Lời mở đầu
Qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo tinh thần nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), nền kinh tế nứơc ta đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần vào việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong cơ chế quản lý mới. Thuế thực sự trở thành công cụ quản lý sắc bén của Nhà nước đối với mọi thành phần kinh tế. Yên cầu chủ yếu đặt ra cho thuế là phải bao quát hết các nguồn thu để nguồn thu từ thuế trở thành nguồn thu ch
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1532 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Biện pháp chống thất thu thuế giá trị gia tăng (VAT) trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ yếu cho ngân sách Nhà nước. Thuế phải có tác dụng khuyến khích, giải phóng mọi tiềm năng đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, tăng cường năng suất lao động, đảm bảo công bằng xã hội.
Để đáp ứng yêu cầu trên, trong những năm qua, hệ thông pháp luật thuế đã từng bước được ban hành, bổ sung và sửa đổi phù hợp với công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới công tác quản lý nhà nước. Nhà nước ta đã thực hiện chính sách thuế bình đẳng và thống nhất giữa các thành phần kinh tế, đã điều chỉnh hợp lý giữa các nguồn thu quan trọng từ nội bộ nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu chi ngân sách Nhà nước và góp phần thúc đấy sản xuất, lưu thông hành hoá phát triển.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đã được Quốc hội thông qua và được áp dụng từ ngày 01/01/1999 nhằm khắc phục của luật thuế doanh thu, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trong và ngoài nước, bảo hộ hợp lý và khuyến khích sản xuất trong nước, đặc biệt là đối với hàng xuất khẩu.
Qua hơn lăm năm thực hiện hai luật thuế mới, ngành thuế đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vu thu ngân sách. Tổng số thuế thu các năm đều vượt mức kế hoạch năm trong toàn quốc , các khu vực kinh tế và các sắc thuế chủ yếu cũng đều hoàn thành và vựơt mức dự toán thu.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng một tồn tại mà ngành thuế chưa vượt qua được đó là vấn đề thất thu vẫn còn quá lớn. Vì vậy nhiệm vụ chống thất thu thuế là nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu và là mục tiêu chủ yếu của ngành thuế để đảm bảo thuế thực sự là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước.
Nhận thức được vấn đề này, qua thời gian thực tập ở Chi cục thuế quận Hai Bà Trưng, được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô và các cán bộ thuế, với kiến thức lĩnh hội được trong nhà trường, qua tìm hiểu, phân tích tình hình, thu thập số liệu em đã chọn đề tài: “Biện pháp chống thất thu thuế GTGT trên địa bàn quận Hai Bà Trưng”.
Mục đích của đề tài là qua nghiên cứu số liệu, tìm hiểu tình hình quản lý thu thuế GTGT ở Chi cục thuế quận Hai Bà Trưng để tìm ra một số biện pháp chống thất thu thuế GTGT trên địa bàn quận.
Với mục đích đó, nội dung đề tài bao gồm:
Chương 1:VAT và thất thu VAT của nước ta.
Chương 2: Thực trạng thất thu và chống thất thu VAT trên địa bàn quận Hai Bà Trưng trong thời gian qua.
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường công tác chống thất thu VAT trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
Là một sinh viên, sự hiểu biết về lý luận và thực tiễn còn hạn chế . Vì vậy nội dung và phương pháp triển khai đề tài khó tránh được những khiếm khuyết. Em kính mong cô giáo nhiệt tình giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn.
Chương 1: VAT và thất thu VAT của nước ta.
1.1. Tổng quan về VAT.
VAT.
Thuế VAT được áp dụng lần đầu tiên tại Pháp năm 1954. Sau đó được triển khai rộng rãi sang các nước khác. Dựa trên nội dung của thuế VAT, mỗi nước xây dựng cho mình một luật thuế riêng phù hợp với điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia và hầu hết đã thu được kết quả tốt , cải thiện được tình hình tài chính của đất nước. Đến nay, Thuế VAT đã được khẳng định là một sắc thuế ưu việt, được áp dụng hầu hết các nước trên thế giới.
ở việt Nam, chính sách thuế trước đây chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, làm cản trở quá trình mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để khắc phục và tạo tiền đề để đưa nước ta bước sang giai đoạn mới, giai đoạn đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước, mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã cải cách thuế bước 2 nhằm phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam một cách rõ ràng, cụ thể, sâu sắc và hoà nhập với kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
Vậy thuế GTGT là gì?
Thuế GTGT là thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng hàng hoá( nói cách khác là đánh trên phần giá trị chênh lệch giữa giá “ đầu ra” và giá đầu vào do các cơ sở SXKD tạo ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh dịch vụ).
- Thuế GTGT là loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ nhằm động viên một phần thu nhập đóng góp cho Nhà nước thông qua việc trả tiền mua hàng của người tiêu dùng, nhà sản xuất kinh doanh và cung ứng dịch vụ chỉ là người nộp thay.
Thuế GTGT là loại thuế mới nhằm thay thế và khắc phục những hạn chế và tích luỹ trùng khắp của thuế Doanh thu. Thuế GTGT chỉ đánh vào phàn giá trị tăng thêm ( được thể hiện vào tiền lương, tiền công, tiền lợi nhuận, lợi tức và các khoản chi phí tài chính khác) của hàng hoá dịch vụ. Người bán hàng, người sản xuất hoạc cung ứng dịch vụ lần đầu phải nộp thuế GTGT trên toàn bộ doanh thu bán hàng, còn người bán hàng ở các khâu tiếp theo chỉ phải nộp thuế trên phần giá trị tăng thêm. Đến cuối chu kì sản xuất kinh doanh hoạc dịch vụ, tổng số thuế thu ở các công đoạn cộng lại sẽ đúng số thuế tính trên giá giá bán của hàng hoá, dịch vụ đó cho người tiêu dùng cuối cùng. Chính vì lẽ đó, một sản phẩm hàng hoá dịch vụ dù qua nhiều khâu, từ sản xuất đến tiêu dùng đều phải chịu thuế như nhau.
Thuế GTGT có phạm vi điều chỉnh rộng, áp dụng với tất cả các loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, tiêu thụ trong nước (kể cả hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và hàng hoá nhập khẩu), bao trùm lên mọi tổ chức, cá nhân thuộc mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và cung ứng dịch vụ. Mức thuế phải nộp thường căn cứ vào công dụng vật chất của sản phẩm chứ không phân biệt người mua và mục đích sử dụng. Thuế này thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN, được coi trọng trong tổng thể toàn bộ hệ thống thuế.
Thuế giá trị gia tăng theo cấu trúc thuế tỷ lệ, có ít mức thuế suất, đơn giản trong quá trình tính toán và thu thuế, thể hiện chính xác bản chất GTGT. Ngoài mức thuế suất 0% mà phần lớn các nước đang áp dụng cho hàng hoá xuất khẩu nhằm hoàn lại phần thuế đã thu ở khâu trước, Nhà nước khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu cạnh tranh trên thị trường quốc tế, các nước thường quy định từ 2 đến 3 mức thuế tuỳ theo tính chất của từng loại hàng hoá dịch vụ. ở nước ta, thuế GTGT được điều chỉnh còn lại 3 mức thuế (trước đây là 4 mức) là: 0%, 5%, và 10%.
Có hai cách xác định GTGT:
+ Theo phương pháp trực tiếp: theo phương pháp này GTGT được xác định bằng tiên lương cộng lại với lợi nhuận, phương pháp này chính xác nhưng xác định khó.
+ Phương pháp gián tiếp: theo phương pháp này GTGT được xác định bằng giá trị hàng bán ra trừ đi giá trị mua vào tương ứng. Trên thực tế, cách này dễ xác định, được dùng tính thuế GTGT mặc dù nó thiếu chính xác.
1.1.2.Vai trò của thuế GTGT trong nền kinh tế ở nước ta.
- Đảm bảo nguồn thu to lớn, ổn định cho NSNN, thể hiện.
Đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hoạc nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ chịu thuế. Đối tượng chịu thuế là tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ được sản xuất, cung ứng dịch vụ trong nước hay nhập khẩu đều là đối tượng chịu thuế GTGT. Như vậy, diện đánh thuế GTGT rất sâu rộng, vì vậy thuế GTGT có khả năng đem lại nguồn thu lớn cho NSNN.
Do đặc điểm nền kinh tế Việt Nam, hiện nay có nhiều thành phần kinh tế cùng song song tồn tại và hoạt động, nhận thức về pháp luật và sự am hiểu về chính sách thuế chưa cao, mặt khác còn nhiều việc thực hiện mở sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn chưa nghiêm dẫn đến khó xác định căn cứ tính thuế. Vì vậy nước ta sử dụng cả hai phương pháp tính thuế: phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp.
Vai trò điều chỉnh sản xuất và tiêu dùng hàng hoá, khuyến khích xuất khẩu.
Trong nền kinh tế thị trương, Nhà nước sử dụng thuế như là một công cụ để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua chính sách thu thuế, tất cả các chủ thể kinh tế và dân cư đều trở thành đối tượng điều chỉnh của nhà nước. Nhà nước dùng chính sách thuế để tác động đến quy mô, tốc độ và định hướng đầu tư của các chủ thể kinh tế cho phù hợp với phương hướng, chiến lược phát triển chung của nền kinh tế quốc dân mà Nhà nước đặt ra. Luật thuế GTGT của Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu này, thể hiện:
Về thuế suất: áp dụng mức thuế 5% với các mặt hàng hoá thiết yếu phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng, 10% cho các mặt hàng không thiết yếu cần điều tiết mạnh. 0% đối với mặt hàn xuất khẩu.
Về phương pháp tính thuế: đối với những đơn vị chấp hành tốt chế độ mở, ghi chép sổ sách kế toán và có đầy đủ hoá đơn chứng từ (thường là tất cả các đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân) thì được tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. Từ đó kích thích được các thành phần kinh tế thực hiện việc mở sổ sách kế toán và khuyến khích việc sử dụng hoá đơn chứng từ trong quan hệ mua bán và cung ứng hàng hoá, dịch vụ.
Về hoàn thuế: quy định hoàn thuế cho các cơ sở có mua sắm TSCĐ, cơ sở kinh doanh xuất khẩu được hoàn thuế đầu vào tương ứng, các cơ sở thuế đầu vào phát sinh lớn hơn số thuế đầu ra liên tục trong 3 tháng … đã khuyến khích đầu tư mở rộng trong hoạt động sản xuất, tạo điều kiện về vốn cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Như vậy, thuế GTGT có vai trò rất lớn trong hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế nước ta hiện nay, Mục đích của việc áp dụng thuế GTGT nhăm kiểm soát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh để dần dần lạnh mạnh quan hệ thị trường, tạo môi trường bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi phát huy hết thế mạnh về lao động, kỹ thuật, tiền vổn trong nước, duy trì công bằng xã hội, đảm bảo nguồn thu ổn đinh cho NSNN.
1.1.3.Thất thu thuế sự cần thiết phải chống thất thu thuế GTGT trong giai đoạn hiện nay.
Bất kì quốc gia nào, thuế luân luân đóng một vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế xã hội, là nguồn thu chủ yếu của NSNN và là công cụ quan trọng của nhà nước để quản lý, điều tiết sản xuất kinh doanh cũng như phân phối, tiêu dùng thúc đẩy kinh tế phát triển đúng hướng, đảm bảo công bằng xã hội. ở nước ta hiện nay, thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của NSNN. Số thu từ thuế đã chiếm trên 90% tổng thu NSNN. Và hệ thống thuế hiện hành đã đem lại kết quả thu vào NSNN ngày càng tăng qua các năm, đáp ứng về cơ bản yêu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng của NSNN, giảm tỷ lệ bội chi, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, phát huy được tác phong quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế , đã toạ được môi trường bình đẳng, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, trong nền kinh tế thị trường, góp phần mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Song bên cạnh những thành tựuđã đạt được, còn có một số hạn chế nhát định dẫn đến tình trạng thất thu thuế lớn. để thấy rõ vấn đề này, ta đi xem xét các vấn đề cụ thể:
+ Thất thu thuế là hiện tượng số thuế thực thu vào NSNN nhỏ hơn so với số thuế lẽ ra phải thu được trong một thời gian nhất định. Thất thu thuế có hai dạng:
Thất thu tiềm năng: là hiện tượng số thu nhỏ hơn so với khả năng thực tế có thể thu được do chính sách thuế qui định chưa bao quát hết được các nguồn thu dẫn đến bỏ sót nguồn thu.
Thất thu thực: là hiện tượng số thuế thực thu nhỏ hơn số thực thu phát sinh theo luật định.
+ Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng thất thu thuế :
Từ phía đối tượng nộp thuế ( ĐTNT): có hành vi khai man , trốn lậu thuế như không đăng ký kinh doanh , đăng ký thuế, khai man doanh số… dẫn đến dẫn đến các khoản đó phải thu nhưng không thu được.
Từ phía cán bộ nộp thuế: biện pháp quản lý ĐTNT chưa chặt chẽ, xác định chưa sát doanh số ấn định … gây hậu quả thất thu thuế vào NSNN.
Hiện tượng thất thu thuế gây hậu quả rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội của nước ta. Cụ thể là:
Làm giảm nguồn thu NSNN, không những không đáp ứng được nhu cầu chi NSNN, làm cho tình trạng bội chi của ngân sách diễn ra thường xuyên mà làm hạn chế vai trò, tác dụng của thuế đối với nền kinh tế, gây ra lạm phát.
Thất thu thế làm cho thuế không phát huy mạnh mẽ mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội giữa các thành phần kinh tế, giữa các tầng lớp dân cư, ảnh hưởng lớn đến sự bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, ảnh hưởng đến phát triển của nền kinh tế nói chung và không đảm bảo điều hoà lợi ích giữa nhà nước, thị trường và mỗi người dân.
Ngoài ra thất thu thuế còn ảnh hưởng nghiêm trong tới hiệu lực của các luật thuế, gây sự thiếu tin tưởng, làm giảm ý thức chấp hành pháp luật thuế của các ĐTNT. Từ đó làm ảnh hưởng đến vai trò quản lý thống nhất của nhà nước.
Nhận thức được vai trò quan trọng của thuế trong nền kinh tế thị trường hiện nay và hậu quả nghiêm trọng của hiện tượng thất thu thuế, nhiệm vụ tăng cường qunả lý và chống thất thu thuế là nhiệm vụ đặt lên hàng đầu không những đòi hỏi sự nỗ lực của riêng ngành thuế và các ngành các cấp có liên quan mà còn cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp đó với nhau.
Tuy nhiên, tình trạng thất thu thuế còn diễn ra nghiêm trọng với mọi sắc thuế, ở mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế.
Thuế GTGT là một sắc thuế được áp dụng ở Việt Nam từ năm 1999 tức là đã được 7 năm, tuy nhiên đó vãn chưa phải là quãng thời gian dài để hoàn thiện. Chính vì thế mà vẫn còn nhiều điều bất cập trong chính sách. Hơn nữa sự hiểu biết của người dân về luật thuế mới vẫn còn thấp, nghiệp vụ vủa cán bộ thuế chưa cao nên trong những năm qua vẫn còn tồn tại hiện tượng thất thu thuế ở mức độ cao. Đặc biệt chú ý là thành phần kinh tế cả thể.
Đa phần các hộ kinh tế cả thể thực hiện mua bán hàng hoá, dịch vụ bằng tiền mặt, chưa thực hiện tốt chế độ kế toán, việc sử dụng hoá đơn chứng từ trong mua bán hàng hoá chưa đầy đủ do đó công tác kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng gặp rất nhiều khó khăn. Các hộ này thường tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để trốn thuế như: không đăng ký nộp thuế, khai man doanh số , sử dụng hoá đơn giả…
Chương 2. Thực trạng thất thu và chống thất thu thuế VAT trên địa bàn quận Hai Bà Trưng trong thời gian qua.
2.1.Những vấn đề trong công tác quản lý thuế trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
2.1.1.Đặc điểm kinh tế xã hội trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
Quận Hai Bà Trưng là một trong tám quận nội thành của thủ đô Hà Nội, nằm ở cửa ngõ phía nam của thành phố, một vị trí thuận lợi để phát triển kinh tế thương mại. Nằm trên trục đường giao thông quan trọng của cả nước, tuyến đường quốc lộ 1A , với hai tụ điểm giao thông lớn là bến xe phía Nam và ga Giáp Bát, quận Hai Bà Trưng lag quận có số lượng hàng khách cũng như lưu lượng phương tiện giao thông qua lại lớn nhất của thành phố Hà Nội. Quận Hai Bà Trưng có diện tích gần 15 km2 với gần 25 phường hành chính, là nơi tập trung nhiều cơ quan, xí nghiệp lớn như: nhà máy dệt 8/3, nhà máy riệu Hà Nội, nhà máy dệt kim Đông Xuân… ; các trường đại học, trung học dậy nghề: đại học Kinh Tế Quốc Dân, đại học Bách Khoa Hà Nội, đại học Xây Dựng… ; các khu trung tâm vui chơi giải trí : công viên Lê-nin , công viên Thanh Nhàn … do vậy có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn quận Hai Bà Trưng.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, các thành phần kinh tế trên địa bàn quận Hai Bà Trưng cũng phát triển mạnh mẽ về cả số lượng, quy mô. Hoạt động chủ yếu trong các ngành nghề: thủ công nghiệp, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ … trong đó thương nghiệp là ngành phát triển mạnh nhất. Đến nay, toàn quận đã có 4 chợ lớn là: chợ Hôm, chợ Mơ, chợ Hoà Bình chợ Trương Định và có rất nhiều tụ điểm buân bán tập trung ở các phố lớn như:phố Huế, Phùng Khắc Khoan, Trần Nhân Tông…
Từ năm 1999, thực hiện theo sự phân công quản lý đối tượng nộp thuế (ĐTNT), khi áp dụng hai luật thuế mới, ĐTNT thuộc sự quản lý của chi cục thuế quận Hai Bà Trưng có sự thay đổi. Các ĐTNT áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ được chuyển về Cục thuế thành phố quản lý, Vì vậy ĐTNT trên địa bàn chi cục quản lý giảm đi rất nhiều. Hơn nữa, hầu hết ĐTNT này thuộc khu vực kinh tế tập thể như: các công ty TNHH, các công ty cổ phần, DN tư nhân, hợp tác xã, tổ sản xuất … là những khu vực đem lại số thu lớn nhất cho chi cục thuế quận Hai Bà Trưng lên số thu của chi cục thuế bị giảm đi nhiều so với những năm trước đó. Và từ năm 1999 đến nay chi cục chỉ quản lý những đối tượng kinh doanh là hộ kinh doanh công thương nghiệp ngoài quốc doanh, các loại thuế nhà đất, tiền thuê đất theo chỉ thị 245/TTG của thủ tướng Chính phủ, thuế sử dụng đất nhà nước, phí, lệ phí , thu khác. Tuy nhiên, khối lượng công việc, nhiệm vụ của chi cục vẫn phải thực hiện rất lớn và phức tạp.
Trước yêu cầu mà nhiệm vụ quản lý trên địa bàn quận, chi cục thuế đã kịp thời sắp xếp lại bộ máy tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Hiện nay toàn chi cục có 258 cán bộ, cán bộ có trình độ đại học chiếm 15% còn lại là trình độ trung cấp và sơ cấp.
Mô hình tổ chức của chi cục thuế quận Hai Bà Trưng gồm:
01 đồng chí Chi cục trưởng: là chủ tài khoản, phụ trách chung kế hoạch thu thuế, phụ trách đội thanh tra, đội hành chính- tổ chức.
04 đồng chí Chi cục phó trực tiếp phụ trách các đội thuế phường , chợ, đội nghiệp vụ và đội thu thuế trên khâu lưu thông.
21 đồng chí đội trưởng. Các bộ phận chức năng của Chi cục bao gồm.
- 01 đội hành chính tổ chức: thực hiện chức năng giúp ban lãnh đạo điều hành công tác tổ chức cán bộ, đảm bảo cơ sỏ vật chất kĩ thuật cho việc thưc hiện nhiệm vụ của toàn chi cục.
- 01 đội kế hoạch nghiệp vụ, thực hiện chức năng tham mưu cho lãnh đạo về việc phân bổ kế hoạch, xác đinh mức thuế ấn định, nhận xét đánh giá quy mô của từng phường, chợ để tham mưu cho ban lãnh đạo duyệt bộ thuế, tính thuế, phát hành thông báo thuế, đối chiếu số thu kho bạc, thực hiện công tác kế toán, thống kê thuế, quản lý và cấp phát sổ sách kế toán, ấn chỉ, hoá đơn.
- 01 đội thanh tra kiểm tra: thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tình hình thực hiện luật thuế của các ĐTNT, xử lý những hiện tượng vi phạm, kiểm tra sổ sách kế toán , hoá đơn của các ĐTNT, kiểm tra việc chấp hành các chế độ thu, nộp thuế của các đội thuế, bộ phận tính thuế.
- 01 đội buôn chuyến.
- 18 đội thuế phường: thực hiện nhiệm vụ quản lý thu tất cả các loại thuế phát sinh trong phạm vi phường, chợ được phân công quản lý.
Chi cục thuế quận Hai Bà Trưng phải quản lý số lượng ĐTNT rất đông, phạm vi rộng vì vậy để theo dõi, chỉ đạo, quản lý thuế một các sâu sát, chặt chẽ, ban lãnh đạo đã phân công cho mỗi đồng chí Chi cục phó trực tiếp quản lý, điều hành một số đội thuế phường, chợ. Ngoài phần theo dõi quản lý thu, mỗi đồng chí còn kiêm nhiệm một số công tác khác đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi cục. Thực tế hoạt động cho thấy cách thức tổ chức quản lý của chi cục là tương đối hợp lý phù hợp với tình hình quản lý thu thuế. Kết quả là, mặc dù còn bỡ ngỡ với hai luật thuế mơi nhưng từ năm 2000 đến nay nam nào chi cục cũng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy vậy cán bộ thuế trong toàn chi cục vẫn tiếp tục học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm đê đáp ứng với tình hình quản lý thu thuế của chi cục và đòi hỏi thách thức mới.
2.1.2. Tình hình quản lý thuế ở chi cục thuế thời gian qua.
Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta, các khu vực kinh tế và nhất là khu vực kinh tế cá thể đã đem lại một nguồn thu quan trọng và ngày càng tăng cho ngân sách Nhà nước.
Với đặc điểm phát triển kinh tế xã hội, quận Hai Bà Trưng là quận có số thu trọng điểm của thành phố Hà Nội, trong đó thuế công thương nghiệp dịch vụ ngoài quốc doanh chiếm một tỷ trọng lớn và ngày càng tăng qua các năm. Nếu so sánh trong thành phố Hà Nội thì số thu từ khu vực ngoài quốc doanh của quận Hai Bà Trưng lớn thứ hai, chỉ sau quận Hoàn Kiếm. Trên phạm vi Chi cục quản lý thì thuế ngoài quốc doanh chiếm một tỷ trọng lớn nhất, chiếm khoảng 80% trong tổng số thuế. Số thu từ khu vực này ngày một tăng qua các năm. Cụ thể:
Thuế ngoài quốc doanh qua các năm.
Đơn vị: 1000đ
Năm 2004
Năm 2005
Tuyệt đối
Tỷ trọng
Tuyệt đối
Tỷ trọng
Thuế NQD
198.568.000
100%
209.680.000
100%
Trong đó VAT
37.688.000
19%
47.025.000
22.5%
Nhìn vào bảng trên ta thấy số thu từ khu vực ngoàI quốc doanh năm 2005 tăng so với năm 2004 là 11.112.000.000đ (tăng 5,6%), trong đó số thu từ VAT cũng chiếm tỷ trọng khá cao: 19% năm 2004 và 22.5% năm 2005 đIều đó thể hiện rõ tầm quan trọng của khu vực kinh tế này.
Từ năm 1999, khi áp dụng luật thuế GTGT, các ĐTNT GTGT theo phương pháp khấu trừ như công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã, tổ sản xuất… được chuyển lên Cục thuế Hà Nội quản lý. Chi cục chỉ quản lý các đối tượng là cơ sở sản xuất kinh doanh công thương nghiệp ngoài quốc doanh, thu các loại thu từ thuế nhà đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp, lệ phí và thu khác. Và nguồn thu VAT của chi cục thì tập chung chủ yếu ở khu vực cá thể.
Báo cáo thực hiện thu khu vực cá thể trên địa bàn quận HBT
Năm 2005
Đơn vị: 1000đ
Stt
Loại thuế
Thực hiện
1
GTGT
47.025.000
2
TNDN
55.256.000
3
Môn bài
14.568.000
4
Tiêu thụ đặc biệt
3.588.000
5
Thuế khác
2.399.000
Cộng
122.836.000
Việc quản lý nguồn thu từ khu vực kinh tế cá thể là một công việc hết sức khó khăn do đặc điểm của khu vực này là số cơ sở sản xuất kinh doanh đông, phân tán, ý thức chấp hành luật pháp của các đối tượng còn thấp… mà luật thuế GTGT tuy áp dụng được vài năm nhưng vẫn còn mới, nên khó tránh khỏi hiện tượng thất thu thuế GTGT ở khu vực này, đòi hỏi chi cuch thuế hải có những biện pháp hữu hiệu tăng cường chống thất thu thuế.
2.2.Tình hình thất thu và chống thất thu thuế GTGT trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
2.2.1.Tình hình thất thu trong việc quản lý ĐTNT.
Theo quy định của pháp luật, tất cả các đối tượng muấn đứng ra tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải đăng kí kinh doanh và đăng ký nộp thuế. Song trên thực tế, đối tượng tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần xã hội và nhất là ở khu vực cá thể cứ có vốn, có địa điểm là họ có thể đứng ra kinh doanh, buôn bán nên sự hiểu biết của nhiều người về chính sách thuế còn thấp, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, xu hướng chạy theo lợi nhuận là phổ biến. Vì vậy mà hiện tượng kinh doanh mà không đăng ký dinh doanh, đăng ký nộp thuế còn diễn ra rất nhiều và nếu không kiểm soát chặt chẽ sẽ dẫn đến thất thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý ĐTNT, ngay từ đầu mỗi năm, Chi cục thuế đã chỉ đạo cho các đội thuế phường, chợ tạo điều kiện thuận lợi để các hộ kinh doanh được đăng ký kê khai nộp thuế. Trên cơ sở đó kiểm tra, kiểm soát số hộ thực kinh doanh trên địa bàn phường đăng ký kinh doanh nộp thuế ở chi cục là bao nhiêu. Từ đó đề ra những biện pháp cụ thể, phấn đấu đưa 100% các hộ sản xuất kinh doanh vào diện quản lý thuế.
Để thực hiện tốt 2 luật thuế GTGT và TNDN chi cục thuế Hai Bà Trưng dưới sự chỉ đạo của Cục thuế Hà Nội và với sự phối hợp của các ngành các cấp có liên quan, đã tiến hành ra soát lại các cơ SXKD, cấp đăng ký mã số thuế cho các ĐTNT. Và mấy năm vừa rồi, thông qua công tác rà soát các đối tượng kinh doanh, cấp mã số thuế chi cục thuế đã đưa thêm được rất nhiều hộ vào quản lý thu thuế (năm 2004 đã đưa thêm 655 hộ), và đến cuối năm 2005 chi cục đã cấp mã số thuế cho 17855 đối tượng SXKD trong đó số thực tế quản lý là 17246 đối tượng.
Sở dĩ đạt được kết quả này là do chi cục nhận thức được tầm quan trọng của việc quản lý ĐTNT đối với việc đảm bảo nguồn thu cho NSNN, đồng thời đảm bảo công bằng trong xã hội. Ban lãnh đạo chi cục đã nhắc nhở các cán bộ quản lý cần bám sát địa bàn được phân công, phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp có liên quan như: UBND phường, đội tư vấn thuế phường, ban quản lý thuế chợ… để nắm rõ tình hình những hộ mới ra SXKD mà chưa đăng ký kinh doanh để kịp thời thông báo, quy định về thuế. Đồng thời rà soát những hộ có đăng ký kinh doanh nhưng chưa đăng ký nộp thuế để đưa vào diện quản lý. Bên cạnh đó, để tránh hiện tượng giảm, mất ĐTNT do nghỉ giả kinh doanh, chi cục thuế đã tăng cường công tác kiểm tra hộ xin nghỉ hẳn, giảI thể bằng cách thực hiện tốt, chặt chẽ quy trình quản lý đối với hộ nghỉ như: phảI có đơn nghỉ kinh doanh đã được hội đồng tư vấn thuế phường xác nhận, danh sách hộ nghỉ kinh doanh được kiểm tra thường xuyên. Đối với những hộ “nghỉ giả” (có đơn xin nghỉ nhưng vẫn kinh doanh) đều bị xử phạt theo pháp luật. Tuy nhiên, cho dù việc thực hiện quản lý ĐTNT có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn một số nguyên nhân khác dẫn đến bỏ sót ĐTNT, gây thất thu cho NSNN.
Tuy việc rà xoát ĐTNT để cấp mã số thuế được tiến hành khá tốt song do địa bàn quận có nhiều hộ SXKD nhỏ, không thường xuyên, có tính mùa vụ, sự biến động ngành nghề, địa đIểm, thời gian kinh doanh lại diễn ra không thường xuyên nên bỏ sót hộ quản lý và ghi thu là việc khó tránh khỏi.
Để thấy rõ tình hình thất thu về số hộ, ta nghiên cứu bảng sau:
Tình hình quản lý ĐTNT ở chi cục Hai Bà Trưng
Qua các năm
Năm
Số hộ
kinh
doanh
Số hộ quản
lý thuê
% quản
lý/kinh doanh
Số hộ
ghi thu
% ghi
thu/quản
lý
2004
16.865
15.231
90%
12.869
76,3%
2005
17.885
16.763
93,7%
14.566
81,4%
Theo số liệu ở bảng ta thấy, trong năm 2005 chi cục đã có nhiều tiến bộ trong việc quản lý ĐTNT, tỷ lệ đối tượng nộp thuế so với số lượng hộ thực kinh doanh đạt 93,7% tăng 3,7% so với năm 2004. Đạt kết quả này là do có nhiều bám sát địa bàn, phát hiện các hộ mới ra SXKD hoạc các hộ kinh doanh mà không đăng ký kinh doanh để đưa vào diện quản lý. Song vẫn còn tình trạng hộ không đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế mà thực tế vẫn kinh doanh. Những hộ này chủ yếu là những hộ kinh doanh sớm tối, không có địa đIểm ổn định hoạc những hộ SXKD phân tán, hoạt động tại nhà, ngõ, xóm rất khó phát hiện.
Còn về phần “nghỉ giả” của các hộ thì sao? Việc xin nghỉ giả kinh doanh hết sức phức tạp, nó không chỉ ảnh hưởng đến nhiệm vụ thu của chi cục và sự công bằng giữa các hộ kinh doanh mà còn là một kẽ hở cho các hộ SXKD trốn lậu thuế. Chi cục đã đưa hộ nghỉ kinh doanh vào theo dõi trên sổ sách để nắm bắt tình hình.
Tình hình nghỉ kinh doanh ảnh hưởng rất lớn đến số thu hàng tháng của chi cục, đặc biệt là thuế GTGT. Vì thuế GTGT được thu hàng tháng, sự biến động về số hộ trong tháng gây tình trạng thất thu vì thực tế có những hộ báo nghỉ kinh doanh nhưng vẫn kinh doanh hoạc kinh doanh ngầm dưới dạng khác để được miễn thuế. Hầu hết những hộ này thuộc ngành thương nghiệp vì ngành này không phức tạp, dễ dàng di chuyển địa đIểm kinh doanh, số hộ kinh doanh trong ngành phát sinh thường xuyên, khó quản lý, theo số liệu đIều tra của cơ quan quản lý thị trường thì trong năm 2005, mặc dù đã kiểm tra, phát hiện và xử phạt rất nhiều trường hợp những cơ sở kinh doanh “nghỉ giả” song trung bình hàng tháng có 337 số hộ xin nghỉ, nhưng thực tế có khoảng 15% trong vẫn hoạt động kinh doanh.
Trong tổng số thuế GTGT thất thu, số thất thu từ hộ nghỉ giả thường khá cao. Ta có thể ước tính số thuế GTGT thất thu do nghỉ giả thông qua bảng sau:
Ước tính số thuế GTGT thất thu do hiện tượng “nghỉ giả”
Chỉ tiêu
Năm 2005
Số hộ ghi thu bình quân tháng
16.540
Số hộ nghỉ kinh doanh bình quân tháng
337
Tỷ lệ nghỉ giả
2,1%
Số hộ nghỉ giả bình quân tháng
32
Số thuế GTGT ghi thu bình quân hộ/năm
1.367.660
Số thuế GTGT ghi thu bình quân hộ/tháng
115.940
Số thuế GTGT thất thu do nghỉ giả bình quân/tháng
3.452.350
Số thuế GTGT thất thu do nghỉ giả bình quân/năm
37.617.860
Qua việc phân tích đánh giá tình hình thất thu do quản lý ĐTNT chưa tốt, ta có thể rút ra nhận xét: mặc dù chi cục thuế đã có nhiều cố gắng song nhìn chung tình hình bỏ sót ĐTNT, hiện tượng “ghỉ giả” còn phổ biến gây ra một khối lượng thất thu khá lớn, chi cục thuế đã tìm hiểu nguyên nhân:
- Về mặt chủ quan:
+ Trong công tác quản lý, còn có cán bộ chưa nhận thức đúng trách nhiệm của mình, chưa đI sâu đI sát tình hình biến động trên địa bàn mình phụ trách. Vì vậy chưa theo dõi được sát tình hình các hộ sản xuất mới ra SXKD, chuyển địa đIểm kinh doanh, thay đổi tên chủ…
+ Đội thuế, cán bộ thuế còn nể nang, chưa cương quyết trong việc xử lý sai phạm.
+ Lực lượng quản lý, kiểm tra còn quá mỏng trong khi phảI quản lý số lượng ĐTNT lớn, hoạt động của cán bột thuế phảI làm việc đơn lẻ, phân tán gây khó khăn cho công tác quản lý.
+ Trình độ nghiệp vụ: kinh nghiệm của một số cán bộ còn hạn chế, tinh thần đối với công việc chưa cao, chưa đI sâu vào thực tế hoạt động SXKD.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Do ý thức chấp hành pháp luật của các đối tượng kinh doanh chưa cao, có xu hướng chạy theo lợi nhuận. Nhiều người còn cố tình lẩn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của cán bộ thuế, cố tình trốn, lách thuế bằng nhiều thủ đoạn.
+ Số lượng ĐTKD có quy mô rất nhiều, hoạt động không ổn định, thường xuyên thay đổi địa đIểm… cũng làm ảnh hưởng đến tình hình quản lý ĐTNT, gây thất thu cho NSNN.
+ Chế độ quản lý còn rườm rà, một đơn vị muốn ra kinh doanh phảI đăng ký với 2 cơ quan, gây phiền hà cho người ĐKKD.
NgoàI ra công tác cấp phát ĐKKD chưa phát huy được hiệu quả, chưa xử lý nghiêm minh các ĐTKD kinh doanh mà không ĐKKD. Việc phối hợp, trao đổi thông tin giữa các phòng kế toán quận (nơI cấp phát ĐKKD) và chi cục thuế còn chưa thường xuyên, chặt chẽ cũng là nguyên nhân gây nên hiện tượng thất thu cho NSNN.
Qua phân tích tình hình quản lý ĐTNT ở chi cục thuế quận Hai Bà Trưng, ta nhận thấy tình hình thất thu thuế nói chung và thất thu thuế GTGT nói riêng trong quản lý ĐTNT còn rất lớn, mỗi năm có thể lên đến hàng trăm triệu.
Tuy nhiên đây mới chỉ là tình hình thất thu về việc quản lý ĐTNT trên địa bàn cả dạng quản lý được và dạng chưa quản lý được xảy ra chủ yếu ở ngành thương nghiệp và ăn uống. Và nó đã gây một số lượng thuế không nhỏ cho NSNN. Song bên cạnh đó số thuế thất thu do việc quản lý không sát căn cứ tính thuế xảy ra không kém phần nghiêm trọng. Để đạt được số thu sát với thực tế, công tác quản lý căn cứ t tính thuế có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nừu quản lý căn cứ tính thuế không chặt chẽ, sát thực tế sẽ gây ra thất thu thuế lớn, không giảI quyết tốt được mối quan hệ giữa lợi ích của ĐTNT của nhà nước, đồng thời nó gây mất công bằng xã hội mà một trong những nhiệm vụ quan trọng của thuế là đảm bảo công bằng xã hội.
2.2.2.Tình hình thất thu về căn cứ tính thuế:
Ta._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32737.doc