Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, thị trường chứng khoán đóng một vai trò hết sức quan trọng. Thông qua các hoạt động mua bán, giao dịch chứng khoán và các loại giấy tờ có giá, thị trường này đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Thị trường chứng khoán được ví như thước đo phản ánh sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế của một quốc gia, thậm chí phản ánh trực tiếp biến động hàng ngày của nền kinh tế đó.
Thị trường chứng khoán không còn là mới mẻ đối với các
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biến động giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ chí Minh, các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước phát triển như Mỹ, Anh, Nhật, hoặc các nước Châu Âu khác. Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức ra đời kể từ khi Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/07/2000. Trong hơn hai năm qua, thị trường đã có những đóng góp nhất định cho quá trình xây dựng và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam, tạo ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, tạo ra môi trường đầu tư mới, hấp dẫn đối với dân chúng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên Thị trường chứng khoán Việt Nam còn hết sức non trẻ, các nhân tố cơ bản cần thiết cho sự hoạt động của thị trường như điều kiện về kinh tế xã hội, môi trường pháp lý, và cả kiến thức của công chúng đầu tư đều mới được hình thành.
Để nghiên cứu, phân tích và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến biến động giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh trong hơn hai năm vừa qua, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm bình ổn giá cổ phiếu trong thời gian tới em đã chọn đề tài “Biến động giá cổ phiếu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh - các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp khắc phục”.
Đề tài, ngoài phần mở đầu, kết luận bao gồm 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về thị trường chứng khoán và giá cổ phiếu
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến biến động giá cổ phiếu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Một số giải pháp nhằm bình ổn giá cổ phiếu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
Do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, thời gian nghiên cứu lại có hạn nên khoá luận không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo, các nhà đầu tư chứng khoán và những người quan tâm đến chứng khoán để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn PGS - TS Nguyễn Thị Quy, người trực tiếp hưóng dẫn em hoàn thành khoá luận này.
Chương I
Những vấn đề chung về thị trường chứng khoán và giá cổ phiếu
Một số vấn đề chung về thị trường chứng khoán
Khái niệm thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi phát hành và mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn.
Chức năng của thị trường chứng khoán
a, Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của Công ty, thị trường chứng khoán đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ và chính quyền các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ cho các nhu cầu chung của xã hội.
b, Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn các hàng hoá khác nhau phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy thị trường chứng khoán đóng góp một phần đáng kể làm tăng tiết kiệm cho quốc gia.
c, Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán mà họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường.
d, Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua đánh giá chứng khoán, hoạt động của doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
e, Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Các chỉ báo của thị trường chứng khoán phán ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá của chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại giá chứng khoán giảm cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, thị trường chứng khoán được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp cho chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ có thể mua và bán trái phiếu chính phủ tạo nguồn thu để bù thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ chính phủ áp dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
Hàng hoá của thị trường chứng khoán
Hàng hóa của thị truờng chứng khoán là chứng khoán. Chứng khoán là chứng từ hoặc bút toán xác nhận quyền lợi hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với người phát hành.
Các chứng khoán được chia thành 4 nhóm chính:
a, Cổ phiếu
Là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với thu nhập và tài sản của một công ty cổ phần.
Cổ phiếu được chia thành 2 loại cơ bản là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
b, Trái phiếu
Là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Trái phiếu gồm có nhiều loại: Trái phiếu có bảo đảm, trái phiếu không bảo đảm, trái phiếu có thể mua lại, trái phiếu có thể bán lại, trái phiếu có thể chuyển đổi. . .
c, Chứng khoán có thể chuyển đổi
Là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định có thể đổi nó lấy một chứng khoán khác.
d, Các công cụ phái sinh
Là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu. . . nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Có các công cụ phái sinh như quyền lựa chọn (chọn mua hoặc bán), quyền mua trước, chứng quyền, hợp đồng kì hạn, hợp đồng tương lai.
Cơ cấu của thị trường chứng khoán
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị tường thứ cấp.
a, Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua chứng khoán mới phát hành.
Vai trò của thị trường
- Chứng khoán hoá nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy động qua việc phát hành chứng khoán.
- Thực hiện việc chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp
- Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem vốn cho nhà phát hành.
- Những người bán trên thị trường sơ cấp được xác định thường là kho bạc, ngân hàng nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành.
- Giá các chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết định và thường được in ngay trên chứng khoán.
b, Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
Đặc điểm của thị trường thứ cấp
- Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào những người phát hành chứng khoán mà chuyển vận giữa những người đầu tư chứng khoán trên thị trường. Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp.
- Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
- Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
Cũng có thể phân loại thị trường chứng khoán theo tính chất tập trung của thị trường (Tính chất tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất). Khi đó, thị trường chứng khoán bao gồm : Sở giao dịch chứng khoán (Thị trường tập trung) và Thị trường OTC (Thị trường phi tập trung). Tại Sở giao dịch chứng khoán, các giao dịch được tập trung lại một địa điểm, các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch. Trên thị trường OTC, các giao dịch (cả sơ cấp lẫn thứ cấp) được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá cả trên thị trường này được hình thành theo phương thức thoả thuận.
Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
a, Nguyên tắc cạnh tranh
Theo nguyên tắc này, giá cả trên thị trường chứng khoán phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty.
Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá.
b, Nguyên tắc công bằng
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích cho tất cả những người tham gia thị trường. Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó.
c, Nguyên tắc công khai
Chứng khoán là hàng hoá trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như hàng hoá thông thường mà phải dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy thị trường chứng khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống thông tin tốt. Theo luật định các bên phát hành chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ và kịp thời những thông tin có liên quan đến tổ chức phát hành, tới đợt phát hành. Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần đầu cũng như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan.
Nguyên tắc này nhằm bảo vệ người đầu tư, song nó cũng hàm nghĩa rằng, một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác thì người đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
d, Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc này trên thị trường chứng khoán các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của người phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh của các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
e, Nguyên tắc tập trung
Thị trường chứng khoán phải hoạt động trên nguyên tắc tập trung. Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC, có sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản. Các chứng khoán, hàng hoá của thị trường chứng khoán là các sản phẩm tài chính cao cấp nên việc giao dịch chúng đòi hỏi thị trường phải có những cơ sở vật chất nhất định chứ không thể diễn ra một cách tuỳ tiện.
Các thành phần tham gia thị trường chứng khoán
a, Nhà phát hành
Nhà phát hành là những người phát hành chứng khoán nhằm huy động vốn, gồm 2 chủ thể:
Nhà nước: phát hành trái phiếu, tín phiếu, công trái nhằm bổ sung cho ngân sách, xây dựng các công trình. . .
Các doanh nghiệp: phát hành trái phiếu công ty, cổ phiếu, các công cụ phái sinh khác để huy động vốn tiến hành sản xuất kinh doanh.
b, Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người có nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời, đầu tư vào thị trường chứng khoán với mục đích đầu cơ hoặc kinh doanh kiếm lời, gồm 2 loại:
Nhà đầu tư cá nhân
Là các nhà đầu tư với quy mô nhỏ, tham gia với số lượng đông đảo nhất trên thị trường.
Nhà đầu tư chuyên nghiệp
Thường là các nhà đầu tư có tổ chức, đầu tư vào thị trường chứng khoán một cách chuyên nghiệp, với số vốn đầu tư lớn, có các bộ phận chuyên biệt nghiên cứu để ra các quyết định đầu tư. Đó là các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, quỹ lương hưu. . .
c, Tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
Các công ty chứng khoán
Là các công ty hoạt động trong ngành công nghiệp chứng khoán với các nghiệp vụ chính như môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư, quản lí danh mục đầu tư.
Các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác
Tuỳ theo từng nước, các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường chứng khoán với mức độ khác nhau. Các ngân hàng thương mại đa năng và đa năng một phần thì được phép tham gia trên thị trường chứng khoán còn các ngân hàng thương mại đơn năng thì không.
d, Tổ chức quản lí thị trường
Nhà nước quản lí thị trường chứng khoán thông qua Uỷ ban chứng khoán
Quản lí các hoạt động liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán, ban hành các đạo luật, các quy định đảm bảo cho thị trường hoạt động công bằng, công khai, đảm bảo quyền lợi của người đầu tư.
Tổ chức lưu kí, đăng kí và thanh toán bù trừ chứng khoán
Làm dịch vụ lưu trữ chứng khoán và thực hiện các quyền của người sở hữu chứng khoán.
Hiệp hội chứng khoán
Là tổ chức của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán với mục đích bảo vệ lợi ích cho các thành viên và bảo vệ toàn ngành chứng khoán. Ngoài ra còn có các tổ chức khác như công ty đánh giá tín nhiệm, công ty dịch vụ máy tính. . .
Một số vấn đề chung về giá cổ phiếu và các nhân tố ảnh hưởng đến biến động giá cổ phiếu
Khái niệm cổ phiếu
Cổ phiếu là loại chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một doanh nghiệp cổ phần. Nói cách khác, cổ phiếu là giấy chứng nhận việc đầu tư vốn vào công ty cổ phần.
Giá cổ phiếu
a, Giá phát hành cổ phiếu
Giá phát hành của cổ phiếu là giá bán ra khi đơn vị phát hành cổ phiếu phát hành cổ phiếu. Do mức doanh lợi của công ty và giá cả thị trường là không giống nhau cho nên giá phát hành của các cổ phiếu cũng không giống nhau. Thông thường có mấy loại giá sau:
Bình giá
Là giá phát hành dựa trên mệnh giá cổ phiếu.
Thời giá
Là giá dựa vào giá hiện hành của các cổ phiếu đang lưu thông trên thị trường để xác định mức giá phát hành.
Giá trung gian
Là giá dựa vào giá trung gian giữa giá cổ phiếu và giá thị trường để xác định mức giá phát hành.
Chiết giá phát hành
Là giá phát hành cổ phiếu thấp hơn mệnh giá.
b, Thị giá của cổ phiếu
Thị giá của cổ phiếu là chỉ giá cổ phiếu được mua bán tại thị trường giao dịch cổ phiếu. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị giá cổ phiếu là rất nhiều.
Công thức để tính thị giá:
Thị giá = Mệnh giá cổ phiếu x Lợi tức dự tính
Lợi tức thị trường
Đây chỉ là mức giá theo lý thuyết. Khoảng cách giữa mức giá lý thuyết này so với giá thực tế là tương đối lớn.
c, Giá trị hiện tại của cổ phiếu
Giá trị hiện tại của cổ phiếu là giá trị mà cổ phiếu thể hiện một cách chính thức tại một thời điểm nào đó.
d, Giá mở cửa và giá đóng cửa của cổ phiếu
Giá mở cửa
Là giá đầu tiên được mua bán của một loại cổ phiếu nào đó tại thời điểm mở cửa thị trường trong ngày tại nơi giao dịch cổ phiếu.
Giá đóng cửa
Là giá cuối cùng của một loại cổ phiếu nào đó được mua bán vào thời điểm cuối cùng trong ngày tại nơi giao dịch cổ phiếu.
Một số phương pháp định giá cổ phiếu
a, Định giá cổ phiếu theo phương pháp hệ số P/E
Đây là phương pháp được áp dụng phổ biến ở các thị trường chứng khoán phát triển. Hệ số P/E là hệ số giữa giá cổ phiếu (thị giá) và thu nhập hàng năm của một cổ phiếu đem lại cho người nắm giữ. Thông thường, để dự tính giá của một loại cổ phiếu, người ta thường dùng thu nhập của mỗi cổ phiếu của công ty nhân với hệ số P/E trung bình ngành hoặc của một công ty tương tự về quy mô, ngành nghề đã được giao dịch trên thị trường.
Việc áp dụng hệ số P/E để tính giá cổ phiếu ở Việt Nam còn gặp phải nhiều khó khăn do thiếu số liệu và thị trường chứng khoán chưa phát triển. Tại các thị trường đã phát triển, theo số liệu thống kê về chỉ số P/E, hệ số này từ 8 – 15 là bình thường, nếu hệ số này lớn hơn 20 thì công ty đang được đánh giá rất tốt và người đầu tư trông đời trong tương lai, mức thu nhập trên một cổ phiếu sẽ tăng nhanh. Trường hợp công ty có hệ số P/E thấp có thể là do thị trường đánh giá không cao công ty đó, hoặc chưa hiểu biết nhiều về công ty.
Khi tất cả các cổ phiếu trên thị trường đều có giá quá cao so với giá trị thực của nó thì phần bong bóng vượt quá phần thực nhất định có ngày nổ tung, gây khủng hoảng thị trường như đã từng thấy ở các nước phát triển.
b, Định giá cổ phiếu theo luồng cổ tức
Theo phương pháp này, giá cổ phiếu hiện tại chính là giá trị quy về hiện tại của toàn bộ các luồng thu nhập trong tương lai.
Po
=
DIVn
(1+r)n
+
PH
(1+r)n
Trong đó:
Po : giá cổ phiếu hiện tại.
DIVn : cổ tức dự đoán năm thứ n.
H : giá cổ phiếu năm thứ H.
r : tỉ suất lợi nhuận mong đợi.
c, Định giá cổ phiếu theo luồng tiền mặt
Luồng tiền mặt không được giữ lại đầu tư mà được dùng để chi trả cổ tức được gọi là luồng tiền mặt tự do.
Luồng tiền mặt tự do = Doanh thu - chi phí - đầu tư
Công thức tính giá cổ phiếu dựa theo luồng tiền mặt:
FCFn
Po
=
(1+r)n
(1+r)n
+
PH
Trong đó:
Po : giá cổ phiếu hiện tại.
FCFn : luồng tiền mặt tự do năm thứ n.
PH : giá cổ phiếu năm thứ H.
r : tỉ suất lợi nhuận mong đợi.
d, Định giá theo tài sản thuần:
Tài sản có - Tài sản nợ + Lợi thế thương mại
Tổng số cổ phiếu thường
Po
=
Po là giá cổ phiếu hiện tại.
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi giá cổ phiếu
a, Các điều kiện kinh tế vĩ mô
Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội toàn cầu
Trong quá trình hội nhập kinh tế ngày nay, biến động về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của một quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước nói chung và ảnh hưởng đến các công ty cổ phần nói riêng, qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Tình hình nền kinh tế trong nước
Tình hình kinh tế tốt hay xấu có ảnh hưởng mạnh mẽ tới giá cổ phiếu, trước hết nó ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nền kinh tế tăng trưởng tốt, thu nhập của người dân tăng, thất nghiệp giảm. . .sẽ kích thích sự tiêu dùng của dân chúng, giúp cho việc kinh doanh của các công ty thuận lợi hơn, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận, cổ tức. . . làm cho giá cổ phiếu của các công ty tăng lên. Tình hình nền kinh tế trong nước như thế nào được phản ánh ở các chỉ tiêu như (GDP), tỉ lệ thất nghiệp. . .
Lãi suất: đa số các doanh nghiệp đều có các khoản nợ đối với ngân hàng để có thể có đủ vốn tiến hành sản xuất kinh doanh nên lãi suất tác động trực tiếp đến chi phí vốn của các doanh nghiệp. Nếu lãi suất tăng, chi phí sản xuất kinh doanh sẽ tăng, dẫn đến lợi nhuận giảm, từ đó ảnh hưởng đến giá cổ phiếu.
Tỉ giá: Tỉ giá ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực liên quan nhiều đến xuất nhập khẩu.
Lạm phát: lạm phát cao làm cho số tiền thực tế mà các doanh nghiệp thu được giảm, do đó có gây ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của công ty.
Môi trường chính trị, pháp luật trong nước: một môi trường chính trị ổn định, pháp luật công minh, chặt chẽ sẽ là môi trường tốt giúp các nhà kinh doanh thu được nhiều lợi nhuận. Các chính sách, chế độ, ưu đãi của Nhà nước đối với từng ngành, lĩnh vực cũng tác động lớn đến lợi nhuận, đến sự tăng trưởng bền vững của các doanh nghiệp.
b, Tình hình chung của ngành
Diễn biến của ngành công nghiệp mà công ty phát hành cổ phiếu hoạt động trong đó có ảnh hưởng lớn tới khả năng sinh lợi và rủi ro của chính cổ phiếu đó. Các yếu tố như mức độ nhạy cảm của ngành công nghiệp đối với chu kì kinh doanh, tỉ lệ giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi, vòng đời của doanh nghiệp trong ngành công nghiệp đó có ảnh hưởng gián tiếp đến nhu cầu đầu tư vào ngành đó, từ đó ảnh hưởng đến giá cổ phiếu.
c, Tình hình tài chính của bản thân công ty niêm yết.
Các nhà phân tích cơ bản căn cứ vào bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập trong từng thời kì của một công ty để đánh giá giá trị của công ty đó. Họ sử dụng các hệ số phân tích làm căn cứ xác định giá trị thực của cổ phiếu thể hiện trên một số mặt cơ bản như:
Hệ số khả năng thanh toán
Chỉ ra khả năng của công ty đáp ứng nợ ngắn hạn cũng như khả năng chuyển tài sản hiện thời thành tiền. Có các hệ số như: vốn lưu động thuần, hệ số khả năng thanh toán hiện thời, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số tài sản tiền tệ.
Hệ số khả năng vốn (hay tỉ lệ vốn hoá)
Hệ số này được sư dụng để đánh giá mức độ rủi ro phá sản của công ty, bao gồm các tỉ lệ: tỉ lệ cổ phiếu thường, tỉ lệ cổ phiếu ưu đãi, tỉ lệ trái phiếu, tỉ lệ nợ so với vốn cổ phần.
Các hệ số trang trải
Đo lường khả năng của công ty để đáp ứng việc trả lãi cho các chủ trái phiếu và trả cổ tức cho các cổ đông ưu đãi. Bao gồm: hệ số thanh toán lãi trái phiếu, hệ số thanh toán cổ tức ưu đãi.
Khả năng lợi nhuận
Chỉ ra số lợi nhuận mà một công ty đạt được cho mỗi đồng doanh thu bán hàng, sử dụng hệ số tổng lợi nhuận và hệ số lợi nhuận ròng, tỉ lệ hoàn vốn cổ phiếu thường.
Hệ số sử dụng tài sản
Tỉ lệ luân chuyển hàng hoá (vòng quay hàng tồn kho), giá sổ sách của mỗi cổ phiếu thường.
Giá sổ sách của mỗi cổ phiếu thường
Tổng tài sản - Tài sản vô hình - Tổng số nợ - cổ phiếu ưu đãi
Số cổ phiếu thường
=
Thu nhập trên cổ phần (EPS)
EPS
=
Lợi nhuận ròng - Cổ tức ưu đãi
Số lượng cổ phiếu đã phân phối
Thu nhập trên mỗi cổ phần là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến giá cổ phiếu, nó thể hiện thu nhập đối với mỗi cổ đông, là yếu tố tạo ra sức hấp dẫn của cổ phiếu đối với các nhà đầu tư.
Hệ số giá/thu nhập(P/E)
P/E
=
Giá thị trường
Thu nhập của mỗi cổ phiếu
P/E thể hiện mối quan hệ giữa giá thị trường và EPS, hệ số P/E chỉ ra rằng giá thị trường của cổ phiếu so với thu nhập từ cổ phiếu đó đang ở mức cao hay thấp, thể hiện sự hi vọng về khoản thu nhập trong tương lai của các nhà đầu tư, họ sẵn sàng trả giá bao nhiêu cho thu nhập đó, do đó hệ số P/E ảnh hưởng mạnh mẽ đến giá cổ phiếu.
Hệ số chi trả cổ tức: đo lường tỉ lệ phần trăm lợi nhuận ròng trả cho cổ đông thường dưới dạng cổ tức.
Lợi tức hiện thời cho cổ phiếu thường thể hiện tỉ lệ hoàn vốn cổ tức dựa trên giá thị trường hiện thời của cổ phiếu.
Ngoài ra còn phải kể đến các yếu tố khác liên quan đến bản thân công ty như khả năng của ban lãnh đạo công ty, trình độ công nhân viên, nguồn cung ứng lao động, triển vọng phát triển của công ty. . .
d, Diễn biến của các thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái, thị trường bất động sản, lĩnh vực kinh doanh khác
Trong thực tế, nếu thị trường tài chính phát triển thì sẽ có sự chuyển dịch vốn giữa các thị trường với nhau. Chẳng hạn như khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng, một số lượng nhất định các nhà đầu tư sẽ chuyển vốn từ thị trường chứng khoán sang thị trường tiền tệ hay ngược lại, khi lãi suất giảm, họ sẽ chuyển sang mua chứng khoán. Sự tác động của lãi suất lên giá cổ phiếu còn thể hiện cụ thể ở ngay trong bản thân thị trường chứng khoán, đó là sự chuyển dịch vốn từ cổ phiếu sang mua trái phiếu khi lãi suất thị trường tăng, do đó làm giá cổ phiếu giảm và ngược lại.
Quy mô, hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán
Số lượng, chất lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường: số lượng cổ phiếu đã niêm yết nhiều hay ít quyết định lượng cung cổ phiếu trên thị trường chứng khoán còn chất lượng của nó như thế nào sẽ ảnh hưởng đến cầu cổ phiếu.
Số lượng,chất lượng các công ty niêm yết tiềm năng và số vốn mà các doanh nghiệp đó cần huy động trên thị trường: đây là nhân tố quyết định đến lượng cung cổ phiếu sẽ tăng lên như thế nào.
Diễn biến của thị trường chứng khoán: các nhà phân tích kĩ thuật đưa ra một số thuật ngữ như 3 đường xu thế cấp 1, cấp 2, cấp 3; thị trường giá lên (bull market) hay thị trường giá xuống (bear market); các định dạng đồ thị như định dạng đỉnh - đầu - vai, đáy - đầu - vai, đầu - vai kép, định dạng tam giác, hình bình hành, gián đoạn, củng cố, hình cờ vuông và hình tam giác... để dựa vào đó dự đoán diễn biến của thị trường. Tuỳ theo từng quan điểm của các nhà đầu tư mà họ lựa chọn các phương án khác nhau vào từng thời điểm khác nhau để mua hay bán loại chứng khoán nào khi thị trường có những thay đổi nhất định, do đó ảnh hưởng đến cung - cầu chứng khoán trên thị trường.
Các thông tin tức thời về tình hình kinh doanh của các công ty niêm yết cũng gây ảnh hưởng nhất định tới các nhà đầu tư, tác động tới cung - cầu chứng khoán trên thị trường, Tuy nhiên, đối với một số chuyên gia phân tích kĩ thuật, họ có thể chỉ dựa vào việc phân tích đồ thị để mua bán một loại chứng khoán nào đó mà không cần biết đó là công ty nào, hoạt động trong lĩnh vực gì, lợi nhuận cao hay thấp. . .
Về phía các nhà đầu tư: mỗi nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường chứng khoán sẽ có những quan điểm khác nhau trong việc bán ra hay mua vào
một loại chứng khoán theo diễn biến của thị trường, tuỳ thuộc vào:
Quan điểm, trình độ, kinh nghiệm, tâm lí của các nhà đầu tư
Do có sự khác nhau trong quan điểm đánh giá, kinh nghiệm của bản thân cũng như tâm lý của mỗi nhà đầu tư nên các quyết định đưa ra cũng không giống nhau. Nếu một nhà đầu tư nhận định rằng một loại cổ phiếu đang trong xu thế lên giá, anh ta sẽ quyết định mua vào cổ phiếu đó (tăng cầu về cổ phiếu đó) và đợi đến khi giá tăng đến một mức tối đa (theo quan điểm của người đầu tư) thì anh ta sẽ bán ra (tăng cung về cổ phiếu đó) và thu được một khoản lợi nhuận nhất định từ quyết định đầu tư của mình.
Số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường và số vốn mà họ có
Nếu một thị trường chứng khoán vận hành hiệu quả, thu hút được số lượng đông đảo các nhà đầu tư tham gia với số vốn nhiều thì tổng cầu về chứng khoán trên thị trường sẽ lớn, trong khi lượng cung không đáp ứng đủ thì sẽ gây ra tình trạng mất cân đối cung cầu, đẩy giá chứng khoán tăng lên.
e, Một số nhân tố khác
- ảnh hưởng của ngày nghỉ: cho thấy giá cổ phiếu có khuynh hướng giảm vào ngày cuối tuần và đầu tuần.
- ảnh hưởng của tháng giêng: thu nhập của cổ phiếu trong tháng giêng cao hơn các tháng khác trong năm, do vậy nhu cầu mua cổ phiếu vào đầu năm thường cao.
- ảnh hưởng của các công ty nhỏ: các công ty nhỏ được nhận định là có thu nhập cao hơn các công ty lớn, do đó cầu về cổ phiếu của các công ty này cũng lớn.
- Phản ứng của giá chứng khoán đối với thông báo về việc phân tách cổ phiếu: Theo nghiên cứu, giá cổ phiếu có xu hướng tăng lên trong 29 tháng trước khi có sự phân tách cổ phiếu.
Tình hình biến động giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán ở một số nước khác và bài học kinh nghiệm cho thị trường chứng khoán Việt Nam
Tình hình biến động giá cổ phiếu ở một số thị trường chứng khoán
a, Thị trường chứng khoán Thượng Hải
Thị trường chứng khoán ở Trung Quốc hình thành từ năm 1984 nhưng đến năm 1990 mới thành lập Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải và năm 1991 thành lập Sở giao dịch chứng khoán Thâm Quyến.
Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải (Shanghai Stock Exchange-SSE) thành lập ngày 26/11/1990 và chính thức đi vào hoạt động vào 19/12 năm đó. Thời kì đầu tiên, giao dịch rất ít, năm 1990 có 30 loại chứng khoán niêm yết nhưng chỉ có 8 loại cổ phiếu, còn lại là trái phiếu, giao dịch trái phiếu chiếm tỉ trọng chủ yếu. Năm 1990, doanh số giao dịch cổ phiếu đạt hơn 2 triệu nhân dân tệ (RMB), chỉ chiếm khoảng 2% tổng số giao dịch của toàn bộ thị trường. Những năm đầu thị trường giao dịch chủ yếu là trái phiếu do đó không có sự biến động lớn về giá trên thị trường, chỉ số SSE-Index dao động ở mức vài trăm điểm.
Từ năm 1992 bắt đầu có sự xuất hiện của cổ phiếu B (cổ phiếu dành cho người đầu tư nước ngoài) cùng với sự tăng lên nhanh chóng của số lượng cổ phiếu A niêm yết, đạt hơn 100 loại cổ phiếu niêm yết vào năm 1993 đã tạo nên một thị trường sôi động với những đợt tăng giảm liên tục của giá cổ phiếu dẫn đến sự dao động mạnh mẽ của chỉ số SSE-Index, có lúc lên đến cao nhất là hơn 1.500 điểm vào 2/1993 và có lúc xuống chỉ đạt hơn 300 điểm vào năm 1994, khối lượng giao dịch đạt được rất lớn, thường đạt mấy chục tỉ RMB mỗi năm.
Cho đến nay, thị trường chứng khoán Thượng Hải đã trở thành một trong những thị trường chứng khoán hoạt động sôi động, hiệu quả nhất trong khu vực, có những đóng góp to lớn đối với công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế Trung Quốc.
b, Thị trường chứng khoán Thái Lan
ở Thái Lan từ năm 1953 đã có giao dịch về chứng khoán với sự xuất hiện của công ty môi giới Bird Co.Ltd, đến năm 1962, một nhóm các nhà kinh doanh hầu hết là người nước ngoài thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn giao dịch chứng khoán Bangkok nhưng sau một thời gian đã sụp đổ do không thu hút được sự quan tâm của dân chúng và sự ủng hộ của Chính phủ. Mãi đến ngày 20/6/1975, Sở giao dịch chứng khoán Thái Lan (The Stock Exchange of Thailand - SET) mới được thành lập. Trong những năm đầu hoạt động, sở giao dịch chưa thu hút, hấp dẫn được cả người đầu tư lẫn các doanh nghiệp tham gia trên thị trường. Đến cuối năm 1975 mới chỉ có 21 công ty niêm yết, huy động được số vốn 5,4 tỉ bạt (Baht), tổng giá trị giao dịch đạt hơn 1,5 tỉ Baht, chỉ số SET-Index đạt 84,08 điểm.
Trong những năm đầu, giá trị giao dịch trên thị trường rất thấp, mỗi năm chỉ đạt vài đến vài chục tỉ Baht, SET-Index dao động nhẹ dưới mức 300 điểm, thị trường hoạt động buồn tẻ, không đạt được hiệu ._.quả lắm trong việc huy động vốn.
Cùng với công cuộc cải tổ nền kinh tế và sự gia tăng của đầu tư nước ngoài vào Thái Lan, từ năm 1988, thị trường chứng khoán Thái Lan dần dần phát triển. Vào năm 1989, số lượng công ty niêm yết trên thị trường tăng lên đến 170 công ty, tổng giá trị giao dịch đạt gần 400 tỉ Baht, các năm sau đó mỗi năm đạt khoảng 2000 tỉ Baht. Chỉ số SET-Index tăng dần lên theo đà phát triển của nền kinh tế, có lúc đạt hơn 1000 điểm. Đến năm 1994 có gần 400 công ty niêm yết với số vốn huy động hơn 3000 tỉ Baht, giá trị giao dịch có lúc đạt hơn 40 tỉ Baht một ngày, chỉ số SET-Index lên đến hơn 1700 điểm. Từ sau khủng hoảng kinh tế năm 1997 đến nay, Thái Lan đang tiếp tục nỗ lực xây dựng lại nền kinh tế, thị trường chứng khoán dần dần hoạt động ổn định trở
lại, đóng góp tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
c, Thị trường chứng khoán Đài Loan
Sở giao dịch chứng khoán Đài Loan (Taiwan Stock Exchange-TSE) được thành lập tháng 10/1961 theo quyết định của Uỷ ban chứng khoán và giao dịch Đài Loan (Securities Exchange Commission-SEC). Trong những năm đầu hoạt động, trên Sở giao dịch chỉ có 16 loại cổ phiếu, 4 loại trái phiếu công ty và 4 loại trái phiếu chính phủ được niêm yết chính thức; năm 1963 có 23 công ty niêm yết; năm 1980 có gần 100 công ty và cho đến cuối năm 2000 đã có hơn 500 công ty niêm yết chính thức với tổng số khoảng hơn 360 tỉ chứng khoán.
Trong những năm đầu, khối lượng và giá trị giao dịch tại sở đạt được rất ít. Năm 1962, giá trị giao dịch bình quân ngày chỉ đạt 1.647.760 đô la Đài Loan (NT$), chủ yếu là giao dịch cổ phiếu. Trong những năm tiếp theo, giai đoạn từ năm 1980-1987, hoạt động của thị trường diễn ra bình thường, khối lượng và giá trị cổ phiếu giao dịch đạt được ở mức thấp. Giá trị giao dịch cổ phiếu chỉ đạt vài trăm triệu NT$ mỗi ngày với vài chục triệu cổ phiếu được giao dịch. Chỉ số TAIEX (The TSE Capitalization Weighted Stock Index) được tính với 100 điểm cơ bản vào năm 1966 trong thời gian này tăng dần nhưng cũng chỉ dao động ở mức vài trăm điểm trong những năm đầu và gần đến khoảng 1000 điểm trong những năm tiếp theo.
Vào năm 1988, sự mở rộng việc cấp giấy phép hoạt động cho các công ty chứng khoán đã đẩy thị trường nóng lên và chỉ số TAIEX tăng vọt lên, đạt mức cao nhất trong lịch sử từ trước đến nay là 12.495,34 điểm vào năm 1990, gần gấp đôi so với năm trước. Khối lượng và giá trị giao dịch cổ phiếu cũng vì thế mà tăng lên, trong năm 1989 giá trị giao dịch cổ phiếu bình quân mỗi ngày đạt hơn 88 tỉ NT$ với hơn 700 triệu cổ phiếu; trong năm 1990 giao dịch cổ phiếu cũng đạt hơn 800 triệu cổ phiếu với gần 70 tỉ NT$ mỗi ngày. Sau đó, dưới sự giám sát của Uỷ ban chứng khoán và hợp đồng tương lai (Securities and Futures Commission-SFC), Sở giao dịch chứng khoán Đài Loan đã phải nỗ lực hình thành lại trật tự trên thị trường chứng khoán, mở rộng thị trường cả về chất lượng lẫn qui mô, củng cố các cơ chế quản lí để thị trường hoạt động hiệu quả, an toàn hơn. Kết quả là từ đó cho đến nay, chỉ số TAIEX chỉ dao động ở mức dưới 10.000 điểm, phản ánh khá tốt tình hình biến động của nền kinh tế, Sở giao dịch chứng khoán Đài Loan đã thực hiện thành công vai trò huy động vốn cho nền kinh tế.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến biến động giá cổ phiếu trong giai đoạn đầu mới thành lập thị trường chứng khoán của một số nước trên
Trong giai đoạn đầu mới thành lạp thị trường chứng khoán, hầu hết giá cổ phiếu trên các thị trường đều có biến động mạnh. Các nhân tố ảnh hưởng đến biến động giá cổ phiếu có nhiều nhưng có thể đưa ra một số nhân tố chính đó là:
a, Quan hệ cung cầu cổ phiếu mất cân bằng
Trong giai đoạn thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động, hàng hoá trên thị trường chứng khoán luôn ở trong tình trạng khan hiếm do số công ty niêm yết chứng khoán còn rất hạn chế. Tại thị trường chứng khoán Thượng Hải (Shanghai Stock Exchange – SSE) chính thức đi vào hạot động ngày 19/12/1990 chỉ có 30 loại chứng khoán niêm yết trong đó có 8 loại cổ phiếu còn lại là trái phiếu. Tại thị trường chứng khoán Thái Lan (The Stock Exchange of Thailand –SET) trong giai đoạn đầu hoạt động chỉ có 21 công ty niêm yết, tại thị trường chứng khoán Đài Loan cũng chỉ có 16 loại cổ phiếu được niêm yết khi mới bắt đầu đi vào hoạt động.
Trong khi đó cầu cổ phiếu trong giai đoạn này thường là rất cao, gấp khoảng từ 10 đến 15 lán cung cổ phiếu. Khi quan hệ cung – cầu không cân bằng, việc cầu luôn trong tình trạng vượt cung sẽ tất yếu dẫn đến việc giá cổ phiếu bị đẩy lên cao, bước đầu làm cho giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán biến động mạnh.
b, Giao dịch cổ phiếu gần như đóng băng do số lượng cổ phiếu bán ra rất ít
Khi cầu cổ phiếu luôn tăng trong khi cung chứng khoán không đổi càng đẩy giá cổ phiếu lên cao hơn. Giá cổ phiếu càng lên càng kích thích các nhà đầu tư mua cổ phiếu hơn, vì chỉ cần mua phiên giao dịch trước, phiên giao dịch sau bán là đã có lãi. Do đó, hầu hết các nhà đầu tư có tâm lý không muốn bán cổ phiếu ra, họ muốn gĩ cổ phiếu lại và chờ giá cổ phiếu lên cao hơn nữa. Vì thế, quan hệ cung cầu cổ phiếu trên thị trường chứng khoán ngày càng mất cân đối trầm trọng hơn.
c, Do tâm lý các nhà đầu tư chưa thật ổn định
Khi giá cổ phiếu ngày càng tăng, vượt xa giá trị thực của nó, các cơ quan quản lý của Nhà nước cần phải can thiệp bằng các biện pháp hành chính cũng như các biện pháp về mặt kỹ thuật để hạ nhiệt cơn sốt cổ phiếu. Đó là nguyên nhân gây tâm lý lo lắng cho các nhà đầu tư ngắn hạn, đặc biệt là có ảnh hưởng lớn đến các nhà đầu cơ giá cổ phiếu. Họ đều có tâm trạng chung là đợi giá lên cao hơn so với giá mua vào ban đầu là bán ra. Trước các biện pháp can thiệp của các cơ quan quản lý đã thúc đẩy họ bán ồ ạt cổ phiếu ra, tạo thành phản ứng dây chuyền gây ra hiện tượng “Đô-mi-nô” giá cổ phiếu. Giai đoạn trước giá cổ phiếu tăng với tốc độ cao thì giai đoạn này giá cổ phiếu lại giảm một cánh trầm trọng, tốc độ giảm cũng không kém so với tốc độ tăng trong giai đoạn trước. Phải đợi đến khi các cơ quan quản lý cảu Nhà nước đưa ra các biện pháp hữu hiệu khác nhằm trấn an và lấy lại lòng tin cho các nhà đầu tư, lúc đó thị trường chứng khoán mới có dấu hiệu hồi phục.
d, Biến động trên thị trường tài chính, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản
Đây cũng là một nhân tố quan trọng có tác động đến giá cổ phiếu. Rất nhiều các nhà đầu tư chứng khoán đồng thời là các nhà đầu tư trên thị trường bất động sản, thị trường ngoại tệ..Khi thấy có sự biến động trên thị trường chứng khoán, đặc biệt khi giá cổ phiếu ngày càng sụt giảm, đồng thòi trên các thị trường hàng hoá khác đặc biệt là thị trường bất động sản đang có cơn sốt mạnh, lập tức họ chuyển vốn sang kinh doanh trong các lĩnh vực đang đầy tiềm năng lợi nhuận này. Việc rút vốn ồ ạt ra khỏi thị trường chứng khoán càng làm cho giá chứng khoán biến động mạnh hơn, nhất là giá cổ phiếu.
3. Bài học kinh nghiệm trong việc khắc phục biến động giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
Trong giai đoạn đầu, hầu hết thị trường chứng khoán các nước hoạt động trầm lắng với khối lượng giao dịch ít, chưa thu hút được nhiều người đầu tư tham gia.
Thị trường chứng khoán các nước ra đời tự phát do nhu cầu của nền kinh tế nên giá cả phản ánh tương đối tốt tình hình nền kinh tế. Tuy nhiên, theo quy luật IPO thì giá cổ phiếu luôn tăng khi thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động bởi nhiều nguyên nhân, đặc biệt là ở các thị trường mới nổi, điều này cũng xảy ra đối với giá cổ phiếu ở các thị trường chứng khoán trên.
Giao dịch trái phiếu chiếm tỉ lệ khá lớn trong tổng giao dịch chứng khoán, đặc biệt là ở thị trường chứng khoán Thượng Hải, do đó phần nào hạn chế sự biến động giá cả chứng khoán và rủi ro trong đầu tư vào thị trường chứng khoán trong giai đoạn đầu, do đó thị trường không có những biến động quá lớn mà hoạt động khá an toàn.
Sự can thiệp vĩ mô của Nhà nước ảnh hưởng lớn tới những thay đổi trên thị trường chứng khoán, thể hiện ở một số chính sách mà các nước đã áp dụng
Qua nghiên cứu hoạt động của thị trường chứng khoán của các nước trên chúng ta có thể rút ra được một số bài học kinh nghiệm trong việc khắc phục biến động giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ nhất: Dần dần hoàn thiện hệ thống pháp lí cho thị trường chứng
khoán, đưa ra các văn bản pháp luật cụ thể, chặt chẽ về từng mặt hoạt động của thị trường, điều chỉnh từng đối tượng nhất định.
- Thứ hai: Chia thị trường chứng khoán thành 2 loại để có thể thu hút tối đa các doanh nghiệp tham gia niêm yết cũng như lượng tiền đầu tư của dân chúng qua thị trường chứng khoán.
- Thứ ba: Xây dựng thị trường chứng khoán hiện đại, hệ thống giao dịch thuận tiện, nhanh chóng, thu hút các nhà đầu tư tham gia. Ví dụ như hệ thống máy tính cuả Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải có thể phục vụ 1800 giao dịch/ 1giây và việc thanh toán bù trừ được tự động hoá hoàn toàn, đẩy nhanh tốc độ giao dịch trên thị trường.
- Thứ tư: Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp nhằm xây dựng thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả.
- Thứ năm: Xây dựng thị trường OTC nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chính thức, hoàn thiện hệ thống thị trường chứng khoán đồng bộ, huy động vốn tối đa cho nền kinh tế.
- Thứ sáu: Hình thành các tổ chức hỗ trợ cho sự phát triển cuả thị trường, giúp ổn định giá cả chứng khoán khi cần thiết như Hiệp hội kinh doanh chứng khoán, Quỹ bình ổn giá cả. . .
Ngoài ra, các nước còn áp dụng rất nhiều biện pháp khác nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư trên thị trường, ổn định thị trường trong giai đoạn đầu mới hoạt động, đưa thị trường chứng khoán dần dần phát triển, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả cho nền kinh tế.
Chương II
các nhân tố ảnh hưởng đến biến động giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
Thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam
Ngày 26/06/2001 ủỷ ban chứng khoán nhà nước của Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Quốc tế các Uỷ ban chứng khoán (Tổ chức IOSCO). Đây là một sự kiện được mong đợi, đánh dấu một bước tiến trong quá trình tham gia hội nhập kinh tế của Việt Nam với khu vực và quốc tế trong tiến trình phát triển của mình.
Hoạt động của thị trường chứng khoán trong thời gian qua đã có những bước tiến đáng kể về quy mô thị trường, cả về số lượng lẫn chất lượng chứng khoán. Số lượng các công ty niêm yết tăng nhanh, trái phiếu Chính phủ huy động qua Trung tâm với số lượng lớn, đáp ứng nhu cầu hàng hoá trên thị trường. Sau hơn một năm thị trường đi vào hoạt động, quy trình thanh toán tiền và chứng khoán đã được xây dựng lại và rút ngắn thời gian T+4 xuống còn T+3 đã chính thức được áp dụng trong phiên giao dịch 218 (ngày 02/01/2002). Việc rút ngắn thời gian thanh toán làm cho vòng quay vốn của các nhà đầu tư tăng nhanh, gia tăng tính thanh toán của các cổ phiếu, từ đó gia tăng khối lượng giao dịch, đồng thời có tác động tích cực với hoạt động của các công ty.
Vào phiên giao dịch thứ 102 ngày 02/04/2001, lần đầu tiên hình thức giao dịch thoả thuận được thực hiện. Như vậy, đến nay thị trường chứng khoán Việt Nam đã có 3 hình thức giao dịch gồm: giao dịch khớp lệnh qua sàn thông qua các tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán, giao dịch được thoả thuận được thực hiện giữa các trung gian và nhà đầu tư với nhau và giao dịch các chứng khoán lô lẻ giữa những người đầu tư trực tiếp với công ty chứng khoán. Bên cạnh những nhà đầu tư trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam tuy với số lượng chưa nhiều. Ngày 01/03/2002 thị trường chính thức mở rộng số lượng phiên giao dịch từ 3 phiên lên 5 phiên một tuần đã tạo thêm những cơ hội mới cho các nhà đầu tư.
Trong thời gian qua, thị trường hoạt động khá suôn sẻ, công tác quản lý, tổ chức được nâng cao. Đội ngũ cán bộ ngành chứng khoán đã trưởng thành cùng với kiến thức và kinh nghiệm quản lý ngày càng vững vàng, được tích luỹ thông qua thực tế thị trường. Hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán góp phần phát triển thị trường sơ cấp. Số lượng cổ phần tăng lên, việc phân phối cổ phiếu, trái phiếu được thuận lợi. Công chúng đầu tư có sự quan tâm hơn với việc phát hành và niêm yết cổ phiếu của các công ty cổ phần.
Tuy hoạt động của thị trường đã có những thành công cơ bản, song thực tế hoạt động của thị trường còn gặp nhiều khó khăn và chưa thực hiện được vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nên kinh tế. Thị trường mới là nơi tạo thanh khoản cho các chứng khoán. Trái phiếu Chính phủ niêm yết với số lượng lớn nhưng ít được giao dịch với lãi suất thấp. Các nhà đầu tư tham gia vào thị trường với ý định đầu cơ giá ngắn hạn mà không có quan niệm đầu tư theo giá trị. Việc tuyên truyền phổ cập kiến thức cho công chứng đầu tư về chứng khoán và thị trường chứng khoán chưa được thực hiện rộng rãi. Có thể nói đây là giai đoạn bản lề cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thời gian tới Uỷ ban chứng khoán Nhà nước sẽ phối hợp với các Bộ ngành, địa phương liên quan để đưa ra các cơ chế, chính sách khuyến khích hơn nữa tạo ra một thị trường chứng khoán phát triển, minh bạch va công bằng.
II. Biến động giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
1. Giai đoạn giá cổ phiếu tăng liên tục
Giai đoạn này kéo dài từ khi thị trường bắt đầu chính thức đi vào hoạt động ngày 28/07/2000 cho đến khi chỉ số VN-Index đạt số điểm cao nhất là 571,04 điểm vào phiên giao dịch thứ 137 ngày 25/06/2001, bình quân mỗi phiên giao dịch VN-Index tăng hơn 3,4 điểm, giá trị giao dịch đạt gần 4 tỉ đồng. Trong giai đoạn này, tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh có 5 công ty niêm yết với 5 loại cổ phiếu là REE, SAM, TMS, HAP và LAF gồm 32.117.840 cổ phiếu niêm yết trong đó chỉ có khoảng 44% là đã được lưu kí. Số tài khoản mà các nhà đầu tư mở tại 7 công ty chứng khoán lúc này là khoảng hơn 5000 tài khoản.
Đồ thị1: Biến động giá cổ phiếu giai đoạn từ 28/07/2000 đến 25/06/2001
Nguồn: Công ty chứng khoán Công Thương
Giá tăng liên tục
Nhìn vào đồ thị ta cũng thấy trong giai đoạn này, chỉ số VN-Index liên tục tăng, chỉ tạm thời giảm xuống ở một số phiên nhất định nhưng xu hướng chung của toàn bộ thị trường là tăng giá. Giá cổ phiếu tăng liên tục trong gần một năm theo xu thế cấp 1, nghĩa là mỗi đợt tăng giá mới đạt mức cao hơn đợt tăng giá lần trước và cứ mỗi đợt phản ứng giá vẫn ở mức cao hơn đợt phản ứng giá lần trước, đồ thị dốc lên thể hiện xu thế tăng giá của cổ phiếu.
Đặc biệt vào thời gian từ 13/06/2001 đến 25/06/2001, chỉ số VN-Index tăng vọt lên, dẫn đến đường đồ thị dốc đứng lên như hình trên, đó là thời điểm khi bắt đầu áp dụng biên độ dao động mới cho thị trường, từ 2% lên 7%. Với biên độ dao động mới, cơ quan quản lí hi vọng các nhà đầu tư sẽ cân nhắc kĩ hơn trước khi đặt lệnh, có thể lựa chọn các mức giá khác nhau trong một biên độ rộng hơn là 7%, từ đó sẽ làm giảm tâm lí luôn luôn đặt mua với mức giá kịch trần như trước đây, góp phần hạ cơn nhiệt tăng giá hiện hành. Tuy nhiên, kết quả lại đi ngược lại với mong muốn đó, các nhà đầu tư tiếp tục đẩy mức giá lên kịch trần ở mỗi phiên, với mức trần lớn hơn này, giá cổ phiếu tăng với tốc độ chóng mặt, từ 11/06/2001 đến 25/06/2001, chỉ với 8 phiên giao dịch VN-Index tăng 143,02 điểm, trung bình mỗi phiên giao dịch VN-Index tăng gần 18 điểm, dẫn đến chỉ số VN-Index vào thời điểm cuối cùng của giai đoạn này đạt con số kỉ lục là 571,04 điểm.
Cầu cổ phiếu lớn hơn cung
Trong thời gian đầu khi trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh mới bắt đầu hoạt động, lượng cầu về cổ phiếu đã lớn hơn so với lượng cung trên thị trường do hàng hoá thì ít (với 4 loại cổ phiếu trong suốt hơn 4 tháng đầu hoạt động) và do việc xác định giá tham chiếu lại nhỏ hơn nhiều so với giá trị thực. Càng về sau lượng cầu lại càng lớn hơn nhiều so với lượng cung do ngày càng có nhiều người tham gia vào thị trường và người ta cũng dần dần táo bạo hơn trước các quyết định đặt mua cổ phiếu chứ không còn mang tính chất thăm dò như giai đoạn đầu nữa. Cầu càng nhiều trong khi cung không thay đổi dẫn đến tất yếu là giá cổ phiếu lên, giá càng lên lại càng kích thích người ta mua cổ phiếu vì cứ mua hôm trước là hôm sau đã có lãi, mặt khác giá lên liên tục khiến những người đang nắm giữ cổ phiếu không muốn bán ra dẫn đến tình trạng cầu thì nhiều mà cung thì ít, mất cân đối cung - cầu trầm trọng.
Công ty có tỉ lệ cổ tức càng cao thì giá tăng càng nhanh
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời trong lúc sự hiểu biết của dân chúng về thị trường còn ít, các nhà đầu tư tham gia thị trường vừa ít kinh nghiệm, vừa hạn chế về các kiến thức cơ bản, do đó họ đầu tư theo cảm tính và dựa vào tâm lí chung của thị trường. Vì thế cứ thấy công ty niêm yết nào trả cổ tức cao thì các nhà đầu tư cho rằng công ty đó hoạt động tốt và tập trung vào mua cổ phiếu của công ty đó mà không tính đến các yếu tố khác như lợi nhuận tích luỹ, rủi ro kinh doanh. . .Chẳng hạn như trường hợp của Công ty cổ phần giấy Hải Phòng, với tỉ lệ cổ tức 37% một năm, giá cổ phiếu HAP tăng liên tục và chỉ giảm ở một số phiên giao dịch nên đã vượt xa giá của các cổ phiếu khác, lên đến 146.000 đồng cho một cổ phiếu vào phiên giao dịch thứ 135 ngày 20/06/2001, gấp hơn 9 lần giá tham chiếu và hơn 14 lần mệnh giá. Cổ phiếu HAP được xem như một hiện tượng của thị trường chứng khoán Việt Nam bởi Công ty cổ phần giấy Hải Phòng là một công ty nhỏ, cơ sở vật chất thủ công với mặt hàng sản xuất chủ yếu là vàng mã và xuất khẩu chủ yếu sang Đài Loan nhưng với tỉ lệ cổ tức cao, HAP đã hấp dẫn hàng nghìn nhà đầu tư, dẫn đến giá tăng liên tục, nhu cầu mua cổ phiếu HAP tăng lên trong khi lượng cung rất ít do không ai bán ra, một phần cũng do khối lượng cổ phiếu HAP niêm yết trên thị trường rất nhỏ, chỉ có 1.008.000 cổ phiếu (chiếm 3,14% tổng số cổ phiếu niêm yết). Cổ phiếu TMS của Công ty cổ phần kho vận giao nhận ngoại thương cũng tăng tương tự và lên đến 141.000 đồng cho một cổ phiếu vào phiên thứ 136. Trong khi đó, tỉ lệ cổ tức của SAM và REE chỉ ở mức vừa phải nên tốc độ tăng giá chậm hơn, chững lại ở một số phiên giao dịch. Các thông tin tác động đến thị trường chỉ ảnh hưởng chủ yếu lên giá của hai cổ phiếu REE và SAM chứ hầu như không tác động gì lắm đến cầu về cổ phiếu HAP và TMS nên giá của chúng vẫn tăng đều.
Giá trị giao dịch tăng dần
Xét theo dài hạn toàn bộ giai đoạn, càng về sau, khối lượng giao dịch càng tăng. Trong thời gian đầu, giá trị giao dịch chỉ đạt vài chục triệu đồng một phiên, rồi lên đến vài tỉ đồng, có phiên chỉ đạt vài triệu đồng. Càng về sau giá càng tăng, giá trị giao dịch cũng có nhiều phiên đạt giá trị lớn hơn. Đặc biệt là khi biên độ giao động được nâng lên 7%, thị trường có nhiều dao động, việc mua bán thực hiện được nhiều hơn do đó có nhiều phiên đạt giá trị giao dịch lớn hơn và vào phiên giao dịch thứ 131 ngày 11/06/2001, tổng giá trị giao dịch cổ phiếu đạt 30.458.950.000 đồng với 42.430.000 cổ phiếu được mua bán. Thời điểm cuối giai đoạn này là thời điểm có nhiều phiên có giá trị giao dịch lớn nhất.
Khối lượng giao dịch tăng khi giá giảm
Trong ngắn hạn của xu thế cấp 3, tức là những đợt giảm giá cổ phiếu nhỏ trong một hoặc một vài phiên, khối lượng giao dịch thường lớn hơn mức bình thường. Khối lượng giao dịch thường lớn ở một số phiên trước hoặc trong khi cổ phiếu giảm giá. Điều này thể hiện sự không cân xứng về thông tin giữa các nhà đầu tư, các nhà đầu tư có được một thông tin nào đó mà họ cho rằng có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu thì họ sẽ lập tức bán ra, trong khi đó các nhà đầu tư không có thông tin vẫn tiếp tục mua vào theo như lệ thường (phải chú ý rằng đây là giai đoạn mà hầu như ngày nào các nhà đầu tư cũng xếp hàng nhau để đặt lệnh mua cổ phiếu tại các công ty chứng khoán). Hơn nữa, một số nhà đầu tư nhận thấy đây chỉ là tình trạng tạm thời trong xu thế tăng giá nên vẫn tiếp tục đặt mua cổ phiếu. Điều đó đã làm cân bằng cung cầu tạm thời trong ngắn hạn về cổ phiếu, khối lượng khớp lệnh đạt được lớn, giá trị giao dịch tăng lên. Chẳng hạn như vào phiên giao dịch thứ 12, ngày 23/08/2000, giá trị giao dịch cổ phiếu đạt 2.208.700.000 đồng, mức cao nhất từ đầu đến thời điểm đó, các phiên giao dịch trước chỉ đạt vài trăm triệu đồng. Ngay sau phiên giao dịch thứ 12, giá cổ phiếu lập tức giảm trong vài phiên, tuy nhiên giá trị giao dịch lại đạt được khá cao, thậm chí trong phiên thứ 15 ngày 30/08/2000 giá trị giao dịch đạt 2.478.800.000 đồng.
Giai đoạn giá cổ phiếu giảm liên tục
Giai đoạn này bắt đầu từ phiên giao dịch thứ 138 ngày 27/06/2001 đến phiên giao dịch thứ 180 ngày 05/10/2001.
Đồ thị 2: Biến động giao dịch cổ phiếu từ 27/06/2001 đến 05/10/2001
Nguồn: Công ty chứng khoán Công Thương
Chỉ số VN_Index giảm từ mức cao nhất 571,04 điểm ngày 26/06/2001 xuống còn 203,12 điểm ngày 5/10/2001, bình quân mỗi phiên giảm 8,55 điểm; giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên lớn, đạt hơn 8 tỉ đồng. Trong giai đoạn này chỉ có thêm 1 loại cổ phiếu SGH của Công ty cổ phần khách sạn Sài Gòn với 1.766.300 cổ phiếu, nâng tổng số cổ phiếu niêm yết lên 6 loại với 33.884.140 cổ phiếu.
Giá xuống liên tục
Giá cổ phiếu giảm liên tục theo xu thế cấp 1, nghĩa là mỗi đợt xuống giá lại xuống thấp hơn đợt xuống giá lần trước và sự lên giá tạm thời cũng không kéo giá lên cao hơn đợt lên giá lần trước. Giá xuống nhanh hơn, mạnh hơn trong thời gian ngắn hơn do biên độ dao động lớn hơn là 7%. Chỉ trong vòng 43 phiên giao dịch, VN-Index giảm 367,92 điểm, bình quân mỗi phiên giao dịch giảm 8,55 điểm trong đó giảm mạnh nhất là phiên giao dịch đầu tiên của giai đoạn này, phiên thứ 138 giảm 39,11 điểm.
Giá xuống liên tục nhưng có nhiều điểm dừng
Giá cổ phiếu không xuống liên tục như khi giá lên ở giai đoạn một mà theo từng từng chu kì ngắn một. Giá xuống một thời gian rồi lại lên trong một vài phiên giao dịch, nhưng thời gian xuống giá nhiều hơn là lên giá nên xu hướng dài hạn chung vẫn là xuống giá. Giá xuống liên tục nhưng thường không chạm sàn như là lúc lên kịch trần mà thường được khớp lệnh ở các mức giá khác nhau, thể hiện sự đa dạng hơn trong các mức giá mà các nhà đầu tư đưa ra và chấp nhận.
Cầu cổ phiếu nhỏ hơn cung
Thời kì đầu của giai đoạn này, khi giá cổ phiếu giảm vẫn có khá nhiều người đặt mua do họ theo xu thế chung của giai đoạn trước là giá chỉ giảm một vài phiên rồi tăng trở lại. Cung - cầu cổ phiếu tạm thời cân bằng, có nhiều phiên giao dịch rất dễ mua, dễ bán. Nhưng sau đó, giá cổ phiếu xuống liên tục, số phiên giao dịch giá giảm thì nhiều mà tăng thì ít dẫn đến dần dần các nhà đầu tư mất lòng tin, không còn hi vọng nhiều như trước nữa, người đang nắm giữ cổ phiếu thì cố bán ra, tránh lỗ nặng, người trước đây muốn mua thì không còn muốn mua vào lúc này nữa nên cung thì nhiều mà cầu lại ít, cung cầu lại một lần nữa mất cân đối nghiêm trọng nhưng lần này là nghiêng về phía cung.
Trong ngắn hạn, những phiên giao dịch giá cổ phiếu tăng thì có khối lượng giao dịch tăng lên
Đây là thời điểm mà các nhà đầu tư đang bị sốc bởi cơn sụt giá cổ phiếu, luôn trong tình trạng chờ đợi thị trường hồi phục nên khi giá cổ phiếu tăng là họ lập tức cảm thấy thị trường sẽ có thể tiếp tục một đợt tăng giá mới, do đó lượng đặt mua nhiều trong khi lượng đặt bán vẫn đang nhiều sẵn do xu thế chung của thị trường đang xuống giá, vì thế giá trị giao dịch cổ phiếu đạt được thường lớn trong những phiên có giá cổ phiếu tăng hoặc trong cả một phiên sau đó. Chẳng hạn như trong phiên giao dịch thứ 149 ngày 23/07/2001, sau khi 2 phiên trước tăng giá thì lập tức đến phiên giao dịch 149, giá trị khớp lệnh đạt gần 20 tỉ đồng, lớn hơn nhiều so với mức trung bình hơn 8 tỉ đồng một phiên của giai đoạn này.
Giá trị giao dịch trung bình lớn hơn giai đoạn trước
Nếu như ở giai đoạn trước, giá trị giao dịch trung bình chỉ đạt gần 4 tỉ đồng một phiên giao dịch thì sang giai đoạn này, lượng cổ phiếu được giao dịch khá đều, trung bình mỗi phiên đạt hơn 8 tỉ đồng. Giá cổ phiếu giảm nhưng vẫn khuyến khích nhà đầu tư bởi các đợt tăng giá ngắn hạn nên vẫn thu hút được một số lượng đáng kể các nhà đầu tư lạc quan tham gia. Họ cho rằng giá cổ phiếu giảm chỉ là tạm thời nên vẫn tiếp tục mua cổ phiếu của những người bi quan sớm muốn rút ra khỏi thị trường.
Tuy nhiên, giá trị giao dịch lại giảm dần theo giá cổ phiếu, càng ngày càng có ít người muốn mua cổ phiếu và càng có nhiều người muốn bán nên cung - cầu lại không gặp nhau, giá trị giao dịch đạt được ít dần.
Giai đoạn giá cổ phiếu biến động liên tục
Sau một thời gian giá cổ phiếu tăng giảm một chiều, kể từ phiên giao dịch 181 giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí
Minh dần dần đi vào ổn định, biến động với chu kì ngắn hơn và dao động ít hơn.
Đồ thị 3: Biến động giao dịch cổ phiếu từ 8/10/2001 đến 31/7/2002
Nguồn: Công ty chứng khoán Công Thương
Chỉ số VN – INDEX tăng liên tục trong 18 phiên giao dịch từ phiên giao dịch 282 khi VN – INDEX đạt 221.18 điểm đến phiên giao dịch 199 khi VN-INDEX đạt 301.09 điểm trung bình mỗi phiên giao dịch tăng 4.44 điểm.
Sau đó VN-INDEX lại giảm liên tục trong 27 phiên tiếp từ phiên giao dịch 200 đến phiên giao dịch 226 ngày 21/10/2002, trung bình mỗi phiên giảm 3.44 điểm.
Các phiên giao dịch sau đó VN-INDEX tăng giảm nhẹ, với chu kì ngắn một vài phiên tạo thành những con sóng nhỏ.
Một trong những sự kiện của thị trường chứng khoán Việt Nam trong hai tháng đầu năm 2002 là việc phát hành thêm cổ phiếu của Công ty Cổ phần Giấy Hải Phòng (HAPACO). Đây là đợt phát hành thêm cổ phiếu đầu tiên trên thị trường chứng khoán. Công ty Hapaco được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép phát hành thêm một triệu cổ phiếu mới với mục đích đầu tư xây dựng nhà máy giấy Kratf mở rộng sản xuất kinh doanh.
Cổ phiếu BBC của Cty CP Bánh kẹo Biên Hoà dù mới ra niêm yết cuối tháng 12 năm 2001 nhưng đã gây được sự chú ý của các nhà đầu tư. Trong hai tháng 1 và tháng 2 cổ phiếu BBC được xếp vào nhóm 3 cổ phiếu có khối lượng giao dịch cao nhất trong tháng.
Tình hình giao dịch của những cổ phiếu còn lại cũng đang ở trong điểm dừng và đang trong trạng thái chờ đợi những động thái mới. Cuối tháng 1/2002, mặc dù diễn biến của thị trường thiếu nhiệt nhưng do có thêm một số loại cổ phiếu mới đưa vào giao dịch nên khối lượng và giá trị giao dịch của tháng 1/2002 tăng lên đáng kể so với tháng 12/2001. Tổng khối lượng giao dịch tháng 1 là 2.012.090 chứng khoán tăng 705.790 chứng khoán so với tháng 12/2001, dạt giá trị 109 tỷ đồng, tăng 59 tỷ đồng.
Sau một thời gian khá dài thị trường trầm lắng với khối lượng và giá trị giao dịch qua từng phiên đạt thấp, chỉ số VN-Index liên tục sụt giảm, giá các loại cổ phiếu đều giảm sút. Đến tháng 3 năm 2002 thị trường chứng khoán Việt Nam có thể được xem là một tháng với những biến động của một chu kì thị trường mới với những nhân tố mới. Từ đầu tháng 3, thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức áp dụng tăng phiên giao dịch từ 3 phiên/tuần lên 5 phiên /tuần và chính thức đưa vào giao dịch thoả thuận. Giá các cổ phiếu không còn tình trạng tăng, giảm một chiều. Ngoại trừ ba cổ phiếu Hap, Laf, và Can giảm giá còn lại giá cổ phiếu trên thị trường đều tăng.
Sang tháng 4/2002, giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán không có
những đột biến lớn. Khoảng cách cung cầu cổ phiếu trên thị trường có xu hướng thu hẹp và tạo nên thế cân đối tuy chỉ nhất thời. Chí số VN – Index biến động theo quỹ đạo hình sin với dao động không đều và diễn biến theo chiều hướng tăng, đặc biệt vào giai đoạn cuối tháng. Trong tháng 4/2002, quy mô thị trường được mở rộng với sự xuất hiện của các cổ phiếu mới đó là cổ phiếu BPC của Cty CP Bao bì Bỉm Sơn, cổ phiếu BT6 của Cty CP Bê tông 620 Châu Thới, cổ phiếu GMD của Cty CP Đại lý liên hiệp vận chuyển GEMADEPT, với tổng số cổ phiếu trên thị trường là 3,8 triệu cổ phiếu. Tổng khối lượng chứng khoán được giao dịch trên toàn thị trường là 4.043.500cổ phiếu dạt 117.7 tỷ đồng.
Một trong những điểm nổi bật của thị trường chứng khoán tháng 5 là sự biến động giá cổ phiếu khá thất thường. Vào những phiên giao dịch đầu tháng, tiếp diễn xu hướng của những phiên giao dịch cuối tháng 4, giá cổ phiếu vẫn không ngừng tăng tuy với biên độ hẹp, nhưng khối lượng giao dịch qua các phiên vẫn khá cao. Vào những phiên giữa tháng, nhịp độ tăng chững lại và giảm dần về cuối tháng, vào giai đoạn cuối tháng giá nhiều loại cổ phiếu giảm như một xu thế. Nhưng tới 2 phiên giao dịch cuối tháng, thị trường có dấu hiêu đảo chiều khi hầu hết giá các cổ phiếu đều tăng và biểu đồ chỉ số VN-Index lại đi lên khá đột ngột.
Trong tháng 5, quy mô thị trường được mở rộng với sự xuất hiện hai loại cổ phiếu mới đó là cổ phiếu AGF của Cty CP Xuất nhập khẩu thuỷ sản An Giang và cổ phiếu SAV của Cty CP Hợp tác kinh tế và xuất nhập khẩu SAVIMEX.
Tháng 6/2002, thêm một chu kỳ tháng nữa trong tiến trình vận động và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, nhưng tháng này với biểu đồ thị trường sụt giảm. Đây là sự sụt giảm tạm thời và cũng là nhất thời.Đây là lần thứ hai thị trường ở vào xu thế suy giảm sau đợt suy giảm thứ nhất diễn ra vào tháng 3/2002 tuy nhiên mức độ suy giảm có nhẹ hơn. Từ phiên giao dịch thứ 303 ngày 1/6, phiên giao dịch đầu tiên trong tháng đến phiên giao dịch thừ 316 ngày 21/6 thị trường mới có dấu hiệu ngừng suy giảm và các chỉ số biểu đồ tăng nhẹ nhưng đó cũng chỉ là những đợt tăng ngắn, biên độ hẹp với những diến biến chập chờn cho đến hết tháng. Khối lượng giao dịch trong tháng 6/2002 là 2.157.110 cổ phiếu trị giá 63 tỷ đồng. Tình trạng giá các cổ phiếu sụt giảm đã tác động đến quy mô từng phiên giao dịch và ảnh hưởng đến tổng khối lượng và giá trị giao dịch toàn thị trường.
Chỉ số VN-Index trên thị trường liên tục trong xu thế giảm, và đã giảm xuống mức thấp nhất 192,13. Vào những phiên nửa cuối tháng 6, chỉ số VN-Index có dấu hiệu đảo chiều, tăng lên nhưng cũng không đều và tốc độ tăng cũng rất chậm. Kết thúc phiên giao dịch 322 ngày 28/6, chỉ số VN – Index giảm 4,56 điểm so với phiên 302 cuối cùng của tháng 5/2002 (207,12 điểm).
Thị trường chứng khoán trong tháng 7 khá ảm đạm. Giá hầu hết các loại cổ phiếu trên thị trường đều sụt giảm. Khối lượng và giá trị giao dịch khớp lệnh thấp, tâm lý các nhà đầu tư kém hào hứng. Trong khi đó, báo ._.năm năm sẽ được
b, Thắt chặt mối quan hệ giữa cổ phần hoá và niêm yết
Việc phân phối cổ phiếu ra công chúng của các doanh nghiệp nhà nước không cần thiết phải thông qua IPO nhằm mục đích niêm yết trên thị trường cổ phiếu tập trung. Doanh nghiệp nhà nước trong quá trình cổ phần hoá thường bán cổ phiếu trực tiếp ra công chúng thông qua quảng cáo trên báo chí, tránh sự quản lý của Uỷ ban chứng khoán nhà nước theo nghị định 48. Ngoài ra, người quản lý ở các doang nghiệp Việt Nam còn rất e ngại đối với việc niêm yết. Nói cách khác, quá trình cổ phần hoá bị tách rời khỏi hoạt động IPO và niêm yết. Mặc dù vậy, hoạt động IPO cần đảm bảo thả nổi các cổ phiếu được chào bán trên thị trườngcp chính thức nhằm tạo ra cơ hội hoàn vốn bằng cách bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Giải pháp trước tiên cho vấn đề này là làm cho các tiêu chuẩn cổ phần hoá đồng bộ với các tiêu chuẩn niêm ýet tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, đồng thưòi bắt buộc các doanh nghiệp nhà nước đáp ứng được các điều kiện niêm yết phải thực hiện niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thông qua chào bán lần đầu ra công chúng- IPO theo quy định của Nghị định 48 nhằm đảm bảo tính thanh khoản của cổ phiếu được chào bán.
Đối với các công ty cổ phần hoá, các biện pháp ưu đãi về thuế bổ sung sẽ được áp dụng tuỳ thuộc vào khoảng thời gian giữa quá trình cổ phần hoá và niêm yết. Trong trường hợp niêm yết trong vòng một năm sau khi cổ phần hoá, công ty được hưởng ưu đãi thuế thêm một năm nữa.
c, Thực hiện các chính sách ưu đãi đối với các công ty niêm yết trong việc vay vốn ngân hàng
Hiện nay không có khuyến khích nào đối với công ty niêm yết trong lĩnh vực vay vốn ngân hàng. Tình trạng tài chính và hoạt động của một công ty niêm yết là tương đối ổn định và đáng tin cậy do tính minh bạch được đảm bảo hơn so với các công ty niêm yết. Một ngân hàng cho vay mở rộng phạm vi cung cấp tín dụng cho một công ty niêm yết phải chịu rủi ro ít hơn so với việc cung cấp tín dụng cho các công ty không niêm yết. Do đó, công ty niêm yết xứng đáng được hưởng ưu đãi về lãi suất ví dụ như ưu đãi về lãi suất cơ bản, kỳ hạn khoản vay và hạn mức tín dụng...Ngân hàng cho vay đòi hỏi công ty đi vay phải thế chấp tài sản đối với khoản vay. Tài sản thế chấp của công ty niêm yết đối một khoản vay ngân hàng sẽ được định giá cao hơn so vơí tài sản của một công ty không niêm yết. Về vấn đề này cần có sự thoả thuận và phối hợp với phía Ngân hàng Nhà nước.
d, Khai trương trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội như là một thị rường dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Mặc dù hiện nay có hàng trăm doanh nghiệp vừa và nhỏ với các cổ đông bên ngoài không thể đáp ứng các quy định về niêm yết và cũng không có một thị trường chứng khoán chính thức nào để giao dịch các chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam. Chính phủ đã quyết định thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thành một thị trường dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có từ 50 cổ đông bên ngoài công ty. Ước tính có khoảng 400 công ty cổ phần hoá và vài nghìn công ty cổ phần tư nhân đủ điều kiện niêm yết tại trung tâm giao dịch Hà Nội.
Do đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính đến yếu tố rủi ro
cao và lợi nhuận kỳ vọng cao, thị trường dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần thiết lập tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. Tuy nhiên, thị trường này cần có sự phân hoá nhất định đối với sàn giao dịch thứ nhất là trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, trên cả hai khía cạnh quản lý và hoạt động.
e, Cho phép các công ty liên doanh chuyển đổi thành công ty cổ phần
Ước tính có khoảng 3000 công ty liên doanh đủ điều kiện niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, một công ty liên doanh có thể được tổ chức dưới hình thức một công ty trách nhiệm hữu hạn theo quy định của luật, mà công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành cổ phiếu.
Nếu công ty liên doanh được phép phát triển thành công ty cổ phần thì sẽ có một số lượng lớn các công ty liên doanh muốn tham gia vào cuộc chơi chứng khoán. Về vấn đề này, luật Công ty liên doanh cần được sửa đổi . Cần có sự phối hợp điều chỉnh giữa Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tư pháp điều chỉnh.
g, Khuyến khích các công ty niêm yết chào bán quyền mua chứng khoán dài hạn
Không có một ưu đãi về thuế nào được áp dụng chào bán các quyền mua chứng khoán của các công ty niêm yết. Ngược lại, có rất nhiều quy định về việc chào bán quyền mua chứng khoán. Hiện tại, một công ty niêm yết không được phép phát hành thêm cổ phiếu vượt quá lượng cổ phiếu đang lưu hành, hoặc việc phát hành thêm chỉ được thực hiện ít nhất một năm sau đợt phát hành thêm trước đó. Kết quả là chỉ có một công ty niêm yết là HAPACO có thể phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn trong thời gian vừa qua.
Từ góc độ công ty, cần huy động vốn thông qua cổ phiếu hơn là huy động vốn thông qua các khoản vay ngân hàng, vì mục đích chính của việc niêm yết là tài trợ thông qua thị trường cổ phiếu. Do đó, cần khuyến khích công ty niêm yết huy động vốn thông qua hoạt động chào bán quyền mua chứng khoán dài hạn bằng cách sử dụng chính sách hỗ trợ và các biện pháp từ phía chính phủ.
Những quy định không cần thiết về việc chào bán quyền mua chứng khoán của một công ty niêm yết được đề cập ở trên cần được bãi bỏ càng sớm càng tốt nhằm khuyến khích các công ty niêm yết phát hành những cổ phiếu mới. Định hướng chính sách của thị trường chứng khoán Việt Nam cần phải dựa trên nền tảng công bố thông tin đầy đủ hơn là dựa trên chơ chế quản lý theo những chuẩn mực định sẵn.
h, Xây dựng cơ chế đăng ký trước đối với hoạt động phát hành cổ phiếu
Hiện nay, không có một phương tiện nào để các công ty niêm yết thực hiện việc phát hành các quyền mua chứng khoán dài hạn một cách tiện lợi
Trong môi trường biến động thường xuyên, các công ty hiện nay cần có khả năng phản ứng nhanh nhạy đối với các biến đổi có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình. Chỉ khi các công ty có thể có khả năng tiếp cận với thị trường vốn trong thời gian ngắn thì mới có thể huy động vốn cho cơ hội đầu tư mới.
i, Sử dụng các phương tiện của trung tâm giao dịch chứng khoán nhằm phân phối các chứng khoán phát hành trong quá trình cổ phần hoá
Hiện nay, cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được bán cho công chúng thông qua hình thức quảng cáo trên báo chí trong quá trình cổ phần hoá. Trong trường hợp này, công ty thường tiến hành phát hành trực tiếp. Ngoài hoạt động chào bán ra công chúng kể trên, đấu giá tại trung tâm giao dịch chứng khoán cũng được sử dụng như một phương thức chào bán ra công chúng. Các thành viên tham gia đấu giá giới hạn ở các công ty chứng khoán có mạng lưới Marketing rộng.
2. Nhóm biện pháp khai thác cầu
a, Thiết lập công ty tài chính Chứng khoán
Tính thanh khoản cao trên thị trường vốn cho phép các công ty trong nước huy động vốn ở mức giá cạnh tranh và chi phí hợp lý. Các công ty Chứng khoán ở Việt Nam có nguồn vốn hạn chế nên trên thị trường còn thiếu vắng hoạt động giao dịch tích cực. Một cách thức để tăng cường tính thanh khoản trên thị trường chứng khoán là tạo điều kiện cho các hoạt động tài trợ liên quan đến chứng khoán. Hiện nay, các ngân hàng có thể cung cấp tài chính cho các công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán cung cấp các loại tín dụng khác nhau cho các hoạt động giao dịch chứng khoán. Chính xác hơn công ty này cung cấp các hoạt động tài trợ liên quan đến chứng khoán cho nhà đầu tư hoặc công ty chứng khoán nhằm thực hiện các hoạt động bảo lãnh phát hành, mua và nắm giữ một số chứng khoán nhất định. Công ty chứng khoán góp phần điều chỉnh cung và cầu về tài trợ chứng khoán, kích hoạt hoặc bình ổn thị trường với chức năng cung cấp tài chính của mình.
b, Khuyến khích các nhà đầu tư tích cực tham gia hơn vào thị trường chứng khoán
Các nhà đầu tư cá nhân
Thị trường chứng khoán còn là một khái niệm mới mẻ đối với đa số người dân Việt Nam, ngay cả đối với những người hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh. Do đó cần tuyên truyền, phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán tới mọi người dân để việc đầu tư trên thị trường chứng khoán thực sự trở thành một hình thức sử dụng số tiền nhàn rỗi để kiếm lời mới của dân chúng. Nâng cao kiến thức cho người đầu tư còn góp phần xây dựng một thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, hiệu quả đối với cả công ty phát hành lẫn người đầu tư.
Mặt khác, đa số công chúng đầu tư còn đang trong tình trạng thăm dò, chờ đợi những diễn biến trên thị trường nên nhu cầu đầu tư vào thị trường chưa cao. Để thu hút sự quan tâm của công chúng đầu tư, cần có các chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế hay hỗ trợ về mặt tài chính, tín dụng đối với người đầu tư, mở rộng việc cung cấp các dịch vụ của các công ty chứng khoán đối với khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho họ tham gia trên thị trường.
Tạo niềm tin cho người đầu tư bằng việc tạo ra một khung pháp lí đồng bộ, rõ ràng, xây dựng định hướng, chiến lược phát triển rõ ràng cho thị trường, hệ thống quản lí, giám sát thị trường hiệu quả đảm bảo quyền lợi cho người đầu tư khi tham gia thị trường. Đồng thời, nâng cao chất lượng của hệ thống giao dịch của trung tâm, tăng thêm các dịch vụ cung cấp cho khách hàng từ phía các công ty chứng khoán, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán của công chúng.
Các nhà đầu tư có tổ chức
Đây là những tổ chức kinh doanh lớn, có điều kiện thuận lợi trong việc nghiên cứu, phân tích thị trường, mặt khác lại tập trung được nguồn vốn lớn do đó sẽ là nguồn cầu lớn, có ảnh hưởng nhất định tới thị trường. Mặt khác, các tổ chức đầu tư lớn còn là cầu nối gián tiếp giúp mọi người dân dù có lượng vốn nhỏ, trình độ hiểu biết về lĩnh vực chứng khoán còn ít cũng có thể tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán thông qua các Quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ hưu trí. . .Vì vậy cần thúc đẩy việc thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán, Công ty quản lí Quỹ, khuyến khích sự tham gia của các tổ chức tài chính lớn như các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư. . . bằng các chính sách hỗ trợ, ưu đãi về thuế, phí. . . đồng thời xây dựng một khung pháp lí chặt chẽ, rõ ràng, phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán.
Các nhà đầu tư nước ngoài
Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài có ý nghĩa rất lớn cho sự
phát triển và ổn định của thị trường chứng khoán vì đây là lực lượng các nhà đầu tư có nhiều kiến thức, kinh nghiệm về đầu tư trên thị trường chứng khoán và có lượng vốn đầu tư khá lớn, có những ảnh hưởng nhất định đối với thị trường cả về khối lượng giao dịch thực tế mà họ tham gia lẫn ảnh hưởng về tâm lí đối với các nhà đầu tư trong nước.
Theo Nghị định 48/NĐ - CP thì tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài muốn kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam phải thành lập công ty liên doanh với đối tác Việt Nam. Tuy đây cũng là một giải pháp phổ biến đối với thị trường chứng khoán nhiều nước trên thế giới nhưng trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay, hiệp định thương mại Việt - Mỹ vừa có hiệu lực thì việc hạn chế sự tham gia của đối tác nước ngoài một cách chặt chẽ là không phù hợp.
Mặt khác, theo luật đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chỉ có thể được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và không được phép chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần. Theo Quyết định 139/1999/QĐ-TTg, tỉ lệ nắm giữ cổ phiếu và trái phiếu của tổ chức, cá nhân nước ngoài còn bị quy định chặt chẽ . Những quy định này đã hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, không tạo ra sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp. Việc hạn chế đó trong điều kiện những năm vừa qua có thể phùu hợp nhưng trong giai đoạn tới, để thực hiện các cam kết mà Việt Nam đã kí với Mỹ, khu vực và các nước khác, cơ chế pháp luật của chúng ta cần được sửa đổi theo hướng thông thoáng hơn, dần dần xoá bỏ sự phân biệt giữa các doanh nghiệp trong nước với nước ngoài, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào kinh doanh tại Việt Nam.
Sự mâu thuẫn giữa Luật đầu tư nước ngoài và Quyết định 139/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về tỉ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam: theo quyết định 139 thì tỉ lệ vốn góp của bên nước ngoài trong công ty chứng khoán kiên doanh tối đa là 30% trong khi đó theo Luật đầu tư nước ngoài, thì bên nước ngoài cần có tối thiểu 30%, tạo ra khó khăn cho các công ty nước ngoài muốn tham gia kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam, chúng ta cần chỉnh sửa những mâu thuẫn như thế trong các văn bản luật để tạo khung pháp lí chặt chẽ cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Ngoài ra, cần có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ khác khuyến khích dự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức như Quỹ đầu tư, Công ty quản lí Quỹ, khuyến khích thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài và dần dần hình thành Qũy đầu tư chứng khoán của Việt Nam.
c, Phát triển chính sách hỗ trợ cho nhà đầu tư nhỏ lẻ
Để thị trường chứng khoán Việt Nam có thể bình ổn trong tương lai, việc nhanh chóng phát triển các nhà đầu tư nhỏ lẻ là vấn đề thiết yếu. Tuy nhiên các nhà đầu tư nhỏ lẻ lại không tiếp cận thị trường một cách dễ dàng.
Do đó, cần tăng cường khả năng tiếp cận thị trường bằng cách nới lỏng quy định đối với việc mở tài khoản giao dịch. Mức thuế đối với thu nhập cần giảm hơn nữa và giao dịch đối với nhà đầu tư cá nhân nên giảm hơn nữa, đặc biệt thị trường chứng khoán cần phải được xúc tiến hơn nữa với các hoạt động đầu tư quy mô nhỏ thông qua củng cố các mối quan hệ với nhà đầu tư.
d, Nới lỏng hạn chế về đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài
Hiện nay, quy định hạn chế sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài đối với các công ty niêm yết là 20%, hầu hết các công ty niêm yết đều đạt tỷ lệ này.
Để khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tham gia hơn nữa vào thị trường chứng khoán Viẹt Nam, mức trần giới hạn đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài cần được bãi bỏ dần dần, nhằm tránh những ảnh hưởng tiêu cực tới luồng tiền nóng chảy vào nền kinh tế quốc gia, thị trường ngoại hối và thị trường vốn.
Bên cạnh việc nới rộng mức trần đầu tư nước ngoài, những nỗ lực khác như xây dựng cơ sở hạ tầng thị trường vững mạnh, thiết lập tổ chức thanh toán bù trừ chứng khoán độc lập, tăng tỷ lệ lưu ký tập trung, đăng ký theo tên đại diện...được coi là những nhân tố quan trọng để thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
3. Nâng cao chất lượng, mở rộng hoạt động của các công ty chứng khoán
Cho đến nay, ở Việt Nam đã có 8 công ty chứng khoán được thành lập và hoạt động, bước đầu đã cung cấp được các dịch vụ cơ bản cho thị trường vận hành tốt, an toàn. Tuy nhiên, hoạt động của các công ty mới chỉ tập trung ở nghiệp vụ môi giới, các nghiệp vụ khác còn lẻ tẻ, chưa phát triển. Để xây dựng một thị trường chứng khoán vận hành hiệu quả thì vai trò của các công ty chứng khoán là rất lớn.
a, Các công ty chứng khoán phải không ngừng nâng cao, mở rộng hoạt động cả về chất lượng lẫn quy mô, tập trung phát triển thêm các nghiệp vụ
Tư vấn
Trong thời gian đầu mới hình thành thị trường chứng khoán, sự hiểu biết của công chúng đầu tư còn hạn chế, do đó nghiệp vụ tư vấn có ý nghĩa quan trọng hơn giúp đỡ khách hàng trong việc tìm hiểu thị trường, đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Quản lí danh mục đầu tư
Với số lượng, chủng loại các loại chứng khoán ngày càng gia tăng trong tương lại, người đầu tư sẽ rất khó nắm bắt, lựa chọn được danh mục đầu tư thích hợp. Phát triển nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư của các công ty chứng khoán là rất cần thiết, có vai trò định hướng cho thị trường vận hành tốt.
Bảo lãnh phát hành: cho đến nay, chưa có công ty chứng khoán nào thực hiện được nghiệp vụ bảo lãnh cho chứng khoán phát hành ra công chúng mà mới chỉ dừng ở nghiệp vụ làm đại lí phát hành. Phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phát hành có ý nghĩ quan trọng giúp cho việc phát hành cổ phiếu của các công ty thuận lợi hơn, đồng thời xác định giá tham chiếu chính xác, có căn cứ cơ sở rõ ràng hơn, phù hợp với các thông lệ quốc tế và hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam để giá cổ phiếu thay đổi không quá chênh lệch như thời gian vừa qua.
b, Phát triển mở rộng mạng lưới chi, nhánh nhận lệnh của khách hàng trên nhiều tỉnh thành hơn nữa, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi nhà đầu tư có thể tham gia thị trường.
Hiện đại hoá hệ thống giao dịch phục vụ cho hoạt động nhận và thực hiện lệnh của khách hàng, cung cấp thông tin cho khách hàng nhanh chóng, kịp thời, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho công việc đầu tư của họ.
Giảm hơn nữa mức phí môi giới nhằm thu hút khách hàng tham gia trên thị trường. Hiện nay, hầu hết các công ty chứng khoán đã đưa ra được các mức phí theo cấp độ khác nhau tuỳ theo khối lượng giao dịch, tuy nhiên mức phí hiện nay vẫn còn rất cao, phổ biến là mức phí 0.5% và 0.45% trên tổng giá trị giao dịch. Con số trông có vẻ nhỏ nhưng khi khối lượng giao dịch đạt được lớn thì mức phí lại quá cao so với mức lợi nhuận mà người đầu tư có thể đạt được trong tình hình hiện nay. Để thị trường phát triển lâu dài, mức phí cần được giảm hơn nữa, hấp dẫn các nhà đầu tư tham gia.
Giảm số tiền kí quỹ mua chứng khoán xuống còn khoảng 50%-70%, tiến tới giảm hơn nữa khi thị trường chứng khoán đã phát triển. Mức kí quỹ 100% hiện nay làm cho các nhà đầu tư mất nhiều cơ hội mua được cổ phiếu khi giá giảm vì không còn tiền trong tài khoản.
Tuỳ theo từng đối tượng khách hàng có thể cho tạm ứng hay vay tiền mua chứng khoán.
Các công ty chứng khoán trực thuộc các ngân hàng thương mại có thể cho phép những nhà đầu tư có tài khoản tại ngân hàng đó được phép giao dịch mà không cần mở thêm tài khoản tại công ty chứng khoán nữa, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong giao dịch, đồng thời giúp họ quản lí tiền của mình một cách chủ động hơn.
Ngoài ra, Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi hơn nữa về tài chính, ưu đãi khác đối với các loại hình doanh nghiệp kinh doanh và làm dịch vụ chứng khoán. Từ đó giúp các công ty chứng khoán có điều kiện giảm phí cho khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ. . .
Mở rộng thêm đối tượng được phép tham gia cung ứng dịch vụ chứng khoán nhằm tăng thêm số lượng các trung gian mua bán chính thức cho thị trường, tạo sự cạnh tranh tích cực cho các công ty chứng khoán để họ phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của mình.
4. Hoàn thiện cơ chế quản lý, hệ thống hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán
a, Hoàn thiện hệ thống quản lí thị trường chứng khoán
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán: Nghị định 48/1998/NĐ/CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán được ban hành trước khi trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động nên sau một thời gian vận dụng đã bộc lộ nhiều thiếu sót. Trong thời gian tới cần chỉnh sửa lại Nghị định 48 và các quy chế hướng dẫn theo hướng bao quát rộng hơn mọi hoạt động của thị trường, điều chỉnh những chỗ chưa hợp lí cho phù hợp với những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Trong tương lai, có thể xây dựng một Pháp lệnh rồi tiến tới xây dựng Luật chứng khoán riêng, từ đó làm cơ sở pháp lí cao hơn, thống nhất với phạm vi điều chỉnh rộng, giúp cơ quan quản lí có thể giám sát thị trường một cách hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho các định chế tài chính trung gian hoạt động tốt, người đầu tư yên tâm đầu tư, giúp cho thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, phát triển nhanh chóng, ổn định.
Xác định vai trò, trách nhiệm cụ thể của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán chỉ giám sát và quản lí vĩ mô hoạt động của thị trường chứng khoán, đưa ra các kế hoạch, định hướng chung chứ không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động cụ thể của việc giao dịch chứng khoán.
Quy định rõ trách nhiệm, phạm vi can thiệp của từng cơ quan, từng bước nâng cao năng lực, tự chịu trách nhiệm trong điều hành, tổ chức giao dịch chứng khoán của trung tâm giao dịch.
Các quyết định từ phía cơ quan quản lí phải căn cứ vào một chiến lược cụ thể đã được xác định trước, không nên thay đổi liên tục gây xáo trộn tâm lí cho các nhà đầu tư vì ngay cả khi đó là quyết định hợp lí về mặt lí thuyết nhưng do phản ứng từ phía thị trường nó lại phản tác dụng. Do đó, trước khi đưa ra quyết định nào đó thì phải phân tích kĩ thị trường và tâm lí nhà đầu tư.
Phối hợp chặt chẽ trong chỉ đạo, phản hồi thông tin thị trường giữa Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán. Đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan khác để có thể phát hiện kịp thời, xử lí nghiêm minh các vi phạm xảy ra trên thị trường, giúp cho thị trường hoạt động an toàn, hiệu quả, công bằng.
Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao, khả năng quản lí tốt, nắm bắt kịp thời các thông tin trên thị trường, có thể đưa ra các quyết sách đúng đắn góp phần ổn định thị trường.
b, Hiện đại hoá, mở rộng, nâng cao chất lượng hoạt động các hệ thống của Trung tâm giao dịch chứng khoán
- Nâng cấp hệ thống giao dịch, lưu kí và thanh toán bù trừ
Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, công nghệ thông tin theo hướng hiện đại hơn để phù hợp với tốc độ phát triển của thị trường. Hiện nay, hệ thống giao dịch của Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh là hệ thống bán tự động với mạng cục bộ, năng lực giải quyết tối đa 300.000 lệnh một phiên giao dịch, quy mô tối đa 9.900 cổ phiếu một lệnh. Nếu với mục tiêu đạt được con số 300.000 tài khoản giao dịch của khách hàng tại các công ty chứng khoán trong năm 2003 thì với hệ thống giao dịch này khó có thể đạt được mục tiêu đó. Do đó, cần phải nâng cấp tính năng của hệ thống giao dịch, nhằm đạt được một số bước tiến thúc đẩy thị trường phát triển hơn, thay đổi một số quy định có ý nghĩa tích cực đối với hoạt động lâu dài của thị trường như:
- Tăng biên độ dao động lên 5%-7%, sau khi thị trường ổn định về lâu dài có thể tăng lên 10%-15%. Hầu hết các nước đều có quy định về biên độ dao động giá để bảo vệ thị trường, nhưng biên độ của họ khá cao, như Thượng Hải là , Thái lan và Kuala Lumpur là hay không quy định biên độ dao động như thị trường chứng khoán New York. Quy định biên độ dao động giá 2% như vừa rồi của Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chỉ là một giải pháp tình thế tạm thời giúp ổn định thị trường trong giai đoạn đầu mới hoạt động, còn về lâu dài cần có một biên độ rộng hơn tạo tính sinh động cho thị trường, hấp dẫn, thu hút nhiều nhà đầu tư tham gia, góp phần phát triển thị trường chứng khoán nước ta.
- Khớp lệnh 2-3 lần trong một phiên giao dịch và tiến tới khớp lệnh liên tục nhằm tạo sự sôi động cho thị trường, đa dạng các mức giá trong một phiên giao dịch, hấp dẫn các nhà đầu tư tham gia mua bán chứng khoán, tăng khối lượng giao dịch, tăng quy mô cho thị trường.
- Quy định một lô cổ phiếu nhỏ hơn mức 1 lô = 100 cổ phiếu như hiện nay để mọi người dân, kể cả những người có thu nhập thấp cũng có thể tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán, đồng thời để những cổ đông có cổ phiếu lẻ cũng có thể bán trực tiếp trên thị trường mà không phải bán lại cho các tay “cò” chứng khoán hay các công ty chứng khoán với giá thấp hơn, đảm bảo lợi ích cho người đầu tư.
- Đa dạng hoá các loại lệnh: hiện nay mới chỉ có lệnh mua và lệnh bán, chưa có các loại lệnh mang tính chất bảo vệ người đầu tư như lệnh dừng, lệnh giới hạn, lệnh tuỳ nghi. . .giúp các nhà đầu tư có thể linh hoạt hơn trong việc đầu tư của mình.
- Cho phép các công ty chứng khoán nhận lệnh bằng nhiều hình thức như fax, điện thoại, e-mail. . .tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng ở mọi nơi có thể giao dịch được.
- Xây dựng trung tâm lưu kí và thanh toán bù trừ độc lập, tự động hoá hệ thống lưu kí và thanh toán bù trừ chứng khoán, đảm bảo có thể quản lí đồng thời nhiều tài khoản lưu kí hơn vì sự phát triển của thị trường trong tương lai.
- Rút thời hạn thanh toán xuống còn t+2: việc rút thời hạn thanh toán từ t+4 xuống t+3 mà trung tâm giao dịch chứng khoán vừa thực hiện quả đã là một nỗ lực lớn trong quá trình dần dần xây dựng thị trường chứng khoán phát triển hiệu quả. Tuy nhiên, để đảm bảo lợi ích hơn nữa cho các nhà đầu tư, thu hút họ tham gia thị trường, đẩy nhanh quy trình thanh toán, nâng cao hiệu quả hoạt động giao dịch chứng khoán, cần phải cố gắng hơn nữa để có thể rút thời hạn thanh toán xuống còn t+2.
c, Hiện đại hoá hệ thống giám sát thị trường
Hiện nay, hệ thống giám sát thị trường còn thủ công nên việc giám sát còn chậm chạp, chưa hiệu quả, để xảy ra nhiều hành vi gian lận, khi phát hiện thì cũng đã muộn, việc xử lí còn chưa thật nghiêm minh.
Để đảm bảo cho thị trường vận hành an toàn, hiệu quả và phát triển trong tương lai thì phải xây dựng hệ thống giám sát thị trường hiện đại, tự động kết nối với các hệ thống khác như hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu kí, thanh toán. Từ đó có thể phát hiện ra các sai phạm nhanh chóng, rõ ràng, xử lí kịp thời, đảm bảo tính công bằng, minh bạch cho thị trường chứng khoán nước ta.
d, Phát triển hệ thống cung cấp thông tin
Cùng với việc cải tiến chế độ công bố thông tin của các công ty niêm yết, cần phải nâng cấp hệ thống cống bố thông tin hiện đại, đảm bảo cung cấp thông tin cho thị trường về giao dịch trên thị trường, về các công ty niêm yết, về các trung gian thị trường, về quản lí thị trường, các văn bản pháp quy. ..
Với hệ thống cung cấp thông tin hiện nay, các nhà đầu tư không thể có đủ dữ liệu để phân tích hay đánh giá về một Công ty nào đó để làm căn cứ ra quyết định đầu tư một cách chính xác, do đó hoạt động đầu tư trên thị trường hiện nay phần nhiều phải dựa vào cảm tính. Phải xây dựng một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng rãi, thống nhất, chính xác, đầy đủ, dễ tiếp cận đối với công chúng, thông qua các phương tiện truyền thông như qua mạng internet, báo chí, tin tức hàng ngày. . . đảm bảo quyền lợi cho các nhà đâu tư khi tham gia thị trường.
5. Khuyến khích sự tham gia của các tổ chức với vai trò là các nhà tạo lập thị trường
Để điều tiết thị trường chứng khoán một cách vĩ mô cần sử dụng các biện pháp mang tính thị trường. Các nhà tạo lập thị trường sẽ điều hoà thị trường bằng cách mua cổ phiếu vào để tạo cầu khi giá giảm và bán ra để tạo cung khi giá tăng, giúp trấn an tâm lí nhà đầu tư, đảm bảo sự ổn định của thị trường.
- Cần khuyến khích sự tham gia của các ngân hàng, tổ chức đầu tư. . hoặc thành lập riêng một tổ chức chuyên nghiệp hoạt động trên thị trường với vai trò tạo lập thị trường.
- Thành lập hiệp hội kinh doanh chứng khoán
ở các nước khác, sau khi thị trường chứng khoán ra đời một thời gian đều có sự xuất hiện của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán với vai trò phổ biến kiến thức về thị trường chứng khoán, nghiên cứu phát triển nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, tham gia quản lí, giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường, hỗ trợ các nhà kinh doanh và thị trường khi cần thiết. Việc thành lập Hiệp hội kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam là cần thiết, có vai trò điều hoà lợi ích chung, tạo điều kiện bồi dưỡng chuyên môn, đạo đức cho hội viên (chủ yếu là các công ty chứng khoán, thành viên lưu kí, các chuyên gia trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán), đồng thời có vai trò như một market makers góp phần phát triển thị trường một cách ổn định.
6. Tăng cường hiệu quả hoạt động của Quỹ hỗ trợ thanh toán
Quỹ hỗ trợ thanh toán là quỹ do Trung tâm giao dịch chứng khoán lập ra để hỗ trợ cho các thành viên khi gặp rủi ro trong thanh toán. ở Việt Nam, Quỹ hỗ trợ thanh toán trên thị trường chứng khoán Việt Nam được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên lưu kí nhưng hầu như không hoạt động. Quy mô của Quỹ còn quá nhỏ, hoạt động của quỹ lại chưa có các văn bản quy định cụ thể, thêm vào đó thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động nên các quy định đối với các thành viên lưu kí và các khách hàng về tiền kí quỹ, về cho vay. . . rất chặt chẽ, hầu như không có rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán do đó các thành viên lưu kí chưa phải sử dụng đến tiền của Quỹ. Nhưng trong tương lai, khi thị trường chứng khoán phát triển, các dịch vụ đối với khách hàng rộng rãi hơn thì vai trò của Quỹ hỗ trợ thanh toán sẽ được phát huy.
Do đó cần đánh giá đúng đắn tầm quan trọng của Quỹ, có những biện pháp hữu hiệu để Quỹ trở thành một công cụ hữu hiệu giảm thiểu rủi ro trên thị trường chứng khoán, thúc đẩy các hoạt động của thị trường.
Kết luận
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong những bước đi đầu tiên còn cần phải điều chỉnh dần dần mới có thể hoạt động ổn định và thực sự hiệu quả. Sự biến động giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua đã tác động không nhỏ đến các nhà đầu tư cũng như đến hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian đầu và về sau này. Do đó, phải nhanh chóng tạo dựng lại niềm tin cho nhà đầu tư bằng các biện pháp, chính sách bình ổn giá cổ phiếu trên thị trường.
Qua một quá trình nghiên cứu tương đối tổng hợp, từ lý luận đến thực tiễn về thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu, các nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu, và một số biện pháp nhằm bình ổn giá cổ, đề tài đã đem lại một số kết quả nhất định, đáp ứng mục đích nghiên cứu đã đề ra:
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giá cổ phiếu và biến động giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến biến động giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua.
Đưa ra một số giải pháp nhằm bình ổn giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
Tuy nhiên, khoá luận vẫn còn những hạn chế nhất định do hạn chế về mặt thời gian, về kiến thức lý luận cũng như kinh nghiệm thực tế của người viết. Do đó, em hi vọng sẽ nhận được sự góp ý chân thành từ phía các thầy giáo, cô giáo, các nhà đầu tư chứng khoán và những người quan tâm đến chứng khoán để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn PGS – TS Nguyễn Thị Quy đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành khoá luận này.
._.