Biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Tài liệu Biến đổi khí hậu ở Việt Nam: ... Ebook Biến đổi khí hậu ở Việt Nam

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2216 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Biến đổi khí hậu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã và đang trải qua các biến động bất thường của khí hậu toàn cầu. Trên bề mặt trái đất, khí quyển và thủy quyển không ngừng nóng lên làm xáo động môi trường sinh thái, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy với đời sống loài người. Nó ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế, xã hội và môi trường của các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Sự thay đổi khí hậu không phải là vấn đề hàn lâm mà thực tế nó có tác động rất lớn đến nhân loại. Đối với cư dân ở nhiều vùng nước ta, sự biến động bất thường của khí hậu trên trái đất là mối đe dọa trực tiếp đến sức khỏe và cuộc sống của họ. Do các yếu tố trên bắt buộc chúng ta phải có cách nhìn nhận đúng đắn hơn về vấn đề môi trường, khí hậu. Nghiên cứu vấn đề này, tầm quan trọng nhất, mục đích lớn nhất của chúng tôi là phân tích biến động khí hậu ở Việt Nam và giải pháp quản lí của nhà nước. Giúp cho các nhà hoạch định chính sách có các chiến lược hợp lý giảm thiểu và thích ứng với các biến đổi tiêu cực do thay đổi khí hậu gây ra, hướng tới sự phát triển bền vững, toàn diện hơn. Tuy nhiên đây là vấn đề ở tầm vĩ mô, trình độ hiểu biết và phương pháp trình bày còn hạn chế nên chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Thầy giáo và các bạn để hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! 1. Khái niệm biến đổi khí hậu Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thủy quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo. 2. Các biểu hiện của sự biến đổi khí hậu trái đất gồm: Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung. Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất. Sự dâng cao mực nước biển do tan băng dẫn tới sự ngập úng của các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển. Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người. Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác. Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thủy quyển, sinh quyển, các địa quyển. 3. Nguyên nhân Trái đất được bao bọc bởi khí quyển và trong bầu khí quyển có nhiều loại khí khác nhau. Trong đó khí nhà kính (KNK) gồm CO2 (cacbonit-dioxit cacbon), CH4 (Metan), Nox (Oxit Nitơ), hơi nước và xon khí.NhiÖt ®é bÒ mÆt tr¸i ®­îc t¹o nªn do sù c©n b»ng gi÷a n¨ng l­îng mÆt trêi ®Õn bÒ mÆt tr¸i ®Êt vµ n¨ng l­îng bøc x¹ cña tr¸i ®Êt vµo kho¶ng kh«ng gian gi÷a c¸c hµnh tinh. N¨ng l­îng mÆt trêi chñ yÕu lµ c¸c tia sãng ng¾n dÔ dµng xuyªn qua cöa sæ khÝ quyÓn, trong khi ®ã bøc x¹ cña tr¸i ®Êt sinh ra do ho¹t ®éng cña sù sèng trªn tr¸i ®Êt lµ sãng dµi cã n¨ng l­îng thÊp dÔ dµng bÞ khÝ quyÓn gi÷ l¹i. C¸c t¸c nh©n g©y ra sù hÊp thô bøc x¹ sãng dµi trong khÝ quyÓn lµ khÝ CO2, bôi, h¬i n­íc, khÝ mªtan, khÝ CFC... c¸c t¸c nh©n nµy phÇn lín ®­îc sinh ra trong ho¹t ®éng sinh ho¹t vµ s¶n xuÊt cña con ng­êi. Theo báo cáo mới nhất của Liên hiệp quốc, nguyên nhân của hiện tượng biến đổi khí hậu 90% do con người gây ra, 10% là do tự nhiên.Chu kỳ nóng ấm của Trái đất mang tính nội sinh và ngoại sinh tự nhiên được đẩy nhanh và trở nên nghiêm trọng hơn do những tác động của khí thải công nghiệp và hiệu ứng nhà kính.Nguyên nhân chính của sự nóng lên của trái đất là do sự gia tăng đáng kể nồng độ khí nhà kính nhân tạo trong khí quyển, làm thay đổi khả năng hấp thụ và phản xạ bức xạ của khí quyển. Hiệu ứng nhà kính NhiÖt ®é bÒ mÆt tr¸i ®­îc t¹o nªn do sù c©n b»ng gi÷a n¨ng l­îng mÆt trêi ®Õn bÒ mÆt tr¸i ®Êt vµ n¨ng l­îng bøc x¹ cña tr¸i ®Êt vµo kho¶ng kh«ng gian gi÷a c¸c hµnh tinh. N¨ng l­îng mÆt trêi chñ yÕu lµ c¸c tia sãng ng¾n dÔ dµng xuyªn qua cöa sæ khÝ quyÓn, trong khi ®ã bøc x¹ cña tr¸i ®Êt sinh ra do ho¹t ®éng cña sù sèng trªn tr¸i ®Êt lµ sãng dµi cã n¨ng l­îng thÊp dÔ dµng bÞ khÝ quyÓn gi÷ l¹i. C¸c t¸c nh©n g©y ra sù hÊp thô bøc x¹ sãng dµi trong khÝ quyÓn lµ khÝ CO2, bôi, h¬i n­íc, khÝ mªtan, khÝ CFC... c¸c t¸c nh©n nµy phÇn lín ®­îc sinh ra trong ho¹t ®éng sinh ho¹t vµ s¶n xuÊt cña con ng­êi. “ HiÖu øng nhµ kÝnh lµ sù trao ®æi kh«ng c©n b»ng vÒ n¨ng l­îng gi÷a tr¸i ®Êt víi kh«ng gian xung quanh, dÉn ®Õn sù t¨ng nhiÖt ®é cña khÝ quyÓn tr¸i ®Êt. HiÖn t­îng nµy diÔn ra theo c¬ chÕ t­¬ng tù nh­ nhµ kÝnh trång c©y ®­îc gäi lµ hiÖu øng nhµ kÝnh”. Vai trß g©y nªn hiÖu øng nhµ kÝnh cña c¸c chÊt khÝ ®­îc xÕp theo thø tù sau : CO2 -CFC - CH4 - O3 sù gia t¨ng nhiÖt ®é tr¸i ®Êt cã t¸c ®éng m¹nh mÏ tíi nhiÒu mÆt cña m«i tr­êng tr¸i ®Êt. Hầu hết giới khoa học đều công nhận biến đổi khí hậu là do nồng độ của khí hiệu ứng nhà kính tăng lên trong khí quyển ở mức độ cao. Bản thân nó đã làm cho Trái đất ấm lên, nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên, nhiệt độ nóng lên này đã tạo ra các biến đổi trong các vấn đề thời tiết hiện nay. Cùng với sự nóng lên toàn cầu, nước biển dâng, sự thay đổi về mưa và sự bốc hơi là sự suy thoái của tầng ozôn bình lưu làm tăng bức xạ cực tím mặt trời trên trái đất, gây ra những ảnh hưởng lớn cho loài người. Ngược lại, bản thân sự tồn tại và phát triển của các ngành kinh tế - xã hội cũng làm biến đổi môi trường xung quanh, tác động đến hệ thống khí hậu. Sù gia t¨ng tiªu thô nhiªn liÖu ho¸ th¹ch cña loµi ng­êi ®ang lµm cho nång ®é khÝ CO2 trong khÝ quyÓn t¨ng lªn vµ lµm cho nhiÖt ®é tr¸i ®Êt nãng lªn. C¸c sè liÖu nghiªn cøu cho thÊy nhiÖt ®é tr¸i ®Êt ®· t¨ng 0,5 o C trong kho¶ng thêi gian tõ 1885-1940 do nång ®é khÝ CO2 thay ®æi tõ 0.027%-0.035%. Dù b¸o nÕu kh«ng cã biÖn ph¸p kh¾c phôc ®Õn n¨m 2050 nhiÖt ®é tr¸i ®Êt sÏ t¨ng 1.5 - 4.5OC. Về khí thải công nghiệp, ô nhiễm không khí do khí thải công nghiệp gây ra chủ yếu là bụi, SO2, NO2, CO... Nồng độ bụi có xu hướng tăng theo thời gian và hầu hết đều vượt quá giới hạn cho phép nhiều lần. Cá biệt, có một số nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng vượt tiêu chuẩn cho phép từ 20 đến 435 lần; công nghiệp khai thác than, các nhà máy luyện kim vượt từ 5 đến 125 lần; khai thác và chế biến khoáng sản như than đá, apatit, cao lanh vượt từ 10 đến 15 lần; các nhà máy cơ khí, đóng tàu vượt khoảng 10 đến 15 lần; các nhà máy dệt, may vượt từ 3 đến 5 lần. Hiện tượng trễ Hầu hết những sự biến đổi của khí hậu là một dạng của hiện tượng trễ, trong đó trạng thái hiện tại của khí hậu không có tác động ngay đến sự biến đổi của thời tiết. Chẳng hạn như, trong một năm có thời tiết hơi khô, nó không có ảnh hưởng gỡ nhiều ngoài việc làm cho lượng nước trong các hồ bị thu hẹp lại hay các đồng bằng bị khô. Tuy nhiên trong năm tiếp theo, hiện tượng này là nguyên nhân dẫn đến việc lượng mưa ít đi và chớnh vỡ thế lại dẫn đến một năm khô hạn hơn tiếp theo. Hiện tượng này lặp đi lặp lại cho đến thời điểm X năm tiếp sẽ dẫn đến sự thay đổi của toàn bộ khí hậu. Nguyên nhân khách quan: Chu kỳ nóng lên của Trái đất do hoạt động nội tại. Hiện tượng nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên và lạnh đi vốn là hiện tượng tự nhiên xảy ra có tính chu kỳ trong lịch sử hình thành và phát triển của Trời đất. Chu kỳ nóng ấm của Trái đất mang tính nội sinh và ngoại sinh tự nhiên được đẩy nhanh và trở nên nghiêm trọng hơn do những tác động của khí thải công nghiệp và hiệu ứng nhà kính. - Sự biến đổi của đại dương: Sự tác động qua lại giữa không khí và các đại dương là một trong các nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu. Rất nhiều sự thay đổi bất thường của khí hậu như hiện tượng El Nino hay La Nina được hình thành một phần do lượng nhiệt được tích tụ vào trong các đại dương khác nhau và sự di chuyển của các dũng biển - Những nghiên cứu cổ sinh khí hậu đó khẳng định rằng hàng ngàn năm trước thời kỳ tiền công nghiệp, khí hậu đó không bị nóng lên. Nhưng xu thế đó thay đổi, đặc biệt trong những thập niên gần đây. Theo tính toán của IPCC, trong những thập niên gần đây, nhiệt độ tăng trung bình 0,30 mỗi thập niên. Đến năm 2100, nhiệt độ bề mặt có thể tăng từ 1,50C đến 4,50C. Mưa trở nên thất thường hơn. Những vùng mưa nhiều, lượng mưa trở nên nhiều hơn, cường độ mưa lớn hơn. Các vùng hạn trở nên hạn hơn. Toàn bộ mặt đệm, cả mặt đất và đại dương đều nóng lên, đặc biệt là ở vĩ độ cao dẫn đến hiện tượng tan băng hai vùng cực, gây nên hiện tượng nước biển dâng. Tần suất nước biển dâng. Tần suất và cường độ hiện tượng El Nino tăng đáng kể, gây lũ lụt và hạn hán ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. - Cùng với sự nóng lên toàn cầu, nước biển dâng, sự thay đổi về mưa và sự bốc hơi là sự suy thoái của tầng ozôn bình lưu làm tăng bức xạ cực tím mặt trời trên trái đất, gây ra những ảnh hưởng lớn cho loài người. Ngược lại, bản thân sự tồn tại và phát triển của các ngành kinh tế - xã hội cũng làm biến đổi môi trường xung quanh, tác động đến hệ thống khí hậu. - Bằng phương pháp khoan sâu tới 3.270m ở vùng Nam cực và phân tích các bóng khí nằm trong các lớp băng tuyết ở độ sâu vài km, các nhà khoa học lần đầu tiên đó có thể tìm hiểu về lịch sử biến đổi khí hậu hàng trăm nghìn năm trước và đi đến kết luận rằng nồng độ CO2 trong khớ quyển hiện nay ở mức cao nhất trong 800.000 năm qua. Các dữ liệu đó chứng minh tương quan giữa nồng độ khí CO2 và hiện tượng tăng nhiệt độ trên Trái đất. Theo kết quả nghiên cứu, nhiệt độ Trái đất đó ở mức cao nhất vào thời kỳ cách đây 320.000 năm, khi mà nhiệt độ tại Nam cực nóng hơn 3-5 độ C so với ngày nay và nồng độ CO2 trong khí quyển khi đó có tỷ lệ 320 ppm (320/1 triệu đơn vị) so với 380 ppm hiện nay. Các nhà khoa học cũng cho biết thời kỳ nóng lên trước kia trải dài qua nhiều thế kỷ khiến người ta có cảm giác khí hậu ổn định, trong khi khoảng 150 năm gần đây, Trái đất nóng lên rất nhanh do hiện tượng hiệu ứng nhà kính. Theo thống kê, nồng độ CO2 đặc biệt tăng nhanh trong hơn hai thập kỷ qua. Từ năm 1970 đến năm 2000, nồng độ CO2 tăng trung bình 1,5 ppm/năm và riêng trong năm 2007, nồng độ này đó tăng 2,14 ppm.Cũng theo các nhà khoa học, 667.000 năm trước là thời kỳ CO2 có nồng độ thấp nhất trong khí quyển (chỉ khoảng 172 ppm) và các nhà khoa học cho rằng khi đó đại dương có thể hấp thụ lượng khí CO2 tốt hơn. Ở Việt Nam: Tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam mỗi năm khoảng 120.8triệu tấn, khí nhà kính của Việt Nam gồm 4 loại chủ yếu : CO2, CH4, NO2, NO và phát thải chủ yếu dọc các hoạt động trong các lĩnh vực năng lg, công nghiệp, giao thông. Trong đó giao thông chiếm tới 85% khí Co, công nghiệp chiếm 95% khí NO2... Với đà phát triển như hiện nay nhiều nhà khoa học cho rằng lượng phát thải khí nhà kính sẽ còn tăng mạnh. 4. Thực trạng về biến đổi khí hậu Việt Nam Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3200km với 75% dân số sống gần biển. Việt Nam là nước đứng thứ 2 trong 5 nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Theo các nhà khoa học thế giới thì :” Việt Nam chịu tác động khí hậu nhiều hơn so với lượng CO2 thải ra. Những biến đổi khí hậu tại Việt Nam -Nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,30C. -Xu thế biến đổi của lượng mưa trên phần lãnh thổ Việt Nam, lượng mưa giảm đi trong tháng 7, 8 và tăng lên trong các tháng 9, 10, 11, hiện tượng mưa phùn giảm đi rõ rệt ở Bắc và Bắc Trung Bộ. -Trong những thập kỷ gần đây, hiện tượng ENSO ngày càng có tác động mạnh mẽ đến khí hậu đó đang xảy ra trong khu vực trong đó có Việt Nam. -Mực nước biển dâng lên trung bình 0,435 cm đến 0,635 cm năm. Dự đoán sự biến đối khí hậu đến năm 2070: -Nhiệt độ vùng duyên hải tăng 1,50C và vùng nội địa là 2,50C. -Trên các khu vực, mưa trong gió mùa đông bắc tăng 0 - 5% vào mùa khô và 0 – 10% vào mùa mưa. -Nước biển dâng cao 45 cm. a, Tăng nhiệt độ: - Theo số liệu đo đạc tại TP HCM và Cần Thơ thì từ năm 1960 đền 2005 nhiệt độ tăng khoảng 0,02OC, từ năm 1991-2005 tăng lên khoảng 0,033OC, riêng tại Vũng Tàu từ 1960 - nay đã tăng lên 2OC. Theo đà tăng nhiệt độ của toàn thế giới thì Việt Nam từ năm 1920 đến nay nhiệt độ cũng đã tăng từ 0,2-1OC nhưng tăng nhanh của chủ yếu từ 1980 đến nay. - Nhiệt độ của Việt Nam sẽ tăng lên khoảng 2 đến 4,5oC và mực nước biển sẽ dâng lên khoảng 10 đến 68 cm. Và nếu sự biến đổi khí hậu cứ diễn ra như với tốc độ hiện nay thì trong vòng khoảng 100 năm nữa, nhiều diện tích đất liền trên trái đất, trong đó có vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long và sông Hồng, có thể sẽ ngập chìm trong nước biển Biến đổi khí hậu: Nhiệt độ trung bình trên bề mặt trỏi đất thay đổi từ năm 1870 cho đến năm 2100. Biến thiên nhiệt độ từ thấp (màu xanh) đến cao (màu đỏ) b, Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển - Tần suất và cường độ các hiện tượng bão, mưa lớn, nhiệt độ cao, hạn hán ở Việt Nam tăng hơn nhiều trong thập niên vừa qua. - tần suất và cường độ El Nino (hiện tượng gây nắng nóng, hạn hán ở Việt Nam) tăng lên rõ rệt trong những năm cuối thế kỷ trước và những năm đầu thế kỷ này. Trong 5 thập kỷ gần đây, hiện tượng ENSO (bao gồm cả hiện tượng El Nino và hiện tượng La Nina - hiện tượng mưa nhiều, mưa lớn ở Việt Nam) ngày càng có tác động mạnh mẽ đến chế độ thời tiết và đặc trưng khí hậu trên nhiều khu vực của Việt Nam. Những ảnh hưởng của ENSO đến thời tiết, khí hậu nước ta thông qua một cơ chế tác động phức tạp giữa các thành phần hoàn lưu khí quyển và biển khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, gây ra những biến đổi dị thường về khí áp, nhiệt độ, lượng mưa và nhiều hiện tượng thời thiết thuỷ văn quan trọng khác như bão, lũ, hạn hán... - T¹i c¸c vïng nói cao hiÖn t­îng b¨ng gi¸ vµ s­¬ng muèi xuÊt hiÖn muén h¬n, thêi tiÕt l¹nh h¬n vµ thÊt th­êng h¬n. Nh÷ng ®ît rÐt ®Ëm rÐt h¹i dµi ngµy khiÕn gia sóc chÕt cãng, trÎ em m¾c nhiÒu lo¹i bÖnh vÒ h« hÊp, ¶nh h­ëng lín ®Õn søc khoÎ cña ng­êi d©n. Tại miền Bắc, đầu năm 2008, một đợt giá lạnh chưa từng thấy, đã kéo dài trong 38 ngày, nhiệt độ rơi hẳn xuống dưới mức 100C, thậm chí bị âm 20C tại hai địa phương. Thiệt hại của đợt lạnh bất thường này khá lớn, hơn 60 ngàn con bò bị chết.100.000 hecta lúa bị thui chột, tổng thiệt hại ước đoán khoảng 30 triệu. c, Nước biển dâng cao: - Việt Nam nằm trong top 5 nước đứng đầu thế giới dễ bị tổn thương nhất đối với biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển tăng 1 mét ở VN sẽ sẽ mất 5% diện tích đất đai, 11% người mất nhà cửa, giảm 7% sản lượng nông nghiệp và 10% thu nhập quốc nội GDP. Nếu mực nước biển dâng lên là 3-5m thì điều này đồng nghĩa với "có thể xảy ra thảm họa" ở Việt Nam. Băng tan và nhiệt độ tăng làm nở thể tích trung bình của nước được coi như hai nguyên nhân chính dẫn đến mực nước đại dương cao dần lên, làm tràn ngập các đồng bằng thấp ven biển. Các số liệu quan sát mực nước biển thế giới cho thấy mức tăng trung bình trong vùng 50-100 năm qua là 1,8 mm/năm. Nhưng chỉ trong 12 năm gần đây, các số liệu đo đạc của vệ tinh NASA cho thấy xu thế biển dâng đang gia tăng rất nhanh, với tốc độ trung bình là 3 mm/năm ĐB Sông Hồng: Bản đồ các vùng chịu ảnh hưởng nước biển dâng ở Đồng bằng sông Hồng: Theo dự báo, nhiều vùng thuộc ĐBSH như Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình sẽ ngập chìm từ 2-4m trong vũng 100 năm tới (Nguồn: ICEM) - Hiện tượng ngập úng vùng đồng bằng châu thổ mở rộng vào mùa mưa lũ, các dòng sông tăng cường xâm thực ngang gây sạt lở lớn các vùng dân cư tập trung ở 2 bờ trên nhiều khu vực từ Bắc chí Nam. - Hiện tượng này cũng đồng thời tạo cồn, bãi bồi lấp dòng chảy các sông, nhánh sông ở vùng hạ du; ở những sông đó xây dựng hệ thống đê kiên cố thì có hiện tượng bồi lấp ngay chính dòng sông cũng như tuyến khống chế giữa hai bờ đê, tạo nên thế địa hình ngược: những dòng sông nổi cao hơn cả đồng bằng hai bên sông. Vào mùa khô, hiện tượng phổ biến là nước triều tác động ngày càng sâu về phía trung du, hiện tượng nhiễm mặn ngày càng tiến sâu vào lục địa. - Ở vùng ven biển đó thấy rừ hiện tượng vùng ngập triều cửa sông mở rộng hình phễu (hiện tượng Estuary) trên những diện rộng nhất là ở hạ du các hệ thống sông nghèo phù sa. Rõ nhất là ở vựng hạ du hệ thống sông Thái Bình – Bạch Đằng, ở vùng ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh. Vào mùa khô, các nhánh sông và dòng sông ở các khu vực này đã không thể đóng vai trò lưu thoát nước về phía biển, biến thành những dòng sông, kênh tù đọng với mức độ ô nhiễm nhân tạo gây nguy hại cho đời sống của những vùng dân cư đông đảo (thuộc diện này có thể kể đến cả vùng rộng lớn thuộc các lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, sông Châu Giang, ở phía tây nam Hà Nội và các tỉnh Hà Tây, Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình. - Hiện tượng sạt lở bờ biển trên nhiều đoạn kéo dài hàng chục, hàng trăm km với tốc độ phá hủy bờ sâu vào đất liền hàng chục, thậm chí hàng trăm mét là hiện tượng xảy ra thường xuyên trong nhiều năm gần đây, liên quan đến sự tàn phá do gia tăng bão, sóng lớn và sự thay đổi của động lực biển ở đôi bờ. - Hiện tượng hình thành các cồn cát chắn và tái trầm tích bồi lấp luồng vào các cửa sông gây trở ngại lớn cho hoạt động vận tải ra vào các cảng biển khiến cho những công trình nạo vét rất tốn kém đều nhanh chóng bị vô hiệu. - Liên quan tới công tác phòng chống lũ cho Hà Nội, Báo cáo chỉ ra rằng, do biến đổi khí hậu và do sự tàn phá các cánh rừng ở thượng nguồn, vùng đồng bằng sông Hồng có nguy cơ xảy ra nhiều đợt lũ lớn hơn so với trận lũ lịch sử năm 1971. Báo cáo cũng chỉ rõ những nguy cơ tiềm tàng đối với vùng Đồng bằng sông Hồng như tăng nguy cơ mực nước dâng; có thể phát sinh nhiều khó khăn khi điều tiết lưu lượng lũ; quá trình đô thị hóa đang phát triển nhanh cùng với tăng trưởng dân số cao càng tạo thêm nhiều áp lực cho công tác quản lý đê điều; công tác dự báo mưa, báo và lũ lụt còn hạn chế... Tại Hà Nội, thành phố vẫn phải đương đầu với tình trạng ngập lụt nghiêm trọng khi lượng mưa vượt quá 100ml/h do hệ thống tiêu thoát nước ngầm cũ và công suất thấp; nhiều ao hồ và vùng đất trũng đó bị san lấp để xây dựng công trình và nhà ở, làm giảm khả năng phục hồi nguồn nước; sự bùng nổ của quá trình đô thị hoá khiến cho chất thải rắn không được xử lý một cách hiệu quả, gây ngập úng và ứ đọng tầng nước ngầm. Duyên hải miền trung - Vùng duyên hải miền Trung được cấu tạo bởi một dải đất kẹp giữa dãy Trường Sơn về phía Bắc, và vùng cao Nguyên Nam Trung Bộ (Tây Nguyên) về phía Nam, và Biển Đông. Dải đất bị chia cắt bởi nhiều nhánh núi Trường Sơn vươn ra đến tận biển, và một số con sông ngắn mà lưu vực chuồi về phía Biển Đông. - Từ vài thập kỷ gần đây, rừng đầu nguồn phía Tây bị tàn phá nhiều, địa mạo vùng duyên hải Trung Bộ trở nên ngày càng không ổn định, thể hiện rõ nhất là lở núi, ḷòng các hồ đập bị lấp dần, các cơn lũ tràn và lũ quét đổ ra Biển Đông. Ḷòng sông, địa mạo các cửa sông thay đổi nhiều sau mỗi mùa lũ. Hậu quả của các cơn bão, các trận lũ quét đối với hạ tầng cơ sở là khá nặng nề . - Với mực nước biển dâng, sự không ổn định của địa mạo c̣ác đến từ phía Biển Đông nghĩa là đến từ hai phía của dải đất hẹp miền Trung. Những năm gần đây, tình hình bờ biển bị xâm thực xảy ra nhiều hơn. Khác với hậu quả của các cơn bão hay lũ quét thường xảy ra vào mùa mưa băo hàng năm, sự đe dọa của biển dâng lên hạ tầng cơ sở dọc bờ biển theo mùa, theo kỳ triều và thường xuyên hơn. H́nh 9. Ảnh vệ tinh vùng Duyên hải miền Trung - Do tính không ổn định của địa mạo, hơn những địa bàn khác, ở vùng duyên hải miền Trung tác động về mặt tự nhiên và kinh tế xã hội gắn chặt và trực tiếp với nhau, từ phía đồi núi phía Tây cũng như từ phía Biển Đông. - Những địa bàn bị ảnh hưởng mạnh nhất là các đồng bằng ven biển và ở cuối các con sông, nơi mật độ dân số rất cao và phải chịu sức ép từ hai phía biển và núi. - Sa cấu, độ phì của đất, xâm nhập mặn thay đổi sẽ ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng. - Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, xã hội, văn hóa và du lịch tập trung phần lớn ở vùng đồng bằng và ven biển, các cảng biển đă xây dựng dọc miền Trung sẽ chịu sự uy hiếp mạnh mẽ từ mực nước biển dâng. - Nhìn tổng thể, kinh tế - xã hội vùng duyên hải miền Trung sẽ chịu sự tác động trên các mặt: - Biến động về mặt tự nhiên tác động lên kết cấu hạ tầng, lên kinh tế biển và du lịch; sức hút đầu tư cho khu vực II và khu vực III có thể bị ảnh hưởng. - Xây dựng và bảo vệ kết cấu hạ tầng tốn kém hơn; - Sẽ diễn ra sự dịch chuyển dân cư, lao động, các đô thị và cơ sở kinh tế trong nội vùng từ vùng thấp lên vùng cao, và ra ngoài vùng. Biến động này, đến lượt nó, có thể tác động đến sự ổn định địa mạo nếu không tính toán và chuẩn bị kỹ vị trí các địa bàn tiếp nhận. - Những biến động sâu sắc về môi trường tự nhiên và về kinh tế-xã hội nêu lên trên đây có ảnh hưởng đến sự bền vững của sự phát triển của vùng duyên hải miền Trung, mà còn đối với cả nước trong chừng mực mà kết cấu hạ tầng nối liền Bắc Nam hiện nay đều đi qua vùng này. - Ứng phó với biển dâng là một nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu về nhiều mặt kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng chẳng những của hai vùng này mà còn của cả nước. - Biển dâng là một quá tŕnh tiệm tiến. Nếu nhân loại không có biện pháp ngăn chận quyết liệt sự biến đổi khí hậu ở quy mô toàn cầu, quá tŕnh mực nước biển dâng sẽ diễn ra ngày càng nhanh. Do vậy cần có sự chuẩn bị ứng phó đúng mức và ngay từ bây giờ. - Tổng kết từ nhiều địa bàn trên thế giới, có ba cách ứng phó với mực nước biển dâng: bảo vệ (hay chống đở, đương đầu), thích nghi và rút lui về phía sau. Ba cách này đều áp dụng đối với các đối tượng: các công tŕnh kiên cố, sản xuất nông nghiệp, và các hệ sinh thái, đặc biệt các hệ sinh thái đầm lầy. ĐB Sông Cửu Long - Theo tính toán của các chuyên gia quốc tế, nếu mực nước biển dâng lên 1m thì cứ khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất 10% GDP và có khoảng 40.000km2 đồng bằng ven biển Việt Nam bị ngập hàng năm. Trong đó, 90% diện tích vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập hoàn toàn. - Đồng bằng sông Cửu Long được hình thành vào khoảng 11000 năm trở lại đây. Cao trình mặt đất tương đối thấp. Trên nhiều vùng khá rộng, trong Đồng Tháp Muời, Tứ giác Long Xuyên, Bán đảo Cà Mau chẳng hạn, nhiều nơi cao trình chỉ vào khoảng 20 – 30 cm. Với những tác động đă đề cập trên đây, các yếu tố thủy nông quyết định cơ cấu mùa vụ, sinh thái thủy vực, hệ sinh thái rừng ngập nước ngọt (trong Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên và trong U Minh thượng và hạ), ... chịu tác động mạnh mẽ, thậm chí có nơi đe dọa cả chính sự tồn tại. - Đồng bằng sông Cửu Long trước đây rất ít hứng chịu bão. Thế nhưng trong một thập kỷ, năm 1997 đă chịu cơn bảo Linda và năm 2006 đã bị đuôi bão Durion quét qua (Hình 7). Nhiều nghiên cứu gần đây tìm mối tương quan giữa việc bão ở Tây Thái Bình Dương có xu hướng xảy ra thường xuyên hơn sau tháng 10 dương lịch và đi về hướng đường xích đạo, với nhiệt độ nước biển trên bề mặt tăng, kết quả của dòng hải lưu bị thay đổi bởi biến đổi khí hậu toàn cầu. - Cơn bóo NARGIS quét qua châu thổ IRRAWADDY (Myanmar) tháng 5/2008 (Hình 6) và hậu quả nặng nề mà cơn bảo đă gây ra là một cảnh báo đối với Đồng bằng sông Cửu Long. Tàn phá mà đuôi cơn bão Dorion đã gây ra ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ còn lớn lao hơn và khắc nghiệt hơn nhiều nếu mực nước biển dâng lên so với hiện nay (Hình 7). Hình 6. Bão NARGIS vào Myanmar 2/5/2008 Hình 7. Đuôi bão Durion vào ĐBSCL 11/2006 Dựa trên các kết quả điều tra cơ bản tổng hợp và đối chiếu với thực tế sản xuất, kinh tế-xã hội, đồng bằng sông Cửu Long gồm có ba tiểu vùng : tiểu vùng mà quá tŕnh sông chiếm ưu thế (A), tiểu vùng nơi quá trình biển chiếm ưu thế (C), và tiểu vùng chịu ảnh hưởng của cả hai quá tŕnh sông và biển (B). (Hình 8). Có thể dự báo định tính tác động của mực nước biển dâng lên ba tiểu vùng như sau. Hình 8. Sơ đồ ba tiểu vùng của ĐBSCL dưới tác động của biển dâng Tiểu vùng nơi ảnh hưởng nguồn chiếm ưu thế (A) Đó là các tỉnh giáp biên giới Cam-pu-chia, là nơi hai nhánh sông Mêkông và sông Bassac đi vào lãnh thổ Việt Nam và lũ sông Mê-kông tràn bờ và tràn đồng vào Đồng bằng sông Cửu Long. Tiểu vùng này chịu tác động về môi trường tự nhiên của mực nước biển dâng nhưng không mạnh như hai tiểu vùng B và C. Do quá trình biển mạnh lên do biển dâng, ranh dưới của tiểu vùng sẽ lùi về phía nguồn, độ sâu ngập vào mùa lũ sẽ sâu hơn và thời gian ngập cũng có thể kéo dài hơn. Bồi lở bờ sông, cồn bãi hoạt động mạnh hơn. Về mặt kinh tế-xã hội, khu vực I của nền kinh tế biến động nhưng việc khắc phục không quá khó, v́ chủ yếu vẫn còn là các hệ canh tác nước ngọt. Cơ cấu mùa vụ, hệ thống canh tác có thể xảy ra tại một số địa bàn và sự điều chỉnh các công tŕnh thủy lợi ở những địa bàn này là cần thiết. Tiểu vùng nơi ảnh hưởng biển chiếm ưu thế (C) Đây là vùng duyên hải của các tỉnh giáp với Biển Đông và Vịnh Thái Lan. - Tiểu vùng này chịu tác động về môi trường tự nhiên của mực nước biển dâng trực tiếp nhất. Hệ sinh thái bãi triều và rừng ngập mặn qua gánh chịu các tác động sẽ thể hiện vai trò “đệm” giảm sóng, phòng hộ và giữ đất. Tình hình xói lở đường bờ sẽ mạnh hơn. Tình hình bồi lắng ở các cửa sông sẽ thay đổi. Đường ranh với tiểu vùng (B) sẽ bị “đẩy lên” về phía nguồn. Quy hoạch thủy lợi, đê bao ven biển cần được tính toán lại với những tham số mới của phân vùng thủy văn thủy lực trong tiểu vùng. - Về mặt kinh tế - xã hội, khu vực I tại đây, đó thích ứng từ trước với điều kiện ngập theo triều và nhiễm mặn hầu như quanh năm, sẽ thay đổi theo hướng “kinh tế nước mặn” là chính. Vùng sản xuất lúa sẽ bị co lai. Khu vực II, khu vực III và đời sống, sinh hoạt của người dân sẽ khó khăn hơn do độ ngập tăng và khan hiếm nguồn nước ngọt. Nguồn nước ngọt tại đây chỉ trông chờ vào nước mưa và nước ngầm. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng để tôn cao và bảo vệ công trình sẽ tốn kém không ít. Vì những lí do đó, một bộ phận dân cư có thể sẽ dịch chuyển ra ngoài tiểu vùng. Vấn đề lớn nhất của tiểu vùng là bảo vệ các thành quả của lao động quá khứ. Tiểu vùng chịu ảnh hưởng hỗn hợp biển và nguồn (B) - Đây là địa bàn thể hiện rơ rệt nhất sự giao thoa giữa hai quá tŕnh sông và biển, với quá tŕnh biển mạnh lên. - Tiểu vùng chịu sự tác động về môi trường tự nhiên mạnh dần theo hướng từ nguồn ra biển. Diện tích của tiểu vùng bị thu hẹp lại. - Ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội ở tiểu vùng này rất to lớn do đây là vùng tập trung dân cư đô thị, có nhiều cơ sở kinh tế quan trọng, mà sinh hoạt và các hoạt động kinh tế-xã hội cho tới nay đều dựa vào nguồn nước ngọt dồi dào hầu như quanh năm. - Đối với khu vực I, ở một số địa bàn giáp với tiểu vùng (C), các hệ thống canh tác trên nền nước ngọt như canh tác lúa, vườn cây ăn trái bị tác động về mặt năng suất, về diện tích canh tác; chăn nuôi gia súc gia cầm giảm mạnh; diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt bị thu hẹp do bị nước lợ và mặn lấn lên. - Khu vực II, khu vực III, đô thị và dân cư bị ảnh hưởng và có thể bị xáo trộn khá nhiều. Một bộ phận sẽ dịch chuyển về tiểu vùng A hoặc ra ngoài vùng do thiếu nguồn nước ngọt, do ngập lụt hoặc do xây dựng kết cấu hạ tầng cấp nước ngọt và chống ngập quá tốn kém. Cũng vì những lí do này, sức thu hút đầu tư đã khó sẽ càng khó. - Nhiều tỉnh thành phố ở nước ta bị triều cường nhưng TP HCM bị ảnh hưởng nặng nhất vỡ đây là nơi có kinh tế, giáo dục, du lịch phát triển rất mạnh. Triều cường khiến một số quận của thành phố ngập. Cuối năm ngoái, một số vùng ở đây ngập chừng 1,5 mét, đường sá không đi lại được, máy móc, nhà cửa chìm trong nước - Nhìn tổng thể, kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chịu sự tác động trên các mặt: - Biến động trong sản xuất : Nếu không có giống mới chịu được mặn, kinh tế lúa và kinh tế vườn sẽ giảm sút; kinh tế biển sẽ tăng trưởng nhanh nhưng chưa chắc sẽ bù đắp lại hai sự sụt giảm trên; đầu tư trong lĩnh vực công thương nghiệp càng khó thu hút hơn. - Xây dựng kết cấu hạ tầng đă tốn kém càng tốn kém hơn. - Biến động về phân bố dân cư, đô thị và các trung tâm, cơ sở kinh tế sẽ diễn ra sự dịch chuyển trong nội vùng và ra ngoài vùng Đồng bằng sông Cửu Long. - Những biến động về môi trường tự nhiên và về kinh tế-xă hội nêu lên trên đây sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Đồng bằng sông Cửu Long nếu không kịp thời có sự ứng phó thích hợp. 1. Cuộc sống của hàng chục triệu người dân sẽ gặp nhiều xáo trộn lớn; 2. Vai trò vựa lúa của cả nước, nguồn đóng góp quan trọng cho tổng kim ngạch xuất khẩu và ngân sách nhà nước mà Đồng bằng sông Cửu Long đang đảm nhiệm sẽ chịu thách thức nghiêm trọng; 3. Nhiều khía cạnh về an ninh quốc phòng sẽ được đặt ra, trước tiên là an ninh lương thực cho cả nước Hàng chục người bị thiệt mạng vì lũ cuốn và hàng nghìn ngôi nhà bị phá hủy trong 'Trận lụt Thế kỷ, với thiệt hại chỉ của lũ tháng 10 năm 2007 là khoảng 250 tỷ đồng. Trong tháng 11.2007 đã có hàng chục người chết và mất tích vì lũ lớn tại miền Trung. Còn tại Thành phố Hồ Chí Minh, vào tháng 11 năm 2007, đã xẩy ra một vụ triều cường cực mạnh, thuộc loại dữ dội nhất trong vòng gấn 50 năm, làm cho khoảng 40 đoạn đê che chắn bị vỡ, nhiều nhà cửa, cơ sở sản xuất bị hủy hoại. - T¹i c¸c vïng trªn c¶ n­íc mïa hÌ ®Õn sím h¬n vµ nãng h¬n, mïa ®«ng ®Õn muén h¬n vµ thêi tiÕt thÊt th­êng h¬n. Cã nh÷ng n¨m l­îng m­a gi¶m ®i ®¸ng kÓ ¶nh h­ëng ®Õn ho¹t ®éng tÝch tr÷ n­íc cho SX vµ ph¸t ®iÖn, cã nh÷ng n¨m l­îng m­a l¹i qu¸ nhiÒu vµ tr¸i mïa g©y hËu qua rnghiªm träng ®Õn ®êi sèng nh©n d©n. d, Hệ sinh thái thay đổi: - Ông Nguyễn Hữu Hạnh, Phú Giám đốc VQG Hoàng Liên, phụ trách nghiên cứu khoa học, cho biết các ông đó có bằng chứng về sự dịch chuyển vành đai nhiệt lên cao trong khuôn viên một trong những vườn quốc gia lớn nhất và phong phú nhất Việt Nam. Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã chứng minh được cùng với sự ấm lên của trái đất, nhiều loài cây trên dãy Hoàng Liên Sơn đang phải “sơ tán” lên cao hơn để tồn tại. - Một số loại sin vật chỉ thị chỉ xuất hiện ở độ cao thấp giờ đã thấy xuất hiện ở các khu vực cao hơn VD: Theo điều tra từ năm 2003 ở VQG Hoàng Liên, có hiện tượng dịch chuyển lên phía trên cao của các loài thực vật chỉ thị. Sinh vật chỉ thị hiểu nôm na là loại sinh vật đặc trưng cho một vùng sinh thái với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, nhiệt độ nhất định. Nay, các nhà khoa học thấy chúng có mặt cả ở độ cao 2.400 – 2.700 m. Chẳng hạn, ở độ cao 2.200-2.400 m, trước đây có thực vật chỉ thị là cây thông Vân Sam Hoàng Liên, loài thực vật có tên trong Sách Đỏ Thế giới, cuốn sách ghi danh các loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng toàn cầu. Điều đó có nghĩa là nền nhiệt độ ở độ cao 2.400 -2.700 m ở Hoàng Liên Sơn giờ đó tăng lên bằng nền nhiệt độ ở độ cao 2.200 – 2.400m trước đây. Một số loài cây đặc hữu khác, tức chỉ có ở Hoàng Liên Sơn, như Thích Fanxipan, Thích Sapa, v.v…cũng có hiện tượng tương tự. Vốn chỉ sinh trưởng ở độ cao dưới 1.700m, nay các nhà khoa học thấy chúng cũng đang leo núi, dịch chuyển dần lên vị trí cao hơn trước đây. - Một số loại cây lạ xuất hiện do biến đổi khí hậu. e, Ảnh hưởng tới sức khoẻ của người dân: - Bão lũ là nguyên nhân gây ra ô nhiễm mô._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22524.doc
Tài liệu liên quan