Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đô thị hóa là một xu hướng tất yếu của lịch sử, là cơ sở để đánh giá trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, mỗi quốc gia.
Trong những năm qua, việc quy hoạch dân cư nhằm chỉnh trang đô thị, nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật tạo, điều kiện cho việc mở rộng, phát triển kinh tế - xã hội là một chính sách lớn được các cấp ủy Đảng và chính quyền nhân dân thành phố Đà Nẵng đặc biệt quan tâm. Chính sách này đã và đang mang lại hiệu quả hết sức to l
109 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2160 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Biến đổi mức sống của nhóm cư dân sau tái định cư ở Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớn. Diện mạo của một thành phố văn minh, hiện đại với cơ sở hạ tầng kỹ thuật được nâng cấp, môi trường sống trong lành đang từng bước được xác lập. Quá trình kiến tạo lại môi trường đô thị ở Đà Nẵng đã không chỉ tạo được môi trường sống, chất lượng sống tốt hơn mà còn đem lại niềm tin yêu, lòng tự hào cho người dân Đà Nẵng đối với Đảng, Nhà nước và chính quyền thành phố.
Tuy nhiên, đằng sau bất kỳ một chính sách nào, dù thành công đến mấy cũng thường ẩn náu những vấn đề xã hội nhất định. Điều này đòi hỏi các cấp, các ngành phải có cái nhìn toàn diện, hợp lý để tăng cường hiệu quả cho xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Để thực hiện chủ trương quy hoạch lại đô thị, trong những năm qua ở thành phố Đà Nẵng, hàng chục dự án đã triển khai giúp hàng chục nghìn hộ dân được di dời đến các khu tái định cư (TĐC) mới. Trên nhiều mặt, đời sống của dân cư trong các khu vực này được cải thiện rõ rệt. Cơ sở hạ tầng như: Điện, đường, hệ thống cấp thoát nước, vệ sinh môi trường... đều được nâng cấp đạt tiêu chuẩn đô thị bậc cao. Nhưng một bộ phận dân cư vẫn còn băn khoăn về khả năng tìm việc làm, tạo thu nhập đảm bảo mức sống của dân cư thời "hậu tái định cư", đặc biệt là đối với nhóm cư dân nghèo. Vì vậy, ở một số nơi, một số người chưa thích nghi được với môi trường sống mới hoặc chưa tìm được việc làm ổn định sinh tâm lý thiếu an tâm. Mức sống ở một bộ phận dân cư chưa ổn định nhất là số người làm các nghề tự do đang cần tiếp tục hỗ trợ để tìm hướng giải quyết. Đây là vấn đề của không chỉ công tác truyền thông, giáo dục mà còn là một kế hoạch phát triển kinh tế, ổn định xã hội cả trước mắt lẫn lâu dài.
Thành phố Đà Nẵng còn tiếp tục phải di dời, giải toả và chỉnh trang. Do vậy tìm hiểu hiện trạng và nguyên nhân của những biến đổi mức sống của cộng đồng dân cư sau TĐC là việc rất cần làm. Đây là yêu cầu khoa học cấp thiết giúp lãnh đạo thành phố hoạch định và thực hiện những chính sách phù hợp nhằm phát triển sản xuất, ổn định đời sống, tạo tâm lý an tâm cho cộng đồng dân cư đã, đang và sẽ phải di dời, giải toả ở Đà Nẵng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, do yêu cầu của cả lý luận và thực tiễn, đã có một số công trình nghiên cứu trên các phương diện khác nhau về di dời, giải tỏa và TĐC. Có thể điểm qua một số công trình tiêu biểu như sau:
- Thứ nhất: "Tái định cư trong các dự án phát triển: chính sách và thực tiễn" (TS. Phạm Mộng Hoa - TS. Lâm Mai Lan, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000).
Với công trình này, các tác giả đã tập trung trình bày nội dung của các Nghị định, Thông tư quy định về mặt pháp lý đối với việc đền bù, giải tỏa và trách nhiệm của Nhà nước đối với người bị giải tỏa; đồng thời chỉ ra những khiếm khuyết và hạn chế của chính sách hiện hành trên cơ sở so sánh sự khác biệt giữa chính sách TĐC của Việt Nam với chính sách TĐC của các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, tác giả cũng đề xuất, kiến nghị, bổ sung và điều chỉnh những chính sách hiện hành, làm cho những chính sách này phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
- Thứ hai: "Chính sách di dân châu á" (Dự án VIE/95/ 2004. Nxb Nông nghiệp - Hà Nội, 1998).Trong công trình này đã có nhiều bài viết đề cập ở những góc độ khác nhau của việc di dời, giải toả,di dân TĐC. Cụ thể trong bài viết "Chính sách tái định cư do kết quả của sự phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam" (từ trang 180-195), tác giả Trương Thị Ngọc Lan bàn đến thực trạng công tác TĐC hiện nay ở nước ta và tập trung trình bày những nội dung chính của các văn bản pháp lý liên quan đến đền bù và TĐC.
Tiếp theo, bài viết "Di dân nhập cư với vấn đề phát triển một đô thị mới như thành phố Hồ Chí Minh", tác giả Lê Văn Thành bước đầu đề cập đến những khó khăn, thiệt thòi về việc làm mà người dân TĐC phải đương đầu.
- Thứ ba: "Tình hình thực hiện chính sách đền bù, TĐC và khôi phục cuộc sống cho những người bị ảnh hưởng bởi các dự án đầu tư phát triển tại các đô thị và khu công nghiệp" (Trần Xuân Quang, Hà Nội, 8/1997).
Đây là công trình đã khá thành công trong việc đưa ra những đánh giá có tính khái quát về tình hình thực hiện các chính sách đền bù, TĐC cho những người dân bị ảnh hưởng bởi các dự án phát triển.
Thứ tư: "Tái định cư bắt buộc” (Ngân hàng Phát triển châu á,1995). Trong tài liệu này,TĐC bắt buộc được xác định là chính sách đền bù và hỗ trợ ổn định lại cuộc sống.Mục tiêu đặt ra cho việc TĐC là phải đảm bảo sau khi TĐC, những người bị ảnh hưởng bởi dự án ít nhất đạt tới mức sống như họ lẽ ra có được nếu không có dự án.
- Thứ năm: “Hiện trạng và triển vọng cải thiện nhà ở, mức sống, môi trường sống của người nghèo đô thị - trường hơp Thành phố Hồ Chí Minh” (chủ nhiệm đề tài: GS.Tương Lai-1994).Với phương pháp điều tra Xã hội học, các tác giả đã thành công trong việc mô tả, đánh giá mức sống của nhóm người nghèo đô thị.
- Thứ sáu: "Giải pháp để phát triển sản xuất cho bản Vân Kiều ở khu TĐC xã Xuân Lộc-huyện Phú Lộc” (Trần Hữu Toàn và Mai Văn Xuân, đăng trên tap chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Từ thực trạng người dân TĐC gặp khó khăn trong phát triển sản xuất, các tác giả đã khuyến nghị các giải pháp để giải quyết vấn đề này.
- Thứ bảy: “Một số vấn đề xã hội học hàng đầu của việc cải tạo- chỉnh trang đô thị (CTĐT): giảm tổn thương cho nhóm dân cư nghèo nhất” của Nguyễn Quang Vinh đăng trên tạp chí Xã hội học, số 1-2001. Đây là một nghiên cứu Xã hội học về sự ảnh hưởng của các dự án cải tạo - CTĐT đến việc làm và mức sống của nhóm dân cư nghèo ở TP. Hồ Chí Minh.Cách tiếp cận của tác giả đã gợi mở ra những hướng nghiên cứu rất bổ ích về đề tài biến đổi mức sống của nhóm dân cư bị ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hoá.
- Với Đà Nẵng có bài viết "Giải quyết việc làm trong thời kỳ đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa ở Đà Nẵng" của Nguyễn Hoàng Long, đăng trên Tạp chí Lao động và xã hội, số 218, 2003.
Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đánh giá tình hình giải quyết việc làm nói chung ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, trong đó có đề cập đến một số "khó khăn nhất định - nhất là ở bước đầu trong vấn đề tìm việc làm và thích nghi với địa bàn mới", của một số lao động trong diện di dời đến khu TĐC.
Trong những năm gần đây còn có các dự án PMU nghiên cứu các công trình di dời, giải toả về giao thông (đường quốc lộ 1, đường 5, đường Hồ Chí Minh…) hay công trình nghiên cứu về sự ảnh hưởng đến các mặt kinh tế - xã hội của việc di dời, giải toả, tái đinh cư ở khu công nghiệp Dung Quất… Các nghiên cứu này chú trọng vào việc xem xét mức độ ảnh hưởng của các dự án đến các mặt kinh tế, xã hội, văn hoá, lối sống của người dân có liên quan đến dự án.
Có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam, khái niệm TĐC chỉ mới xuất hiện trong một số năm gần đây, các nghiên cứu về vấn đề này chưa nhiều. Các nghiên cứu về TĐC chủ yếu tiếp cận trên phương diện cơ sở pháp lý, tức là quan tâm xem xét các cơ chế chính sách hiện hành về giải tỏa đền bù, TĐC. Còn việc nghiên cứu về thực trạng biến đổi mức sống của nhóm cư dân sau TĐC chỉ mới có một vài công trình đề cập tới song mới chỉ bước đầu. Đến nay vẫn chưa có những công trình đề cập một cách toàn diện và sâu sắc về sự biến đổi mức sống của nhóm cư dân sau TĐC ở Việt Nam nói chung và ở thành phố Đà Nẵng nói riêng. Do vậy, nghiên cứu, làm rõ "Biến đổi mức sống của nhóm cư dân sau tái định cư ở Đà Nẵng" đang là điều rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu: Làm rõ thực trạng và nguyên nhân sự biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau TĐC ở Đà Nẵng để đề xuất những giải pháp nhằm góp phần ổn định và nâng cao đời sống cho cộng đồng cư dân sau TĐC.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và những khái niệm cơ bản về sự biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau TĐC.
- Khảo sát và đánh giá đúng thực trạng mức sống của nhóm dân cư sau TĐC.
- Tìm hiểu những nguyên nhân kinh tế- xã hội làm thay đổi mức sống của cộng đồng dân cư sau TĐC.
- Đưa ra những giải pháp, khuyến nghị nhằm ổn định và nâng cao chất lượng sống của nhóm dân cư sau TĐC.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Sự biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau TĐC.
4.2. Khách thể nghiên cứu: Các hộ gia đình trong diện giải toả đã di chuyển vào khu TĐC.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu sự biến đổi mức sống của nhóm dân chuyển cư vào khu TĐC trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay.
5. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
1) Di dời, TĐC trong quá trình xây dựng và chỉnh trang đô thị đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến mức sống của cộng đồng dân chuyển cư nhất là nhóm xã hội nghèo.
2) Chỉ có nhóm cán bộ, công nhân viên sau chuyển cư là tương đối ổn định còn các nhóm xã hội khác, nhất là nhóm không có nghề nghiệp ổn định, đời sống đang gặp nhiều khó khăn.
3) Các yếu tố cá nhân khác như trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, tuổi, giới tính và hệ thống các chính sách do Đảng và Nhà nước ban hành đang tác động làm thay đổi nhiều đến mức sống của nhóm dân cư sau TĐC.
5.2. Khung lý thuyết
Chính sách của Đảng và Nhà nước
Môi trường
tự nhiên, kinh tế – xã hội
Biến đổi
mức sống
Thu nhập
Chi tiêu
Tài sản, môi trường
Tiếp cận dịch vụ đô thị
Gia đình
- Quy mô gia đình, - Kiểu loại gia đình
- Nghề nghiệp gia đình
đình, nghề nghiệp, tuổi, g
Hệ
quả
xã
hội
Cá nhân
- Tuổi
- Giới tính
- Học vấn
-Nghề nghiệp
a. Biến phụ thuộc
Sự biến đổi mức sống được xác định thông qua các chỉ báo:
- Biến đổi về thu nhập ( thu nhập bình quân hộ và đầu người/ tháng so sánh với thời điểm trước chuyển cư).
- Biến đổi mức chi phí (ăn, ở, đi lại, học tập, chăm sóc sức khoẻ, giải trí và các dịch vụ khác so với trước chuyển cư).
- Tài sản và môi trường (quy mô, chất lượng, quyền sở hữu nhà ở, chất lượng môi trường tự nhiên xã hội).
- Sự thay đổi khả năng tiếp cận các dịch vụ đô thị cơ bản ( điện, đường, trường, trạm, chợ, thông tin liên lạc…).
b. Hệ các biến độc lập
- Chính sách của Đảng, Nhà nước
+ Chính sách về đền bù, TĐC.
+ Hổ trợ sản xuất kinh doanh (tín dụng, thuế…).
+ Chính sách tạo việc làm.
+ Các chính sách khác.
- Các yếu tố gia đình
+ Quy mô gia đình (đông thành viên, ít thành viên).
+ Kiểu loại gia đình (gia đình đầy đủ, gia đình khiếm khuyết).
+ Nghề nghiệp của gia đình (thuần nông, phi nông, hỗn hợp).
- Các yếu tố cá nhân
+ Tuổi.
+ Giới tính.
+ Trình độ học vấn.
+ Nghề nghiệp
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
6.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về biến đổi xã hội được nhìn dưới hai mức độ tiến hoá và cách mạng.
- Dựa trên các quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chủ trương chính sách TĐC nói riêng của Đảng và Nhà nước.
- Dựa trên các lý thuyết xã hội học như: Thuyết biến đổi xã hội, thuyết hệ thống và lý thuyết di dân…
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phân tích tài liệu có sẵn: đây là những tài liệu thu thập được từ các báo cáo tổng kết, các nghiên cứu đã có, các thống kê, các tài liệu khác liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Điều tra xã hội học trong đó nghiên cứu định tính với phỏng vấn sâu 20 trường hợp áp dụng đối với đại diện hộ gia đình thuộc diện giải toả đền bù hiện đang sinh sống trong khu TĐC và cán bộ lãnh đạo phường có dân TĐC; điều tra chọn mẫu bằng bảng hỏi với số lượng 210 phiếu tương ứng với 210 chủ hộ gia đình đã di chuyển vào khu TĐC; kết hợp với việc quan sát trực tiếp một số hộ gia đình điều tra về mức sống của nhóm dân cư sống trong khu TĐC.
7. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Vận dụng các lý thuyết về biến đổi xã hội, lý thuyết hệ thống và lý thuyết di dân để giải thích quá trình biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau TĐC ở Đà Nẵng.
- Góp phần bổ sung, hoàn chỉnh thêm cơ sở khoa học cho việc xác định và hoạch định các chính sách mà Đà Nẵng cần thực hiện cho cư dân vùng TĐC để phát triển kinh tế xã hội bền vững.
8. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Kết quả luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ lãnh đạo quản lý ở Đà Nẵng và các địa phương có điều kiện tương tự trong việc hoạch định và thực hiện chính sách đền bù giải toả và TĐC.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề có liên quan đến biến đổi đời sống xã hội trong quá trình đô thị hoá.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ Sở Lý LUậN CủA VấN Đề NGHIÊN CứU
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Mức sống
1.1.1.1. Khái niệm mức sống
Mức sống là một khái niệm được dùng khá phổ biến trong các nghiên cứu để đánh giá mức độ đạt được về các điều kiện sống của dân cư. Tuy nhiên, mức sống là một phạm trù kinh tế - xã hội rất rộng nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì mức sống là “mức đạt được trong chi dùng, hưởng thụ các điều kiện vật chất, tinh thần” [40 tr.1157]. Như vậy với quan niệm này thì mức sống được hiểu là mức độ đạt được về các điều kiện vật chất và tinh thần của dân cư.
Theo Mác thì “Mức sống dân cư không phải chỉ là sự thoả mãn nhu cầu của đời sống vật chất mà còn là sự thoả mãn nhu cầu nhất định, những nhu cầu được sản sinh bởi chính những điều kiện xã hội mà trong đó con người đang sống và trưởng thành” [23]. Nghĩa là ngoài đòi hỏi về những điều kiện vật chất, con người ta còn hướng tới những nhu cầu xã hội. Những nhu cầu xã hội được sản sinh từ chính những điều kiện xã hội nên đương nhiên nó luôn thay đổi theo sự phát triển của những điều kiện xã hội. Điều đó cũng chứng tỏ rằng mức sống không phải là phạm trù nhất thành bất biến mà luôn biến đổi theo thời gian và không gian nhất định.
Trên những quan điểm chung đó, Từ điển Bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm mức sống vừa khái quát vừa cụ thể như sau:
Mức sống là phạm trù kinh tế - xã hội đặc trưng mức thoả mãn nhu cầu về thể chất, tinh thần và xã hội của con người. Được thể hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu số lượng và chất lượng của điều kiện sinh hoạt và lao động của con người. Một mặt, mức sống được quyết định bởi số lượng và chất lượng của cải vật chất và văn hoá dùng để thoả mãn nhu cầu của đời sống; mặt khác, được quyết định bởi mức độ phát triển bản thân nhu cầu của con người. Mức sống không chỉ phụ thuộc vào nền sản xuất hiện tại mà còn phụ thuộc vào quy mô của cải quốc dân và của cải cá nhân đã được tích luỹ. Mức sống và các chỉ tiêu thể hiện nó là do tính chất của hình thái kinh tế - xã hội quyết định [15, tr. 973].
Như vậy, mức sống là trình độ thoả mãn nhu cầu toàn diện, thường xuyên tăng lên của dân cư. Mức sống dân cư còn cho ta biết mức độ (cái được xác nhận là nhiều hay ít trên một thang độ nào đó) về các điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhóm dân cư đó [25].
Nếu so với khái niệm đời sống thì mức sống có ý nghĩa cụ thể hơn. Phạm vi ngữ nghĩa của từ đời sống thường được sử dụng một cách khá chung chung, ý nghĩa bao hàm rộng. Mặc dù vậy, để đánh giá về đời sống thì các nhà nghiên cứu lại không thể tách rời với việc đo lường, đánh giá mức sống.
Mức sống cũng có quan hệ gần gũi với khái niệm chất lượng cuộc sống, bởi chất lượng cuộc sống được hiểu là điều kiện sống làm cho con người thoả mãn các nhu cầu về tinh thần và vật chất. Như vậy, mức sống và chất lượng cuộc sống đều có đặc trưng liên quan đến mức độ hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần của con người, trong đó mức sống thường thiên nhiều về mặt "lượng" của đời sống còn chất lượng cuộc sống thiên nhiều về mặt "chất" của đời sống. Chất lượng sống phải đo lường bằng những chỉ báo cụ thể về mức sống vật chất (ăn, mặc, ở, đi lại,…) và tinh thần (hưởng thụ văn hoá, nghệ thuật, giải trí, vui chơi, tự do chính trị,…)
1.1.1.2. Biến đổi mức sống
Mức sống là một phạm trù có tính lịch sử, chịu sự thay đổi về thời gian và khác nhau trong không gian. Trong một quốc gia hay ở từng vùng, mức sống thường biến đổi cùng với sự biến đổi của điều kiện sống, đặc biệt là trình độ phát triển sản xuất trong mỗi thời kỳ. Thời bao cấp, chiến tranh, mức sống trung bình chỉ là có đủ những nhu cầu tối thiểu, thiết yếu nhất để duy trì sự sống như ăn: 13kg lương thực/tháng, mặc: 4m2 vải một người/năm. Song hiện nay, nức sống trung bình phải đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở, có phương tiện đi lại và phương tiện gia dụng bằng mức sống khá giả trước kia. Như vậy nghiên cứu về mức sống phải nghiên cứu trong tính lịch sử và cụ thể của nó.
Không chỉ làm rõ khái niệm "mức sống", luận văn còn phải làm rõ khái niệm "biến đổi mức sống" (BĐMS). Song để có cơ sở nhận thức rõ hơn về khái niệm BĐMS phải bắt đầu từ khái niệm biến đổi. Biến đổi là gì? Biến đổi như thế nào? Theo Từ điển tiếng Việt “Biến đổi là sự thay đổi so với cái trước đó” [37, tr.89]. Sự thay đổi đó có thể tăng hoặc giảm, từ dạng này sang dạng khác, từ hình thái này sang hình thái khác.
Vậy biến đổi mức sống là sự thay đổi mức độ thoả mãn các nhu cầu về thể chất, tinh thần và xã hội của người dân. Vì biến đổi mức sống là một quá trình kinh tế - xã hội nên để xác định nó, mỗi phép đo đều cần ít nhất hai thời điểm khác nhau. Điểm mốc mà tác giả lựa chọn để so sánh, làm sáng tỏ sự biến đổi mức sống của người dân là sau khi đối tượng được giải toả, di dời và sinh sống ở khu TĐC so với mức sống thời gian trước di dời. Khoảng thời gian sau TĐC được lựa chọn để nghiên cứu ít nhất là từ hơn 6 tháng trở lên. Những hộ gia đình mới chuyển vào khu TĐC với thời gian dưới 6 tháng chưa đủ thời gian cần thiết để đánh giá về những biến đổi mức sống của họ. Đối với Thành phố Đà Nẵng, năm 1997 là một mốc khá trọng đại vì được tách ra từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng để trở thành thành phố trực thuộc trung ương. Đây cũng là thời điểm mà thành phố triển khai mạnh mẽ các chương trình, dự án quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị. Vì vậy, nhóm dân cư thuộc diện TĐC trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến năm 2004 trở thành đối tượng nghiên cứu của luận văn.
1.1.1.3. Các chỉ báo đo lường sự biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau tái định cư ở Đà Nẵng
Mức sống là một phạm trù kinh tế - xã hội rất rộng, vì vậy đánh giá sự biến đổi mức sống phải dựa trên các chỉ báo về thu nhập, chi tiêu, nhà ở, đồ dùng lâu bền, mức độ hưởng thụ (khả năng tiếp cận) các dịch vụ đô thị cơ bản...
Trước hết, là chỉ báo về thu nhập. Đây là yếu tố quan trọng đầu tiên để đo lường mức sống. ở đây thu nhập thực tế thường được tính theo bình quân đầu người/tháng. ở Đà Nẵng, bình quân đầu người/tháng được tính theo 5 mức rất nghèo, tạm đủ, trung bình, khá giả, giàu như sau:
- Nhóm hộ nghèo :Từ 150.000đ trở xuống/đầu người/tháng
- Nhóm hộ tạm đủ :Từ trên 150.000đ - 300.000đ/đầu người/tháng
- Nhóm hộ trung bình :Từ trên 300.000đ - 600.000đ/đầu người/tháng
- Nhóm hộ khá giả :Từ trên 600.000đ-1.200.000đ/đầu người/tháng
- Nhóm hộ giàu :Từ trên 1.2000.000đ trở lên/đầu người/tháng
Sự phân chia này được dựa trên định mức chuẩn nghèo ở khu vực đô thị của Tổng cục thống kê.
Thu nhập là chỉ tiêu rất quan trọng để đo lường mức sống, song nếu căn cứ thuần tuý vào mức thu nhập bình quân đầu người/tháng thì sự nhận biết về mức sống dân cư sẽ chưa thật đầy đủ và chính xác. Một mặt do mức thu nhập của người dân sau TĐC có sự dao động rất lớn, do tình trạng thu nhập không ổn định trong môi trường hoạt động kinh tế của người dân TĐC gây ra.
Mặt khác, các hộ dân TĐC phải trang trải những chi phí lớn cho việc làm nhà, tạo lập những điều kiện vật chất cần thiết ở nơi cư trú mới nên phần đông đang là những con nợ. Phần chi tiêu cho đời sống gia đình họ trở nên eo hẹp khi phải dành dụm phần thu nhập để trả nợ.
Vì vậy, đánh giá mức sống cần phải xem xét về một số chỉ báo khác như, chi tiêu cho các nhu cầu cơ bản (ăn, mặc, ở, đi lại) và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế, vui chới giải trí,…).
ở đây, phần chi tiêu chủ yếu tập trung cho các nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc, ở, đi lại… Trong đó, số lượng các khoản chi và cơ cấu của chúng cũng là những yếu tố phản ánh mức sống và chất lượng sống của từng hộ dân cũng như của cả cộng đồng dân cư này.
Ngoài ra, nhu cầu và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, vui chới, giải trí cũng là những chỉ báo cần phải đo lường. Mức sống của cộng đồng dân chuyển cư tăng lên hay giảm đi một phần phụ thuộc mức độ thuận tiện và khả năng tiếp cận những dịch vụ xã hội này. Tỷ lệ người đánh giá mức tiếp cận của dịch vụ khá lên, như cũ hay giảm đi so với trước chuyển cư là những chỉ báo đo lường mức sống của nhóm xã hội này.
1.1.2. Nhóm xã hội
Nhóm xã hội là những bộ phận cơ bản, hữu cơ cấu thành nên xã hội. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “Nhóm xã hội là khái niệm xã hội học chỉ một tập hợp người liên kết với nhau bởi các dấu hiệu hình thức hoặc bản chất được điều chỉnh bởi những thiết chế có những giá trị chung và ít nhiều biệt lập với các tập hợp người khác” [15, tr.264].
Như vậy không phải bất cứ một tập hợp người nào cũng là một nhóm. Theo quan niệm xã hội học thì nhóm phải là một tập hợp người mà đặc trưng quan trọng nhất là họ cơ bản có chung hệ thống giá trị và chuẩn mực xã hội, nhờ đó họ có khuôn mẫu hành vi cơ bản giống nhau. Khoa học xã hội học đã dựa trên những tiêu chí này mà xem xét sự khác biệt giữa nhóm công nhân với nông dân, nông dân với trí thức hoặc nhóm phân chia theo các tiêu chí khác nhau như nghề nghiêp, tuổi tác, vùng sinh sống, giới, dân tộc,…
Nhóm là một khái niệm rất rộng và phức tạp. Theo số lượng các thành viên và điều kiện tác động lẫn nhau trong nhóm, các nhóm xã hội được chia làm nhóm nhỏ và nhóm lớn.
Nhóm lớn là nhóm mà các thành viên liên kết nhau bởi điều kiện khách quan chung, xác định sự tồn tại của họ một cách vững chắc như giai cấp, tầng lớp, dân tộc, đảng phái chính trị, nghề nghiệp ...
Nhóm nhỏ là nhóm người tồn tại trong khoảng không gian và thời gian xác định, được liên kết bởi các quan hệ thực tế của các thành viên của nhóm, thực hiện trên cơ sở giao tiếp như các đội sản xuất, lớp học, gia đình, nhóm bạn bè.
Dựa vào tính chất, mức độ tổ chức có nhóm chính thức và nhóm không chính thức... Nhóm chính thức là tập hợp người có mối liên hệ được quy chuẩn hoá thông qua những thiết chế xã hội xác định. Còn nhóm không chính thức là những nhóm hình thành tự phát trong đó các quan hệ của các thành viên nhóm không được thiết chế hoá. Hiện nay, trong nhiều ngành khoa học xã hội, thuật ngữ nhóm được dùng với hai nghĩa: nhóm quy ước và nhóm thực.
Nhóm quy ước là những nhóm do người ta lập ra theo những dấu hiệu nhất định để nghiên cứu. Chẳng hạn, trong phân tích kết quả những nghiên cứu xã hội học, chúng ta có thể phân chia các đối tượng khảo sát thành những nhóm một cách có chủ định theo: tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp...
Nhóm thực là nhóm được dùng cho tập hợp người tồn tại trong thực tế, nơi mà mọi người tập hợp cùng nhau, liên kết với nhau bằng một dấu hiệu chung nào đó [6, tr. 161].
Xã hội tác động đến cá nhân thông qua nhóm, vì vậy việc nghiên cứu ảnh hưởng của nhóm với tư cách là yếu tố trung gian giữa cá nhân và xã hội là yêu cầu cần thiết và tất yếu trong việc nhận thức về con người và xã hội.
Nhóm dân cư bị ảnh hưởng bởi các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, quy hoạch và chỉnh trang đô thị ở Đà Nẵng trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến nay là nhóm xã hội mà luận văn quan tâm nghiên cứu. Họ có đặc trưng chung là cùng bị ảnh hưởng bởi các dự án phát triển của thành phố nên phải giải toả di dời và tạo lập cuộc sống mới trong các khu TĐC.
Để có cái nhìn sâu hơn về cơ cấu xã hội của nhóm cư dân thuộc diện giải toả, TĐC, trong quá trình phân tích, tác giả cũng sẽ phân chia các đối tượng theo các nhóm quy ước như: giàu, nghèo, tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, giới tính,...
1.1.3. Giải toả, đền bù và tái định cư
1.1.3.1. Giải toả: Cũng như khái niệm đền bù, TĐC, khái niệm giải toả được sử dụng phổ biến trong các Nghị định, Quyết định, Thông tư của Chính phủ, của các bộ ngành và địa phương nhằm quy định trách nhiệm của Nhà nước, của các chủ dự án cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong diện bị ảnh hưởng bởi các dự án an ninh, quốc phòng, kinh tế - xã hội...
Theo nghĩa gốc, giải toả là sự từ bỏ, làm cho nó thoát khỏi [40, tr.726].
Khái niệm giải toả được đề cập đến trong nghiên cứu này chính là nói đến việc phá, dỡ những kết cấu cũ đang trở thành những chướng ngại để giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện cho việc triển khai các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội nào đó.
1.1.3.2. Đền bù
“Đền bù: Trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao” [40, tr.623]; hay Đền bù: “Trả lại đầy đủ, tương xứng với sự mất mát hoặc sự vất vả” [37, tr.300].
Như vậy, theo nghĩa chung nhất, đền bù là việc thay thế các tài sản bị mất bằng hiện vật hoặc bằng tiền.
Với hàm nghĩa nói trên, khái niệm đền bù (hay bồi thường) thường được sử dụng trong các văn bản luật để quy định trách nhiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phòng hay phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
ở Đà Nẵng, trong những năm qua, chính quyền thành phố đã thường xuyên tiến hành đền bù, giải phóng mặt bằng nhằm thực hiện các dự án quy hoạch phát triển đô thị. Phương thức đền bù được thành phố Đà Nẵng vận dụng trong việc giải phóng mặt bằng là hoàn trả bằng tiền khi người dân bị mất đất và bị hư hại các tài sản khác. Người dân trong diện giải toả được đền bù bằng tiền và được quyền ưu tiên mua lại đất theo khung giá mà thành phố quy định cho các khu quy hoạch (tức là các khu dành cho TĐC).
1.1.3.3. Tái định cư
- Theo nghĩa rộng, “Tái định cư là một quá trình bao gồm đền bù các thiệt hại về đất đai và tài sản di chuyển, TĐC, ổn định và khôi phục cuộc sống cho những người bị thu hồi đất để xây dựng các dự án. Tái định cư còn bao gồm các hoạt động nhằm hỗ trợ cho những người bị ảnh hưởng do việc thực hiện các dự án gây ra, khôi phục và cải thiện mức sống, tạo điều kiện phát triển các cơ sở sản xuất kinh tế, văn hoá, xã hội của hộ và cộng đồng” [14, tr.193-194].
Như vậy, TĐC là một quá trình bao hàm từ việc đền bù (bồi thường) cho các thiệt hại về tài sản và ổn định cuộc sống bị xáo trộn do dự án phát triển gây ra. Đây là quá trình giúp người dân di chuyển và hỗ trợ họ tạo lập lại nơi ở mới, khôi phục cuộc sống và đảm bảo tăng nguồn thu nhập của họ.
- Theo nghĩa hẹp, TĐC được dùng chỉ sự di chuyển của các hộ gia đình tới định cư ở nơi ở mới.
Peter R. Burbridge cũng cho rằng “Tái định cư là chỉ việc lập cư của các cá nhân, các nhóm hộ gia đình hoặc toàn bộ một làng, một xã” [3, tr.13].
Đây là cách hiểu thông thường trong đời sống xã hội, song khái niệm TĐC theo quan niệm này chỉ có hàm nghĩa chỉ nơi cư trú mới mà người dân di dời đến, tức là chỉ nói tới hình thức lập cư mà chưa chú trọng đến quá trình lập cư đó.
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả vừa sử dụng khái niệm TĐC theo nghĩa hẹp để xác định không gian nghiên cứu, vừa đồng thời và chủ yếu sử dụng khái niệm TĐC theo nghĩa rộng tức là quan tâm đến đối tượng TĐC là những cá nhân, hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi các dự án quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị với tất cả những yếu tố có liên quan như: đền bù, hỗ trợ di dời và điều kiện sinh sống tại các khu TĐC của thành phố.
1.2. Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu luận văn
1.2.1 Lý thuyết về biến đổi xã hội
Mọi xã hội đều tồn tại trong trạng thái vận động và phát triển không ngừng. Biến đổi xã hội (BĐXH) là một quá trình, một thuộc tính tất yếu của xã hội.
ở mỗi góc độ tiếp cận khác nhau, mỗi khoa học có quan điểm khác nhau về BĐXH. Theo quan điểm của xã hội học thì BĐXH là khái niệm chỉ sự khác biệt về phương diện xã hội của thời điểm hiện tại so với thời điểm trước đó của một hệ thống xã hội, trọng tâm là sự biến đổi của cơ cấu xã hội.
Sự khác biệt về phương diện xã hội được nói tới ở đây là sự thay đổi của các dạng hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội, các hệ thống phân tầng xã hội. Không phải mọi sự thay đổi nào đó diễn ra trong xã hội đều được coi là BĐXH, mà chỉ có những thay đổi có ảnh hưởng sâu sắc tới đa số cá nhân trong xã hội, sự thay đổi các cơ cấu, tổ chức, các tầng lớp xã hội... mới được coi là sự BĐXH.
Sự BĐXH rất phức tạp và có thể diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau: có biến đổi phát triển tức là diễn ra theo chiều hướng tích cực, tiến bộ, phù hợp với mong muốn của xã hội. Có biến đổi suy thoái, diễn ra theo chiều hướng xấu, xã hội lâm vào bế tắc với những xung đột, đổ vỡ, thay đổi xã hội [39, tr.255-256].
Theo một số nhà nghiên cứu thì sự BĐXH là tổ hợp của rất nhiều nguyên nhân chứ không phụ thuộc duy nhất vào một yếu tố đơn lẻ. Sự tương tác phức tạp của nhiều yếu tố - cả yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài đã tạo nên sự biến đổi. Các nhà lý thuyết hiện đại chú trọng các yếu tố: môi trường vật chất (biến động của thiên nhiên), công nghệ, sức ép dân số, giao lưu văn hoá... để lý giải những BĐXH.
Quan niệm biến đổi tổng hợp còn khẳng định sự biến đổi có thể đi lên, có thể là đi xuống, thậm chí bị huỷ diệt. Sự biến đổi cũng thường mang tính chu kỳ. Trên thực tế, mỗi lý thuyết đều có quan điểm luận giải khác nhau về sự biến đổi xã hội mà trong đó mỗi lý thuyết đều có hạt nhân hợp lý về nhận thức cũng như dự báo quá trình biến đổi xã hội. Để nhận thức một cách đầy đủ quá trình biến đổi xã hội nói chung và biến đổi mức sống của người dân sau TĐC nói riêng không thể không chú ý tới các yếu tố hợp lý này. Luận văn sẽ cố gắng tích hợp các yếu tố hợp lý nói trên để có cái nhìn đa diện, đa chiều về những yếu tố tác động đến mức sống và dự báo xu hướng biến đổi mức sống của người dân trong quá trình đô thị hoá.
Theo lý thuyết về sự BĐXH có hai quá trình có thể xảy ra: sự biến đổi từ từ- tiến hoá và sự biến đổi nhảy vọt- cách mạng. Nghiên cứu những biến đổi về mức sống của nhóm dân chuyển cư ở một thành phố như Đà Nẵng có thể xem xét sự biến đổi dưới cả hai quá trình này song sự biến đổi này có thể xem xét nhiều hơn dưới góc nhìn tiến hoá.
Các nhà xã hội học đại diện tiêu biểu cho quan điểm tiến hoá là A. Comte (1798-1857) và H.Spencer (1820-1883). Các ông cho rằng, BĐXH là sự tăn._.g trưởng và phát triển của xã hội (cả vật chất lẫn trí tuệ) cùng năng suất lao động xã hội. Đó là quá trình tiến hoá tất yếu của mọi xã hội cùng với quá trình tích luỹ tri thức và khoa học công nghệ của con người [39, tr.256].
Theo A. Comte, mọi xã hội đều tuần tự biến đổi qua ba giai đoạn: thần học, siêu hình và thực chứng. A.Comte cho rằng trí tuệ là động lực, sức mạnh duy trì và phát triển xã hội; đến lúc nào đó khoa học sẽ thống trị xã hội. Như vậy có thể dự báo được sự BĐXH dựa trên sự phát triển của tri thức nhân loại.
H.Spencer thì cho rằng, xã hội sẽ phát triển từ một xã hội có cấu trúc và trình độ giản đơn, thấp kém tiến dần lên các mức phát triển phức tạp, cao hơn. Trong quá trình này, một xã hội có thể biến đổi một cách tích cực (thích ứng) hay tiêu cực (không thích ứng) và sự lựa chọn này sẽ gắn kết với số phận của nó [22, tr.4], nghĩa là các cá thể, các phân hệ, các nhóm xã hội yếu kém không thích nghi được với tiến trình phát triển xã hội sẽ bị, loại bỏ dần.
Như vậy, theo quan điểm này thì BĐXH là “sự tiến hoá một chiều” [6, tr.252], tất cả các xã hội đều tiến hoá từ hình thức đơn giản đến phức tạp, hình thức sau bao giờ cũng tiến xa hơn những hình thức trước của nó.
Nhìn chung, hạt nhân hợp lý của lý thuyết này là khẳng định đặc trưng cơ bản của BĐXH, đó là tiến bộ xã hội. Đô thị hoá nhằm kiến tạo lại môi trường sống dân cư là hoạt động mang tính tất yếu của sự phát triển xã hội. Xem xét sự biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau TĐC ở Đà Nẵng phải được đặt trong quá trình vận động, phát triển chung đó mới nhận thức được bản chất vấn đề.
ở đây, biến đổi mức sống, một mặt phải xem xét đầy đủ các yếu tố tạo thành về cả vật chất lẫn tinh thần và mặt khác là các chiều hướng biến đổi thuận và nghịch của quá trình này. Trên cơ sở đó mà đánh giá tổng hợp sự biến đổi.
1.2.2. Lý thuyết xung đột
Luận điểm gốc của thuyết xung đột cho rằng, do có sự khan hiếm các nguồn lực (đất đai, nguyên vật liệu, tiền tài, địa vị ...) và do sự phân công lao động và sự bất bình đẳng trong phân bổ nguồn lực, quyền lực nên quan hệ giữa các cá nhân, các nhóm xã hội luôn nằm trong tình trạng mâu thuẫn, cạnh tranh với nhau vì lợi ích [17, tr. 232]. Theo quan niệm của Mác và Ăngghen thì “toàn bộ sự phát triển của xã hội loài người từ ngày đầu của thời đại văn minh cho đến tận ngày nay diễn ra trong một mối mâu thuẫn thường xuyên giữa giai cấp bóc lột, áp bức với giai cấp bị bóc lột, bị áp bức” [16, tr.232]. Nghĩa là, chính mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp là nguồn gốc và động lực của sự biến đổi, phát triển lịch sử xã hội loài người.
Các lý thuyết xung đột đã giải thích BĐXH như là hệ quả của cuộc đấu tranh giành ưu thế giữa các giai cấp, các nhóm xã hội khác nhau trong những xã hội có phân chia giai cấp. Đặc biệt lý thuyết macxit về BĐXH mang tính tích cực hơn khi nhấn mạnh khả năng của con người có thể ảnh hưởng tới số phận riêng của họ thông qua các hoạt động chính trị - xã hội. Nhất là khi cách mạng khoa học và công nghệ thông tin phát triển ở trình độ cao đã làm cho vai trò, động lực của con người càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Quan điểm xung đột rõ ràng cho ta một cách nhìn sâu sắc, khi xem xét và giải quyết các mâu thuẫn, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nhóm xã hội với nhau, giữa các tổ chức và cá nhân trong vấn đề phân chia lợi ích. Với cộng đồng dân cư phải di dời, giải toả, lý thuyết xung đột giúp chúng ta đi sâu, xem xét những xung đột trong bản thân người dân TĐC trước những lựa chọn quyết định có liên quan đến đời sống gia đình, đồng thời còn nhằm lý giải sự chênh lệch về lợi ích giữa người dân bị thu hồi đất phải di dời với lợi ích của các chủ dự án.
Chuyển đổi nơi cư trú tất yếu dẫn đến chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, thu nhập và như vậy có sự phân định mức sống giữa các nhóm xã hội khác nhau. Có thể khẳng định, tính năng động của hộ gia đình phần nào ảnh hưởng đến mức sống. Những hộ năng động, có kiến thức, có năng lực, thích ứng nhanh với môi trường mới, lựa chọn được phương thức làm ăn mới thì sớm ổn định cuộc sống. Điều này, một phần nào, làm phân hoá giàu nghèo tăng và cũng làm tăng sự bất bình đẳng giữa các nhóm hộ có cơ cấu nghề nghiệp khác nhau. Đây là những yếu tố giúp cho việc nhìn nhận một cách sâu sắc hơn những biến đổi diễn ra trong cộng đồng dân chuyển cư đã được nghiên cứu.
1.2.3. Tiếp cận theo lý thuyết hệ thống
Lý thuyết hệ thống được áp dụng trong nghiên cứu xã hội đã coi xã hội là một hệ thống với tập hợp những yếu tố liên hệ với nhau, tạo thành sự thống nhất ổn định và tính chỉnh thể. Hệ thống này có những thuộc tính và những quy luật tích hợp [5, tr.20]. Nguyên lý tính chỉnh thể là nguyên lý xuất phát đồng thời là nguyên lý trung tâm của lý thuyết hệ thống. Nó cho thấy đặc trưng cơ bản nhất của hệ thống là tính thống nhất chỉnh thể. Tính thống nhất của hệ thống còn là sự thống nhất trong đa dạng hay gọi đó là nguyên lý tính phức thể. Hệ thống là một thể phức tạp, đa cấu trúc, đa chức năng, phức tạp về các loại quan hệ. Trong cấu trúc có hệ thống đóng khác với hệ thống mở; hệ thống thuần nhất khác với hệ thống không thuần nhất; Hệ thống điều khiển với hệ thống bị điều khiển. Còn trong chức năng có những phạm trù thể hiện hành vi, hành động, hoạt động nhằm duy trì hệ thống; trong quan hệ có quan hệ vĩ mô khác quan hệ vi mô, quan hệ bên trong (nội tại) khác với quan hệ bên ngoài...
Lý thuyết hệ thống trong xã hội học gắn liền với tên tuổi Talcott Parsons - nhà xã hội học người Mỹ.
Về mặt lý thuyết, Parsons xem xét hệ thống trong một trục toạ độ 3 chiều: cấu trúc - chức năng - kiểm soát. Tức là hệ thống nào cũng có cấu trúc của nó, hệ thống luôn nằm trong trạng thái động vừa tự biến đổi vừa trao đổi với môi trường xung quanh, hệ thống có khả năng điều khiển và tự điều khiển [17, tr.204].
Parsons đã đưa ra sơ đồ nổi tiếng về hệ thống chức năng xã hội, viết tắt là AGIL. Trong đó gồm bốn loại yêu cầu chức năng hợp thành: (A) thích ứng với môi trường; (G) Hướng đích - huy động các nguồn lực để đạt mục tiêu; (I) Liên kết, phối hợp các hoạt động; (L) Duy trì khuôn mẫu để tạo ra sự ổn định , trật tự.
Tương ứng với sơ đồ trên, trong hệ thống xã hội, người ta có tiểu hệ thống kinh tế; tiểu hệ thống chính trị; tiểu hệ thống pháp luật và tiểu hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội được quy chuẩn thông qua các thiết chế gia đình, nhà trường, tổ chức văn hoá, tôn giáo [17, tr.204].
Tương quan và tương tác AGIL sẽ đảm bảo trật tự, ổn định của hệ thống xã hội.
Với những đặc trưng, tính chất nói trên, chúng ta có thể vận dụng thuyết hệ thống vào nghiên cứu sự biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau TĐC.
Trước hết coi mức sống như là tổng hợp của nhiều yếu tố thống nhất. Tính chỉnh thể của mức sống thể hiện qua các yếu tố cấu thành như mức sống vật chất và mức sống tinh thần. Trong đó mức sống vật chất thể hiện ở mức ăn, ở, mặc, đi lại, học tập, chăm sóc sức khoẻ,… và mức sống tinh thần thể hiện ở mức hưởng thụ các thành quả về văn hoá, nghệ thuật, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí và các quyền tự do chính trị mà người ta được hưởng.
Đến lượt nó, mức sống lại chịu tác động của tổ hợp các yếu tố kinh tế xã hội như nghề nghiệp, gia đình, địa vị xã hội, giới, học vấn và môi trường xã hội. Nghiên cứu sự biến đổi về mức sống cần phải đặt trong tổng thể hệ thống những yếu tố này.
Ngoài ra còn phải xem xét mức sống như một phạm trù có tính hệ thống luôn luôn biến đổi và ngày càng được nâng cao. Khi xã hội phát triển, mức sống cũng chuyển động theo đúng khả năng của mỗi cá nhân và gia đình. Sự hướng đích của mọi sự phát triển là tạo ra sự cân bằng, hài hoà trong hệ thống mức sống của từng nhóm xã hội và ảnh hưởng của nó đến các phương diện khác của xã hội.
Tóm lại, sự biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau TĐC sẽ được lý giải phần nào theo các nguyên lý của hệ thống, và thông qua đó để phân tích những đặc điểm của sự biến đổi và những nhân tố tác động đến quá trình đó.
1.2.4. Tiếp cận theo lý thuyết di dân
Đã có nhiều quan niệm khác nhau về di dân, tuy nhiên có thể hiểu di dân theo hai cấp độ sau đây:
Theo nghĩa rộng: Di dân là sự di chuyển của người dân trong không gian và thời gian nhất định. Theo quan niệm này thì di dân là khái niệm chỉ mọi sự vận động, dịch chuyển của dân cư.
Theo nghĩa hẹp: Di dân là sự di chuyển của dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này sang đơn vị lãnh thổ khác, nhằm xác lập nơi cư trú mới trong một khoảng thời gian nhất định (Liên hợp quốc).
Như vậy, theo quan niệm này thì di dân được hiểu là sự di chuyển dân cư gắn với việc thiết lập nơi cư trú mới. Đây cũng là quan niệm mà tác giả sử dụng để nghiên cứu quá trình người dân di chuyển để tái lập lại nơi cư trú mới trong quá trình thực hiện chủ trương di dời, giải toả nhằm chỉnh trang đô thị ở Đà Nẵng.
Có nhiều cách phân loại các hình thức di dân khác nhau. Theo độ dài thời gian cư trú, có các hình thức di dân lâu dài, tạm thời và chuyển tiếp.
Theo khoảng cách người ta phân biệt di dân xa hay gần, giữa nơi đi và nơi đến. Trên bình diện chung có thể chia thành di dân quốc tế và di dân nội địa. ở hình thức di dân nội địa, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu có thể chia ra di dân nội vùng và di dân ngoại vùng.
Theo tính pháp lý, người ta phân biệt di dân hợp pháp hay không hợp pháp; di dân tự do hay có tổ chức; di dân tình nguyện hay bắt buộc. Tuỳ vào mức độ can thiệp của chính quyền mà người ta phân chia di dân theo loại này hay loại khác.
Di dời giải toả và TĐC đang là chủ trương lớn của thành phố Đà Nẵng nhằm thực hiện quy hoạch, chỉnh trang đô thị (CTĐT). Đây cũng là xu hướng tất yếu của quá trình đô thị hoá theo chiều sâu nhằm hướng tới một xã hội văn minh hiện đại.
Quá trình di dời giải toả, tái lập nơi cư trú mới ở các khu TĐC của một bộ phận dân cư ở Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay là hình thức di dân lâu dài, thuộc diện di dân nội vùng có tổ chức, có kế hoạch. Người dân di chuyển nơi ở trong phạm vi thành phố, theo kế hoạch giải toả di dời mà thành phố đã định sẵn.
Di dân vốn mang bản chất kinh tế - xã hội sâu sắc, vì vậy để quá trình di dân và TĐC đạt hiệu quả mong muốn thì vấn đề đặt ra là phải chú trọng đến các mục tiêu kinh tế và xã hội. Do đó, động cơ di dân đến các khu tái định được luận văn đặc biệt quan tâm xem xét.
Về các nguyên nhân di dân chủ yếu, trên cơ sở quan sát các hiện tượng di dân trên thế giới, nhiều lý thuyết di dân đã được khái quát, trong đó phải kể đến lý thuyết “lực hút - lực đẩy” do Ravenstein (1889) là người đầu tiên đưa ra.
Theo GS.TS. Tống Văn Đường thì khi phân tích các dòng di dân ở nước Anh, Raventein cho rằng các yếu tố “lực hút” quan trọng hơn các yếu tố “lực đẩy”. Ông nói rằng: “Các luật lệ tồi hoặc ngột ngạt, thuế khoá nặng nề, khí hậu không thuận hoà, môi trường xã hội xung quanh không cởi mở, thậm chí có sự cưỡng bức (trong buôn bán, vận chuyển nô lệ), tất cả những điều đó đã và đang tạo ra các hình thức di dân, tuy nhiên không có loại hình thức di dân nào có thể so sánh với khát vọng tiềm ẩn trong mỗi người đàn ông vươn lên “làm tốt hơn” cuộc sống của chính họ về phương diện vật chất [10, tr.86]. Nghĩa là Raventein cho rằng khát vọng vươn lên phía trước, hướng tới điều kiện sống tốt hơn, thuận lợi, đó mới chính là thực chất động cơ di dân của phần lớn dân di cư.
Ngoài ra còn có các lý thuyết di dân mới lý giải các nguyên nhân di dân. Chẳng hạn một vài lý thuyết điển hình như mô hình phân tích “chi phí - lợi ích” trong quyết định di dân. Người di cư sẽ cân nhắc các yếu tố lực đẩy và các yếu tố lực hút và họ sẽ di cư nếu như nhận thấy lợi ích có được nhiều hơn chi phí. Chẳng hạn như anh thiếu việc làm hay thất nghiệp, mức sống thấp trong khi đó ai di dân đến nơi ở mới có việc làm tốt hơn, thu nhập cao hơn... thì người ta dễ dàng thực hiện quyết định di dân. Có thể nói, quyết định di dân còn phụ thuộc vào một số biến số khác nữa, tuy nhiên trong đó các biến số kinh tế là chủ đạo lý giải nguyên nhân di dân, sau đó là các cơ hội, phát triển cá nhân và ý thức cộng đồng.
Như vậy các lý thuyết di dân đều chỉ ra yếu tố lợi ích, đặc biệt lợi ích kinh tế là động cơ chính yếu tạo ra “lực hút” các dòng di cư đến các khu định cư mới. Đây chính là căn cứ để đi vào phân tích sự biến đổi mức sống của người dân sau TĐC, đồng thời cũng là cơ sở khoa học để tác giả đề xuất các giải pháp nhằm ổn định và nâng cao mức sống cho người dân sau TĐC.
Đời sống của người dân ở các khu TĐC sớm ổn định và được nâng cao là yếu tố quan trọng, quyết định sự ổn định chính trị - xã hội và là tiền đề để thúc đẩy nhanh tiến trình phát triển đô thị hoá theo chiều sâu của Đà Nẵng nói riêng và cả nước nói chung trong những năm tới.
1.3. Quan điểm chính sách của Đảng, Nhà nước về đô thị hoá và tái định cư
1.3.1. Quan điểm về đô thị hoá
Đô thị hoá là quá trình mở rộng đô thị, biến nông thôn thành thành thị tạo môi trường sống theo hướng văn minh, hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển của cá nhân và xã hội. Do vậy, đô thị hoá vừa là xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử xã hội, vừa là thước đo trình độ phát triển của mỗi quốc gia, mỗi địa phương.
Lịch sử hàng ngàn năm của nhân loại đã chứng minh rằng các đô thị thường đóng vai trò là các trung tâm kinh tế, chính trị, thương mại, văn hoá và xã hội, là động lực của sự tiến bộ xã hội. Các đô thị luôn giữ vai trò là đầu tàu dẫn dắt các cộng đồng nông thôn đi theo mình trên con đường tiến bộ và văn minh. Theo dự báo của Liên hợp quốc, đến năm 2007, trên trái đất chúng ta sẽ có tỷ lệ dân số sống ở các đô thị vượt quá con số 50%, tức là phần lớn nhân loại đang và sẽ sống trong môi trường đô thị.
Nhận thức sâu sắc quy luật vận động phát triển của lịch sử, đồng thời thấy được vai trò đầu tàu của đô thị trong việc phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm coi trọng đến chiến lược đô thị hoá và lấy quan điểm phát triển bền vững với mục tiêu vì con người, lấy con người làm trung tâm, xác định “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển” làm trọng.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: “Sớm quy hoạch mạng lưới đô thị lớn, vừa và nhỏ trong toàn quốc phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển đô thị đi đôi với việc xây dựng đồng bộ và quản lý các công trình công cộng (điện, cấp thoát nước, cây xanh...) [7, tr.214]. Nghĩa là không thể để quá trình đô thị hoá diễn ra một cách tự phát, xen lẫn giữa cái được, cái mất mà phải dựa trên cơ sở đã được kế hoạch hoá trong chiến lược phát triển, lâu dài của đất nước.
Theo Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII), phương hướng phát triển đô thị nước ta là: "cải tạo, mở rộng, nâng cấp đô thị hiện có. Xây dựng Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ thành những trung tâm lớn song tránh tập trung quá đông dân cư. Nâng cấp một số đô thị loại vừa, trước hết là các đô thị nằm trên trục đường giao thông chính, ở các cửa khẩu, các địa bàn kinh tế trọng điểm”. Đô thị hoá phải gắn liền với mục tiêu là “tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân” [8, tr.90].
Trong quy hoạch phát triển mạng lưới đô thị ở Việt Nam, Đà Nẵng được xác định là thành phố trung tâm về kinh tế, chính trị - văn hoá - xã hội của các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Kể từ khi trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương từ 1997, cấp uỷ và chính quyền thành phố đã chủ trương đẩy mạnh công tác quy hoạch, tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng một cách đồng bộ, xây dựng thành phố theo hướng văn minh hiện đại.
Ngay từ năm 1997, các cơ quan chức năng đã đưa ra quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2010 với nội dung: xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một đô thị hiện đại, văn minh, phát triển trong thế ổn định và bền vững, có vị trí trung tâm của miền Trung và Tây Nguyên về công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, tài chính, bưu chính viễn thông, giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ trong mối quan hệ với cả nước, khu vực Asean, mà trước tiên là các lãnh thổ phía tây: Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma [35, tr.35].
Ngày 16/10/2003, Bộ Chính trị ban hành nghị quyết 33/NQ-TW về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước và đã xác định: Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ, là thành phố Cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính viễn thông và tài chính - ngân hàng; một trong những trung tâm văn hoá - thể thao, giáo dục - đào tạo về khoa học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và của cả nước.
Nghị quyết nói trên của Bộ Chính trị thực sự là một sự định hướng chiến lược cho Đà Nẵng phát triển mạnh trong tương lai không xa.
1.3.2.Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về tái định cư
Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về TĐC được thể hiện qua các văn bản pháp lý liên quan đến đền bù thiệt hại và TĐC.
Nghị định 151 của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 14/4/1959 quy định về thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất là văn bản pháp quy đầu tiên liên quan đến việc đền bù và TĐC bắt buộc ở Việt Nam. Nghị định này đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản trong việc trưng dụng ruộng đất của nhân dân cho việc xây dựng các công trình do Nhà nước quản lý.
Tuy nhiên, trước năm 1992, đất đai chưa được giao cho các hộ gia đình sử dụng ổn định và lâu dài nên khi cần Nhà nước chỉ thu hồi lại mà không nhất thiết phải đền bù hoặc chỉ đền bù cho chính quyền địa phương hay tập thể đang sử dụng đất, mức đền bù các tài sản bị thiệt hại không được quy định rõ ràng mà giải quyết theo thoả thuận.
Sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 và Luật Đất đai năm 1993 và 2003 đã đặt cơ sở nền tảng pháp lý cho chính sách đền bù, TĐC ngày càng đi dần đến sự hoàn chỉnh hơn để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đời sống.
Bản Hiến pháp sửa đổi được thông qua năm 1992 đảm bảo quyền dân chủ của công dân, quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất đai và tài nguyên, quyền sử dụng đất của các tổ chức và cá nhân; đặc biệt Hiến pháp 1992 còn bao gồm việc công nhận và bảo vệ quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tư nhân về tài sản và sản xuất.
Luật Đất đai năm 1993 và Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 là những văn kiện quan trọng làm cơ sở cho việc thực hiện đền bù và TĐC cho những người bị mất nơi ở một cách không tự nguyện.
Các Luật Đất đai nói trên đã xác định: đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Các tổ chức và cá nhân không thể sở hữu đất đai nhưng lại được giao quyền sử dụng đất và điều này lại tạo ra cơ sở pháp lý cho quyền đền bù khi Nhà nước thu hồi đất.
Các đạo luật nói trên thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc thống nhất quản lý đảm bảo lợi ích chính đáng, hài hoà giữa Nhà nước với người dân, đồng thời vừa là cơ sở để xác lập hệ chính sách đền bù, TĐC... Hàng loạt các nghị định, thông tư được ban hành như: Nghị định 60/CP (1994): Quyền sở hữu đô thị; Nghị định 87/CP (1994): Quy định về khung giá các loại đất; Nghị định 90/CP (1994): Đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất; Thông tư 15/LĐ-TB-XH (1995): Trợ cấp cho các gia đình chuyển đến vùng kinh tế mới; Nghị định 22/CP (1998) về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; đặc biệt là Nghị định 197/CP (2004) về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất đã và đang bảo đảm quyền lợi thiết thực cho người dân. Hệ thống các văn bản pháp quy nói trên đang tiến dần tới một chính sách TĐC hoàn chỉnh. Nếu các văn bản trước năm 1998 chủ yếu chú trọng đến việc đền bù cho các thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất thì từ Nghị định 22/1998/NĐ-CP về sau, đặc biệt là Nghị định 197/2004/NĐ-CP đã có thêm nhiều điều khoản quy định về sự hỗ trợ cũng như lập khu TĐC để tạo nơi ở mới và ổn định đời sống và sản xuất cho người dân sau TĐC. Trong các nghị định này, chính sách hỗ trợ và TĐC đều hướng tới mục tiêu bồi thường, hỗ trợ thoả đáng (tất nhiên là tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng địa phương) quyền lợi của người dân, từ khâu bồi thường các thiệt hại về đất đai, tài sản đến khâu hỗ trợ di chuyển, ổn định đời sống và sản xuất ở nơi TĐC.
Từ năm 1998 đến nay trong các nghị định của Chính phủ đã được bổ sung thêm 2 chương mới là “chính sách hỗ trợ” và “tái định cư”.
Về chính sách hỗ trợ, trong các nghị định, Chính phủ đã có quy định cụ thể mức hỗ trợ về di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất; hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm và các hỗ trợ khác nhằm giúp người dân TĐC sớm ổn định thu nhập và đời sống.
Về TĐC, các điều 28, 29, 30, 31 của Nghị định 22/1998/NĐ-CP đã quy định về việc lập và tổ chức khu TĐC tập trung hoặc phân tán cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương; khu TĐC phải xây dựng phù hợp với quy hoạch, tiêu chuẩn và quy chuẩn xây dựng; trước khi bố trí đất ở cho các hộ gia đình, cá nhân, khu TĐC phải được xây dựng cơ sở hạ tầng thích hợp, phù hợp với thực tế quy hoạch về đất ở, đất xây dựng của địa phương. Đến Nghị định 197/2004/NĐ-CP, việc lập và bố trí TĐC lại được quy định một cách cụ thể, chi tiết hơn. Đặc biệt đối với “điều kiện bắt buộc đối với khu tái định cư” được điều 35 của Nghị định quy định một cách chặt chẽ, có lợi cho cuộc sống của người dân sau TĐC như sau:“Trước khi bố trí đất ở cho các hộ gia đình, cá nhân, khu TĐC phải được xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ đảm bảo đủ điều kiện cho người sử dụng tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ” [4, tr.35]. Điều 36 còn quy định “các biện pháp hỗ trợ sản xuất...” Như vậy, cùng với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ngày càng mạnh mẽ, nhu cầu di dời giải toả để thực hiện các dự án phát triển ngày càng tăng thì hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề TĐC cũng ngày càng được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hơn. Mọi quan điểm, chính sách đều hướng đến mục tiêu phát triển đất nước, mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho cá nhân và cộng đồng.
Trên cơ sở quan điểm, chính sách chung về TĐC của Đảng và Nhà nước, UBND thành phố Đà Nẵng đã cụ thể hoá bằng những Quyết định 4503/1998; Quyết định 170/1999; Quyết định 141/2002; Quyết định 122/2003 và Quyết định 209/2004 ban hành quy định tạm thời về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Các chế độ, chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC được thành phố điều chỉnh theo hướng ngày càng đảm bảo lợi ích thiết thực cho đối tượng bị ảnh hưởng bởi dự án. So với các quyết định ban hành tư năm 2003 về trước, Quyết định 209/2004 đã có những quy định đem lại lợi ích hài hoà giữa Nhà nước và nhân dân. Ví dụ, trước đây giá đất trong khu TĐC nhà nước bán lại cho người dân quá cao so vơi giá mà người dân được đền bù khi giải toả thì giờ đây đã được điều chỉnh phù hợp hơn; Hay chính sách hỗ trợ TĐC (hỗ trợ di chuyển,thuê nhà ở, đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp…)đã được thành phố quy định một cách rõ ràng,cụ thể. Đặc biệt, trong Quyết định 209/2004, thành phố còn có chính sách phân thêm các lô đất phụ cho những hộ gia đình có diệm tích đất thu hồi lớn và đông nhân khẩu(tối đa là 5 lô).
Các quyết định nêu trên đều mang tinh thần chỉ đạo là hướng đến thực hiện “Chủ trương của thành phố là tất cả các hộ dân sau khi giải toả, TĐC phải có cuộc sống tốt hơn trước về mọi mặt, tuyệt đối không để hộ nào rơi vào cuộc sống khó khăn hơn”. Đây là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để đi sâu phân tích thực trạng những biến đổi về mức sống của nhóm dân phải di dời, giải toả sau TĐC ở thành phố Đà Nẵng.
Chương 2
thực trạng BIếN ĐổI về MứC SốNG CủA NHóM DÂN CƯ SAU TáI ĐịNH CƯ ở THàNH PHố Đà NẵNG
2.1. thành phố Đà Nẵng và quá trình di dời giải toả, tái định cư
2.1.1. Khái quát chung về thành phố Đà Nẵng
Đà Nẵng là thành phố biển miền Trung, phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía Nam và Tây giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp biển Đông.
Đà Nẵng là đầu mối giao thông quan trọng, với hệ thống cảng biển, sân bay quốc tế, đường sắt, đường ô tô được nâng cấp ngày càng hoàn chỉnh. Bưu chính viễn thông được hiện đại hoá tiếp cận được với trình độ khu vực và thế giới. Có thể nói Đà Nẵng đang hội tụ đầy đủ những nhân tố để trở thành đầu mối trung chuyển, quá cảnh, giao lưu hàng hoá dịch vụ ở trong nước và quốc tế. Hiện tại, Đà Nẵng có đường bay thẳng quốc tế tới BăngKok, Taiwan, Hong Kong, Siemriep, Vientian và Singapo. Ngoài hai tuyến đường huyết mạch, quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam nối liền hai miền đất nước thì Đà Nẵng còn nằm trên con đường xuyên á (14B), con đường thông thương với các nước bạn Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma. Trong tương lai gần, ngoài việc đáp ứng nhu cầu trao đổi, thông thương buôn bán giữa các vùng kinh tế trong nước thì Đà Nẵng còn là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển Đông của một số quốc gia trong khu vực và sẽ trở thành đầu mối quan trọng về vận chuyển và vận tải quốc tế của miền Trung - Tây Nguyên và các nước thuộc lưu vực sông MêKông. Đây chính là lợi thế cho Đà Nẵng mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác kinh tế - xã hội với các nước trên thế giới và khu vực, là tiền đề quan trọng để phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt phát triển kinh tế biển, từng bước đưa Đà Nẵng trở thành động lực cho vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Ngoài ra, với ưu thế vừa nằm liền kề với khu kinh tế mở Chu Lai, khu kinh tế Dung Quất, lại vừa nằm giữa quần thể di sản văn hoá thế giới, gồm cố đô Huế, phố cổ Hội An và khu di tích Mỹ Sơn nên Đà Nẵng càng có nhiều lợi thế so sánh và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, con người Đà Nẵng thông minh, chất phác, cần cù lao động và luôn nêu cao truyền thống cách mạng. Điều này đã và đang trở thành yếu tố quyết định sự thăng tiến của Đà Nẵng.
Thành phố Đà Nẵng hiện có diện tích đất tự nhiên: 1255,0km2; dân số: 754.500 người; thành phố có 5 quận nội thành và hai huyện (huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa).
Đà Nẵng có đủ tiềm năng và lợi thế để phát triển các ngành kinh tế, nhất là công nghiệp, cảng biển, thương mại, dịch vụ - du lịch và nông ngư nghiệp. Từ khi trở thành đơn vị hành chính trực thuộc trung ương (năm 1997), thành phố Đà Nẵng đã có vị thế mới, kinh tế Đà Nẵng có nhịp độ phát triển khá liên tục. GDP tăng trưởng bình quân hàng năm 10,19%. Năm 2004, tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (GDP) đạt hơn 5.463 tỷ đồng, tăng 13,3%; GDP bình quân đầu người ở mức 12,54 triệu đồng/người/năm [30, tr.13]. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thành phố đã giảm được tỷ lệ hộ nghèo từ 3,55% trên tổng số hộ dân cư tính đến cuối năm 1999 xuống còn 1,95% năm 2003 và 0,13% năm 2004. Kết quả đó là sự nỗ lực lớn của Đảng bộ, chính quyền thành phố trong việc khai thác các tiềm năng, lợi thế của thành phố.
Để nâng cao năng lực sản xuất cho nền kinh tế, trong những năm qua Đà Nẵng đã đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất, nâng cấp, chỉnh trang đô thị theo hướng hiện đại hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng không gian đô thị.Trong 5 năm (1997-2002), tổng số vốn đầu tư phát triển tăng 4,7 lần và chiếm 58,3% tổng chi ngân sách. Hàng loạt các công trình, dự án lớn như: cầu Sông Hàn, khu đô thị mới Bạch Đằng Đông, các khu TĐC,... đã được thực hiện. Đà Nẵng đã và đang tiếp tục chú trọng tập trung vào công tác xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị, phát huy tiềm năng thế mạnh của thành phố trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
2.1.2. Quá trình di dời giải toả và tái định cư ở Đà Nẵng
Một trong những thành quả rõ nét nhất ở thành phố Đà Nẵng trong những năm qua là công tác xây dựng cơ sở hạ tầng gắn liền với quy hoạch và chỉnh trang đô thị, khai thác nguồn lực trong dân, khai thác có hiệu quả quỹ đất để phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng không gian đô thị.
Trước 1997, mặc dù là trung tâm hành chính- kinh tế - xã hội của một tỉnh lớn là Quảng Nam - Đà Nẵng, song thành phố Đà Nẵng lúc đó chỉ có 3 quận nội thành mà trong đó chỉ có quận I (Hải Châu) là thực chất mang tính phố phường. Còn các quận II, III thì đằng sau vài dãy phố nghèo là tình trạng bán nông, bán thị với những xóm làng xen lẫn giữa những vũng đầm hoang vu.
Sau 1997, “thành phố chủ trương vừa chú trọng phát triển sản xuất kinh doanh vừa tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cấp và chỉnh trang đô thị” [1]. Với quyết sách đúng đắn, táo bạo của Đảng bộ cùng với chủ trương hợp lòng dân, biết phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, Đà Nẵng đã và đang thực hiện tiến trình đô thị hoá thành công trên cả quy mô và chất lượng. Với việc hình thành các khu dân cư mới như Thạc Gián, Vĩnh Trung, Bạch Đằng Đông, Nam cầu Tuyên Sơn... không gian đô thị thành phố không còn bó hẹp ở một số phường của quận Hải Châu và Thanh Khê như trước.Đến nay Đà Nẵng được mở rộng thành 5 quận nội thành với quy mô rộng lớn, chất lượng cơ sở hạ tầng tương xứng với đô thị loại I. Trong 8 năm qua, thành phố đã vận động gần 65.000 hộ gia đình, nghĩa là hơn một phần ba cư dân toàn thành phố chịu giải toả di dời, lấy đất xây dựng những công trình công cộng, phúc lợi [30]. Theo báo cáo của lãnh đạo Phòng Quản lý đô thị thuộc UBND thành phố thì đến cuối 2004, thành phố đã triển khai thực hiện trên 100 dự án có liên quan đến giải toả, di dời dân cư. Đồng hành với quá trình giải toả là việc quy hoạch kiến tạo nơi ở mới theo tiêu chuẩn đô thị văn minh, hiện đại. Đến nay đã có hơn 100 khu TĐC, khu chung cư được xây dựng để di chuyển, ổn định chỗ trở cho hàng chục ngàn hộ dân trong diện giải toả để chỉnh trang đô thị. Nhiều khu nhà chồ (nhà ở tạm bợ của ngư dân ven sông Hàn) được xoá sạch trong một thời gian ngắn. Những xóm nghèo nhếch nhác sống lay lắt bên những vùng đầm hôi thối được thay bằng những khu phố sạch, đẹp. ở những khu TĐC, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội được nâng cấp và xây dựng mới một cách khá đồng bộ [1]. Những thành công to lớn trong công tác đô thị hoá đã tạo tiền đề quan trọng để Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 145/2003/QĐ-TTg ngày 15/7/2003 công nhận thành phố Đà nẵng là đô thị loại I.
Một trong những thành quả to lớn của thành phố trong những năm qua là việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và._. cần chú ý giải quyết việc làm, ổn định đời sống trước mắt, tạo điều kiện phát triển về lâu dài. Song với những gia đình chủ hộ là nữ, tuy cơ bản trước mắt thu nhập tạm ổn định, song lâu dài, khả năng nâng cao mức sống là khó khăn. Điều này đòi hỏi nhà nước cần có chính sách ưu tiên hơn với những hộ có chủ hộ là nữ, tạo điều kiện cho những gia đình này phát triển về lâu dài.
Bốn là, trong quá trình di dời, TĐC, những hộ gia đình có chủ hộ ở những nhóm tuổi khác nhau, cơ may cũng khá khác nhau. Do vậy, thực hiện chính sách di dời, TĐC cần chú ý đến vấn đề này. Cụ thể cần đặc biệt chú ý giúp đỡ những hộ gia đình có chủ hộ trong khoảng tuổi 40-55 để họ tìm được việc làm, tạo thu nhập. Đây là nhóm chủ hộ với khả năng chuyển đổi nghề nghiệp thấp, tính năng động không còn cao. Do đó tạo điều kiện cho số này, giúp họ có việc làm thích hợp, nâng cao thu nhập là điều cần chú ý trong thực hiện chính sách với dân TĐC.
Thực tế nói trên càng chứng tỏ việc lập luận chứng kinh tế - xã hội một cách khoa học thấu đáo có tính nguyên tắc bắt buộc trước khi triển khai một dự án TĐC.
3.3.2. Quá trình triển khai thực hiện việc di dời, giải tỏa, tái định cư phải được tổ chức một cách đồng bộ có hệ thống
- Trước hết phải tổ chức thực hiện một cách đồng bộ và hệ thống từ khâu đền bù, giải toả đến việc bố trí nơi ở sau TĐC và giải quyết việc làm cho người dân. Mục tiêu hàng đầu mà chính quyền thành phố Đà Nẵng xác định khi thực hiện dự án TĐC là đảm bảo tính ổn định về việc làm, thu nhập, không làm suy giảm nguồn thu nhập của dân. Song trên thực tế lâu nay, ở một số dự án, Ban quản lý chỉ chú trọng đến khâu đền bù, giải phóng mặt bằng, sau đó không chú trọng đầy đủ đến bố trí đất ở và ổn định đời sống người dân. Nhiều hộ gia đình ở một số dự án đã phải thuê nhà ở tạm do thời gian giải quyết đất ở quá kéo dài đã gây nên không ít nỗi khổ cho họ. Việc chuẩn bị trước một bước về đất ở hay chung cư cho các hộ diện giải toả phải được coi là biện pháp cần thiết đầu tiên giúp người dân sớm ổn định nơi ăn chốn ở để hoà nhập với cuộc sống sau TĐC.
- Thứ hai, tạo cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các chương trình đào tạo nghề, cho vay vốn, giới thiệu việc làm.. Mỗi chương trình nói trên đều có mục tiêu là tạo điều kiện cho người lao động sau TĐC có được việc làm ổn định để đảm bảo nguồn thu nhập cho gia đình. Vì vậy, tạo cơ chế phối hợp đồng bộ giữa việc đầu tư cho đào tạo nghề, giới thiệu việc làm với cho vay vốn phát triển sản xuất, khuyến khích doanh nghiệp thu hút nhiều lao động. Thực tế cho biết, đây là các khâu của một quá trình, phải làm đồng bộ, phải đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất về quan điểm của Đảng, sự đầu tư có kế hoạch của chính quyền, nhà nước và việc phát huy tính năng động của người lao động và cộng đồng.
- Thứ ba, phải cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng và trung thực cho người dân trước khi vào TĐC để họ có sự chuẩn bị tâm thế vững vàng đối diện và chủ động giải quyết các thách thức.
Di dân, TĐC là một quá trình kinh tế - xã hội phức tạp. Dẫu chuẩn bị chu đáo đến đâu cũng không thể tránh khỏi những khó khăn trắc trở. Việc cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng, trung thực để người dân chủ động đón nhận cả những thuận lợi cũng như sẵn sàng chấp nhận những thách thức khó khăn trong quá trình TĐC là điều cần thiết phải làm. Thực tế ở Đà Nẵng cho thấy, nhiều khi để đạt được mục đích trước mắt là sớm giải phóng được mặt bằng, một số cán bộ chỉ chú trọng tuyên truyền một chiều, khuếch trương thuận lợi, che bớt khó khăn. Vì vậy, khi va đập với những khó khăn, trở ngại, nhiều người dân trở nên hoang mang, thụ động.
- Thứ tư, tăng cường sự tham gia của cộng đồng, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội trong toàn bộ quá trình thực hiện di dời, giải tỏa, TĐC.
Trong những năm qua, Đà Nẵng là thành phố đi đầu trong việc huy động mọi nguồn lực trong dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển xã hội. Đặc biệt trong công cuộc cải tạo, chỉnh trang đô thị đã có nhiều người dân sẵn sàng hy sinh phần tài sản, đất đai, nhà cửa - nơi gắn bó, lâu đời của mình để di dời vì sự phát triển chung của thành phố.
Thành công đó được khởi nguồn từ đường lối chiến lược, chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp tình hợp lý của cấp uỷ Đảng và chính quyền thành phố. Tuy nhiên để có sự tương giao giữa “ý Đảng, lòng dân” phải kể đến vai trò của cộng đồng, của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền vận động giúp từng người dân thông hiểu mọi chủ trương, chính sách. ở đâu có khó khăn ở đó có tổ dân phố, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên... tham gia giải quyết. Vai trò của cộng đồng và các tổ chức chính trị xã hội không chỉ có hiệu quả trong việc tuyên truyền vận động nhân dân di dời TĐC mà còn trực tiếp cùng từng hộ gia đình ổn định đời sống, tổ chức học nghề, tạo việc làm, hướng dẫn thủ tục vay tín chấp cho các hộ sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, các tổ chức như Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh... còn sáng kiến xây dựng quỹ tiết kiệm hàng tháng nhằm quyên góp tiền giúp những hộ nghèo có vốn để sản xuất kinh doanh và nhờ đó nhiều hộ đã tự vượt nghèo.
Có thể khẳng định, thành công của Đà Nẵng trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nói chung, và chương trình đô thị hoá, nói riêng, trong những năm qua không tách rời sự đóng góp tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội.Chính vì vậy, tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị- xã hội trong toàn bộ quá trình thực hiện dự án TĐC để phát triển sản xuất, cải thiện mức sống cho nhóm dân cư sau TĐC là kinh nghiệm cần phải ghi nhận ở Đà Nẵng.
3.3.3. Có kế hoạch giám sát, đánh giá phát hiện thường xuyên các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh để điều chỉnh và giải quyết kịp thời
Tái định cư cần được hiểu là một quá trình từ đền bù các tài sản và đất đai bị thiệt hại đến thực hiện các biện pháp hỗ trợ, việc khôi phục sản xuất, nâng cao ở mức sống, tạo điều kiện phát triển văn hoá - xã hội của từng hộ và của cả cộng đồng.
Như vậy, có nhiều công việc cần thực hiện trong việc di dời, giải tỏa, TĐC. Quá trình này cũng là quá trình dễ phát sinh những vấn đề xã hội mới phức tạp, nằm ngoài dự liệu của các nhà hoạch định chính sách. Để nhận biết và giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình thực hiện giải tỏa, di dời TĐC cần chú trọng các biện pháp sau:
Thứ nhất: Tổ chức bộ phận chuyên trách trực thuộc UBND thành phố để thường xuyên kiểm tra, giám sát toàn bộ quá trình thực hiện dự án giải tỏa, di dời, TĐC. Trước hết phải xem xét phẩm chất, năng lực điều hành, ý thức trách nhiệm của cán bộ trong giải quyết các chính sách chế độ đối với nhân dân; qua đó kịp thời phát hiện tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu dân, tạo ra tâm lý an tâm trong dân chúng. Mặt khác, để có thể giải quyết ngay thắc mắc của nhân dân, tránh kéo dài, tạo thành điểm nóng xã hội, cần thường xuyên thu nhận ý kiến đóng góp cũng như những mong muốn, nguyện vọng của dân; thông qua mối liên hệ ngược đó để giúp lãnh đạo thành phố bổ sung, điều chỉnh cơ chế chính sách và định hướng chỉ đạo sát hợp với yêu cầu thực tế mà cuộc sống đang đòi hỏi.
Thứ hai: Coi trọng công tác tổng kết, đánh giá, đúc rút bài học kinh nghiệm qua từng dự án.
Tổng kết thực tiễn, từ đó đúc rút bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định và triển khai các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội tiếp theo luôn được coi là cách làm mang lại hiệu quả. Chính nhờ thực tiễn mà chúng ta thể nghiệm được những chủ trương, chính sách cũng như những biện pháp liên quan đến giải tỏa, di dời và TĐC đảm bảo và nâng cao mức sống cho người dân. Trên cơ sở phân tích, đánh giá, tổng kết một cách nghiêm túc, khoa học các dự án TĐC đã được triển khai, giúp các cấp lãnh đạo, quản lý thẩm định được sự đúng đắn, tính hợp lý hay những bất hợp lý của toàn bộ chương trình giải tỏa, di dời, TĐC. Đây là công việc rất cần thiết để giảm bớt những khuyết điểm sai lầm mà việc giải tỏa, di dời, TĐC thường gặp phải.
3.3.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện công tác giải tỏa, di dời, tái định cư có phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn và ý thức trách nhiệm cao
Thực tế cho thấy, sự thành công của mỗi dự án TĐC phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện vật chất, nguồn kinh phí, cơ chế chính sách, đội ngũ cán bộ... Trong đó cán bộ trực tiếp thực hiện dự án được coi là nhân tố có ý nghĩa quyết định. ở những dự án nào có đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn, giữ được phẩm chất đạo đức, vì dân vì nước thì ở đó hiệu quả của dự án cao. Cũng vì thế nên muốn thực hiện thành công chương trình giải tỏa, di dời, TĐC, nâng cao mức sống cho người dân sau TĐC, không thể không coi trọng một số biện pháp sau:
- Thứ nhất, chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thực sự giỏi về chuyên môn, nhất là những người có nhiệm vụ làm quy hoạch, kế hoạch, tổ chức triển khai điều hành dự án.
- Thứ hai, phải lựa chọn những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt để không dễ bị cám dỗ, lung lạc bởi những lợi ích kinh tế, thực hiện chính sách đền bù trợ cấp cho dân đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch. Nếu không ngay cả công trình cơ sở hạ tầng của khu TĐC cũng có nguy cơ bị bớt xén dẫn đến chất lượng thấp... Điều này sẽ ảnh hưởng nhiều đến mức sống và cả niềm tin của nhân dân cả trước mắt và lâu dài.
3.3.5. Không ngừng hoàn chỉnh hệ thống chính sách tái định cư
Hệ thống chính sách TĐC là cơ sở pháp lý để giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của cá nhân - gia đình và các tổ chức trong quá trình thực hiện TĐC. Trong đó, để mục tiêu đảm bảo mức sống dân cư sau TĐC ổn định và phát triển thì hệ thống chính sách phải không ngừng được hoàn thiện.
Nghị định 197/2004NĐ-CP của Chính phủ là văn bản pháp quy mới nhất được ban hành sau khi được bổ sung các quy định về đền bù, TĐC. Trên cơ sở Nghị định này mà Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã cụ thể hoá bằng Quyết định 209/2004/QĐ-UB để áp dụng vào thực tế công tác đền bù, TĐC ở địa phương. Mặc dù đây là những quy định mới nhất về TĐC song không phải không còn những bất hợp lý cần được điều chỉnh.
Qua nghiên cứu phân tích, đánh giá khuôn khổ pháp lý và thực tiễn TĐC ở Đà Nẵng và kinh nghiệm ở các địa phương trong toàn quốc, cần đề xuất một sốv ấn đề sau:
- Thứ nhất, nâng mức bồi thường thiệt hại về tài sản và đất.
Các nghị định của Chính phủ thường đặt ra nguyên tắc chung và giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố quy định mức đền bù, hỗ trợ phù hợp với thực tế địa phương.
Mức bồi thường những thiệt hại về tài sản và đất cho các hộ bị giải toả mà lâu nay chính quyền thành phố Đà Nẵng quy định được người dân đánh giá là chưa thật phù hợp. Kết quả trưng cầu ý kiến về chính sách đền bù cho thấy chỉ có 40,2% chủ hộ đánh giá là phù hợp, có đến 52,3% chủ hộ cho là chưa phù hợp và 7,5% ý kiến cho rằng khó đánh giá. Căn cứ để người dân đánh giá chính sách đền bù chưa phù hợp là vì có nhiều trường hợp tiền mua đất làm nhà trong khu TĐC nhiều hơn tiền được đền bù. Nhiều hộ gia đình vốn có nhà cửa, đất đai vườn tược, nhưng sau khi giải toả, số tiền đền bù chỉ đủ trả tiền mua đất, họ phải vay mượn thêm tiền để làm nhà mới. Nhiều trường hợp sau TĐC lâm vào cảnh nợ nần chồng chất bởi lý do này. Vì vậy, để người dân sớm ổn định cuộc sống sau TĐC một trong những giải pháp quan trọng là phải tăng mức đền bù những thiệt hại về tài sản và đất đai một cách thoả đáng. Mức này phải căn cứ vào mặt bằng giá đất ở thời điểm giải tỏa, di dời, TĐC có tính đến yếu tố khu vực địa lý, sự thuận lợi cho sản xuất, đời sống và các yếu tố khác.
Thứ hai, cần có cơ chế chính sách giúp đỡ người dân sau TĐC chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm một cách cụ thể và hiệu quả.
Các nghị định, thông tư và các quyết định, quy định về chính sách TĐC hiện hành chỉ mới đưa ra nguyên tắc chung, chưa thể hiện sự linh hoạt trong các giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm mới; chưa hướng dẫn cụ thể nội dung, cách thức thực hiện quá trình khôi phục cuộc sống tại nơi TĐC.
Vẫn biết rằng giải quyết việc làm là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến mức sống của người dân sau TĐC, đây cũng là vấn đề được Chính phủ, cũng như chính quyền thành phố Đà Nẵng quan tâm đặc biệt trong các dự án TĐC, song đến nay vẫn thiếu những biện pháp cụ thể và hiệu quả. Khi được hỏi về hiệu quả của chính sách việc làm mà thành phố Đà Nẵng triển khai trong mấy năm qua thì chỉ có 11,0% các chủ hộ cho là phù hợp, trong khi đó có đến 42,8% ý kiến cho rằng chưa phù hợp, tức là các chính sách cho họ trong việc tìm kiếm việc làm. Còn 45,6% ý kiến cho là khó đánh giá. Sở dĩ nhiều người cholà khó đánh giá bởi vì họ chưa biết gì nhiều về các chính sách tạo việc làm mà thành phố đã và đang thực hiện.
Để giải quyết vấn đề việc làm một cách có hiệu quả nhằm duy trì và từng bước cải thiện mức sống cho người dân sau TĐC, cần tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp giúp người lao động có điều kiện tổ chức việc làm hoặc tìm được việc làm như:
+ Cho vay vốn ưu đãi với mức vay, thời hạn và lãi suất hợp lý.
+ Cung cấp thông tin thường xuyên về thị trường lao động, tư vấn về việc làm và pháp luật về lao động.
+ Phát triển hệ thống đào tạo nghề ở nhiều lĩnh vực, loại hình và cấp độ với chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo thích hợp. Gắn đào tạo với sử dụng, bằng cách xuất phát từ yêu cầu sử dụng mà tổ chức đào tạo và phải phát huy vai trò của đào tạo để sử dụng lao động có hiệu quả...
+ Có chế độ ưu tiên đặc biệt để giải quyết việc làm cho người lao động trong diện di dời - TĐC khi có những chỉ tiêu tuyển lao động cho xuất khẩu lao động hay cho các cơ sở sản xuất có nhu cầu.
Kết Luận Và khuyến Nghị
1. Kết luận
- Quá trình di dân, TĐC trong các dự án cải tạo, phát triển cơ sở hạ tầng đô thị không chỉ làm thay đổi kết cấu không gian - vật lý đô thị mà còn mang lại những biến đổi trong đời sống của mỗi cá nhân và hộ gia đình. Kết quả tổng hợp của toàn bộ cuộc nghiên cứu đã khẳng định giả thuyết đã được nêu ra là quá trình xây dựng, cải tạo và chỉnh trang đô thị đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến mức sống của cộng đồng dân chuyển cư. Tuy nhiên sự ảnh hưởng này có mức độ khác nhau ở mỗi nhóm xã hội.
Sau TĐC, đối với nhóm cán bộ công chức hay những người có nghề nghiệp ổn định thì họ vẫn duy trì và phát triển được mức thu nhập và chi tiêu của bản thân và gia đình. Đặc biệt nhóm xã hội này còn có điều kiện thuận lợi để nâng cao mức sống của mình trên các phương diện nhà ở, môi trường và thụ hưởng các dịch vụ đô thị cơ bản nơi TĐC.
Sự biến đổi mức sống của nhóm xã hội gắn với các nghề nông - ngư nghiệp, dịch vụ buôn bán nhỏ, hay những người không có nghề nghiệp diễn ra khá phức tạp. Trên phương diện nhà ở, môi trường cảnh quan và điều kiện tiếp cận các dịch vụ đô thị cơ bản mà xét thì mức sống của các nhóm xã hội này có một sự biến đổi căn bản theo hướng tích cực, tiến bộ. Sau TĐC, ai cũng có được nơi ở và nhà cửa khang trang, hơn trước. Nhưng về mặt thu nhập lại có diễn biến rất đáng lo ngại bởi có sự giảm sút khá đáng kể so với trước TĐC. Tình trạng thiếu việc làm, không tìm kiếm được việc làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải trong giai đoạn đầu sau TĐC. Có lẽ điều này sẽ gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về hướng giải quyết những khó khăn cho người dân sau TĐC. Nên chăng chỉ cần tập trung ưu tiên nguồn lực vào thời gian đầu sau TĐC để giúp đỡ người dân sớm hoà nhập vào môi trường sống ở nơi ở mới là đã giải quyết được những khó khăn cơ bản.
- Hệ thống chính sách, đặc điểm gia đình và cá nhân chủ hộ là những yếu tố quan trọng tác động đến sự biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau TĐC.
Hệ thống chính sách về đền bù, TĐC đã đảm bảo những quyền lợi hợp pháp cho người dân trong diện di dời và tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi người dân trong suốt quá trình di dời, TĐC. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy còn những bất cập trong những quy định cụ thể của nhà nước về quyền lợi của người dân khi phải giải tỏa, di dời, TĐC, nhất là những hộ bị ảnh hưởng nhiều. Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách đôi khi còn thiếu tính đồng bộ, chưa nhất quán; còn thiếu những giải pháp cụ thể, khả thi trong giải quyết việc làm cho người dân.
Các đặc điểm gia đình, cá nhân chủ hộ là những nguyên nhân trực tiếp quyết định mức sống của cá nhân và hộ gia đình cao hay thấp. Trong đó đáng lưu ý nhất là yếu tố quy mô hộ gia đình, tuổi, trình độ học vấn, và loại nghề nghiệp của chủ hộ. Đây là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến vấn đề việc làm, thu nhập, chi tiêu ... của cá nhân và hộ gia đình. Đặc biệt là yếu tố trình độ học vấn, loại nghề nghiệp trở thành tiêu chí quan trọng phân định mức sống của các hộ dân cư cao hay thấp. Tình trạng thất học, nghề nghiệp không ổn định của chủ hộ còn là nguyên nhân đưa đến trình độ học vấn thấp, không nghề nghiệp, thiếu việc làm của con cái những hộ này. Đây là yếu tố góp phần tạo nên tình trạng nghèo của cộng đồng dân cư sau TĐC ở Đà Nẵng. Đây là vấn đề xã hội nan giải không chỉ trước mắt mà sẽ còn hệ luỵ cho các thế hệ kế tiếp.
Thực tế nói trên đang cần có những giải pháp hữu hiệu từ phía nhà nước nhưng cũng đòi hỏi mỗi người dân phải có ý thức tự nỗ lực khắc phục để vươn lên. Vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các gia đình nghèo là biện pháp chủ yếu, có ý nghĩa lâu dài.
2. Khuyến nghị
* Với các cơ quan Đảng:
- Xác định chủ trương, quan điểm và những nguyên tắc cơ bản cho giải tỏa, di dời, TĐC bằng nghị quyết cụ thể.
- Các cấp ủy Đảng trực tiếp tham gia tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra giám sát quá trình giải tỏa, di dời, TĐC.
- Quán triệt đảng viên gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách.
*Với các cấp chính quyền:
- Cụ thể hóa chủ trương giải tỏa, di dời, TĐC thành kế hoạch hoạt động, thành dự án với những chính sách chế độ cụ thể được Hội đồng nhân dân thông qua bằng nghị quyết.
- Tổ chức lực lượng, triển khai kế hoạch cụ thể, chi tiết với sự phối kết hợp của các lực lượng để huy động tối đa các nguồn lực.
- Kiểm tra, giám sát và kịp thời chỉnh sửa kế hoạch thực hiện phù hợp khi tình hình thay đổi (giá đất, chế độ đền bù, chính sách ưu đãi...).
- ủy ban nhân dân các quận, huyện cùng các cơ quan chức năng (Ban quản lý dự án TĐC, ngành xây dựng...) tổ chức quản lý và thực hiện các dự án giải tỏa di dời, TĐC, kiên quyết, dứt điểm; phối hợp giải quyết giải tỏa, TĐC song song với các chính sách khác. Khuyến nghị này xuất phát từ hai nguyện vọng được nhiều ý kiến các chủ hộ nêu lên, đó là: 1) Được thông báo công khai, rõ ràng kế hoạch giải tỏa, di dời, TĐC cụ thể, chính xác cho từng khu vực dân cư; không nên kéo dài thời gian thực hiện dự án và tình trạng quy hoạch treo (53% ý kiến); 2) Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho người dân trong diện TĐC chưa cụ thể và kém hiệu quả (71% ý kiến).
* Với các tổ chức, đoàn thể xã hội
- Cần chú ý đến vai trò của các tổ chức Hội cựu chiến binh, thanh niên, phụ nữ... trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân hiểu rõ và thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, chế độ và kế hoạch di dời, TĐC.
- Huy động nguồn lực cho giải tỏa, di dời, TĐC.
- Cần phát huy tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm cộng đồng, truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái trong mỗi người dân.
Trên đây là một số khuyến nghị cần thiết mà tôi mạnh dạn nêu ra, hy vọng góp một phần nào đó cho việc xây dựng, phát triển và thực hiện chính sách di dời, giải tỏa, TĐC, ổn định và nâng cao mức sống cho cộng đồng dân TĐC, hướng đến mục tiêu cao quý mà Đảng, Nhà nước và toàn dân đang phấn đấu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Danh mục các công trình của tác giả đã công bố
Trần Văn Thạch (1995), "Gia đình nhà dài với vấn đề dân số", Tạp chí Dân tộc và thời đại, (20).
Trần Văn Thạch (nhiều tác giả) (1996), Vấn đề dân số và nhận thức về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Văn Thạch (1998), "Gia đình Việt Nam hiện nay và xu hướng vận động trong những năm đầu thế kỷ XXI", Tạp chí Khoa học chính trị, (3).
Trần Văn Thạch (1998), Sự biến đổi gia đình ở nông thôn Việt Nam hiện nay (qua nghiên cứu một số tỉnh duyên hải miền Trung), Đề tài cấp Phân viện năm 1998, (Tham gia chuyên đề).
Trần Văn Thạch (1998), "Tính cộng đồng với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay', Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (4).
Trần Văn Thạch, TS. Nguyễn Mậu Dựng (1999), "Thực trạng đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo ở huyện Hướng Hóa", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (5).
Trần Văn Thạch (nhiều tác giả) (2000), Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Đà Nẵng, (5).
Trần Văn Thạch (2000), Cơ cấu và chất lượng của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Đề tài cấp Bộ, (tham gia chuyên đề).
Trần Văn Thạch (2002), "Giải quyết vấn đề lao động - việc làm trong quan hệ với chính sách xóa đói giảm nghèo ở khu vực miền núi các tỉnh duyên hải miền Trung hiện nay", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (3).
Trần Văn Thạch (chủ nhiệm) (2002), Vấn đề thực hiện chính sách ưu đãi người có công với nước từ thực tiễn nghiên cứu tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, Đề tài khoa học cấp cơ sở.
Trần Văn Thạch (2003), "Những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với nước", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (6).
Trần Văn Thạch, Xã hội hóa, Chuyên đề trong giáo trình Cao cấp lý luận chính trị hệ đặc biệt, Giáo trình đào tạo cán bộ người dân tộc.
Trần Văn Thạch , Chính sách xã hội, chuyên đề trong giáo trình Cao cấp lý luận chính trị hệ đặc biệt, Giáo trình đào tạo cán bộ người dân tộc.
Trần Văn Thạch (2005), "Một số kết quả khảo sát về sự biến đổi tài sản và môi trường của nhóm dân cư sau tái định cư ở Đà Nẵng", Tạp chí Khoa học và phát triển, (113).
Trần Văn Thạch (2005), "Khả năng tiếp cận các dịch vụ đô thị cơ bản của nhóm dân cư sau tái định cư ở thành phố Đà Nẵng", Tạp chí khoa học và phát triển, (114).
Trần Văn Thạch (2005), "Một số kết quả khảo sát về biến đổi thu nhập của nhóm dân cư sau tái định cư ở thành phố Đà Nẵng", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (4).
Danh mục Tài liệu tham khảo
Hoàng Tuấn Anh (2005), Báo cáo tổng kết kinh nghiệm quản lí nhà nước về lĩnh vực qui hoạch xây dựng và công tác giải phóng mặt bằng tại Đà Nẵng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2004), Dự án VIE/95/2004, Kiến nghị về đổi mới chính sách di dân giai đoạn 1999-2004.
Burbridge Perter, Richard. B. Norguard, Gary S. Hartshon, Chỉ nam môi trường cho dự án tái định cư ở vùng nhiệt đới ẩm.
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định của Chính phủ số 197/2004/NĐ - CP ngày 3/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
V.P. Cuzơmin (1986), Nguyên lí tính hệ thống trong lý luận và phương pháp luận của Mác, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (1997), Xã hội học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tống Văn Đường (2002), Giáo trình dân số và phát triển, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Vũ Quang Hà (2002), Các lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, tập 1 + 2, Hà Nội.
Trần Ngọc Hiên, Trần Văn Chử (1998), Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Mộng Hoa, Lâm Mai Lan (2000), Tái định cư trong các dự án phát triển : chính sách và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Đỗ Văn Hoà (1998), Chính sách di dân châu á, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
Tô Duy Hợp (1996), "Đặc điểm tiếp cận hệ thống trong xã hội học", Tạp chí Xã hội học, (4), tr.57-61.
Lê Ngọc Hùng (2002), Lịch sử và lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Thiên Kính (2003), Phân hoá giàu nghèo và tác động của yếu tố học vấn đến nâng cao mức sống người dân Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tương Lai (1994), Hiện trạng và triển vọng cải thiện nhà ở, mức sống, môi trường sống của người nghèo đô thị - trường hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
Tương Lai (1995), Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trịnh Duy Luân (1996), Tìm hiểu môn xã hội học đô thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trịnh Duy Luân (2003), “Nghiên cứu những vấn đề biến đổi xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, (2), tr. 4-7.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 16, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
Võ Thị Mai (2003), Vai trò của nữ cán bộ quản lí nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Phê (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
Lê Duy Phong, Nguyễn Văn áng, Hoàng Văn Hoa (2002), ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Xuân Quang (1997), Tình hình thực hiện chính sách đền bù, tái định cư và khôi phục cuộc sống cho những người bị ảnh hưởng bởi các dự án đầu tư phát triển tại các đô thị và khu công nghiệp, Hà Nội.
Nguyễn Đình Tấn (1998), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Chí Dũng (2004), Giáo trình xã hội học trong quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phan Thanh (2005), "Thành phố trẻ bên sông Hàn", Báo Nhân dân cuối tuần, (3), ngày 16/1/2005.
Thành uỷ Đà Nẵng (2004), Tài liệu triển khai thực hiện Nghị quyết 33- NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đà Nẵng.
Thông tấn xã Việt Nam (2005), Thông tin tư liệu, (37).
Tổng cục Thống kê (2000), Điều tra mức sống dân cư Việt Nam VLSS 92-93, VLSS 97-98, Nxb Thống kê.
Trung tâm Nghiên cứu dân số và nguồn lao động (1996), Di dân tự do đến Đồng Nai và Vũng Tàu, Nxb Chính trị quốc gia.
ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (1997), Báo cáo tổng hợp qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2010, Đà Nẵng.
ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2004), Quyết định 209/2004/QĐ - UB về việc “Ban hành Qui định tạm thời về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng", Đà Nẵng.
Viện ngôn ngữ học (1995), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
Nguyễn Quang Vinh (2001), “Một vấn đề xã hội học hàng đầu của việc cải tạo, chỉnh trang đô thị: giảm tổn thương cho nhóm dân cư nghèo nhất ”, Xã hội học, (1), tr.32-39.
Trần Thị Kim Xuyến (2002), Nhập môn xã hội học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Như ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin,Hà Nội.
Phụ lục
1. Nghị quyết 33-NQ/TW.
2. Nghị định 197/2004/NĐ-CP (trích):
- Chương IV: Chính sách hỗ trợ.
- Chương V: Tái định cư.
3. Nghị quyết 209/2004/QĐ-UB (trích):
- Chương IV: Bồi thường cho người lao động do ngừng việc.
- Chương V: Chính sách hỗ trợ và khen thưởng.
- Chương VI: Tái định cư.
4. Mẫu phiếu điều tra của đề tài.
Nghị định của Chính phủ số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
1. Phần giới thiệu tóm tắt Nghị định
Nghị định 197/NĐ-CP được ban hành ngày 03/12/2004. Đây là văn bản pháp lý hiện hành của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi nhà nước thu hồi đất.
Nghị định gồm 7 chương. Chương I: Những quy định chung, từ Điều 1 đến Điều 4. Nội dung chính của chương này là xác định phạm vi điều chỉnh, đối tượng được áp dụng, nguyên tắc chung về chi trả bồi thường, hỗ trợ và TĐC.
Chương II: Bồi thường đất, từ Điều 6 đến Điều 17. Nội dung của chương này quy định về đối tượng nào được bồi thường và những trường hợp nào không được bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Nghị định còn quy định cụ thể về các loại đất, các hình thức sở hữu đất được bồi thường, hỗ trợ.
Chương III: Bồi thường tài sản, từ Điều 18 đến Điều 26.
Chương này bao gồm các quy định bồi thường về nhà và các tài sản ở trên đất (các công trình xây dựng, các di tích lịch sử, văn hóa, cây trồng, vật nuôi...) và bồi thường cho người lao động do ngừng việc.
Chương IV: Chính sách hỗ trợ, từ Điều 27 - Điều 32. Bao gồm các quy định, tiêu chuẩn về hỗ trợ di chuyển, ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm và các hỗ trợ khác.
Chương V: Tái định cư, từ Điều 33 - Điều 38. Quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về bố trí TĐC, các điều kiện khu TĐC; các biện pháp hỗ trợ sản xuất và đời sống tại khu TĐC cho nhân dân. Ngoài ra còn quy định quyền và nghĩa vụ của người dân khi vào khu TĐC.
Chương VI: Tổ chức thực hiện, từ Điều 39 - Điều 49. Chương này bao gồm các quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chức năng của nhà nước trong việc thẩm định bồi thường hỗ trợ, tổ chức giải quyết mọi vấn đề liên quan đến di dời, giải tỏa và TĐC.
Chương VII: Điều khoản thi hành, gồm các quy định về hiệu lực và trách nhiệm thi hành Nghị định.
2. Phần trích nguyên văn chương IV, V.
Quyết định của ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng số 209/2004/QĐ-UB
V/v ban hành quy định tạm thời về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
1. Phần giới thiệu tóm tắt nội dung bản Quyết định
Quyết định 209/2004/QĐ-UB của UBND thành phố Đà Nẵng được ban hành ngày 28/12/2004.
Quyết định gồm 8 chương, 56 Điều ban hành quy định tạm thời về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Quyết định 209/2004/QĐ-UB ra đời trên cơ sở cụ thể hóa những nguyên tắc chung của Nghị định 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và TĐC. Mặt khác trên cơ sở điều kiện cụ thể của địa phương, UBND thành phố Đà Nẵng đã có những quy định mới về chế độ, chính sách đền bù, hỗ trợ, tái định cư.
Quyết định đã có những quy định cụ thể về đối tượng, phạm vi bồi thường, hỗ trợ; hạn mức và đơn giá bồi thường cho phần đất đai, nhà cửa, các công trình xây dựng, các loại cây trồng vật nuôi có trên đất... đều được quy định một cách rõ ràng.
Tóm lại, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các cơ quan chức năng cũng như của người dân trong diện giải tỏa, tái định cư ở trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đều được Quyết định này quy định một cách chi tiết, cụ thể.
2. Phần trích nguyên văn các chương IV, V, VI.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CH0646.doc