Biện pháp chủ yếu nhằm tăng cường khả năng cạng tranh của Công ty Cổ phần Thăng Long

Lời cảm ơn Nhờ sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.NGUYễN CảNH HOAN cùng sự giúp đỡ của các cô, các chú trong các phòng ban của Công ty cổ phần Thăng Long, đặc biệt là Phòng Thị Trường II để em hoàn thành chuyên đề này. Trong thời gian tìm hiểu và thực tập tại Công ty cổ phần Thăng Long, dù với nỗ lực và cố gắng hết mình song thời gian và khuôn khổ đề tài có hạn, kinh nghiệm về thực tế chưa nhiều mà chỉ là những kiến thức nghiên cứu lý luận trên sách vở nên chuyên đề này chắc chắn không t

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện pháp chủ yếu nhằm tăng cường khả năng cạng tranh của Công ty Cổ phần Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, em kính mong thầy giáo cùng các cô chú trong Phòng Thị Trường II của Công ty xem xét và góp ý để chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.NGUYễN CảNH HOAN cùng các chú, các anh trong Phòng Thị Trường II. lời mở đầu Trên thế giới ngày nay, khi kinh doanh trở thành một ngành nghề và một lĩnh vực mà nhiều người quan tâm thì cạnh tranh trở thành một lẽ tất yếu xảy ra. Bất kỳ một doanh nghiệp nàohoạt động trong nền kinh tế thị trường cũng phải hiểu rằng : "Thương trường là chiến trường". ở đó, tuy không có súng đạn, bom mìn nhưng các tình huống cạnh tranh diễn ra rất gay go, khốc liệt, một mất một còn. Ai đi đúng quy luật thị trường và "chớp" đúng thời cơ, cơ hội kinh doanh thì sẽ là người thắng cuộc. Còn ngược lại, nếu vận dụng sai quy luật hoặc bất chấp quy luật thì sẽ là kẻ bại trận. Vì vậy, muốn thành công trong kinh doanh thì bắt buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh, bởi cạnh tranh quyết định vấn đề sống còn đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới, nước ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà Nước đã tạ điều kiện cho sự xuất hiện của hàng loạt các doanh nghiệp mới và kéo theo sự sôi động của một thị trường tràn ngập các loại hàng hoá. Đây chính là nhân tốlàm cho nền kinh tế thị trường Việt Nam trở nên cạnh tranh khốc liệt hơn. Do vậy mà sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là điều tất yếu. Dẫn tới một thực tế là : Có những doanh nghiệp tồn tại, đứng vững và ngày càng phát triển nhưng ngược lại có những doanh nghiệp xa xút, lụi bại và cuối cùng mất đi chỗ đứng trên thị trường.Bởi lẽ đó, điều trăn trở lớn nhất, bao trùm lên các doanh nghiệpluôn là câu hỏi : Làm thế nào để doanh nghiệp tồn tại, đứng vững và phát triển ? Song không ai có thể phủ nhận rằng : Để tồn tại, đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường đầy rẫy những cam go, ác liệt ấy thì không còn cách nào khác là các doanh nghiệp phải tự tìm cho mình một con đường đi mới, một lối thoát để cứu lấy mình, cứu lấy bản thân doanh nghiệp. Đó chính là tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, chinh phục người tiêu dùng mới mong có được sự thành công trong lĩnh vực kinh doanh. Trên cơ sở những nhận thức về vấn đề cạnh tranh - một trong những vấn đề quyết định sự thành bại của doanh nghiệp và thực tiễn tình hình cạnh tranh của Công ty cổ phần Thăng Long, em đã manh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài : "Một số biện pháp chủ yếu nhằm tăng cường khả năng cạng tranh của Công ty cổ phần Thăng Long" cho chuyên đề thực tập. Bố cục của chuyên đề thực tập này ngoài lời mở đầu và kết luận ra, bao gồm 3 chương : chương i : Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường chương ii : Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần Thăng Long hiện nay chương iii : Một số biện pháp chủ yếu nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần Thăng Long Do hạn chế về thời gian, trình độ và kinh nghiệm thực tế nên chắc chắn chuyên đề thực tập này không thể tránh được những thiếu sót và hạn chế nhất định … Vì vậy, em kính mong được sự chỉ bảo, góp ý của thầy cô, các cô chú của Công ty cổ phần Thăng Long cùng tất cả bạn đọc. chương i những vấn đề cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường bao gồm các mảng cạnh tranh khác nhau được xem xét từ nhiều giác độ khác nhau. ở đây, ta chỉ xem xét những vấn đề cơ bản về cạnh tranh của các doanh nghiệp dưới giác độ kinh tế học. I- Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 1. Nhận thức cơ bản về thị trường Có rất nhiều khái niệm về thị trường, sau đây chỉ là một số khái niệm phổ biến : - Thị trường là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá được biểu hiện bằng các hoạt động mua bán, trao đổi diễn ra trong phạm vi không gian và thời gian nhất định. Theo nghĩa rộng, thị trường chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá, nơi gặp gỡ của cung và cầu. Thị trường hình thành do yêu cầu của việc trao đổi một thứ hàng hoá dịch vụ nào đó hoặc một đối tượng có giá trị. Đó có thể là thị trường lúa gạo, thị trường sức lao động hoặc thị trường tiền tệ… Bản chất của thị trường chính là hoạt động trao đổi mà thông qua đó người mua và người bán thoả mãn nhu cầu của chính mình. - Thị trường cũng là sự kết hợp giữa cung cầu, trong đó những người mua và người bán bình đẳng, cùng cạnh tranh. Số lượng người mua và người bán nhiều hay ít phản ánh quy mô của thị trường lớn hay nhỏ. Việc xác định nên mua hay nên bán hàng hoá dịch vụ với khối lượng và giá cả bao nhiêu do cung và cầu quyết định. Từ đó ta thấy rằng thị trường còn là nơi thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa hai khâu : sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Đối với các doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh của họ luôn gắn với một thị trường hàng hoá dịch vụ cụ thể. Đó chính là nơi đảm bảo cung ứng các yếu tố "đầu vào" và giải quyết vấn đề "đầu ra" cho sản xuất và tiêu thụ. - Theo PhiLip Kotler thì "thị trường là tập hợp những người mua hàng hiện tại và tương lai". Với quan điểm này, thị trường luôn ở trạng thái vận động và phát triển. Khả năng phát triển của khách hàng sẽ quyết định sự phát triển thị trường của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, thị trường có vai trò hết sức quan trọng cụ thể như sau : - Đối với nền kinh tế quốc dân : Thị trường là đối tượng, là căn cứ của kế hoạch, là công cụ bổ sung cho các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà Nước, là nơi Nhà nước thực hiện và kiểm nghiệm tính đúng đắn, khả thi của các đường lối chính sách của Đảng - Nhà nước. Sự phát triển của thị trường đảm bảo cho xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá trong quá trình phát triển kinh tế đát nước. - Đối với các doanh nghiệp : Thị trường là bộ phận chủ yếu nhất trong môi trường kinh doanh. Thị trường là nơi hình thành và thực hiện các quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với môi trường xung quanh. Là "câu nối" giữa doanh nghiệp với cộng đồng dân cư, doanh nghiệp khác và cả hệ thống nền kinh tế quốc dân. Là nơi cung cấp các yếu tố "đầu vào" và giải quyết "đầu ra" cho hoạt động sản xuất kinh doanhcủa doanh nghiệp, thị trường quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sức sống và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào chiến lược củng cố và phát triển thị trường. Thị trường bao gồm các chức năng cơ bản sau đây : Một là - Chức năng thừa nhận và thực hiện Đây là chức năng quan trọng nhất. Khi quá trình mua bán và trao đổi diễn ra thì nó đồng nghĩa với việc thị trường thực hiện chức năng thừa nhận và thực hiện. Thị trường thừa nhận tính hai mặt của hàng hoá đem trao đổi là giá trị và giá trị sử dụng. Về mặt giá trị, sự chấp nhận của thị trường về giá cả hàng hoá tiêu thụ có nghĩa là thị trường chấp nhận các chi phí cho việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá dịch vụ của nhà kinh doanh. Việc thừa nhận giá trị của hàng hoá cũng bao hàm cả sự thừa nhận của người tiêu dùng với các sản phẩm hàng hoá dịch vụ cung ứng. Đó chính là sự phù hợp giữa chất lượng sản phẩm , giá bán và khả năng tanh toán của khách hàng. Về mặt giá trị sử dụng, thị trường thừa nhận những lợi ích do sản phẩm mang lại và nó phản ánh ở thị hiếu, tập quán và tâm lý tiêu dùng. Hai là - Chức năng điều tiết và kích thích Thị trường thực hiện chức năng điều tiết và kích thích thông qua các quy luật kinh tế. Quá trình điều tiết này diễn ra cả ở hai thái cực điều tiết sản xuất và điều tiết iêu dùng. Với sản xuất, thị trường tự phát điều tiết việc di chuyển vốn và lao đống sang các ngành sản xuất có nhu cầu xã hội lớn và lợi nhuận cao; đông thời có thể khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển của một ngành hàng nào đó. Từ đó tạo ra sự cân đối cung - cầu về một loại hàng hoá, thay đổi cơ cấu sản xuất của các ngành, các vùng lãnh thổ. Với tiêu dùng, thị trường làm thay đổi mặt hàng tiêu dùng cũng như cơ cấu dân cư từ đó họ sẽ cân nhắc, tính toán để gia tăng lợi ích của mìnhvà sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực xã hội. Ba là - Chức năng thông tin Thị trường là nơi chứa đựng các thông tin cần thiết cho cả nhà kinh doanh và người tiêu dùng. Đối với nhà kinh doanh, thị trường giúp họ nắm bắt các thông tin cần thiết như : số lượng và cơ cấu của cung cầu hàng hoá, những đặc điểm về nhu cầu tiêu dùng của dân cư, khả năng thanh toán của khách hàng, giá cả thị trường,tình hình cạnh tranh thị trường, môi trường chính trị, pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh… từ đó giúp nhà kinh doanh có thể tận dụng cơ hội và tránh được rủi ro kinh doanh. Đối với người tiêu dùng, thị trường cung cấp các thông tin về hàng hoá dịch vụ, về giá cả, về các dịch vụ của nhà kinh doanh… Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều quy luật hoạt động đan xen và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Sau đây là các quy luật kinh tế của thị trường : - Quy luật giá trị : quy định hàng hoá được sản xuất ra và trao đổi trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, tức chi phí bình quân trong xã hội. - Quy luật cung - cầu : Nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị trường. Quy luật này quy định cung cầu luôn luôn có xu thế chuyển dịch xích lại gần nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường. - Quy luật lưu thông tiền tệ : Xác định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông. Theo quy luật này, số lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng tổng số giá cả của toàn bộ hàng hoá chia cho số lần luân chuyển trung bình của đơn vị tiền tệ cùng loại. - Quy luật cạnh tranh : Đây là quy luật đặc thù của nền kinh tế thị trường. Không chỉ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tồn tại cạnh tranh mà bất kỳ nền kinh tế nào phát triển theo xu hướng thị trường với sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế và đa dạng hoá các hình thức sở hữu thì đều tồn tại cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một sản phẩm nào được đưa ra thị trường cũng chịu sức ép cạnh tranh nhất định bởi các sản phẩm khác cùng loại hoặc các sản phẩm thay thế. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, số lượng các nhà cung ứng cũng như các doanh nghiệp càng nhiều, hàng hoá bán ra càng tăng thì cạnh tranh càng mạnh mẽ và ác liệt. Kết quả của các cuộc cạnh tranh là một số doanh nghiệp bị thu hẹp thị trường của mình hoặc thậm chí bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi đó một doanh nghiệp khác lại mở rộng thị trường và ngày càng phát triển. Tuy nhên không có cơ sở nào khẳng định kết quả này là vĩnh cửu. Rất có thể trong những cuộc cạnh tranh tiếp theo, những doanh nghiệp tưởng như ngày càng phát triển ấy lại sẽ bị các doanh nghiệp khác thôn tính. Có nghĩa là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có thể coi là cuộc chạy đua "Maratông kinh tế" không có đích cuối cùng. Doanh nghiệp nào cảm nhận thấy đích, doanh nghiệp đó sẽ trở thành nhịp cầu cho đối thủ vượt lên phía trước. Mọi doanh nghiệp không thể lẩn tránh cạnh tranh, vì như vậy cầm chắc phá sản, mà thay vì đó phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh, sẵn sàng và linh hoạt sử dụng những công cụ cạnh tranh hữu hiệu. 2- Cạnh tranh - Nhìn từ góc độ tổng thể nền kinh tế Cạnh tranh là cuộc đấu tranh giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường nhằm giành giật lợi ích kinh tế về mình. Các chủ thể kinh tế ở đây chính là các bên mua và bên bán các loại hàng hoá và dịch vụ. Đối với bên mua, họ muốn tối đa hoá lợi ích của những mặt hàng mà họ mua được đem lại hay nói cách khác là họ muốn mua được những hàng hoá có chất lượng cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng mà giá lại rẻ. Ngược lại, bên bán bao giờ cũng hướng tới tố đa hoá lợi nhuận bằng cách bán được thật nhiều hàng với giá cao. Như vậy, các bên cạnh tranh nhau để giành phần lợi về mình. Nói đến cạnh tranh không thể không nói đến các nhân tố cấu thành cạnh tranh. Sự cạnh tranh chỉ có thể xảy ra khi có đủ 3 yếu tố sau : - Các chủ thể kinh tế tham gia cạnh tranh, tức là những người có cung, có cầu về hàng hoá, dịch vụ (bên mua và bên bán) - Đối tượng để thực hiện cạnh tranh, tức là các loại hàng hoá và dịch vụ. - Môi trường cho việc cạnh tranh, tức là thị trường cạnh tranh. Cạnh tranh có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau, người ta phân loại dựa vào các căn cứ sau : Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường, người ta chia ra: - Thị trường cạnh tranh hoàn hảo - Thị trường cạnh tranh độc quyền - Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo Thị trường cạnh tranh hoàn hảo : Là thị trường bao gồm rất nhiều người mua, người bán song không ai có ưu thế trong việc cung ứng hay mua sản phẩm để có thể làm thay đổi được giá trên thị trường. Các sản phẩm bán ra trên thị trường này được xem như là đồng nhất, tức chúng khác nhau không nhiều về quy cách, phẩm chất, mẫu mã…( VD như : lúa mì, chứng khoán có giá). Người bán cung ứng sản phẩm ra thị trường với những điều kiện tương đối giống nhau kể cả về phương thức bán hàng, giao dịch, giao hàng và dịch vụ hàng hoá…Các tin tức về thị trường, giá cả, cả người mua và người bán đều nắm rõ. Điều kiện tham gia cũng như rút lui khỏi thị trường là dễ dàng. Thị trường cạnh tranh độc quyền tuyệt đối Thị trường cạnh tranh độc quyền tuyệt đối là một thái cực khác hẳn với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Nếu như cạnh tranh hoàn hảo có vô số người bán thì trong độc quyền chỉ có duy nhất một hãng sản xuất và bán ra một loại hàng hoá,dịch vụ nào đó mà không có hành hoá thay thế. Trên thị trường, các nhà độc quyền hoàn toàn có thể quyết định và định đoạt giá cả bao nhiêu cũng được. Giá cả có thể được xác định với ý đồ bù đắp chi phí hay có được thu nhập khá. Cũng có thể là giá cả được xác định rất cao để giảm tố đa mức tiêu dùng. Tuỳ theo đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm (thuộc nhu cầu cứng hay nhu cầu mềm) và cơ chế quản lý giá của Nhà Nước mà nhà độc quyền định giá cao hay thấp để cuối cùng thu được lợi nhuận tối đa. Nói chung độc quyền trong sản xuất kinh doanh là lợi thế lớn nhất đối với nhà độc quyền, song về mặt xã hội thì nó kìm hãm sự phát triển của sản xuất, làm hại người tiêu dùng. ở nước ta, tình trạng độc quyền rất phổ biến thời bao cấp. Đến nay, chỉ còn một số doanh nghiệp Nhà Nước được phép độc quyền như : Tổng Công ty Điện Lực, Công ty Nước Sạch, Tổng Công ty Bưu Chính Viễn Thông, Tổng Công ty Đường Sắt Việt Nam, Hãng Hàng Không Việt Nam … Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo : Đây là loại thị trường phổ biến hiện nay. Trên thị trường này, phần lớn các sản phẩm không đồng nhất. Cùng một loại sản phẩm có thể chia ra nhiều thứ loại sản phẩm ( loại 1, loại 2 hoặc loại A, loại B… ). Chẳng hạn như các loại thuốc lá, các loại dầu nhờn, các loại rượu, bia, nước giải khát… Thậm chí cùng loại nhưng lại có các nhãn hiệu khác nhau. Mỗi nhãn hiệu lại có hình ảnh và uy tín khác nhau, mặc dù xét về thực chất chúng không có sự khác biệt đáng kể. Trên thị trường này, điều kiện mua và bán hàng rất khác nhau, vì nhiều lý do (chẳng hạn như : khách quen, sản phẩm đã gây được lòng tin, các dịch vụ trước và sau bán hàng…). Việc mua bán được thực hiện khác hẳn với thị trường cạnh tranh. ở đây bằng những thủ pháp quảng cáo, chiêu hàng, sử dụng giá khác biệt…, người bán có thể định giá linh hoạt tuỳ theo khu vực bán sản phẩm, tuỳ theo khách hàng cụ thể và mức lợi nhuận mong muốn. Căn cứ vào các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường, người ta chia ra : - Cạnh tranh giữa người bán và người mua - Cạnh tranh giữa những người mua với nhau - Cạnh tranh giữa những người bán với nhau Cạnh tranh giữa người bán và người mua : Là cuộc cạnh tranh diễn ra trên cơ sở quy luật mua rẻ - bán đắt. Người mua luôn muốn mua được rẻ, người bán có tham vọng bán đắt. Sự cạnh tranh này được thực hiện trong quá trình "mặc cả" và giá cả được hình thành để việc mua bán được thực hiện. Cạnh tranh giữa những người mua với nhau : Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu. Khi một loạt hàng hoá hay dịch vụ nào đó mà mức cung cấp nhỏ hơn cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt và giá hàng hoá, dịch vụ đó sẽ ngày càng tăng. Kết quả cuối cùng là người bán thu lợi nhuận cao, còn người mua thì phải mất thêm một số tiền. Đây là cuộc cạnh tranh mà những người mua tự làm hại chính mình. Cạnh tranh giữa những người bán với nhau : Cạnh tranh giữa những người bán với nhau chủ yếu là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh trên chính vũ đài thị trường, đồng thời cũng là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất có ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp. Vì vậy, phần dưới đây xin được đề cập đến những vấn đề về loại hình cạnh tranh này. II- Cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1- Nhận thức cơ bản về doanh nghiệp Khái niệm về doanh nghiệp có thể được xem xét trên một số các góc độ khác nhau : Hiểu một cách chung nhất, doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế tập thể, một tập hợp người và vốn có nhiệm vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá hoặc cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho xã hội. Trên khía cạnh pháp luật thì doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập đúng luật, hoạt động trong các ngành của nền kinh tế quốc dân thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế không phân biệt quy mô nhằm sản xuất, chế tạo, gia công sản phẩm hoặc thực hiện các lao vụ dịch vụ có lãi. Có nhiều cách phân loại khác nhau nhưng nếu căn cứ vào hình thức sở hữu thì có các loại doanh nghiệp như doanh nghiệp Nhà Nước, doan nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, hợp tác xã, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài. Trong nền kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp đều có hai chức năng cơ bản : Một là- Doanh nghiệp có chức năng sản xuất và cung ứng các loại hàng hoá và dịch vụ. Đây là chức năng đầu tiên và hết sức quan trọng. Hai là- Doanh nghiệp phải làm chức năng phân phối theo hai hướng có lợi nhất. + Tìm ra các kênh và các luồng để tiêu thụ hàng hoá của mình một cách có lợi nhất. +Phân phối một cách công bằng và hợp lý mọi kết quả sản xuất kinh doanh đạt được. Ngoài ra, đối với doanh nghiệp Nhà Nước còn có một chức năng riêng - Đó là : Doanh nghiệp Nhà Nước là công cụ trong tay Nhà Nước để ổn định thị trường, là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân, tạo môi trường và điều kiện kinh doanh thuận lợi cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 2- Cạnh tranh của các doanh nghiệp ở nước ta, trong cơ chế tập trung bao cấp trước đây, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được hiểu một cách cứng nhắc. Trong một thời kỳ dài, chúng ta chỉ nhìn thấy mặt trái của cạnh tranh là "cá lớn nuốt cá bé", doanh nghiệp mạnh đè bẹp doanh nghiệp yếu mà không biết đến những tính ưu việt của cạnh tranh. Ngày nay, nước ta và hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh là môi trường và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, cạnh tranh của các doanh nghiệp có thể được quan niệm như sau : Cạnh tranh của các doanh nghiệp là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm giành được những điều kiện có lợi nhất đồng thời thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Hay theo ý chung nhất, cạnh tranh của các doanh nghiệp được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành giật khách hàng hoặc thị trường mà kết quả cuối cùng là để tiêu thụ được ngày càng nhiều hàng hoá với lợi nhuận cao. Xét theo phạm vi ngành kinh tế thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được chia thành 2 loại : - Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp khác ngành (Cạnh tranh giữa các ngành với nhau). - Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng ngành (Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nội bộ ngành). Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp khác ngành Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm giành lấy lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này, các doanh nghiệp luôn say mê với những ngành đầu tư có lợi nhất nên đã có xu hướng chuyển vốn từ ngành có ít lợi nhuận sang ngành đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Sự điều chuyển vốn theo tiếng gọi của lợi nhuận này sau một thời gian nhất định, vô hình chung hình thành nên sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành sản xuất, để rrồi kết quả cuối cùng là các doanh nghiệp đầu tư ở cac ngành khác nhau với số vốn bằng nhau chỉ thu được lợi nhuận bình quân. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp luôn tính lẫn nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi của mình trên thị trường , còn những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh thậm chí bị phá sản. Vậy vai trò của cạnh tranh có ảnh hưởng như thế nào tới các doanh nghiệp ? Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, hầu như không tồn tại phạm trù cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Doanh nghiệp sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? với số lượng bao nhiêu ? và sản xuất cho ai ? hoàn toàn do Nhà Nước quy định. Sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra vẫn mang đúng nghĩa của nó, tức là vẫn bán ra thị trường nhưng các doanh nghiệp không phải tự tìm kiếm khách hàng mà khách hàng phải tự tìm đến doanh nghiệp. Vì lẽ đó mà dẫn tới tình trạng mua như "cướp", bán như "cho". Doanh nghiệp làm ăn có lãi thì có nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà Nước, ngược lại nếu bị thua lỗ thì được Nhà Nước bù lỗ và doanh nghiệp vẫn tồn tại mà không bị phá sản. Khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường với sự bung ra của hàng loạt các loại hình doanh nghiệp khác nữa thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bắt đầu xuất hiện. Cạnh tranh nói chung cũng như cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với người tiêu dùng cũng như đối với nền kinh tế quốc dân nói chung. Đối với doanh nghiệp : - Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bởi vì cạnh tranh tác động trực tiếp tới hiệu quả tiêu thụ. Mà tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh có vai trò quyết định trong việc doanh nghiệp có tiếp tục sản xuất hay không. - Cạnh tranh tạo ra môi trường, động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy mỗi doanh nghiệp tự tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Cạnh tranh quyết định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường thông qua thị phần mà doanh nghiệp chiếm giữ. - Kết quả cạnh tranh tốt hay xấu sẽ làm tăng thêm hoặc suy giảm uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với người tiêu dùng : Nhờ có cạnh tranh, người tiêu dùng có thể nhận được các hàng hoá và dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú với chất lượng cao hơn cùng với những mức giá phù hợp với khả năng của họ. Cạnh tranh làm cho người tiêu dùng thực sự được tôn trọng hơn, thúc đẩy việc nâng cao và đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng. Đối với nền kinh tế quốc dân : - Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. - Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội. - Cạnh tranh góp phần xoá bỏ những bất hợp lý và bất bình đẳng trong kinh doanh. - Cạnh tranh còn là điều kiện phát huy tính tháo vát, năng động và óc sáng tạo của các nhà doanh nghiệp, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi, chân chính. - Cạnh tranh góp phần gợi mở nhu cầu thông qua việc thiết kế, chế tạo ra nhiều loại sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, kích thích nhu cầu phát triển, làm nảy sinh những nhu cầu mới, góp phần nâng cao chất lượng đời sống xã hội và phát triển nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận những mặt tiêu cực của cạnh tranh: + Cạnh tranh tạo ra sự phân hoá giàu nghèo. + Cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới những hậu quả tiêu cực như : hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu gây rối loạn thị trường, làm thiệt hại cho người tiêu dùng và làm ảnh hưởng đến những doanh nghiệp làm ăn chính đáng. + Cạnh tranh có thể dẫn tới xu thế độc quyền. + Cạnh tranh cuốn hút các doanh nghiệp đi theo tiếng gọi của lợi nhuận mà không giành chi phí cho xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường cũng như các vấn đề xã hội khác. Vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát huy vai trò tích cực và hạn chế các tiêu cực của cạnh tranh. Để giải quyết vấn đề này, vai trò của Nhà Nước là vô cùng quan trọng. Nhưng trước sự cạnh tranh gay gắt ấy đã dẫn tới một tất yếu là bất kỳ doanh nghiệp nào dù là lớn hay nhỏ đều phải có mục tiêu để giành được lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Mục tiêu cơ bản nhất, bao trùm nhất của doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh bao giờ cũng là lợi nhuận. Tất cả các mục tiêu cạnh tranh cụ thể của doanh nghiệp đều hướng tới ttối đa hoá lợi nhuận. Tuỳ theo từng điều kiện sản xuất kinh doanh và khả năng của mỗi doanh nghiệp mà có các mục tiêu cạnh tranh cụ thể khác nhau : - Tăng thị phần hoặc tăng doanh thu. -Thâm nhập thị trường mới. - Nâng cao uy tín của sản phẩm cũng như uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. 3- Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp Cuộc cạnh tranh gay gắt nhất bao giờ cũng là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành hàng, tức cùng sản xuất và cung cấp một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó ra thị trường. Vì vậy, các công cụ cạnh tranh ở đây chỉ xem xét ở góc độ các doanh nghiệp cạnh tranh trong cung một ngành hàng. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp là tập hợp các yếu tố, các kế hoạch, các chiến lược, các chính sách, các hành động … mà doanh nghiệp sử dụng nhằm vượt lên trên các đối thủ cạnh tranh và tác động vào khách hàng đẻ thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng, từ đó tiêu thụ được nhiều sản phẩm và thu lợi nhuận cao. Mỗi công cụ cạnh tranh không sử dụng độc lập mà có sự kết hợp hay yểm trợ của công cụ khác, các điều kiện khác. a. Công cụ cạnh tranh là sản phẩm hàng hoá Xem xét công cụ cạnh tranh là chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là tổng thể những chỉ tiêu, những thuộc tính của sản phẩm thể hiện mức độ thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định phù hợp với công dụng của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp trên thị trường, bởi nó biểu hiện sự thoả mãn nhu cầu khách hàng của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm càng cao tức là mức độ thoả mãn càng tăng, dẫn tới sự thích thú tiêu dùng sản phẩm của khách hàng tăng lên, do đó làm tăng khả năng thay thế trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Đặc biệt là trong điều kiện ngày nay, khi thu nhập của mỗi người dân đang từng bước ược tăng lên, tức nhu càu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng cũng tăng lên thì sự cạnh tranh bằng giá cả đã và sẽ có xu hướng nhường vị trí cho sự cạnh tranh bằng chất lượng. Chất lượng sản phẩm còn là các đặc tính của sản phẩm như về nhãn hiệu, bao bì, mẫu mã và tính hữu dụng. Trước đây chúng ta thường xem nhẹ các yếu tố hình thức này. Nhưng ngày nay, trong sự cạnh tranh khốc liệt của vô số các loại hàng hoá thì các yếu tố này trở nên vô cùng quan trọng vav có thể coi là một bộ phậncông cụ cạnh tranh không kém phần lợi hại. Cụ thể là khách hàng khi quyết định mua hàng thường bắt đầu bằng tâm lý theo tri giác. Nếu khách hàng đã quen dùng một loại sản phẩm với nhãn hiệu và bao bì nào đó rồi thì các lần sau sẽ tiếp tục mua loại đó. Nếu mẫu mã của sản phẩm đẹp, mang tính độc đáo mới lạ thì càng làm tăng sức cuốn hút của khách hàng. Hơn nữa, tính hữu dụng của sản phẩm đạt đến mức độ nào? Khách hàng luôn thích những sản phẩm có tính hữu dụng cao, tức là phải thuận tiện và đa năng trong sử dụng thì khả năng thắng thế trong cạnh tranh của doanh nghiệp càng tăng lên bấy nhiêu. Xem xét công cụ cạnh tranh là số lượng sản phẩm Bên cạnh chất lượng và giá cả thì số lượng sản phẩm mà doanh nghiệp cung ứng ra thị trường cũng trở thành công cụ cạnh tranh vì nó cũng biêủ hiện sự thoả mãn nhu cầu khách hàng về số lượng. Một doanh nghiệp biết sử dụng số lượng sản phẩm làm công cụ cạnh tranh khi doanh nghiệp đó cung ứng ra thị trường một lượng sản phẩn tương ứng với số lượng mà thị trường có nhu cầu (với mức chất lượng và giá cả đã được thị trường chấp nhận). Tức doanh nghiệp phải dự báo được mức cầu về sản phẩm để có kế hoạch sản xuất hợp lý đáp ứng nhu cầu sao cho không bị bỏ lỡ thị trường khi cầu tăng hoặc ế thừa sản phẩm khi cầu về sản phẩm suy giảm. b. Công cụ cạnh tranh là giá cả sản phẩm Giá cả sản phẩm được hiểu theo một ý nghĩa chung nhất, đó là : lợi ích kinh tế được xác định bằng tiền. Giá cả là biến số trực tiếp tạo ra doanh thu và lợi nhuận thực tế. Đối với người mua, giá hàng hoá luôn được coi là chỉ số đầu tiên để họ đánh giá phần "được" và chi phí bỏ ra để sở hữu và tiêu dùng hàng hoá. Vì vậy, giá cả luôn giữ vai trò quyết định. Giá cả được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thể hiện qua các chính sách giá bán mà doanh nghiệp áp dụng đối với thị trường và có sự kết hợp với một số điều kiện khác. Chính sách bán sản phẩm của doanh nghiệp là ý đồ, là chủ trương của doanh nghiệp trong việc dự kiến về hệ thống giá cả trong tương lai sẽ được thị trường chấp nhận. Công cụ giá cả được thể hiện qua các chính sách giá bán sau : - Với mức giá thấp hơn giá thị trường : doanh nghiệp sử dụng vũ khí cạnh tranh để thu hút khách hàng nhiều hơn so với các đối thủ cạnh tranh nhưng với điều kiện là chất lượng và hình thức sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ là tương đương. - Với mức giá bán cao hơn giá thị trường : Doanh nghiệp sử dụng giá cả làm vũ khí cạnh tranh để thu hút một bộ phận khách hàng cao cấp nhưng với điều kiện chất lượng và hình thức sản phẩm của doanh nghiệp phải hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh khác, đồng thời phải là những sản phẩm đã trở nên quen thuộc với người tiêu dùng. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể sử dụng giá bán đối với những sản phẩm mới khi mà người tiêu dùng chưa biết rõ chất lượng của nó, hơn cũng chưa có cơ hội để so sánh và xác định mức giá của loại sản phẩm mới này là đắt hay rẻ. - Với mức giá phân biệt : Nếu các đối thủ cạnh tranh chưa có chính sách giá phân biệt thì đây cũng là một thứ vũ khí cạnh tranh không kém phần lợi hại của doanh nghiệp. Chính sách giá phân biệt của doanh nghiệp được thể hiện là với cùng một loại sản phẩm nhưng có nhiều mức giá khác nhau v._.à các mức giá đó được xác định theo nhiều tiêu thức khác nhau : ● Phân biệt theo lượng mua : Người mua nhiều phải được ưu đãi giá hơn so với người mua ít. ● Phân biệt theo chất lượng : Chất lượng loại 1, chất lượng loại 2,… ● Phân biệt theo hình thức thanh toán : Mức giá đối với người thanh toán ngay phải được ưu đãi hơn so với người trả chậm. ● Phân biệt theo thời gian mùa vụ : Giá của thời vụ này khác so với giá của thời vụ kia, tuỳ thuộc vào tình hình biến động của thị trường và thời điểm cụ thể. - Với chính sách bán phá giá (giá bán thấp hơn hẳn so với giá thị trường, thậm chí còn thấp hơn giá thành) : Doanh nghiệp sử dụng giá cả làm vũ khí cạnh tranh đánh bại đối thủ, loại đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường. Nhưng bên cạnh vũ khí này, doanh nghiệp phải có thế mạnh về tiềm lực tài chính, tiềm lực khoa học công nghệ và uy tín của sản phẩm trên thị trường. Việc bán phá giá chỉ nên thực hiện trong một thời gian nhất định và chỉ có thể loại bỏ một số đôí thủ nhỏ có khó khăn về tài chính và các nguồn lực khác, chứ khó mà có thể đánh bại được những đối thủ lớn. Tuy nhiên doanh nghiệp không nên bán phá giá với mục đích tiêu diệt đối thủ canh tranh .Có thể hôm nay doanh nghiệp tiêu diệt được đối thủ của mình nhưng không phải là vĩnh cửu. Vì rất có thể một ngày mai, doanh nghiệp lại bị đối thủ khác tiêu diệt và cũng chính bằng chính sách phá giá mà doanh nghiệp đã sử dụng. c. Công cụ cạnh tranh là mạng lưới tiêu thụ sản phẩm Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là tập hợp các kênh đưa sảnphẩm từ nơi sản xuất của doanh nghiệp đến nơi tiêu thụ. Kênh tiêu thụ của doanh nghiệp được hiểu là một tập hợp các tổ chức, các Công ty hay cá nhân tự đảm nhận hay giúp đỡ doanh nghiệp chuyển giao quyền sở hữu đối với một hàng hoá cụ thể (hay dịch vụ) trên con đường từ nơi sản xuất của doanh nghiệp đến người tiêu dùng. Hay hiểu theo nghĩa đơn giản hơn thì kênh tiêu thụ của doanh nghiệp là con đường mà hàng hoá được lưu thông từ doanh nghiệp đến người tiêu dùng. Thông thường kênh tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được chia thành bốn loại sau : Nhà sản xuất (dn) Bán lẻ Bán lẻ Bán lẻ Bán buôn Bán buôn Đại lý người tiêu dùng (b) (c) (d) (a) Sơ đồ 1 : Cấu trúc các kênh phân phối (a): kênh tiêu thụ không cấp (kênh trực tiếp) (b): kênh tiêu thụ một cấp (c): kênh tiêu thụ hai cấp (d): kênh tiêu thụ dài nhất Tuỳ theo sự biến động của thị trường, tuỳ theo nhu cầu của người mua và người bán , tùy theo tính chất của hàng hoá và tuỳ theo các kênh mà có thể sử dụng thêm trung gian, người môi giới. (a) - Kênh tiêu thụ trực tiếp (kênh cấp không) Kênh tiêu thụ trực tiếp là kênh phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất bán trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng. Kênh kiểu này, các công ty sử dụng lực lượng bán hàng tận nhà. Do không có trung gian trong kênh nên nhà sản xuất phải thực hiện tất cả các chức năng của kênh. Kênh tiêu thụ trực tiếp thường được sử dụng cho các loại sản phẩm sau: - Những loại sản phẩm có tính chất thương phẩm đặc biệt, chẳng hạn như các mặt hàng tươi sống. - Những loại sản phẩm mang tính đơn chiếc, giá trị cao, chu kỳ sản xuất dài hoặc sản phẩm có chất lượng đặc biệt, yêu cầu sử dụng phức tạp đòi hỏi phải có sự hướng dẫn cụ thể, chi tiết. - Những loại sản phẩm thuộc loại hàng hoá chậm lưu chuyển, hàng hoá của những doanh nghiệp nhỏ tự sản xuất, tự tiêu thụ hoặc chủ yếu sử dụng trong một phạm vi nhỏ hẹp mà ở đó doanh nghiệp có thể độc quyền bán cho người tiêu thụ cuối cùng. Do vậy kênh tiêu thụ trực tiếp ngắn chỉ phù hợp với các doanh nghiệp công nghiệp có quy mô nhỏ và hoạt động trên một thị trường hẹp. Ba hình thức kênh còn lại là những kênh gián tiếp bởi vì các trung gian nằm giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng và thực hiện nhiều chức năng của kênh. (b) - Kênh tiêu thụ một cấp Kênh tiêu thụ một cấp là kênh có thêm người bán lẻ thường được sử dụng khi người bán lẻ có quy mô lớn, có thể mua số lượng lớn từ nhà sản xuất hoặc chi phí lưu kho là quá đắt nếu phải sử dụng người bán buôn Kênh tiêu thụ một cấp thường được sử dụng cho các trường hợp sau: - Loại sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra đòi hỏi phải có cơ sở vật chất kỹ thuật đặc biệt, chuyên dùng vì thế cho phép họ sử dụng ưu thế đó để tự đảm nhận trách nhiệm bán buôn chẳng hạn như các doanh nghiệp gia công chế biến các mặt hàng thực phẩm… - Những doanh nghiệp công nghệ sản xuất chuyên môn hoá nhưng quy mô nhỏ, khả năng tài chính hạn chế. (c) - Kênh tiêu thụ hai cấp Kênh tiêu thụ hai cấp là kênh mà trong đó có thêm người bán buôn. Kênh tiêu thụ hai cấp thường được sử dụng phổ biến cho các sản phẩm hàng hoá có giá trị đơn vị thấp, chi phí thấp được mua thuờng xuyên bởi người tiêu dùng như bánh kẹo, thuốc lá, tạp chí... Nhìn chung các doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn, lượng hàng hoá sản xuất ra vượt quá nhu cầu tiêu dùng tại nơi sản xuất thường phải áp dụng kênh này. (d) - Kênh tiêu thụ dài nhất Kênh tiêu thụ dài nhất hay còn gọi là kênh tiêu thụ 3 cấp là kênh được sử dụng khi có nhiều người sản xuất nhỏ và có nhiều người bán lẻ nhỏ, một đại lý được sử dụng để trợ giúp phối hợp cung cấp sản phẩm với khối lượng lớn. Với một hệ thống kênh tiêu thụ như vậy nhưng có doanh nghiệp chỉ chọn các kênh này mà không chọn kênh các kênh kia. Hay có doanh nghiệp chỉ bán sản phẩm tại cửa hàng, các đại lý trên khắp các khu vực thị trường, còn doanh nghiệp khác thì lại huy động một đội ngũ nhân viên tiếp thị đưa sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng. Với công cụ mạng lưới tiêu thụ như vậy, có thể nói các doanh nghiệp cạnh tranh trên từng cây số của thị trường. d. Các công cụ yểm trợ khác - Quảng cáo : là cách thức truyền tin nhằm gửi các thông điệp của nhà sản xuất tới khách hàng nhằn đinh hướng và kích thích tiêu thụ hàng hoá dịch vụ. Tuỳ thuộc vào điều kiện thị trường và khả năng cụ thể của doanh nghiệp, có thể xác định mục tiêu cụ thể khác nhau của quảng cáo như : + Xâm nhập và giới thiệu sản phẩm mới + Củng cố thị trường hiện có và gia tăng thị phần + Phát triển thị trường mới hay tìm thêm khách hàng + Giải quyết hàng hoá tồn đọng + Củng cố nhãn hiệu hàng hoá và uy tín của doanh nghiệp, tăng cường khả năng cạnh tranh, … - Xúc tiến bán : là khả năng kích thích tiêu thụ trong ngắn hạn bằng cách sử dụng các công cụ như là hàng mẫu, phiếu thưởng, gói hàng chung, quà tặng hay giảm giá; hoặc tài trợ tài chính hay chia sẻ rủi ro, tăng thêm tỷ lệ hoa hồng cho các trung gian phân phối, tổ chức hội nghị khách hàng, triển lãm, hội chợ, tổ chức các trò chơi hay cuộc thi … nhằm kích thích khách hàng mua nhiều hơn, số lượng lớn hơn và hấp dẫn khách hàng mới; đối với các trung gian phân phối tăng cường hoạt động phân phối, tăng cường hoạt động bán hàng, củng cố và mở rộng kênh tiêu thụ… - Các dịchvụ sau bán hàng : gồm những hoạt động diễn ra sau khi hàng hoá đã được tiêu thụ nhằm giúp cho người tiêu dùng sử dụng hợp lý sản phẩm và nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường cạnh tranh. Các hoạt động chủ yếu : + Hướng dẫn khách hàng sử dụng sản phẩm nhằm nâng cao hiệu suất và lợi ích sử dụng sản phẩm. Với hoạt động này doanh nghiệp cần cung cấp cho người tiêu dùng một số tư liệu liên quan như : hướng dẫn sử dụng các sách kỹ thuậy chuyên môn,sơ đồ cấu tạo, cuốn catalô… hay mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về cách sử dụng, sửa chữa và bảo quản sản phẩm hoặc cử chuyên gia trực tiếp đến với khách hàng hướng dẫn cách sử dụng sản phẩm của mình… để tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra do khách hàng ít có hiểu biết về sản phẩm. + Hoạt động bảo hành sản phẩm nhằm góp phần tạo tâm lý yên tâm và tin cậy cho khách hàng khi mua sản phẩm của doanh nghiệp. +Hoạt động cung cấp phụ tùng thay thế, sửa chữa thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sản phẩm của mình. III- Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 1- Quan niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Nói đến một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh thì doanh nghiệp đó phải có thực lực tức là phải có tiềm năng tài chính vững mạnh, có công nghệ hiện đại, có đội ngũ lao động năng động,…để có thể huy động vào phục vụ cạnh tranh. Vì vậy có thể nêu khái niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp như sau : Khả năng cạnh tranh củadoanh nghiệp là lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn đến mức cao nhất các đòi hỏi của thị trường. Các yếu tố được xem là lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ có thể là chất lượng sản phẩm, giá cả, mạng lưới tiêu thụ, tiềm lực tài chính, trình độ và năng lực công nghệ, đội ngũ lao động… Nhưng trong số các yếu tố này chỉ có các yếu tố là chất lượng sản phẩm, giá cả, mạng lưới tiêu thụ,…mới gián tiếp đáp ứng các đòi hỏi của khách hàng. Bởi vậy, đây cũng là các yếu tố trực tiếp tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Còn các yếu tố như tiềm lực tài chính, trình độ công nghệ, đội ngũ lao động… chỉ là yếu tố tiềm năng tấc động đến các yếu tố chất lượng sản phẩm, giá cả, mạng lưới tiêu thụ,…tức tác động đến các yếu tố tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Vậy các yếu tố cơ bản trực tiếp tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm : - Chất lượng sản phẩm và số lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trờng - Giá bán sản phẩm - Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm - Các dịch vụ ưu đãi (giảm giá, khuyến mại, bảo hành …) Các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là các yếu tố tạo điều kiên thuận lợi hay khó khăn cho doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu thị trường và cạnh tranh với các đối thủ. Có 2 cấp độ tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đó là : các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp (xuất phát từ môi trường kinh doanh của doanh nghiệp), các yếu tố bên trong doanh nghiệp (xuất phát từ nội bộ doanh nghiệp). a - Các yếu tố bên trong doanh nghiệp Một là - Nguyên vật liệu: Việc lựa chọn và sử dụng nguyên vật liệu đúng hay sai của doanh nghiệp sẽ quyết định một phần đến chất lượng và giá thành sản phẩm. Có nghĩa là thông qua các chi phí nguyên vật liệu mà giá thành luôn chi phối giá bán làm ảnh hưởng đén khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hai là - Nhân sự của doanh nghiệp Thông qua các yếu tố vêg năng suất lao động, ý thức người lao động và sự sáng tạo của người lao động…tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì các yếu tố này sẽ chi phối việc nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm cũng tạo thêm các tính ưu việt, độc đáo, mới lạ của sản phẩm. Ba là - Công nghệ và hệ thống máy móc thiết bị của doanh nghiệp Chất lượng sản phẩm đạt đến mức nào, nguyên vật liệu cũng như chi phí lao động có được tiết kiệm hay không một phần lớn nhờ ở công nghệ và hệ thống máy móc thiết bị cũng là chi phí khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bốn là - Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp Tác động nhỏ tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Liệu doanh nghiệp có dám bán sản phẩm với mức bán sản phẩm với mức giá thấp hơn đối thủ cạnh tranh trong một thời gian nào đó không còn là tuỳ thuộc phần lớn vào quy mô tài chính của doanh nghiệp. Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ cho phép doanh nghiệp có vốn cho sản xuất kinh doanh, có vốn cho đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị. Tình hình sử dụng vốn sẽ quyết định chi phí về vốn của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh. Năm là - Quy mô và năng lực sản xuất của doanh nghiệp Đây là nhân tố góp phần đáng kể đối với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp lớn sẽ có lợi thế hơn so với các doanh nghiệp nhỏ bởi vì doanh nghiệp có quy mô vừa và năng lực sản xuất lớn sẽ tạo ra sản phẩm với khối lượng lớn, nhờ đó mà hạ được giá thành sản phẩm, dược người tiêu dùng ưa chuộng cho phép doanh nghiệp chiếm lĩnh hoặc giữ vững thị trường trên nhiều khu vực khác nhau, tránh sự xâm nhập của các đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp có quy mô và năng lực sản xuất lớn sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn và do đó dễ dàng tìm kiếm nguyên vật liệu cũng như các yếu tố đầu vaò khác, dễ cải tiến kỹ thuật, mẫu mã và hiểu rõ các bí quyết về marketing. Đây là một thuận lợi cho doanh nghiệp có nhiều cơ hội để tiếp xúc với khách hàng hơn, nắm bắt và thoả mãn nhu cầu khách hàng thì uy tín của doanh nghiệp ngày càng tăng lên. Sáu là - Tổ chức sản xuất của doanh nghiệp Tổ chức sản xuất gắn liền với việc tạo ra sản phẩm. Tổ chức sản xuất có khoa học, hợp lý sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao và giá thành thấp, cung cấp sản phẩm kịp thời ra thị trường, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bảy là - Hoạt động marketing của doanh ngiệp Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi mỗi doanh nghiệp không thể không có hoạt động marketing. Vì nhờ bộ phận này mà có thể phân tích các nhu cầu , sở thích, thị hiếu của thị trường và phân tích khả năng cạnh tranh của các đối thủ. Trên cơ sở đó doanh nghiệp hoạch định các chiến lược về sản phẩm, giá cả, phân phối, giao tiếp và khuyếch trương phù hợp đòi hỏi của thị trường. Cho phép doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng với những mức gía linh hoạt trước những biến động của thị trường, tạo ra mạng lưới tiêu thụ đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng nhanh nhất, nhiều nhất làm tăng kha năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tám là - Bộ máy quản trị của doanh nghiệp Sự tác động của bộ máy quản trị đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mang tính tổng hợp. Bộ máy quản trị với các phòng chức năng như phòng kế toán, phòng kế hoạch, phòng nhân sự…sẽ tác động tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua việc quản trị các lĩnh vực như vật tư, sản xuất - tiêu thụ, tài chính kế toán, nhân sự… Chín là - Tài sản vô hình của doanh nghiệp Có thể là lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp, là hình ảnh quen thuộc của nhãn hiệu, thương hiệu, là bầu không khí xã hội trong doanh nghiệp, là biểu hiện về nguồn thông tin và khoa học kỹ thuật, là kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường… Tài sản vô hình của doanh nghiệp là tài sản quý giá khó có thể định lượng được, không thể mua được mà phải trải qua một quá trình với nhiều cố gắng mới có thể tích luỹ được. Đây cũng chính là lợi thế để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Mười là - Vị trí địa lý của doanh nghiệp Ngoài các yếu tố tác động trên còn phải kể đến vị trí địa lý của doanh nghiệp. Việc lựa chọn vị trí mặt bằng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Nếu vị trí đặt doanh nghiệp không thuận lợi sẽ làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp, bởi nó sẽ làm tăng chi phí vận chuyển, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng tăng lên. Đồng thời khả năng tiếp cận khách hàng và mở rộng thị trường cũng bị hạn chế. Tóm lại, khi xét khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thì buộc các doanh nghiệp phải lựa chọn các yếu tố có lợi nhất cho mình nhằm tìm ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. b - Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp Một là - Các đối thủ cạnh tranh hiện có và các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn Các đối thủ cạnh tranh hiện có đặc biệt là số các doanh nghiệp có quy mô lớn có tác động quyết định tới mức độ gay gắt của cạnh tranh hiện tại trong ngành hàng. Bởi vậy, nếu muốn tồn tại và đứng vững trên thị trường thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đòi hỏi phải không ngừng tăng lên để theo kịp hoặc vượt lên trên khả năng cạnh tranh của các đối thủ khác. Các đối thủ tiềm ẩn có khả năng tham gia vào ngành trong tương lai với ý muốn chiếm giữ thị phần. Do đó đây cũng là một yếu tố tác động đến khả nang cạnh tranh của doanh nghiệp. Hai là - Thị hiếu người tiêu dùng Đó là sự lựa chọn giữa hàng nội và hàng ngoại của người tiêu dùng cũng sẽ ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vì bất cứ người tiêu dùng nào đều có chung ý tưởng khi đi mua hàng thì phải là hàng có chất lượng cao, giá cả hợp lý, mới lạ, hấp dẫn, thuận tiện và đa năng. Đây chính là thách thức lớn đối với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong việc thoả mãn các thị hiếu của người tiêu dùng. Ba là - Thu nhập của dân cư Là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến khả nang thanh toán. Những người tiêu dùng có thu nhập thấp chỉ có thể mua được hàng hoá có mức giá thấp với một chất lượng tương đối đủ để sử dụng trong một thời gian nhất định. Khi mà đại đa số mức thu nhập của người dân còn thấp, nếu doanh nghiệp đưa ra thị trường những sản phẩm có mức giá bán cao thì sẽ khó có thể cạnh tranh được với các sản phẩm khác cùng loại coa mức giá thấp hơn. Bốn là - Các sản phẩm thay thế Sự gia tăng của sản phẩm thay thế sẽ làm tăng mức độ cạnh tranh và thu hẹp quy mô thị trường của sản phẩm ở trong ngành hiện tại đồng thời làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành. VD : Mặt hàng quạt điện bị thay thế bởi máy điều hoà nhiệt độ dẫn đến ảnh hưởng đối với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất quạt điện.Coa sự ảnh hưởng này là do giá bán sản phẩm quá cao hoặc do sự biến động của nhu cầu theo hướng ngày càng đa dạng, phong phú và cao cấp hơn của người tiêu dùng. Năm là - Sự phát triển của khoa học công nghệ Điều này đã tác động quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường là chất lượng và giá cả sản phẩm, tức là tác động đến chi phí cá biệt của sản phẩm. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì chất lượng và giá cả có ý nghĩa ngang nhau trong việc tạo ra khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Nhưng trên thế giới có xu hướng chuyển từ cạnh tranh giá sang cạnh tranh bằng chất lượng có công nghệ cao. Sự phát triển của khoa học công nghệ giúp cho doanh nghiệp trang bị lại cơ sở vật chất góp phần nâng cao ưu thế trong cạnh tranh. Tuy nhiên doanh nghiệp cũng cần phải thận trọng với mặt tiêu cực của sự phát triển khoa học công nghệ. Bởi vì một mặt nó giúp cho doanh nghiệp cải tiến được sản phẩm nhưng mặt khác nó có thể làm cho sản phẩm của doanh nghiệp trở nên lạc hậu làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Sáu là - Các nhà cung cấp Đây cũng có thể là yếu tố gây ra áp lực đối với hoạt động của doanh nghiệp bằng cách tăng cường hay giảm bớt cung cấp nguyên vật liệu, thiết bị… thậm chí họ còn làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bằng cách cung cấp nguyên vật liệu kém phẩm chất làm ảnh hưởng tới giá thành và chất lượng sản phẩm, gây ra sự hiểu lầm và mất uy tín của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Bảy là - Hàng giả, hàng nhái Như một nghịch lý, thị trường hàng hoá càng phát triển nạn hàng giả, hàng nhái càng gia tăng. Thật không may nếu sản phẩm của doanh nghiệp nào bị làm giả, làm nhái vì sẽ làm suy giảm lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp sẽ mất dần khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Tám là - Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà Nước Đây cũng là yếu tố tác động mạnh mẽ tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua các chính sách và luật pháp, các quan hệ kinh tế đối ngoại… + Các chính sách như : chính sách miễn giảm thuế đối với các mặt hàng nội địa + Các điều luật như luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những doanh nghiệp nào có khả năng tham gia liên doanh, liên kết. + Các quan hệ kinh tế đối ngoại của Nhà Nước sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập môi trường quốc tế và tham gia một cách có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Đây là cơ hội cũng như thách thức đối với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN và khu vực thương mại tự do AFTA. Khi đó, hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên sẽ bị bãi bỏ và các yếu tố như : lao động, nguyên vật liệu, tiền vốn và hàng hoá sẽ chuyển dịch tự do giữa các thành viên. Đây cũng là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Chương ii Thực trạng hoạt động cạnh tranh của Công ty cổ phần Thăng Long hiện nay I- Khái quát chung về Công ty cổ phần Thăng Long Tên doanh nghiệp : Công ty cổ phần Thăng Long Tên quan hệ quốc tế : Thang Long Joint - Stock Company Tên cơ quan chủ quản : Sở Thương mại Thành phố Hà Nội Trụ sở giao dịch : 181 Lạc Long Quân, Cầu Giấy, Hà Nội Điện thoại : (84 - 4) 7534862 Fax: (84 - 4) 8631898 Địa chỉ E-mail : vangthanglong@hn.vnn.vn Đăng ký kinh doanh số : 0103001012 Ngày : 05/09/2002 Số tài khoản : 710A- 00854 Sở giao dịch I NH Công thương Việt Nam Ngành nghề kinh doanh: - Chủ yếu là sản xuất các loại đồ uống có cồn và không có cồn - Kinh doanh dịch vụ ăn uống, nhà hàng, khách sạn, du lịch, bất động sản. - Sản xuất các loại bao bì phục vụ sản xuất của doanh nghiệp, các mặt hàng công nghệ phẩm, tạp phẩm, thủ công mỹ nghệ,may mặc, đồ da, giả da và đồ nhựa. - Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng trên. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty cổ phần Thăng Long được quy định cụ thể trong điều lệ Công ty như sau: Tổ chức sản xuất kinh doanh các loại đồ uống có cồn, không có cồn và các mặt hàng theo đăng ký kinh doanh, mục đích thành lập của Công ty cổ phần Thăng Long. Bảo toàn và phát triển vốn. Thục hiện các nhiệm vụ do Hội đồng quản trị và giám đốc điều hành đề ra. Thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước theo luật định. Thực hiện phân phối theo lao động, không ngừng chăm lo và cải thiện đời sống vật chất tinh thần, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật/ chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên. Bảo vệ sản xuất, bảo vệ môi trường và an ninh trật tự. Công ty cổ phần Thăng Long hoạt động theo nguyên tắc hoạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân đầy đủ, có tài khoản riêng, có con dấu riêng để giao dịch theo điều lệ công ty và trong khuôn khổ pháp luật. 1- Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty cổ phần Thăng Long là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Công nghiệp. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty qua từng giai đoạn có thể được tóm tắt như sau: Giai đoạn 1989-1993: Sản xuất thủ công Đây là giai đoạn công ty có tên là Xí nghiệp Rượu - nước giải khát Thăng Long. Xí nghiệp được thành lập theo quyết định số 6415/QĐUB ngày 24/03/1989 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Tiền thân của xí nghiệp là Xưởng sản xuất rượu và nước giải khát lên men trực thuộc Công ty rượu bia Hà Nội. Sản phẩm truyền thống của xưởng là rượu pha chế các loại. Đến những năm 80 xưởng mới được đầu tư trang thiết bị và công nghệ sản xuất rượu vang. Khi mới thành lập, Xí nghiệp chỉ là một đơn vị sản xuất nhỏ với 50 công nhân, cơ sở vật chất nghèo nàn, sản xuất hoàn toàn thủ công. Vượt qua những khó khăn ban đầu của những ngày đầu thành lập, sản lượng sản xuất của Xí nghiệp không ngừng được nâng lên từ 106.000 lít (năm 1989) lên 530.000 lít (năm 1993). Diện tích nhà xưởng, kho bãi không ngừng được nâng cấp và mở rộng. Đời sống của cán bộ công nhân viên được cải thiện. Sản phẩm mang nhãn hiệu Vang Thăng Long đã dần tìm được chỗ đứng trên thị trường. Giai đoạn 1994-2001: Bán cơ giới hoá và cơ giới hoá Đây là giai đoạn phát triển vượt bậc về năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm và thị trường tiêu thụ của Công ty. Lúc này Xí nghiệp Rượu - nước giải khát Thăng Long được đổi thành Công ty Rượu - nước giải khát Thăng Long theo quyết định số 3021/QĐUB ngày 16/08/1993 của UBND Thành phố Hà Nội. Trong giai đoạn này, Công ty đã tích cực đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, triển khai và áp dụng thành công mã số mã vạch cùng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9002 và hệ thống phân tích xác định và kiểm soát các điểm nguy hại trọng yếu trong quá trình sản xuất (HACCP). Công ty đã đầu tư gần 11 tỉ đồng cho thiết bị, nhà xưởng, môi trường, văn phòng và các công trình phúc lợi…Đặc biệt từ năm 1997, Công ty đã đầu tư thiết bị nhằm cơ giới hoá và tự động hoá quá trình sản xuất để chuẩn bị tốt hơn cho hội nhập thị trường khu vực và quốc tế. Chính vì vậy, sản lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất ra không ngừng tăng. Sản lượng vang của Công ty tăng từ 1,6 triệu lít (năm 1994) lên 5,5 triệu lít (năm 2002). Nhờ sự đầu tư và đổi mới đó, thị trường Công ty không ngừng được mở rộng. Công ty không những làm chủ thị trường trong nước mà còn từng bước xâm nhập thị trường nước ngoài thông qua những lô hàng xuất khẩu sang Lào và Trung Quốc. Giai đoạn 2002 đến nay: Giai đoạn cơ giới hoá Công ty cổ phần Thăng Long chính thức đi vào hoạt động từ ngày 03/05/2002, gần một năm sau khi công ty Rượu - nước giải khát Thăng Long có quyết định cổ phần hoá. Vốn điều lệ khi thành lập Công ty cổ phần là 11,6 tỉ đồng, trong đó: Vốn của Nhà nước 4,64 tỉ đồng (40%), vốn là các cổ đông là cán bộ công nhân viên và các cổ đông khác 6,96 tỉ đồng (60%). Từ đây, Công ty bước sang một trang sử mới. Trong năm 2002 các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều vượt năm trước: doanh thu đạt 65 tỉ đồng vượt 3,6% so với năm 2001; nộp Ngân sách 10,756 tỉ đồng vượt 18,6% so với năm 2001. Với những thành tựu đã đạt được, Công ty cổ phần Thăng Long đã nhận được nhiều huân huy chương các loại, tiêu biểu trong số đó là: - 01 danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới - 05 huân chương Lao động hạng nhì và hạng ba - Hàng Việt Nam chất lượng cao từ 1998 đến 2002 - Giải thưởng "Bông lúa vàng", 01 Cúp sen vàng, 28 Huy chương vàng trong các kỳ tham gia hội chợ trong và ngoài nước. 2- Đặc điểm tổ chức quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Đặc điểm tổ chức quản lý Để đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh, bộ máy tổ chức của Công ty không ngừng được hoàn thiện. Hiện nay, bộ máy tổ chức của Công ty được tổ chức theo sơ đồ 2 (trang sau). Trong đó : - Đại hội cổ đông: Là cơ quan quyền lực cao nhất trong Công ty quyết định những vấn đề quan trọng nhất của Công ty như: điều lệ Công ty, bầu các thành viên Hội đồng quản trị, quyết định phương hướng phát triển của Công ty… - Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý Công ty, toàn quyền nhân danh Công ty quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty như: chiến lược kinh doanh; phương án đầu tư; bổ, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc, Phó Giám đốc, Kế toán trưởng… - Chủ tịch Hội đồng quản trị: là người lập chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội đồng quản trị, theo dõi quá trình tổ chức thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị. - Giám đốc điều hành: là người trực tiếp điều hành toàn bộ hoạt động của Công ty. - Phó giám đốc điều hành : là người giúp Giám đốc quản lý các nhiệm vụ sản xuất. - Phòng tổ chức : chức năng chính là thực hiện quản lý nhân sự, đảm bảo nguồn lao động của Công ty hợp lý, tuyển lao động mới, lập kế hoạch tiền lương công nhân… - Phòng hành chính : thực hiện quản lý hành chính; quản lý hồ sơ, văn thư lưu trữ và các thiết bị văn phòng, nhà khách và tổ chức công tác thi đua tuyên truyền. - Phòng kế toán : chịu trách nhiệm về vấn đề sổ sách tài chính của Công ty; thực hiện nhiệm vụ lập kế hoạch tài chính, tính toán chi phí, thu hồi công nợ, hạch toán lãi, thanh toán lương cho công nhân, thanh toán tiền hàng cho khách hàng…đảm bảo cho hoạt động tài chính của Công ty được lành mạnh và thông suốt. - Phòng cung tiêu : làm nhiệm vụ nghiên cứu, tiếp cận và phân tích các nguồn nguyên vật liệu đầu vào, đảm bảo cung cấp kịp thời, đầy đủ cả về số lượng và chất lượng cho quá trình sản xuất đồng thời tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm. - Phòng nghiên cứu - đầu tư phát triển : hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất đồng thời nghiên cứu sản phẩm mới. - Phòng thị trường : nghiên cứu phát triển, mở rộng thị trường, phát hiện sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng và thực hiện công tác tiêu thụ sản phẩm. - Phòng quản lý chất lượng : giám sát chất lượng sản phẩm sản xuất đảm bảo sản phẩm bán ra đạt tiêu chuẩn chất lượng, nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm. - Phòng công nghệ và xây dựng cơ bản : thực hiện công tác quản lý kỹ thuật các loại mày móc thiết bị, nhà xưởng, kho tàng và quỹ đất của Công ty. - Ban bảo vệ : thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tài sản của Công ty, phòng chống bão lụt, cháy nổ,trộm cắp và thực hiện kiểm tra hành chính. - Các tổ sản xuất : trực tiếp thực hiện nhiệm vụ sản xuất ra sản phẩm cho Công ty - Các cửa hàng : thực hiện nhiệm vụ bán hàng, giới thiệu sản phẩm và thu thập thông tin phản hồi từ khách hàng. Cơ cấu tổ chức của Công ty theo sơ đồ 2 là cơ cấu tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng trên cơ sở thực hiện quyền làm chủ của người lao động. Theo cơ cấu này, các nhiệm vụ quản lý được chia cho các bộ phận chức năng nhất định, người thừa hành ở bộ phận sản xuất thực hiện những nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về công việc mình phụ trách. Mô hình này có ưu điểm thu hút được nhiều chuyên gia tham gia vào công tác quản lý giúp công tác chuyên môn được tiến hành tốt hơn, giảm bớt gánh nặng cho cán bộ lãnh đạo chung toàn doanh nghiệp và phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty, phù hợp với hệ thống quản lý chất lượng Công ty đang áp dụng. Mặc dù vậy, trong cơ cấu tổ chức của Công ty có những bộ phận thực hiện chức năng chồng chéo nhau. Ví dụ như chức năng tiêu thụ sản phẩm được giao cho cả hai Phòng thị trường và Phòng cung tiêu, hoặc cả Phòng Cơ điện và xây dựng cơ bản và Phòng công nghệ và quản lý sản xuất đều thực hiện chức năng quản lý thiết bị, công nghệ và các hoạt động sản xuất trong Công ty. Sự chồng chéo khiến cho khó phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn cũng như trách nhiệm của các phòng ban làm ảnh hưởng tới việc thực hiện các nhiệm vụ chung của Công ty. Tình hình nhân sự của Công ty Khởi đầu chỉ có 50 lao động hạn chế về trình độ tay nghề trong đó chủ yếu là lao động phổ thông, hiện nay số lượng lao động trong Công ty đã tăng gần 6 lần. Đội ngũ lao động không những tăng về số lượng mà chất lượng cũng được nâng lên. Mục tiêu của Công ty là người lao động không những am hiểu ngành nghề mà còn thông thạo kiến thức chuyên môn. Do đó hàng năm Công ty đều tạo điều kiện cho công nhân bồi dưỡng nâng cao trình độ và kỹ thuật, sát hạch tay nghề. Bên cạnh việc bồi dưỡng tay nghề cho công nhân bậc trung, Công ty chú trọng đào tạo công nhân kỹ thuật bậc cao và công nhân lành nghề. Hiện nay tay nghề lao động kỹ thuật của Công ty khá cao, bậc thợ bình quân là 4 đáp ứng yêu cầu sản xuất. S._.họ để phân phối sản phẩm. Khi nhu cầu về Rượu Vang Thăng Long tăng cao thì họ lại tự ý nâng cao giá bán gây mất ổn định về giá cả trên thị trường và ảnh hưởng đến tâm lý của người tiêu dùng. Tám là- Hệ thống kênh phân phối còn chưa hợp lý và chưa đủ mạnh nên đã bỏ lỡ thị trường miền Trung và miền Nam. Nguyên nhân : Công ty chưa xây dựng được hệ thống các đại lý chính thức của mình tại khu vực thị trường này hoặc có nhưng còn quá ít, mà đây là hai thị trường được đánh giá là thị trường tiềm năng, có triển vọng và sức tiêu thụ mạnh với quy mô và dung lượng thị trường rất lớn; đặc biệt là thị trường TP Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long chiếm tới 40% dân số cả nước và thu nhập của người dân cao hơn mức trung bình của toàn xã hội nên có sức hút rất lớn nhưng khả năng thâm nhập thị trường này của sản phẩm Vang Thăng Long lại quá yếu. Hiện tại ở thị trường tiềm năng này, Công ty mới chỉ có duy nhất 1 nhà phân phối độc quyền và 7 đại lý với mức sản lượng chỉ chiếm chưa tới 10% tổng sản lượng tiêu thụ Vang Thăng Long trên toàn quốc. Chín là- Mẫu mã, bai bì sản phẩm còn đơn điệu chưa phong phú, không đủ sức cạnh tranh với các loại sản phẩm của đối thủ nên Công ty cần cải tiến cho đẹp và lịch sự hơn. Nguyên nhân : Do Công ty chưa kết hợp hài hoà giữa chính sách sản phẩm với chính sách thị trường thể hiện ở chỗ : chưa phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, chưa tạo được nét đặc trưng riêng biệt cho sản phẩm của Công ty… Mười là- Sản phẩm của Công ty bị nhiều cơ sở sản xuất khác làm hàng nhái, hàng giả làm ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm và uy tín của Công ty. Do vậy, Công ty cần phải có tem chống hàng giả. Nguyên nhân : Công tác tuyên truyền, thông tin về sản phẩm còn yếu kém nên khách hàng đã nhầm lẫn sản phẩm của Công ty với hàng giả, hàng nhái gây ảnh hưởng tới uy tín của Công ty và tạo điều kiện cho đối thủ tăng thị phần. Hiểu rõ những lợi thế và hạn chế của mình trong cơ chế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, Công ty luôn tìm cách nắm những cơ hội mà thị trường mang lại. Hiện nay, thị trường Công ty tập trung chủ yếu ở thị trường các tỉnh phía Bắc với sản lượng tiêu thụ chiếm trên 90% tổng sản lượng tiêu thụ hàng năm, cơ hội xâm nhập thị trường miền Nam và miền Trung là rất lớn. Mặc dù Công ty chắc chắn sẽ gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nhà sản xuất phía Nam cũng như phía Bắc tại thị trường này nhưng tin tưởng rằng với sự có gắng nỗ lực của Công ty cổ phần Thăng Long sẽ không những giữ vững mà thị trường của Công ty còn được tăng trưởng và mở rộng. Chương III Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần Thăng Long Hiện nay, sản phẩm của Công ty vẫn được khách hàng ưa chuộng và tin dùng trên thị trường chủ yếu là do chất lượng của sản phẩm rượu mang thương hiệu " Vang Thăng Long" luôn được bảo đảm và ổn định với mức giá cả phù hợp với thu nhập của mọi tầng lớp trong xã hội. Trong thời gian tới giai đoạn 2003 - 2007, Công ty sẽ nâng công suất lên từ 5,5 triệu lít/năm lên 6,94 triệu lít/năm. Vì vậy, để duy trì và phát triển, Công ty nên đề ra một số giải pháp mang tính khả thi để khắc phục những hạn chế nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và uy tín của Công ty trên thị trường. I. Các giải pháp thuộc về phía Công ty 1- Tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm Căn cứ đề xuất giải pháp : Chất lượng sản phẩm là yếu tố cơ bản tạo nên khả năng cạnh tranh sản phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm cũng chính là nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty. Hiện nay, Công ty vẫn đang tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm. Do vậy chất lượng sản phẩm Vang Thăng Long tương đối ổn định nhưng việc thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm còn lỏng lẻo, bởi vậy phải tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm là hết sức cần thiết đối với Công ty. Nội dung giải pháp : Chất lượng sản phẩm được hình thành trong suốt quá trình từ khâu chuẩn bị sản xuất đến nhập kho thành phẩm. Vậy quản lý chất lượng của Công ty phải được tuân thủ theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002, thực hiện bằng cách tổ chức tốt công tác quản lý kỹ thuật, kiểm tra chất lượng ở tất cả các khâu từ chuẩn bị sản xuất đến sản xuất và nhập kho thành phẩm, nghiên cứu cải tiến chất lượng sản phẩm. Để quản lý chất lượng có hiệu quả, Công ty cần phải thực hiện các biện pháp cụ thể sau đây : - Phải có sự phân cấp quản lý kỹ thuật, chức năng quản lý phải rõ ràng không chồng chéo. Việc quản lý trước hết phải giao cho phân xưởng sản xuất từ đó Quản đốc có nhiệm vụ và trách nhiệm giao cho từng tổ trưởng, và các tổ trưởng lại tiếp tục giao từng phần việc cụ thể cho các tổ viên. - Phải giao quyền cho các cán bộ KCS và kỹ thuật viên kiểm tra, khắc phục tình trạng kiểm tra rồi lại kiểm tra lại. Từng kỹ thuật viên theo dõi, quản lý ở mỗi khâu, phải có kế hoạch xem xét phân tích những thông số kỹ thuật có liên quan ở khâu mình quản lý, có như vậy mới phát hiện và xử lý các sự cố, dự kiến trước được chất lượng của sản phẩm và bán thành phẩm để có biện pháp xử lý đúng đắn, kịp thời. - Phải tiến hành thường xuyên và chặt chẽ việc giao nhận về chất lượng nguyên vật liệu khi nhập kho và trước khi đưa vào chế biến sản xuất. Cụ thê là : Trên cơ sở tiêu chuẩn chất lượng nguyên vật liệu đã xây dựng, Phòng Cung tiêu phải tuân thủ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào đúng nguyên tiêu chuẩn về chất lượng, số lượng, chủng loại, đúng thời gian và mức chi phí thu mua là tiết kiệm nhất. Ngoài ra việc cất trữ, bảo quản nguyên vật liệu trong kho cũng phải được thực hiện một cách nghiêm ngặt, tuân thủ đúng các quy định chặt chẽ trong bảo quản. - Phải thường xuyên kiểm tra và xử lý các sản phẩm đã xuất ra đang lưu hành trên thị trường nhằm cung ứng cho thị trường những sản phẩm có chất lượng cao, đồng thời để tránh hàng giả, hàng nhái làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của Công ty. - Cần nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm, nghiên cứu chế thử các sản phẩm mới là một việc rất quan trọng nó tạo ra những sản phẩm ổn định có chất lượng cao và giúp cho Công ty luôn có các mặt hàng mới, hấp dẫn đưa ra thị trường để kế tục các sản phẩm hiện có của Công ty. Hiệu quả của giải pháp : Việc quản lý chất lượng sản phẩm ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất đã đảm bảo làm đúng, làm đủ ngay từ khâu đầu tiên theo quy định nghiêm ngặt và tiêu chuẩn hoá của hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002. Do đó không những đảm bảo được chất lượng sản phẩm mà còn tránh được những hao phí o sản phẩm hỏng, tiết kiệm thời gian, lao động nhờ đó giảm được giá thành sản phẩm. Nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và uy tín của Công ty góp phần quan trọng trong việc duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ, đem lại hiêu quả kinh tế cao. 2- Tiếp tục đầu tư cải tiến và đổi mới công nghệ Căn cứ đề xuất gải pháp : Đứng trước sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ, doanh nghiệp nào không làm chủ được những tiến bộ khoa học công nghệ sẽ bị thụt lùi, giảm sức cạnh tranh trên thị trường trong cũng như ngoài nước và cuối cùng tất yếu sẽ bị đào thải. Nhờ đầu tư đổi mới thiết bị khoa học công nghệ mà chất lượng sản phẩm sẽ được nâng cao, giá thành sản phẩm giảm nhờ tiết kiệm nguyên vật liệu. Do vậy đầu tư vào công nghệ là vấn đề đang được quan tâm của bất cứ một doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Từ năm 1990 đến nay, Công ty cổ phần Thăng Long đã từng bước hiện đại hoá công nghệ sản xuất, mang lại những hiệu quả kinh tế nhất định. Nhưng do số vốn dành cho đầu tư cải tiến và đổi mới công nghệ còn hạn hẹp nên chưa đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống máy móc thiết bị. Bởi vậy, Công ty cần tiếp tục đổi mới công nghệ. Nội dung giải pháp : Để tiếp tục đổi mới công nghệ thì Công ty phải thực hiện một số giải pháp sau : - Phải tạo được nguồn vốn hùng mạnh để Công ty có nguồn lực tài chính dồi dào đáp ứng nhu cầu đầu tư cải tiến và đổi mới công nghệ. Muốn vậy, Công ty cần phải năng động trong việc huy động vốn như : vay vốn từ các tổ chức tín dụng, tham gia thị trường chứng khoán thông qua việc phát hành cổ phiếu Công ty, các nhà đầu tư, liên doanh liên kết với các công ty trong và ngoài nước… Đồng thời tiến hành thương lượng với các công ty nước ngoài để được phép thanh toán theo phương thức trả chậm khi mua các thiết bị máy móc cũng như bí quyết công nghệ của họ. - Phải tính toán cân nhắc để đầu tư vào những bộ phận thiết yếu trước nhằm phát huy hết hiệu quả của công nghệ mới. - Tạo lập và củng cố mối quan hệ với các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ để phát triển sản xuất. - Đảm bảo đổi mới công nghệ có hiệu quả lâu dài nhằm duy trì và bảo dưỡng thiết bị máy móc được hoạt động liên tục phục vụ cho sản xuất. Vì vậy, Công ty phải có lịch tu sửa và bảo dưỡng máy móc thiết bị theo định kỳ tránh tình trạng nhiều lúc máy móc hỏng phụ cần tùng thay thế thì không còn, phụ tùng không cần thay thế lại có trong kho làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng sản phẩm. Hiệu quả của giải pháp : Việc tiếp tục đầu tư cải tiến và đổi mới công nghệ là để hoàn thiện quy trình công nghệ và đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống thiết bị máy móc và mở rộng quy mô sản xuất. Khi đó chất lượng sản phẩm được nâng lên, sản phẩm sản xuất ra được nhiều hơn, nhờ đó mà công ty có thể chiếm lĩnh thị trường hiện có và thâm nhập thị trường mới. Quy trình công nghệ hoàn hảo, thiết bị đồng bộ còn cho phép Công ty tiết kiệm nguyên vật liệu, tăng năng suất lao động từ đó hạ giá thành sản phẩm tới mức thấp nhất. 3- Tăng cường hoạt động Marketing Căn cứ đề xuất giải pháp : Hoạt động Marketing với 4 chính sách : chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, cính sách phân phối, chính sách xúc tiến và khuyếch trương cũng tác động mạnh mẽ tới các nhân tố tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường mang đầy tính cạnh tranh gay go và ác liệt như hiện nay thì hoạt động Marketing là không thể thiếu được, đặc biệt là đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn như Công ty cổ phần Thăng Long. Chính vì lẽ đó Công ty cần tăng cường các hoạt động của Marketing : Nội dung của giải pháp : Một là- Điều tra, nghiên cứu và khảo sát thị trường Rượu : - Công ty cần tiến hành điều tra nghiên cứu các khu vực thị trường nhằm phát hiện những thị trường có quy mô, đặc điểm và triển vọng phát triển các loại sản phẩm của Công ty tại khu vực thị trường đó. - Điều tra, nghiên cứu và khảo sát thị trường giúp Công ty nắm bắt được nhu cầu người tiêu dùng về loại sản phẩm Công ty dự kiến sản xuất và tung ra thị trường; nắm được nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất; đánh giá được ưu nhược điểm của đối thủ cạnh tranh. Để tiến hành công tác này, Công ty sử dụng hai lực lượng chính là cán bộ thị trường và hệ thống các đại lý trên toàn quốc với các phương pháp điều tra như : phỏng vấn trực tiếp khách hàng, quan sát các điểm bán, phiếu điều tra thị trường… Hai là- Xây dựng và thực thi chính sách sản phẩm nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng và các thuộc tính sản phẩm : - Hiện tại Công ty có 11 loại sản phẩm Vang Thăng Long khác nhau đang được tiêu thụ trên thị trường. Do nhu cầu thị trường luôn thay đổi theo từng giai đoạn, từng thời điểm mà Công ty có thể thay đổi cơ cấu từng loại Vang cho phù hợp với tình hình diễn biễn của thị trường. - Để hoàn thiện và nâng cao các đặc tính cũng như chất lượng sản phẩm, Công ty cần hoàn thiện về hình thức sản phẩm như : cải tiến mẫu mã bao bì sản phẩm, sử dụng loại giấy tráng bóng làm nhãn chứ dùng giấy sùi như hiện nay là chưa đẹp. Trên nhãn nên có hướng dẫn sử dụng hoặc những khuyến cáo cho người sử dụng và có thêm biểu tượng hàng Việt Nam chất lượng cao. Sử dụng đa dạng các loại chai, không những dùng chai thuỷ tinh mà còn sử dụng túi giấy. Chai Rượu Vang hiện nay có dung tích không tiện lợi nếu uống không hết để lại thì chất lượng Vang sẽ không còn ngon như ban đầu. Vì vậy Công ty có thể sử dụng những loại chai có dung tích nhỏ hơn như chai 200 ml, 300 ml, 500ml tạo sự thuận tiện cho người tiêu dùng. - Việc cải tiến sản phẩm như : chất lượng sản phẩm, mẫu mã, bao bì, đổi mới chủng loại… cần phải dựa trên cơ sở xem xét ý kiến đóng góp của người tiêu dùng, bởi họ là những người luôn nắm và hiểu rõ nhu cầu của bản thân về sản phẩm. - Để bảo vệ uy tín của Công ty và quyền lợi của khách hàng, Công ty nên phối hợp cùng với ban quản lý thị trường dán tem chống hàng giả trên mỗi sản phẩm để tạo lòng tin cho khách hàng, tránh nhầm lẫn và phát hiện kịp thời các sản phẩm giả, nhái đang xuất hiện trên thị trường hiện nay. Ba là- Xây dựng chính sách giá cả linh hoạt phù hợp với mọi biến động trên thị trường - Công ty phải kiểm soát các yếu tố chi phí, xây dựng các mức giá dự kiến để chỉ ra loại sản phẩm Vang Thăng Long nào có triển vọng nhiều nhất. Ngoài việc định giá xuất phát từ chi phí, Công ty còn phải xem xét giá của các loại Rượu khác nhau cùng cạnh tranh trên thị trường để tránh sự tụt hậu về giá. Bởi tâm lý người tiêu dùng thường gắn chất lượng sản phẩm với mức giá cao hay thấp. - Ngoài ra Công ty có thể tăng thêm tỷ lệ hoa hồng hoặc áp dụng chính sách giá phân biệt đối với các đại lý nhằm đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, làm tăng vòng quay của vốn và tổng lợi nhuận thu được sẽ lớn hơn rất nhiều. - Công ty cần có chính sách giá ưu tiên hơn nữa đối với những thị trường mới nhằm khai phá thị trường và kích thích người tiêu dùng dùng thử và tiêu dùng sản phẩm mang thương hiệu "Vang Thăng Long". - Kiểm soát tình hình giá cả sản phẩm của Công ty trên thị trường nhằm tránh tình trạng lợi dụng lúc thị trường khan hiếm và nhu cầu Rượu Vang tăng mạnh, các nhà đầu tư tự ý nâng giá cao gây biến động mạnh về giá cả nên ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của Công ty. Bốn là- Hoàn hiện chính sách phân phối sản phẩm - Mở rộng hệ thống đại lý phân phối, cụ thể : Xây dựng và tăng cường thêm số đại lý tại các thị trường trọng điểm như : Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh. Còn đối với các thị trường khác thì mạng lưới tiêu thụ cần xây dựng từ 1- 2 đại lý/tỉnh và ít nhất phải có 1 điểm bán/1 huyện. Nhằm tăng cả về số lượng và chất lượng các đại lý, tức số lượng đại lý tăng lên và các đại lý này phải hoạt động một cách có hiệu quả - Chăm sóc, hỗ trợ các đại lý của Công ty thông qua việc thưởng chiết khấu trên doanh thu bán hàng hoặc mua với số lượng hàng lớn, cùng tháo gỡ những khó khăn mà đại lý mắc phải. Cụ thể : Công ty có thể cho phép trả chậm sau 15 - 30 ngày đối với các đại lý không thể thanh toán ngay và có tỷ lệ chiết khấu đối với những đại lý thanh toán tiền ngay, có doanh thu bán hàng cao vượt mức hoặc các đại lý mua số lượng lớn; hỗ trợ phương tiện vận chuyển, tổ chức kho bãi... - Đặt văn phòng đại diện tại khu vực Miền Trung và Miền Nam, bởi vì đây là hai khu vực thị trường còn khá mới mẻ của Công ty và mức độ bao phủ với không gian quá rộng nên thành lập văn phòng đại diện là rất cần thiết. Thông qua văn phòng đại diện, Công ty sẽ dễ dàng và thuận tiện trong công tác tìm hiểu đánh giá thị trường, giải quyết những thắc mắc, khó khăn cũng như các trở ngại của đại lý, điểm bán lẻ và người tiêu dùng để từ đó làm cơ sở cho việc quản lý kênh và đưa ra các biện pháp hỗ trợ một cách kịp thời, nhanh chóng, chính xác và hợp lý trong toàn bộ hệ thống kênh tiêu thụ. - Tăng cường quản lý mạng lưới phân phối bằng cách cử cán bộ thị trường phụ trách từng vùng theo khu vực địa lý với các biện pháp quản lý nghiêm ngặt, tránh buông lỏng và thả nổi thị trường để các đại lý tự tiện thay đổi mức giá bán trên thị trường làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Năm là- Xây dựng chính sách quảng cáo và khuyếch trương sản phẩm - Thực hiện tuyên truyền, quảng cáo về sản phẩm của Công ty một cách sâu rộng nhất là các thông tin về những sản phẩm mới, đặc biệt là khi thâm nhập thị trường Miền Trung và Miền Nam. - Lựa chọn hình thức quảng cáo có thể tập trung số lượng người theo dõi đông đảo, tác động mạnh mẽ trực tiếp tới người tiêu dùng và hướng họ về sản phẩm Vang Thăng Long, biến họ thành những khách hàng tiềm năng như quảng cáo trên truyền hình Trung Ương không chỉ trong dịp Tết mà cả các dịp khác trong năm nhằm thúc đẩy nhu cầu, biến nhu cầu Vang chỉ dùng trong dịp Tết thành nhu cầu thường xuyên của mỗi gia đình trong các bưã ăn. Đồng thời kết hợp với các hình thức khác : tổ chức tham gia hội chợ triển lãm, tổ chức tài trợ, hội nghị khách hàng, phương tiện thông tin đại chúng (báo, tạp chí, đài truyền thanh), phát tờ rơi… - Sử dụng các công cụ yểm trợ như : trang bị cho các đại lý biển hiệu quảng cáo, băng rôn và cờ dây có in hình biểu tượng và sản phẩm của Công ty, khuyến mại như quay sổ xố trúng nhà, ô tô xe máy, đồ gia dụng, mũ và áo phông, bật lửa,… - Cần xây dựng, thiết kế bổ sung thêm thông tin đầy đủ về Công ty và các sản phẩm của Công ty cho trang Web được hoàn chỉnh hơn, nhằm đáp ứng thông tin cập nhật hơn, thu hút sự chú ý của người truy cập mạng muốn tìm hiểu kỹ về hoạt động của Công ty cổ phần Thăng Long. Để từ đó có thể quảng bá rộng rãi thương hiệu "Vang Thăng Long" và ký hợp đồng với các bạn hàng, đối tác làm ăn trong nước và quốc tế thông qua mạng. - Công ty cần phải có sự đầu tư chi phí thích hợp cho chính sách quảng cáo và khuyếch trương sản phẩm để công tác tuyên truyền thực sự đạt hiệu quả cao, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Hiệu quả của giải pháp : Qua việc tăng cường hoạt động Marketing, Công ty có thể đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm trên khu vực thị trường hiện có, mở rộng và thâm nhập khu vực thị trường mới. Đồng thời khẳng định được vị thế của thương hiệu trên thị trường, nâng cao uy tín của sản phẩm cũng như của Công ty. 4- Sắp xếp lại và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đào tạo - bồi dưỡng nguồn nhân lực Cơ cấu tổ chức phản ánh sự liên kết giữa các bộ phận trong một doanh nghiệp. Một cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt sẽ điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn một bộ máy cồng kềnh, cứng nhắc. Hiện tại, Công ty có cơ cấu tổ chức tương đối gọn nhẹ nhưng vẫn còn sự chồng chéo chức năng giữa các phòng ban. Do vậy Công ty cần phải sắp xếp lại và hoàn thiện bộ máy cơ cấu tổ chức của mình, cụ thể như sau : - Công ty nên tách biệt chức năng Marketing của phòng Thị Trường, sát nhập chức năng tiêu thụ sản phẩm với phòng cung tiêu; kết hợp chức năng quản lý nghiên cứu phát triển công nghệ, kỹ thuật sản xuất vào thành phòng Kỹ Thuật. - Công ty cũng cần phải tiến hành xây dựng mạng lưới thông tin nội bộ Intranet nhằm đảm bảo cung cấp thông tin trong nội bộ doanh nghiệp được kịp thời, chính xác và đầy đủ. - Nâng cao ý thức người lao động trong việc tuân thủ các quy định, quy trình của các hệ thống như : hệ thống quản lý chất lượng ISO, hệ thống bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm HACCP và hệ thống đảm bảo tốt các điều kiện thực hành sản xuất GMP. - Đối với nhân viên trực tiếp sản xuất, Công ty phải không ngừng nâng cao khả năng hiểu biết về nghề nghiệp, khoa học kỹ thuật, đào tạo tay thợ lành nghề bậc cao nắm vững quy trình công nghệ, có khả năng xử lý các tình huống trong sản xuất để đảm bảo chất lượng sản phẩm và duy trì hoạt động sản xuất. Để đạt được điều này Công ty cần tiến hành thi sát hạch kiểm tra tây nghề, tiến hành phân loại lao động trên cơ sở đó bố trí lao động cho phù hợp. - Đối với đội ngũ lao động thuộc bộ máy quản lý và lao động gián tiếp thì Công ty cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ theo hướng : Gửi đi đào tạo dài hạn một số cán bộ trẻ có triển vọng, mở các lớp đào tạo ngắn hạn tại Công ty, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm về các lĩnh vực quản lý, kỹ thuật nghiệp vụ dể hỗ trợ, bổ sung và nâng cao kinh nghiệm cho nhau. - Sử dụng các đòn bẩy kích thích người lao động nâng cao tinh thần trách nhiệm và hăng hái trong lao động sản xuất thông qua các hình thức tiền lương, tiền thưởng và thực hiện đầy đầy đủ các chế độ như : BHXH, BHYT… cùng các hoạt động phúc lợi khác. Do đó, công tác quản trị nguồn nhân lực của Công ty có tốt thì mới thu hút được nhân tài, người lao động mới trung thành và tận tâm, tận lực với doanh nghiệp của mình. 5- Tăng thêm uy tín của Công ty Uy tín của Công ty đã góp phần không nhỏ cho khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Để tăng thêm uy tín thì Công ty phải giải quyết các vấn đề sau : - Kiên quyết không đưa các sản phẩm có chất lượng kém trên thị trường. - Khuyến cáo với người tiêu dùng về các sản phẩm giả, nhái nhãn hiệu của Công ty trên thị trường. - Tổ chức các hoạt động khuyến mại nhân các dịp lễ, tết hoặc kỷ niệm ngày thành lập Công ty hay đạt chỉ tiêu sản lượng vượt mức… - Thường xuyên thăm hỏi các đại lý về tình hình tiêu thụ cũng như khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ. II- Một số kiến nghị với Nhà Nước Trong những năm qua, hệ thống đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước đã tạo ra môi trường thông thoáng thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, song hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn.Sau đây là một số kiến nghị để Nhà nước xem xét, hỗ trợ và định hướng thêm một số điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và Công ty cổ phần Thăng Long nói riêng nhằm tăng khả năng cạnh tranh lành mạnh của Công ty trên thị trường. Một là - Chính sách phát triển nguồn nhân lực Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ tích cực đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng để người lao động nâng cao tri thức nhằm làm chủ công việc thuộc lĩnh vực công tác được giao. Do đó, nó là động lực bên trong, sức mạnh nội lực thúc đẩy khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Hai là- Chính sách tạo môi trường kinh doanh Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ, tạo lập môi trường thông thoáng, cạnh tranh bình đẳng ; hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế theo hướng minh bạch, ổn định phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai thực hiện tránh tình trạng "trên thông, giữa thắt, dưới bóp" nhằm tạo môi trường cho tự do kinh doanh trên một sân chơi bình đẳng với các công cụ như : Trước hết phải kiên quyết chống độc quyền và bán phá giá. Chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái, chính sách giá, chính sách đất đai, chính sách tín dụng, chính sách thuế… phải bình đẳng. Ba là- Chính sách khuyến khích đầu tư Khuyến khích Công ty đầu tư cho vùng nguyên liệu trồng cây ăn quả như : cho vay ưu đãi, bảo hiểm cho nông dân vùng trồng cây, lấy lãi của công nghiệp bù đắp cho nông nghiệp để khuyến khích vùng trồng cây nguyên liệu phát triển nhằm tạo nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định. Bốn là- Chính sách huy động vốn Kiến nghị với Chính Phủ cho phép đối với các dự án đầu tư mới được phép vay vốn tín dụng, hỗ trợ một phần từ Ngân sách qua phần đóng góp thuế tiêu thụ đặc biệt của ngành nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tạo ra sức mạnh tài chính cuả Công ty. Cải tiến mạnh mẽ thủ tục vay giúp các doanh nghiệp và Công ty phát huy quyền chủ động, tự chủ về tài chính, tạo cho Công ty dễ dàng trong huy động vốn sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển. Để khuyến khích phát triển Ngành chuẩn bị cho tiến trình hội nhập, kiến nghị giảm giá tiêu thụ đặc biệt đối với Rượu : trên 40o thuế 70%, từ 300 - 40o thuế 55%, từ 30o trở xuống thuế 15%, dưới 15o bỏ thuế. Rượu tự nấu giảm xuuống từ 5 - 10% sản lượng. Điều chỉnh thuế đối với rượu quốc doanh và rượu liên doanh để chống cạnh tranh giá từ phía rượu tự nấu. Năm là- Chính sách công nghệ Để tạo điều kiện cho ngành Công nghiệp Rượu nói chung và Công ty cổ phần Thăng Long nói riêng đầu tư phát triển khoa học công nghệ, Nhà nước nên có các chính sách như : hỗ trợ chuyển giao công nghệ, khuyến khích áp dụng công nghệ mới, tiên tiến vào ngành Rượu nhằm mục đích tiến kịp với các nước trong khu vực tránh nguy cơ tụt hậu. Đồng thời nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động và rút ngắn dần khoảng cách so với các nước phát triển, tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh và năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. áp dụng công nghệ mới, tiên tiến trong sản xuất Rượu Vang còn đảm bảo cho quy trình vệ sinh an toàn thực phẩm được an toàn khi mở rộng công suất sản xuất của Công ty. Nhà Nước cũng cần ưu tiên cho các công trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất Rượu bằng nguồn vốn ưu đãi, trả chậm hoặc kéo dài thời gian với lãi suất thấp, miễn thuế trong thời gian thử nghiệm và bắt đầu áp dụng vào sản xuất… Với công nghệ hiện đại cộng thêm vào đó là đội ngũ lao động có thể làm chủ được các công nghệ đó cùng với cơ chế cơ chế quản lý thích ứng nhất định các doanh nghiệp sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Sáu là- Chính sách tìm kiếm và mở rộng thị trường mới Nhà Nước cần phát huy vai trò tích cực hơn nữa trong việc thu thập và cung cấp thông tin, mở rộng và tìm kiếm thị trường mới cho doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh theo hướng xuyên quốc gia, tăng cướng sự liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp để có tiếng nói chung trên thị trường, hạn chế bị các đối tác nước ngoài ép cấp, ép giá đồng thời khuyến khích thành lập quỹ Hiệp hội các doanh nghiệp ngành Công nghiệp Rượu nhằm phòng ngừa rủi ro theo ngành hàng… Kết luận Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là quy luật phổ biến và là tất yếu trên thương trường. Đồng thời đó cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng. Nhưng cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt hay đổ vỡ mà chỉ đơn giản là sự thay thế : Nó thay thế những người thiếu khả năng bằng những người năng động và có đầu óc, thay thế các doanh nghiệp không biết đón nhận và tận dụng các cơ hội kinh doanh, sử dụng lãng phí các nguồn lực bằng các doanh nghiệp có khả năng nắm bắt nhạy bén và kịp thời, biết sử dụng hợp lý và khai thác có hiệu quả hơn nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, Công ty cổ phần Thăng Long đã không ngừng nỗ lực đổi mới và trưởng thành với đội ngũ lao động có năng lực và trình độ chuyên môn giỏi kết hợp dây chuyền công nghệ tiên tiến - hiện đại đã tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, kiểu dáng đẹp, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng đa dạng của mọi người trên các thị trường khác nhau. Nhất là khi đất nước hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế thì mức độ cạnh tranh sẽ càng gay go và khốc liệt hơn. Chính vì thế Công ty cổ phần Thăng Long cần phải có các giải pháp hữu hiệu và thiết thực để tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm thương hiệu "Vang Thăng Long", giành vị trí dẫn đầu thị trường ngành Công nghiệp Rượu hiện tại đồng thời thâm nhập và mở rộng thị trường mới, tối đa hoá lợi nhuận nhằm duy trì sự tồn tại, phát triển của Công ty. Qua phân tích thực trạng tình hình hoạt động cạnh tranh của Công ty, ta thấy được bức tranh toàn cảnh về khả năng cạnh tranh trên thị trường của sản phẩm. Trên cơ sở đó, khoá luận này đưa ra một số đề xuất chủ quan của người viết nhằm đẩy mạnh khả năng cạnh tranh cuả Công ty cổ phần Thăng Long. Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tóm tắt Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành Công nghiệp Rượu - Bia - Nước giải khát giai đoạn 2000 - 2010 - Bộ Công Nghiệp Chiến lược cạnh tranh thị trường - Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh - 1994 3. Chiến lược và sách lược kinh doanh - Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh - 1994 Đánh giá và tiêu thụ sản phẩm - Nhà xuất bản Thống Kê - 1994 Giáo trình Marketing - Trường Đại học KTQD - 2002 6. Lý luận Marketing và nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh - Trường Đại học KTQD - 1994 7. Marketing căn bản - Philip Kotler - Nhà xuất bản Thống Kê - 1994 Tiếp thị và quản trị hoạt động thương mại - Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh - 1994 Tìm hiểu thị trường trong sản xuất kinh doanh - Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh Thời báo nghiên cứu và phát triển kinh tế - Số 25 (4/ 2002) Tạp chí Cộng Sản - Số 12 (6/2000) Vũ khí cạnh tranh thị trường - Nhà xuất bản Thống Kê - 1992 Mục lục Trang Lời cảm ơn 1 Lời mở đầu 2 Chương I : Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 4 Nhận thức cơ bản về thị trường 4 Cạnh tranh nhìn từ góc độ tổng thể của nền kinh tế 6 II. Cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 9 1. Nhận thức cơ bản về doanh nghiệp 9 2. Cạnh tranh của các doanh nghiệp 9 3. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp 12 Công cụ cạnh tranh là sản phẩm hàng hoá 12 Công cụ cạnh tranh là giá cả sản phẩm 13 Công cụ cạnh tranh là mạng lưới tiêu thụ sản phẩm 15 d. Các công cụ yểm trợ khác 17 III. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 18 Quan niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 18 Các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 18 Các yếu tố bên trong doanh nghiệp 18 b. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp 20 Chương II : Thực trạng hoạt động cạnh tranh của Công ty cổ phần Thăng Long hiện nay I. Tổng quan về Công ty cổ phần Thăng Long 23 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 23 Một số đặc điểm sản xuất kinh doanh chủ yếu của Công ty 25 Kết quả sản xuất kinh doanh đạt được trong thời gian qua và mục tiêu 33 phát triển của Công ty từ nay đến năm 2003 II. Thực trạng, tồn tại và hướng đi lên của tình hình cạnh tranh 35 của Công ty Những lợi thế của Công ty nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm 35 Khái quát chung về thị trường rượu và một số đối thủ cạnh tranh chính 38 Tình hình cạnh tranh của Công ty trên thị trường tiêu thụ sản phẩm 40 Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm 40 b. Cạnh tranh bằng giá cả 41 c. Mạng lưới tiêu thụ và kênh phân phối 44 d. Bao bì, nhãn hiệu 47 Quảng cáo, khuyếch trương sản phẩm 47 Các hoạt động khác hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm 48 4. Đánh giá chung về khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần thăng Long 49 Những thành tựu đạt được 49 b. Những hạn chế và nguyên nhân 49 Chương III : Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần Thăng Long Các giải pháp thuộc về phía Công ty 1. Tăng cường quản lýchất lượng sản phẩm 53 2. Tiếp tục đầu tư cỉa tiến và đổi mới công nghệ 54 Tăng cường hoạt động Marketing 55 Sắp xếp và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đào tạo - bồi dưỡng nguồn nhân lực 58 Một số kiến nghị với Nhà nước 60 Kết luận 61 Tài liệu tham khảo Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0020.doc