Tổ trông giữ bảo quản tài sản
Tổ
y tế
Tổ cung cấp thông tin thị
trường
Tổ kiểm định số lượng chất lượng
1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban quản lý chợ:
Theo thông tư số 06/2003/TT-BTM ngày 15 tháng 8 năm 2003 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ban quản lý chợ, Ban quản lý chợ có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau:
Trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo phân cấp quản lý chợ quyết định:
Phê duyệt Phương án sử dụng địa điểm kinh doanh và bố trí, sắp xếp các ngành nghề kinh doanh tại chợ.
Quy định cụ thể việc sử dụng, thuê, thời hạn với các biện pháp quản lý điểm kinh doanh tại chợ.
Phê duyệt Nội quy chợ.
Phê duyệt Phương án bảo đảm Phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ.
Phê duyệt Kế hoạch sửa chữa lớn, nâng cấp cơ sở vật chất và phát triển các hoạt động của chợ khi có nhu cầu.
Quyết định việc tổ chức đấu thầu theo quy định của Pháp luật để lựa chọn thương nhân sử dụng hoặc thuê địa điểm kinh doanh tại chợ theo Phương án đã được duyệt. Trong trường hợp số thương nhân đăng ký ít hơn số điểm kinh doanh hiện có, Ban quản lý chợ được quyền quyết định việc lựa chọn thương nhân, không phải tổ chức đấu thầu.
Ký hợp đồng với thương nhân sử dụng hoặc thuê điểm kinh doanh tại chợ theo Phương án đã được duyệt.
Tổ chức quản lý, điều hành chợ hoạt động, tổ chức thực hiện Nội quy chợ và xử lý các vi phạm Nội quy chợ.
Phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn tổ chức đảm bảo phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ.
Tổ chức kinh doanh, phát triển các dịch vụ hỗ trợ như: trông giữ phương tiện vận chuyển, bốc xếp hàng hoá, cho thuê kho bảo quản cất giữ hàng hoá, cung cấp thông tin thị trường, kiểm định số lượng, chất lượng hàng hoá, vệ sinh môi trường ăn uống, vui chơi, giải trí và các hoạt động khác trong phạm vi chợ phù hợp với các quy định của pháp luật và theo hướng ngày càng văn minh hiện đại.
Tổ chức thu, nộp tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh của thương nhân và các loại phí, lệ phí về chợ theo quy định của pháp luật.
Phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan, đoàn thể tổ chức thông tin kinh tế - xã hội, phổ biến hướng dẫn việc thực hiện các chính sách, các quy định của pháp luật và nghĩa vụ đối với Nhà nước của thương nhân kinh doanh tại chợ; tổ chức các hoạt động văn hoá xã hội tại chợ.
Chịu trách nhiệm quản lý tài sản và kết quả tài chính của Ban quản lý chợ theo quy đinh của pháp luật.
Tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý Nhà nước theo quy định của Bộ Thương mại.
1.3. Về tổ chức
Ban quản lý chợ có Trưởng ban và có một đến hai Phó trưởng ban. Trưởng ban, Phó trưởng ban do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật.
Trưởng Ban quản lý chợ chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền về toàn bộ hoạt động của chợ và của Ban quản lý chợ. Phó trưởng ban có trách nhiệm giúp trưởng ban và chịu trách nhiệm trước Trưởng ban thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ do Trưởng ban phân công.
Căn cứ tính chất, đặc điểm, khối lượng công việc và khả năng tài chính, Trưởng ban quản lý chợ quyết định việc tổ chức các bộ phận chuyên môn nghiệp vụ giúp việc quản lý, điều hành chợ hoạt động và tổ chức các dịch vụ tại chợ; ký hợp đồng tuyển dụng lao động, các hợp đồng khác với các cơ quan, doanh nghiệp về đảm bảo vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy, an ninh trật tự… trong phạm vi chợ theo quy định của pháp luật.
1.4. Các khoản thu từ hoạt động của chợ
Ban quản lý chợ được thu các khoản sau:
Thu về cho thuê, sử dụng địa điểm kinh doanh tại chợ; cung cấp dịch vụ, hàng hoá:
Thu tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh tại chợ theo hợp đồng sử dụng, thuê điểm kinh doanh;
Thu từ việc cung cấp các dịch vụ bốc xếp hàng hoá, kho bãi để lưu giữ hàng hoá, dịch vụ bảo vệ theo hợp đồng cụ thể và các dịch vụ khác;
Thu khác: Thu được trích để lại theo hợp đồng uỷ nhiệm thu (thu phí, thu tiền điện, nước và các khoản có liên quan đến hoạt động kinh doanh tại chợ); thu tiền phạt, tiền bồi thường hợp đồng (nếu có) đối với các tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh tại chợ do vi phạm các quy định trong hợp đồng kinh tế ký kết với Ban quản lý chợ.
Các loại phí theo quy định của Pháp lệnh Phí và lệ phí ngày 28 tháng 8 năm 2001, bao gồm:
Phí chợ;
Phí trông giữ xe;
Phí vệ sinh.
Mức thu các loại phí trên thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo hướng dẫn chung của Bộ Tài chính
Phí phòng cháy, chữa cháy.
1.5. Quản lý, sử dụng các khoản thu, chi ở chợ
Ban quản lý chợ được sử dụng các khoản thu ở trên để chi cho các nội dung sau:
1.5.1. Đối với chợ loại 1 và loại 2:
Chi hoàn trả vốn đầu tư xây dựng chợ.
Chi cho người lao động: Chi tiền lương, tiền công, tiền ăn ca, các khoản phụ cấp lương, các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo quy định.
Chi quản lý hành chính: Vật tư văn phòng, điện, nước, thông tin liên lạc, họp bàn, hội nghị tổng kết, sửa chữa thường xuyên cơ sở vật chất: nhà cửa, máy móc, thiết bị…
Chi cho các hoạt động tổ chức thu (kể cả thu theo hợp đồng uỷ nhiệm thu).
Chi cho các hoạt động cung ứng dịch vụ (kể cả chi nộp thuế, trích khấu hao tài sản cố định).
Chi khác.
Ban quản lý chợ được thực hiện chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu
1.5.2. Đối với chợ loại 3:
Chi trả hoàn vốn đầu tư xây dựng chợ.
Chi tiền công cho người lao động.
Chi quản lý hành chính: Vật tư văn phòng, điện, nước, thông tin liên lạc, sửa chữa thường xuyên cơ sở vật chất: nhà cửa, máy móc, thiết bị…
Chi cho các hoạt động tổ chức thu (kể cả các hoạt động thu theo hợp đồng uỷ nhiệm thu).
Chi cho các hoạt động cung ứng dịch vụ (kể cả chi nộp thuế, khấu hao tài sản cố định).
Chi khác.
Ban quản lý chợ được sử dụng số thu để chi các khoản theo quy định, số thu còn lại nộp ngân sách Nhà nước theo quy định phân cấp quản lý ngân sách hiện hành.
1.6. Quyết toán các khoản thu, chi hoạt động của Ban quản lý chợ
Hàng năm, Ban quản lý chợ xây dựng dự toán, lập báo cáo quyết toán thu, chi kinh phí hoạt động trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo sự phân cấp quản lý chợ.
Ban quản lý chợ thực hiện công tác kế toán, thống kê và báo cáo tài chính theo quy định của Nhà nước về chế độ kế toán, thống kê áp dụng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp.
2. Tổ chức quản lý chợ theo mô hình doanh nghiệp (Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ)
2.1. Khái niệm:
Để hiều được doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ là gì trước hết cần phải định nghĩa khái niệm doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp là một danh từ chung để chỉ các đơn vị kinh doanh thuộc các loại hình khác nhau như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Theo Luật doanh nghiệp được Quốc hội khoá X thông qua năm 1999 thì doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Vậy tổ chức quản lý chợ theo mô hình doanh nghiệp (doanh nghiệp kinh doanh, khai thác và quản lý chợ) là gì?
Ta coi chợ như một tổ chức hoạt động kinh doanh bình thường, các công ty, các cá nhân, các tổ chức có mong muốn đều có thể tham gia đầu tư và tiến hành xây dựng chợ, các cấp chính quyền địa phương thông báo mời thầu. Các tổ chức, các cá nhân có khả năng có thể tham gia đấu thầu. Thông qua đấu thầu có thể chọn ra được một tổ chức, một cá nhân có năng lực nhất để tiến hành đầu tư, kinh doanh, khai thác, tổ chức và quản lý chợ đó. Khi đó, địa phương trên cơ sở là chủ sở hữu đất cho thuê, có thể thu phí hàng năm, ngoài ra còn có thể thu thêm Thuế Doanh nghiệp theo quy định của pháp luật (vì đây là doanh nghiệp đầu tư để kinh doanh chợ).
Doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh chợ sẽ có doanh thu từ các khoản phí cho thuê địa điểm chợ, các sạp chợ, các dịch vụ ở chợ… và cũng phải hoạt động độc lập như các doanh nghiệp kinh doanh khác, vẫn chịu ảnh hưởng điều chỉnh của Luật doanh nghiệp.
Tuy nhiên, các tổ chức, cá nhân khi tiến hành kinh doanh phải thu phí với một mức phí hợp lý, để đảm bảo cho các hộ kinh doanh có thể buôn bán được tại chợ. Ngoài ra còn có thể yêu cầu phía đơn vị kinh doanh lấy lao động trực tiếp ở các địa phương nhằm giải quyết việc làm cho lao động địa phương.
Vậy: Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ là một doanh nghiệp được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh chợ, đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Giám đốc
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc
Phòng Hành chính - tổ chức
Phòng
Quản lý chợ
Phòng
Kế toán
Phòng
Kinh doanh
Tổ
quản lý ngành hàng
Đội bảo vệ
Đội
vệ sinh môi trường
Tổ kiểm tra
Tổ điện nước
Các tổ dịch vụ
Đội bốc xếp
2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của doanh nghiệp kinh doanh, khai thác và quản lý chợ
Doanh nghiệp kinh doanh, khai thác và quản lý chợ là đơn vị kinh tế hoạt động theo Luật doanh nghiệp và các văn bản quy định của pháp luật, có trách nhiệm và quyền hạn tổ chức thực hiện các quy định dưới sau:
Được tổ chức kinh doanh các dịch vụ tại chợ trong phạm vi doanh nghiệp quản lý.
Đảm bảo công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong phạm vi chợ.
Xây dựng Nội quy trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp quản lý chợ, tổ chức điều hành chợ hoạt động theo Nội quy chợ và xử lý các vi phạm về Nội quy chợ.
Bố trí, sắp xếp khu vực kinh doanh đảm bảo các yêu cầu về trật tự, vệ sinh, văn minh thương mại và phù hợp với yêu cầu của thương nhân kinh doanh tại chợ.
Ký kết hợp đồng với các thương nhân về việc thuê, sử dụng điểm kinh doanh tại chợ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.
Tổ chức thông tin kinh tế, phổ biến chính sách, quy định của pháp luật và nghĩa vụ đối với Nhà nước của thương nhân kinh doanh tại chợ theo hướng dẫn của cơ quan chức năng.
Tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý Nhà nước th._.eo hướng dẫn của Bộ Thương mại.
2.3. Các khoản thu từ hoạt động chợ
Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ được thu các khoản giống như Ban quản lý chợ, bao gồm:
Thu về cho thuê, sử dụng địa điểm kinh doanh tại chợ; cung cấp dịch vụ, hàng hoá:
Thu tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh tại chợ theo hợp đồng sử dụng, thuê diểm kinh doanh.
Thu từ việc cung cấp các dịch vụ bốc xếp hàng hoá, kho bãi để lưu giữ hàng hoá, dịch vụ bảo vệ theo hợp đồng cụ thể và các dịch vụ khác.
Thu khác: Thu được trích để lại theo hợp đồng uỷ nhiệm thu (thu phí, thu tiền điện, nước và các khoản có liên quan đến hoạt động kinh doanh tại chợ); thu tiền phạt, tiền bồi thường hợp đồng (nếu có) đối với các tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh tại chợ do vi phạm các quy định trong hợp đồng kinh tế ký kết với Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ.
Các loại phí theo quy định của Pháp lệnh Phí và lệ phí ngày 28 tháng 8 năm 2001, bao gồm:
Phí chợ.
Phí trông giữ xe.
Phí vệ sinh.
Mức thu các loại phí nêu trên thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng dẫn chung của Bộ Tài chính.
2.4. Quản lý, sử dụng các khoản thu, chi ở chợ:
Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ được thu các khoản thu nêu trên.
Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải xây dựng kế hoạch kinh doanh và phương án tài chính cho hoạt động của mình. Việc xây dựng phương án tài chính dựa trên cơ sở các khoản thu để sử dụng chi cho các mục đích như hoàn trả vốn đầu tư xây dựng chợ, các chi phí cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp.
Tuỳ thuộc vào loại hình tổ chức (doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã, công ty cổ phần…) và quy mô hoạt động của các loại chợ, doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ được áp dụng với quy định hiện hành phù hợp với mỗi loại hình để tổ chức công tác kế toán, thống kê, quản lý và sử dụng các khoản thu, chi liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải thực hiện chế độ quyết toán và báo cáo tài chính doanh nghiệp theo quy định pháp luật.
Nhận xét chung: Mô hình tổ chức quản lý chợ chủ yếu hiện nay ở nước ta là Ban quản lý chợ. Một số nơi đã mạnh dạn thành lập doanh nghiệp quản lý chợ thuộc các thành phần kinh tế như ở Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Cần Thơ, Đồng Nai, Thành phố Hà Nội. Đã có cá nhân, các Công ty cổ phần, các Hợp tác xã tiến hành đầu tư, kinh doanh khai thác và quản lý chợ, trong đó có một số chợ gọi là công ty chợ như Công ty cổ phần chợ Đồng Xuân - Hà Nội. Nhìn chung, công tác quản lý chợ theo hình thức doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ có hiệu quả hơn, khai thác triệt để các nguồn thu, công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự… được quan tâm và đảm bảo hơn.
Sự xuất hiện của các loại hình quản lý (cụ thể là hai loại hình trên) có thể thấy rõ rằng, sự quản lý chợ ở nước ta đã dần dần được chuyên nghiệp hoá và cách bố trí cũng như sử dụng nguồn nhân lực một cách hiệu quả hơn, đó là hiệu quả của công tác quản lý. Nó hợp lý hoá cách phân bổ lực lượng lao động quản lý, phân cấp quản lý tạo nên sự thống nhất, gắn trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể cho từng cá nhân, tập thể, để họ hoạt động một cách độc lập, thống nhất và hiệu quả.
Số lượng chợ hoạt động hiệu quả ngày càng tăng bằng các hình thức quản lý chuyên nghiệp, tạo nên sự phát triển vững mạnh của mạng lưới chợ ở nước ta. Số lao động quản lý trong chợ ngày càng tăng, có tình chuyên môn, nghiệp vụ hơn là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của chợ tại thời điểm hiện tại và cả trong tương lai.
Khi công tác quản lý chợ được thực hiện một cách chuyên nghiệp, mọi hoạt động của chợ đều được lên kế hoạch một cách hợp lý, hệ thống hạch toán kinh doanh có thể cho biết kết quả của quá trình hoạt động của chợ, từ đó có thể đưa ra những phương án hiệu quả để xử lý và khắc phục. Các hoạt động của chợ sẽ chủ động hơn khi chúng ta nắm bắt được quy trình quản lý chợ một cách hợp lý (như các khâu: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, lãnh đạo, kiểm tra và đánh giá tổng kết…)
Nói tóm lại, nhất thiết chúng ta phải xây dựng được một hệ thống quản lý ở các chợ trong nước, mỗi chợ phải có một hình thức quản lý phù hợp thì nói mới có thể hoạt động hiệu quả và có thể phát triển được trong tương lai.
III. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở một số nơi ở nước ta
Trong bối cảnh chợ phải đối đầu cạnh tranh gay gắt với các kênh bán lẻ khác như siêu thị, cửa hàng và các đội quân bán hàng di động, nếu không theo kịp nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, mô hình chợ sẽ bị thu hẹp dần. Để vực dậy hoạt động chợ, chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ là biện pháp khả thi mà một số nơi đang tiến hành.
1. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở Thành phố Hồ Chí Minh: tư nhân quản lý chợ.
Mặc dù chợ là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ cho đời sống hàng ngày của người người dân, nhưng nhắc đến chợ nhiều người tỏ ra rất ngán ngẩm, đó là do chuyện mất vệ sinh môi trường, lối đi thì nhỏ hẹp và lầy lội, thêm nữa là vấn nạn tiểu thương nói thách, cân thiếu và vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Tình trạng chợ dơ bẩn, nhếch nhác có thể nói là rất nhiều, nhất là các loại chợ tạm, chợ cóc. Do vậy, người dân thường chọn cách đi siêu thị, dù giá có nhỉnh hơn chút ít nhưng mua sắm thoải mái và sạch sẽ.
Theo Báo cáo của Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh, hiện thành phố có khoảng 120 chợ chưa phù hợp với quy hoạch (chưa kể các chợ tự phát) nằm rải rác ở các Quận như quận Gò Vấp, quận Bình Thạnh, quận 8… Nhiều chợ không có bãi giữ xe hoặc họp chợ gần ngay lòng lề đường, gây kẹt xe, mất trật tự trên địa bàn. Ngoài ra Ban quản lý chợ năng lực còn hạn chế nên không tổ chức quản lý tốt và không đảm bảo được tính văn minh thương mại trong chợ.
Trong bối cảnh đó thì tại Thành phố Hồ Chí Minh trong vòng 10 năm nay, có tới gần 50 siêu thị, chưa kể các siêu thị thực phẩm nhỏ - minimart đã ra đời, thu hút dần lượng khách của các chợ. Trước đây, siêu thị được đánh giá là nơi mua sắm dành cho những người có thu nhập cao, nhưng hiện tại theo thăm dò và thống kê tại các siêu thị, đa phần khách hàng thường xuyên của siêu thị là những người có thu nhập trung bình và khá.
Trước tình hình cạnh tranh găy gắt giữa các kênh bán lẻ truyền thống và hiện đại, tiểu thương nhiều chợ đã lâm vào cảnh ế ẩm. Ở một số Quận, với những chợ do Nhà nước quản lý, ngay cả chợ mới tôn tạo, phía Nhà nước cũng phải luôn bù lỗ huồng gì nói tới việc thu nộp ngân sách.
Để thúc đẩy hoạt động chợ phát triển, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng trong dân thì việc nâng cấp, thay đổi cách quản lý chợ là rất cần thiết. Chính vì vậy, Nghị định số 02/2003/NĐ-CP của Chính phủ đã khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, xây dựng và khai thác chợ. Trước mặt tư nhân mới chỉ đấu thầu kinh doanh chợ (do Nhà nước xây dựng, làm chủ đầu tư), chứ chưa bỏ tiền để xây dựng toàn bộ chợ.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 1992, Sở Thương Mại thành phố đã thí điểm cho tư nhân đấu thầu kinh doanh chợ, nhưng ban đầu mới chỉ đấu thầu từng phần (bãi giữ xe, thu lệ phí…) cho tới cuối năm 2004 thì đã có 18 chợ được đấu thầu toàn phần.
Trước khi cho tư nhân quản lý, tổng doanh thu tại các chợ thuộc một số quận chỉ đủ bù đắp cho chi phí quản lý chợ, còn chi phí đầu tư sửa chữa đều do Ngân sách Nhà nước bỏ ra. Nhưng sau khi tổ chức đấu thầu, tổng số thu nộp ngân sách tăng lên, thậm chí tăng lên 10 lần so với trước.
Chợ Tân Phú (thuộc quận Tân Bình) là chợ loại 2 (quy mô 310 sạp), được tổ chức đấu thầu vào cuối năm 2001. Người trúng thầu là một cá nhân. Trước khi đấu thầu, chợ này nộp ngân sách chỉ khoảng 4,5 triệu đồng/tháng, nhưng hiện nay đã tăng lên gần 30 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, các chi phí sửa chữa, tân trang chợ, thuê nhân viên đều do chợ tự lo, không phải ngân sách cấp.
Còn đối với chọ Tân Hương (quận Tân Bình) đơn vị trúng thầu là Hợp tác xã Tân Tiến. Khi chợ còn thuộc sự quản lý của phường, việc thu chi cũng không cân đối đủ, huống gì chuyện sửa chữa chợ, dẫn đến tình trạng chợ xuống cấp, tiểu thương và dân cư kêu ca. Đến nay, ngoài việc nộp ngân sách Nhà nước mỗi năm chợ bỏ ra từ 50-60 triệu đồng để duy tu, sửa chữa quầy sạp.
Tư nhân trực tiếp đứng ra quản lý được chủ động hoàn toàn vấn đề tài chính nhưng vẫn theo chủ trương của Nhà nước, được Nhà nước theo dõi và hỗ trợ nên hiệu quả sẽ cao hơn quản lý theo kiểu bao cấp. Một khi tư nhân tự bỏ vốn và đứng ra quản lý thì họ sẽ tìm ra phương án kinh doanh tốt nhất để thu được lợi nhuận cho mình, nếu không họ sẽ bị phá sản.
Ngoài vấn đề tài chính, vấn đề vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy, an ninh trật tự… cũng được quản lý sâu sát hơn. Theo Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh, trước kia (khi chưa tư nhân hoá) các vấn đề trên do phường, quận thực hiện, phải có sự phối hợp giữa nhiều cơ quan chức năng khác nhau và phải chi cho ngân sách địa phương nên chỉ được thực hiện một cách lỏng lẻo. Tại các chợ đã giao thầu, vấn đề trên được cải thiện hơn so với chợ do Nhà nước trực tiếp trực tiếp quản lý. Ngoài ra các quầy sạp cũng được bố trí ngăn nắp, gọn gàng hơn nên số tiểu thương tăng đáng kể.
Sau thời gian thí điểm đạt hiệu quả, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành quy chế đấu thầu chợ (có hiệu lực từ ngày 30/09/2004). Trên cơ sở đó, Sở Thương mại sẽ tiếp tục tổ chức đấu thầu nhiều chợ tiếp theo trong thời gian tới.
Việc cho tư nhân đầu thấu chợ là cơ chế quản lý tiến bộ, tăng ngân sách Nhà nước, giảm chi phí quản lý và nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý chợ. Tuy nhiên, từ nay, các cá nhân không còn được tham gia đấu thầu mà phải là các tổ chức kinh tế (doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã…, trừ những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Một tổ chức hay doanh nghiệp sẽ có kinh nghiệm quản lý tốt hơn cá nhân, hơn nữa, để trúng thầu còn phải có tiềm lực tài chính mạnh và uy tín trong kinh doanh. Sở Thương mại sẽ chọn lọc những đối tượng dự thầu đầy đủ năng lực quản lý và tổ chức đấu thầu minh bạch, công khai.
Khi tư nhân kinh doanh chợ, trước hết họ phải tìm cách thu hút các tiểu thương (bằng chính sách, cơ sở vật chất và an ninh tốt). Nếu hoạt động của chợ văn minh lịch sự thì người tiêu dùng chắc chắn sẽ gắn bó với chợ, vì chợ vốn là nét văn hoá độc đáo của dân tộc.
2. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở một số tỉnh khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long: Hợp tác xã quản lý chợ.
Theo Thống kê thì Thành phố Cần Thơ có 88 chợ, khoảng trên 50% là chợ loại 3. Nhiều chợ xã, phường, thị trấn tương đối kiên cố nhưng không ít nơi còn nhếch nhác do thiếu quan tâm tổ chức, quản lý, sắp xếp ngành. Nguồn phí chợ thu được ít địa phương trích lại một phần cho tái đầu tư phát triển chợ. Bên cạnh đó, các Ban quản lý chợ còn yếu kém, ít kinh nghiệm, chu yếu lo tập trung vào thu lệ phí… chứ không mấy bận tâm đến công tác thăm dò thị trường, định kế hoạch phát triển khai thác chợ sao cho người bán thì mong muốn có một chỗ trong chợ để buôn bán thuận lợi, còn người mua thì khi có nhu cầu cũng nghĩ ngay đến chợ "sạch sẽ ngăn nắp, giá cả phải chăng, cân đo trung thực". Đây là hiện trạng khá phổ biến ở Thành phố Cần Thơ. Do đó để thúc đẩy hoạt động chợ phát triển, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng của dân cư, việc thay đổi hình thức tổ chức quản lý đã được tiến hành. Uỷ ban nhân dân Thành phố Cân Thơ đã giao 17 chợ cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng, khai thác kinh doanh. Mặc dù đến nay mới chỉ có một số chợ do Công ty Thương mại Tổng hợp Thành phố Cần Thơ khai thác được, số còn lại bị vướng mắc ở khâu giải phóng mặt bằng nhưng các chợ khai thác được đều kinh doanh rất tốt, nộp ngân sách tăng nhanh.
Đến nay, Liên minh Hợp tác xã Thành phố Cần Thơ đã phối hợp với Sở Thương mại khảo sát mạng lưới chợ, chủ yếu là các chợ laọi 3 trên toàn thành phố, tiến hành các bước vận động tổ chức thí điểm Hợp tác quản lý chợ ở một số chợ thuộc quận ninh Kiều.
Bên cạnh đó ở huyện Gò Công Tây (tỉnh Tiền Giang) có Hợp tác xã Bình Tây từ một Hợp tác xã Nông nghiệp chuyển sang "đa ngành nghề" đã thực hiện mô hình khai thác chợ khá hiệu quả, đem lại việc làm thu nhập ổn định cho các xã viên, hàng hoá đổ về chợ ngày càng phong phú. Hợp tác xã Bình Tây không chỉ quan tâm tạo ra một cái chợ sầm uất mà còn làm đầu mối giao thương với các vùng lân cận. Hàng năm ngoài việc nộp ngân sách Nhà nước, Hợp tác xã còn đầu tư 30-40 triệu đồng cho việc nâng cấp, sửa chữa, duy tu các quầy sạp trong chợ.
Hợp tác xã chợ - nếu được tổ chức thực hiện tốt sẽ là bước cải tiến mang tính đột phá về công tác quản lý, hiệu quả đầu tư, thu hút mạnh vốn trong dân, đẩy mạnh giao thương, kích cầu tiêu dùng và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Chương II
Thực trạng phát triển và tổ chức quản lý chợ
trên đại bàn quận Cầu Giấy hiện nay
I. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy
1. Vị trí địa lý
Quận Cầu Giấy có vị trí hết sức thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và thương mại - dịch vụ nói riêng. Quận Cầu Giấy được thành lập và đi vào hoạt động ngày 01/09/1997, trên cơ sở của 4 thị trấn Nghĩa Tân, Nghĩa Đô, Mai Dịch, Cầu Giấy và 3 xã Yên Hoà, Trung Hoà, Dịch Vọng của huyện Từ Liêm cũ, với tổng diện tích đất tự nhiên là 1.204,5 ha trong đó có 78 ha là đất nông nghiệp (năm 2005).
Cầu Giấy nằm ở cửa ngõ phía Tây, một trong những khu phát triển chính của Thành phố Hà Nội, cách trung tâm Thành phố khoảng 6 km, phía Bắc giáp Quận Tây Hồ, phía Nam giáp Quận Đống Đa, phía Đông giáp Quận Ba Đình, phía tây giáp thị trấn Cầu Diễn, huyện Từ Liêm.
Nằm trên trục đường giao thông vành đai nối thủ đô Hà Nội với sân bay Quốc tế Nội Bài và trục đường chính nối trung tâm Hà Nội với chuỗi đô thị vệ tinh Hoà Lạc - Sơn Tây, bên cạnh đó sự phát triển của hệ thống giao thông và sự phân bổ không gian công nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho Quận Cầu Giấy trong việc giao lưu kinh tế, lưu thông hàng hoá với các tỉnh lân cận.
Những yếu tố trên đóng vai trò rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển của mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy.
2. Về xã hội
2.1. Dân số và sự gia tăng dân số trên địa bàn Quận Cầu Giấy
Dân số trên địa bàn Quận trong những năm qua có tỉ lệ tăng bình quân rất cao (4,4% giai đoạn 2000-2005), bình quân mỗi năm dân số tăng khoảng gần 7 nghìn người.
Bảng: biến động dân số trên địa bàn quận Cầu Giấy
Chỉ tiêu
Năm
Dân số trung bình (người)
Mức tăng (người)
Tỉ lệ tăng dân số (%)
Mật độ dân số (người/km2)
2000
136.029
7332
5,70
11.285
2001
142.529
6500
4,78
11.824
2002
150.029
7500
5,26
12.446
2003
158.831
8802
5,87
13.177
2004
162.834
4003
2,52
13.509
2005
168.834
6000
3,68
14.006
Nguồn: Phòng Lao động Thương binh Xã hội quận Cầu Giấy
Ta thấy tỷ lệ dân số bình quân của Quận tăng rất nhanh bao gồm cả tăng tự nhiên và tăng cơ học, trong khi đó diện tích đất tự nhiên của Quận không đổi. Điều đó làm cho mật độ dân số bình quân tăng nhanh. Khi mật độ dân cư càng cao thì nhu cầu tiêu dùng càng lớn, nó đòi hỏi sự phát triển của mạng lưới chợ. Như vậy, dân số đóng vai trò rất trong việc phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn Quận Cầu Giấy, nó vừa có ảnh hưởng tiêu cực, vừa có ảnh hưởng tích cực.
Sự gia tăng dân số, mật độ dân số đã góp phần thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Tổng mức hàng hoá bán lẻ trong những năm qua đạt mức tăng trưởng khá và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu tổng mức hàng hoá bán ra đã cho thấy dân số đóng một vai trò nhất định.
Bảng: Biến động doanh thu bán lẻ của quận Cầu Giấy
Chỉ tiêu
Năm
Tổng doanh thu bán lẻ (triệu đồng)
Mức tăng
(triệu đồng)
Tỉ lệ tăng
(%)
2000
1.651.995
-
-
2001
2.432.874
780.879
47,27
2002
3.357.435
924.561
38,00
2003
4.728.198
1.370.763
40,83
2004
5.724.486
996.288
21,07
2005
6.812.982
1.088.496
19,01
Nguồn: Phòng Thống kê quận Cầu Giấy
Tuy nhiên, việc gia tăng dân số, nhất là dân nhập cư dã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển và hoat động của chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy. Số lượng chợ phát triển không tương xứng với việc gia tăng dân số, nhất là các khu dân cư mới hình thành, khu đô thị mới… đã dẫn đến việc hình thành các chợ tự phát. Mặt khác, một bộ phận dân cư chủ yếu là dân nhập cư không có công ăn việc làm thường tụ tập vào các chợ, các khu vực đông dân cư để buôn bán kiếm sống qua ngày dẫn đến hình thành các chơ tự phát ở nhiều khu vực, kể cả những khu vực ở xung quanh chợ chính thức. Các chính quyền địa phương cần kiên quyết giải quyết các chợ tự phát, lấn chiếm lòng lề đường, thực hiện nếp sống văn minh, trật tự đô thị và an toàn giao thông.
2.2. Mức sống dân cư
Nhìn chung, đời sống của người dân trên địa bàn Quận ngày càng được cải thiện, thu nhập bình quân tăng lên rất nhanh, thể hiện ở bảng sau:
Bảng: Mức biến động thu nhập bình quân của người dân ở quận Cầu Giấy:
Đơn vị: nghìn đồng
Năm
1998
2000
2002
2004
Thu nhập bình
quân / người / tháng
469
601
774
994
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Về cơ cấu chi tiêu, một người một tháng chi cho ăn uống cao nhất khoảng 45-48% tổng chi, kế đến là chi cho nhà ở, điện nước, thiết bị, đồ dùng khoảng 30-33%, chi cho học hành, y tế, vui chơi giải trí từ 22-24%.
Mức sống của người dân trong Quận trong những năm qua đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh khu vực thương mại - dịch vụ nói cung và chợ nói riêng. Mức sống dân cư mặc dù tăng lên rất nhanh nhưng nhìn chung vẫn còn thấp, nhất là khu vực nông thôn, công nhân làm việc ở các khu công nghiệp, khu chế xuất… chi tiêu chủ yếu là cho hoạt động ăn uống hàng ngày với chất lượng hàng hoá ở mức trung bình. Các kết quả khảo sát về nhu cầu mua sắm trong thời gian qua cho thấy, hàng lương thực, thực phẩm vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn. Điều này cho thấy chợ vẫn đóng vai trò quan trọng đối với đời sống của người dân trong Quận.
Tuy nhiên, trong những năm qua cũng đã diễn ra sự phân hoá về mức sống dân cư trên địa bàn. Một bộ phận dân cư có mức sống cao đã được hình thành và quy mô ngày càng lớn, tầng lớp này có những nhu cầu về những loại hàng hoá chất lượng cao từ hàng tiêu dùng đến hàng lương thực, thực phẩm, các loại thực phẩm an toàn… Thói quen mua sắm ở các siêu thị, trung tâm thương mại đã xuất hiện ở tầng lớp dân cư có mức thu nhập từ trung bình trở lên. Một xu hướng mua sắm mới đã hình thành và từng bước phát triển trên địa bàn Quận. Đó là mua sắm ở các siêu thị, trung tâm thương mại của bộ phận dân cư có thu nhập cao, lan toả đến bộ phận dân cư có thu nhập khá và trung bình.
3. Về kinh tế
Mặc dù Quận mới được thành lập, có xuất phát điểm thấp so với các quận khác trong Thành phố nhưng trong những năm qua Quận đã đạt được tăng trưởng khá về kinh tế, thể hiện ở bảng số liệu sau:
Bảng: Biến động giá trị GDP của quận Cầu Giấy theo khu vực kinh tế:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Tổng
Trong đó
Khu vực I
Nông nghiêp
Khu vực II
Công nghiệp - Xây dựng
Khu vực III Thương mại - Dịch vụ
2000
1.010.851
13.377
755.268
242.206
2001
1.564.642
8.661
1.262.313
293.668
2002
1.923.656
8.633
1.545.425
369.598
2003
2.589.960
6.858
1.858.961
724.141
2004
2.900.199
1.741
2.037.355
861.023
2005
3.347.601
1.020
2.325.688
1.021.893
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Chú thích: GDP tính theo giá hiện hành
Ta thấy giá trị GDP của Quận tăng lên rất nhanh, năm 2005 cao gấp 3 lần so với năm 2000, trong đó đặc biệt khu vực Thương mại - Dịch vụ tăng gấp khoảng 4 lần.
Sự tăng trưởng kinh tế dẫn đến việc gia tăng khối lượng hàng hoá sản xuất ra, từ đó gia tăng tổng mực hàng hoá bán ra trên thị trường; hàng hoá ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại, lượng hàng hoá về các chợ cũng nhiều hơn, người tiêu dùng có nhiều cơ hội để lựa chọn.
Như vậy, tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn Quận.
II. Thực trạng chung về phát triển mạng lưới chợ
1. Thực trạng về số lượng và phân bổ mạng lưới chợ
Những năm qua, quá trình phát triển kinh tế - xã hội cùng với sự tham gia của các thành phần kinh tế đã làm có nhu cầu ngày càng tăng về việc tổ chức địa điểm trao đổi, mua bán hàng hoá phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của dân cư. Ngoài ra, từ ngày thành lập Quận cho đến nay, công tác phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn cũng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành. Vì thế, số lượng chợ tăng lên rất nhanh. Tính đến hết năm 2005, trên địa bàn Quận có tất cả 10 chợ đang hoạt động, tăng thêm 7 chợ so với năm 1997. Bảy chợ xây mới sau khi Quận thành lập là: chợ Quan Hoa, chợ Xe máy - đồ cũ Dịch Vọng, chợ đêm Nông sản Dịch Vọng, chợ Đồng Xa, chợ Trần Duy Hưng, chợ Hợp Nhất và chợ 337 Dịch Vọng.
Bảng: Số lượng và phân bổ mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy
(tính đến hết tháng 12/2005)
Chỉ tiêu
Phường
Số chợ
(chợ)
Dân số
(người)
Dân số bình
quân một chợ (người/chợ)
Toàn quận
10
168.834
16.883
Trung Hoà
1
20.108
20.108
Yên Hoà
1
21.093
21.093
Quan Hoa
3
22.634
7.545
Dịch Vọng
3
19.748
6.583
Dịch Vọng Hậu
0
16.609
-
Mai Dịch
1
25.459
25.459
Nghĩa Tân
1
20.490
20.490
Nghĩa Đô
0
22.693
-
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Tuy nhiên, sự phân bổ mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy hiện nay vẫn chưa đồng đều giữa các phường, các khu vực. Có phường có đến 3 chợ như phường Quan Hoa, phường Dịch Vọng, do đó mật độ dân số bình quân của một chợ ở các phường này thấp hơn hẳn các phường khác. Trong đó có những phường chưa có chợ nào (phường Dịch Vọng Hậu, phường nghĩa Đô). Bên cạnh đó sự quy hoạch mạng lưới chợ không theo kịp với sự quy hoạch đô thị nên không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của dân cư ở đây. Từ đó dẫn đến việc hình thành các tụ điểm chợ xanh, chợ tạm, chợ cóc như chợ hoa tươi trước cổng Khu Tổng cục chính trị (phường Mai Dịch); chợ Bái Ân, chợ K800 (phường Nghĩa Đô); chợ đầu cầu Yên Hoà, chợ Xóm chùa (phường Yên Hoà), chợ Sân vận động Nghĩa Tân (phường Nghĩa Tân)…
2. Thực trạng phân loại chợ
Các chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy theo các tiêu chí khác nhau được phân loại như sau:
Tiêu chí phân loại
Tên chợ
Theo tính chất mua bán
Theo đặc điểm mặt hàng
Theo tính chất và quy mô
xây dựng
Theo số lượng
hộ kinh doanh,
vị trí và mặt
bằng của chợ
Bán buôn
Bán lẻ
Tổng hợp
Chuyên doanh
Kiên cố
Bán kiên cố
Loại 1
Loại 2
Loại 3
Cầu Giấy
x
-
x
Quan Hoa
Nhà Xanh
Nghĩa Tân
Đồng Xa
Nông sản DV
Xe máy DV
337 DV
Hợp Nhất
Trần Duy Hưng
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Chú thích: Nông sản DV: Nông sản Dịch Vọng;
Xe máy DV: Xe máy Dịch Vọng; 337 DV: 337 Dịch Vọng
Như vậy, toàn Quận có tất cả 10 chợ đang hoạt động, nhưng không có chợ loại 1 nào, có 3 chợ loại 2, còn lại là các chợ loại 3. Chỉ có duy nhất một chợ Nông sản Dịch Vọng là chợ bán buôn, còn lại các chợ đều là chợ bán lẻ. Có hai chợ chuyên doanh là chợ xe máy cũ Dịch Vọng và chợ Nông sản Dịch Vọng, các chợ còn lại đều là chợ tổng hợp. Không có chợ nào được xây dựng kiên cố hoàn toàn, mà đa số các chợ đều được xây dựng bán kiên cố là chủ yếu hoặc kiên cố lẫn bán kiên cố.
3. Thực trạng về quy mô các loại chợ
Ta phân tích thực trạng quy mô các loại chợ theo 2 tiêu thức diện tích chợ và số người bán. Ta có bảng số liệu sau:
Tiêu thức
Chợ
Diệc tích (m2)
Số người bán (người)
Tổng diện tích
Diện tích xây dựng
Tổng số người bán (người)
Số người bán cố định (người)
Toàn quận
35.166
16.102
2730
1830
Cầu Giấy
1685
2300
157
157
Quan Hoa
1200
900
89
69
Nhà Xanh
1755
1470
220
157
Nghĩa Tân
6220
3321
558
476
Đồng Xa
9739
3320
456
456
Nông sản DV
3964
898
700
0
Xe máy DV
5900
2220
195
195
Hợp Nhất
3203
873
170
150
Trần Duy Hưng
1500
800
185
170
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
3.1. Quy mô theo tiêu thức diện tích chợ
Với 9 chợ trên địa bàn toàn Quận (không kể chợ 337 Dịch Vọng xây dựng năm 2005) có tổng diện tích là 35.166 m2, bình quân mỗi chợ có diện tích là 3907 m2; bình quân diện tích cho mỗi người bán là 12,9 m2/người, trong đó diệc tích xây dựng là 5,9 m2/người.
Ta thấy đa số các chợ mặc dù có tổng diện tích không nhỏ nhưng diện tích được xây dựng còn ít (chiếm chưa đến 50% tổng diện tích), do đó cần thiết phải đầu tư để mở rộng quy mô diện tích được xây dựng, đặc biệt là xây dựng kiên cố, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động kinh doanh buôn bán ở chợ được thoải mái và đầy đủ.
3.2. Quy mô theo tiêu thức người bán
Hiện có khoảng 2730 người bán hàng tại các chợ trên địa bàn Quận, trong đó số người bán cố định là 1830 người (chiếm 67%) và số người bán không cố định trong đó bao gồm cả những người sản xuất trực tiếp bán sản phẩm tự sản xuất là khoảng 900 người (chiếm 33%).
Tuy nhiên, tỷ lệ số người bán cố định và không cố định này giữa các chợ là không giống nhau, có chợ tỷ lệ này là 100% (chợ Cầu Giấy, chợ Đồng Xa, chợ Xe máy cũ Dịch Vọng), số chợ còn lại tỷ lệ này khoảng 70-90%, riêng chợ Nông sản Dịch Vọng số người bán trong chợ 100% là không cố định, điều này hoàn toàn phù hợp với chức năng của chợ là chợ đầu mối, tập trung lượng hàng nông sản từ các nguồn, các hộ trực tiếp sản xuất để tiếp tục phân phối tới các chợ và các kênh lưu thông khác.
Từ đó ta có thể thấy, hoạt động buôn bán trong chợ chưa có tính chuyên sâu, tức là trong chợ, hình thức tự sản xuất và tự bán thành phẩm vẫn xảy ra tương đối, nó hạn chế sự phát triển của hoạt động thương mại trong chợ, các hoạt động chợ sẽ dẫn tới sự thất thường do phụ thuộc một phần vào lực lượng người bán không cố định này. Mặt khác, số lượng người bán trung bình trong mỗi chợ chỉ khoảng 203 người, như thế quy mô đa số các chợ hiện nay trên địa bàn Quận vẫn còn nhỏ. Vì vậy, cần thiết phải phát triển hệ thống chợ trên địa bàn Quận, mở rộng hơn nữa cả về diện tích lẫn số người bán.
4. Thực trạng về cơ sở vật chất kỹ thuật
Thực trạng về cơ sở vật chất của mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy được thể hiện trong bảng sau:
Đơn vị: m2
Chợ
Diện tích kiên cố (tầng, kiểu cách xây dựng…)
Diện tích bán
kiên cố (khung thép, mái tôn…)
Lều lán tạm
Toàn Quận
301
12.509
1863
Cầu Giấy
207
1.400
900
Quan Hoa
1.200
Nhà Xanh
1.795
Nghĩa Tân
94
2.406
763
Đồng Xa
2.720
Nông sản DV
720
Xe máy DV
800
200
Hợp Nhất
768
Trần Duy Hưng
700
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Ta thấy, hiện tại trung bình chỉ có khoảng 2% diện tích các chợ trong toàn Quận được xây dựng kiên cố, có tới 85% diện tích xây dựng bán kiên cố; 12,7% số diện tích các chợ vẫn trong tình trạng lều, lán tạm thời.
Một số chợ tuy đã được xây dựng kiên cố, sau một thời gian sử dụng, do không được tu bổ kịp thời, cải tạo chắp vá và thiếu vốn để đầu tư sửa chữa, nâng cấp nên đã xuống cấp, không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh, không phát huy hết tiềm năng của chợ và không đảm bảo được yêu cầu văn minh thương nghiệp. Bên cạnh đó, các hạng mục như đường đi lại trong chợ, hệ thống cấp nước, công trình vệ sinh, xử lý nước thải, rác thải… chưa được quan tâm đúng mức nên điều kiện vệ sinh nói chung và vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng không được đảm bảo.
Như vậy, có thể thấy, cơ sở vật chất mạng lưới chợ trên địa bàn toàn Quận hiện nay vẫn chưa tương xứng với vị trí, vai trò của chợ, chưa đáp ứng được yêu cầu trao đổi hàng hoá của nhân dân. Do đó cần có sự đầu tư thoả đáng để phát triển hơn nữa mạng lưới chợ cả về số lượng và chất lượng.
5. Thực trạng hoạt động kinh doanh của các chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy
5.1. Về hàng hoá kinh doanh tại chợ
Ngoài chợ Nông sản Dịch Vọng, chợ Xe máy cũ Dịch vọng là chợ chuyên doanh, số chợ còn lại đều là chợ kinh doanh tổng hợp, nhưng chủ yếu vẫn là hàng nông sản thực phẩm tươi sống và hàng tiêu dùng hàng ngày, bao gồm các loại hàng hoá cụ thể sau:
Hàng lương thực;
Hàng thực phẩm;
Hoa quả các loại;
Nông sản;
Lâm sản;
Cây con giống;
Hàng tiểu thủ công nghiệp;
Hàng công nghiệp, điện tử.
Trong đó sự phân bổ hàng hoá như sau:
Hàng hoá
Tỷ lệ (%)
Hàng lương thực
9
Hàng thực phẩm
43
Hoa quả các loại
12
Nông sản
7
Lâm sản
2
Cây con giống
3
Hàng tiểu thủ công nghiệp
14
Hàng công nghiệp, điện tử
10
Nguồn: Phòng Thống kê quận Cầu Giấy
Biểu đồ phân bổ cơ cấu hàng hoá tại chợ:
Ta thấy, các mặt hàng chủ yếu được bán trong chợ là hàng tiêu dùng (lương thực, thực phẩm, hoa quả…), các mặt hàng trong chợ tỏ ra có lợi thế về chủng loại, đa dạng và phong phú về hình thức, nhãn hiệu… Và vì thế, rất tiện lợi cho công việc nội trợ, mua sắm, các hoạt động sinh hoạt cũng như sản xuất nhỏ. Như thế nó đáp ứng tất cả các nhu cầu của khách hàng.
Tuy nhiên, ta thấy được sự hạn chế rất lớn của các loại hàng hoá bán tại chợ hiện nay đó là:
Hàng hoá kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ hiện đang còn rất nhiều trên thị trường, và đặc biệt là trong chợ.
Giá cả hàng hoá trong chợ không theo một quy định nào, gây lên rất nhiều phiền toái cho người tiêu dùng, giá cả giao bán tăng lên nhiều so với giá thực tế cần bán làm cho nhiều người tiêu dùng hoang mang, thiệt thòi.
Việc đo lường các đơn vị hàng hoá ở chợ còn nhiều bất cập, tình trạng gian lận còn khá phổ biến, chưa có đầy đủ các dịch vụ đo lường chính xác ở chợ. Hiện tượng này đang làm ảnh hưởng tới uy tín của các chợ.
Hàng hoá trong chợ chưa được kiểm tra độ an toàn vệ sinh thực phẩm một cách nghiêm chỉnh, trình độ của đội ngũ kiểm tra an toàn thực phẩm còn hạn chế.
5.2. Hiệu quả sử dụng mặt bằng kinh doanh ở các chợ
5.2.1. Khai thác mặt bằng kinh doanh ở các chợ
Về khai thác mặt bằng kinh doanh ở các chợ, có thể chia làm 3 loại: loại chợ không khai thác hết mặt bằng kinh doanh, loại chợ khai thác hết mặt bằng kinh doanh, loại chợ khai thác quá mức mặt bằng kinh doanh.
Theo kết quả khảo sát, đến hết năm 2005 đối với toàn bộ mạng lưới chợ trong Quận có 23% số chợ không sử dụng hết công suất; 49,3% số chợ sử dụng hết 100% công suất thiết kế và 27,7% số chợ sử dụng quá công suất thiết kế ban đầu. Số liệu trên cho thấy, đa số các chợ khai thác hết công suất hoặc vượt quá công suất thiết kế ban đầu. Một số chợ như chợ Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Nhà Xanh…, các khoảng trống xung quanh chợ được bố trí các quầy sạp kinh ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9075.doc