LỜI MỞ ĐẦU
Khi trình bày quan niệm về nhận thức, trong lịch sử triết học đã xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau. Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau. Song đây chính là con đường biện chứng của quá trình nhận thức: “ đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Với việc đưa nội dung này vào lý luận nhận thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac - Lênin đã tạo nê
23 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1986 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Biện chứng của quá trình nhận thức và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Khi đưa ra một vấn đề nào đó, mỗi người có một khả năng nhận thức khác nhau, từ đó đưa ra những quan điểm, nhận định của riêng cá nhân mình. Để xét xem bản thân những tri thức ấy có chân thực hay không thì nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo đánh giá, đồng thời cải tạo thực tiễn, giúp cho nhận thức ngày càng trở nên đúng đắn hơn.
Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm giúp con người nhận thức sáng suốt hơn, từ đó thực hiện những hành động đúng đắn, phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tuân theo các quy luật khách quan nhằm cải thiện đời sống con người ngày càng phát triển và ổn định hơn. Vấn đề này được nghiên cứu dưới hình thức lý luận triết học có liên hệ thực tiễn.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đoàn Quang Thọ đã hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Trong quá trình hoàn thành, em vẫn còn rất nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy.
NỘI DUNG
I. BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC
1. Quan niệm về nhận thức của các trào lưu triết học trước Mác
Xuất phát từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác của con người. Còn chủ nghĩa duy tâm khách quan lại coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các ý niệm” mà nó đã từng chiêm ngưỡng được nhưng đã bị lãng quên, hoặc cho rằng nhận thức là sự “tự ý thức về mình của ý niệm tuyệt đối”.
Khác với chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan, những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận thức. Đến thời kì cận đại, khuynh hướng này phủ nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người hoặc hạn chế ở cảm giác bề ngoài của sự vật.
Đối lập với những quan điểm đó, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người. Tuy nhiên, do sự hạn chế bởi tính trực quan, siêu hình, máy móc mà chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận thức là sự phản ánh trực quan, đơn giản, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật. Họ chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Chính vì thế mà C.Mác đã nhận xét rằng: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay, kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan” .
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước Mác đều quan niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về lý luận nhận thức chưa được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt là chưa thấy được đầy đủ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
2. Quan niệm về bản chất nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã tạo ra cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức. Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý, phát triển một cách sáng tạo và được minh chứng bởi những thành tựu của khoa học, kỹ thuật, của thực tiễn xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy vật về nhận thức. Học thuyết này ra đời dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập đối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người.
Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Không có cái gì là không thể nhận thức được, mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được nhưng sẽ nhận thức được. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan. Nhờ có nhận thức, con người mới có ý thức về thế giới, ý thức về cơ bản là kết quả của quá trình nhận thức về thế giới. Thế giới vật chất tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức của con người, tác động vào các giác quan sinh ra cảm giác, từ đó đi tới hình thành ý thức. Con người (cá nhân, nhóm người, giai cấp, dân tộc và cả nhân loại) là chủ thể tích cực sáng tạo của nhận thức. Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lí tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức,… đều tham gia vào quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức. Còn khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực khách quan mà nhận thức hướng tới, nắm bắt, phản ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức. Do vậy, khách thể nhận thức không đồng nhất hoàn toàn với hiện thực khách quan. Phạm vi của khách thể được mở rộng đến đâu là tuỳ theo sự phát triển của nhận thức, của khoa học. Như vậy, không chỉ chủ thể nhận thức mà cả khách thể nhận thức cũng mang tính lịch sử - xã hội.
Ba là, nhận thức không phải là một hành động tức thời, giản đơn, máy móc và thụ động, mà là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo con đường “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Đó cũng chính là quá trình nhận thức đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, đi từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Vì vậy, trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng. Nghĩa là đừng giả định nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh ra từ sự không hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn như thế nào.
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Dựa trên những nguyên tắc cơ bản đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người trên cơ sở thực tiễn.
II. BIỆN CHỨNG CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
Nhiệm vụ của nhận thức là đạt đến chân lý, nghĩa là đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan. Vì vậy, nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn. Nhưng nhận thức diễn ra theo quá trình như thế nào, vấn đề này được Lênin diễn tả qua luận điểm: “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan.
Áp dụng phép biện chứng duy vật vào nhận thức, chúng ta nhận thấy rằng, nhận thức không phải là một sự phản ánh ngưng đọng, sao chép máy móc hiện thực, mà là một quá trình phát triển theo từng giai đoạn, những giai đoạn này liên hệ với nhau và giai đoạn này nhất thiết phải là tiền đề của giai đoạn kia.
1. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng
Trực quan sinh động hay nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn mà con người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật nhằm nắm bắt các sự vật ấy. Trực quan sinh động được biểu hiện dưới ba hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Khi các sự vật trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta thì gây nên trong ta những cảm giác. Mỗi cảm giác giúp ta nhận biết một thuộc tính nào đó của sự vật. Khi tiếp xúc với sự vật, sự vật thường cùng một lúc tác động lên nhiều giác quan của chúng ta, giúp ta cảm nhận nhiều thuộc tính của nó. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Chính vì thế, Lênin đã viết: “Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” .
Nhưng nếu dừng lại ở cảm giác thì nhận thức mới chỉ hiểu biết được từng thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng. Điều đó là không đủ. Bởi vì, muốn tìm hiểu bản chất của sự vật, hiện tượng phải nắm được một cách tương đối toàn vẹn các thuộc tính của các sự vật, hiện tượng ấy. Đây là một điều tất yếu của quá trình nhận thức và cũng là một mâu thuẫn giữa bộ phận và toàn bộ trong nhận thức cần phải giải quyết. Vì thế, nhận thức không dừng lại ở cảm giác mà phải tiến lên tri giác. Sự tổng hợp của những cảm giác phản ánh những thuộc tính trong mối liên hệ hữu cơ với nhau về sự vật được gọi là tri giác. So với cảm giác thì tri giác đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn, hoàn chỉnh hơn. Tuy nhiên, nhận thức vẫn chưa thể dừng lại ở tri giác. Bởi vì đến tri giác, con người mới chỉ có được hình ảnh trực quan và tương đối hoàn chỉnh về đối tượng. Trong khi đó, nhận thức không phải lúc nào cũng đòi hỏi phải có các sự vật xuất hiện trước các giác quan, mà nhiều khi nó chỉ xuất hiện một lần rồi biến đổi, nhưng con người vẫn phải nhận thức về nó. Như vậy, ở đây xuất hiện một mâu thuẫn giữa sự vật hiện có với thực tế sự vật không hiện có trước các giác quan của con người. Khi giải quyết mâu thuẫn đó, nhận thức phải chuyển lên một nấc thang cao hơn đó là biểu tượng.
Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan sinh động. Đó là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ óc con người về sự vật khi sự vật đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan. Tuy là hình ảnh cảm tính nhưng biểu tượng đã chứa đựng những yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ sự phối hợp, bổ sung lẫn cho nhau của các giác quan nhưng đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp và ít nhiều mang tính chất trừu tượng hoá.
Như vậy, cảm giác, tri giác và biểu tượng là những giai đoạn kế tiếp nhau của hình thức nhận thức cảm tính. Giai đoạn nhận thức cảm tính đem lại cho ta những hiểu biết còn dừng lại ở cái bề ngoài, cái hiện tượng, cái đơn nhất mà ít nhiều còn mang tính chất ngẫu nhiên. Những cảm giác, tri giác và biểu tượng tự nó không thể nào phản ánh được những thuộc tính bản chất, những quy luật vận động của sự vật.
Do đó, dừng lại ở nhận thức cảm tính sẽ gặp phải mâu thuẫn giữa một bên là thực trạng chưa phân biệt được đâu là cái bản chất, tất yếu, bên trong, đâu là cái không bản chất, ngẫu nhiên bên ngoài với một nhu cầu tất yếu phải phân biệt được những cái đó thì con người mới có thể nắm được quy luật vận động và phát triển của sự vật. Khi giải quyết mâu thuẫn ấy, nhận thức sẽ vượt lên một trình độ mới, cao hơn về chất. Đó là trình độ nhận thức lý tính hay còn gọi là giai đoạn tư duy trừu tượng.
Tư duy trừu tượng bắt nguồn từ nhận thức cảm tính, nhưng phản ánh hiện thực sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn, tức là có thể phản ánh được những thuộc tính và mối quan hệ bản chất mang tính quy luật của sự vật. Sở dĩ có được sức mạnh đó là vì tư duy trừu tượng đã sử dụng phương pháp trừu tượng hoá và khái quát hoá những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp. Tư duy trừu tượng được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy luận.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Khái niệm là kết quả của quá trình trừu tượng hoá và khái quát hoá những tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan. Mọi khái niệm khoa học đều được hình thành, bổ sung và phát triển trên cơ sở phản ánh những thành tựu của khoa học và thực tiễn. Có thể xem những khái niệm đã hình thành như những vật liệu để xây dựng nền tri thức khoa học, hệ thống lý luận.
Phán đoán là một trong những hình thức của tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm đã có lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của sự vật hiện tượng. Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến. Trong đó phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự bao quát rộng lớn nhất về đối tượng. Nếu như khái niệm phản ánh những thuộc tính chung, bản chất của sự vật, hiện tượng thì phán đoán phản ánh những mối quan hệ, liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và các mặt giữa chúng. Như vậy phán đoán là một hình thức biểu đạt các quy luật khách quan. Một phán đoán phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan sẽ mang lại giá trị chân thực, nếu phản ánh không chân thực là giả dối. Như vậy nhận thức không chỉ dừng lại ở phán đoán mà nhất thiết phải có suy luận.
Suy luận là sự liên kết một số phán đoán đã biết lại với nhau để rút ra một phán đoán mới. Trong suy luận, chúng ta nhận thức thế giới một cách gián tiếp dựa trên việc sử dụng những tri thức đã đạt được để suy ra tri thức mới. Tuỳ theo sự kết hợp các phán đoán theo trật tự nào (từ phán đoán đơn nhất qua phán đoán đặc thù, rồi tới phán đoán phổ biến hoặc ngược lại) mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.
Như vậy tư duy trừu tượng phản ánh hiện thực khách quan thông qua những hình thức như khái niệm, phán đoán và suy luận. Những hình thức này không tách rời nhau, chúng có mối liên hệ biện chứng, tác động và quy định lẫn nhau. Tư duy trừu tượng là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp mang tính trừu tượng và khái quát. Đó là sự phản ánh sâu sắc, là sự nhận thức bằng khái niệm. Khái niệm là sản phẩm cao nhất của bộ óc con người bởi vì khái niệm phản ánh được những thuộc tính, bản chất, tính quy luật của sự vật.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Chúng có những đặc điểm khác nhau nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Mỗi giai đoạn, mỗi yếu tố có vị trí và vai trò của nó trong quá trình nhận thức. Chúng bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, đem lại cho con người những hiểu biết sâu sắc về sự vật. Nếu nhận thức chỉ dừng lại ở giai đoạn cảm tính thì con người sẽ không thể nào khám phá ra được bản chất, quy luật của sự vật. Ngược lại, nếu tư duy trừu tượng không bắt nguồn từ cảm tính thì sẽ không có cơ sở và khả năng phản ánh đúng đắn sự vật được. Cho nên nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn, hai yếu tố không thể tách rời nhau của một quá trình nhận thức thống nhất. Từ nhận thức cảm tính đến lý tính là sự chuyển hoá biện chứng, là sự nhảy vọt từ sự hiểu biết cụ thể cảm tính đến sự hiểu biết khái quát về bản chất sự vật.
2. Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng cơ bản của triết học Mác - Lênin nói chung và của lý luận nhận thức macxit nói riêng. Trong lịch sử triết học không phải mọi trào lưu đều đã đưa ra quan niệm một cách đúng đắn về phạm trù này. Theo chủ nghĩa duy tâm, thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác mặc dù đã hiểu thực tiễn là một hành động vật chất của con người, nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu. Nó không có vai trò gì đối với nhận thức của con người.
Khắc phục những yếu tố sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lí trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Hai ông cho rằng: thực tiễn là toàn bộ những hoat động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những mục đích của mình. Những hoạt động ấy là những hoạt động đặc trưng và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kì lịch sử. Chính vì vậy mà thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính lịch sử - xã hội.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải và những điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại của mình và xã hội. Còn hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn , được tiến hành nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Mỗi hình thức hoạt động có một chức năng quan trọng khác nhau, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức hoạt động khác. Ngược lại, các hình thức hoạt động chính trị và thực nghiệm khoa học cũng không hoàn toàn thụ động, lệ thuộc một chiều vào hoạt động sản xuất vật chất. Chúng cũng có tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất phát triển.
Như vậy, chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.
Mặt khác, quá trình nhận thức, mục đích của nó không phải chỉ là để nhận thức. Hơn nữa, tư duy trừu tượng là sự phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan, muốn biết kết quả của nhận thức đúng hay sai lầm buộc phải trở về thực tiễn để kiểm nghiệm, đồng thời áp dụng vào thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả.
Do đó, thực tiễn chính là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Bởi vì, thực tiễn là những hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức. Nó luôn luôn vận động và phát triển trong lịch sử, nhờ đó mà thúc đẩy nhận thức cùng vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. C.Mác đã viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý” .
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý mà thực tiễn là điểm bắt đầu và cũng là điểm kết thúc của một quá trình. Như thế, sự kết thúc này lại là sự bắt đầu của một quá trình mới và cứ thế vận động mãi mãi, làm cho nhận thức của con người ngày càng sâu sắc hơn, nắm bắt được bản chất và các quy luật của thế giới khách quan, phục vụ cho hoạt động thực tiễn của con người
III. THỰC TIỄN VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM
1. Kinh tế Việt Nam thời kì 10 năm đầu sau khi đất nước được thống nhất (1976 – 1985)
Ngay sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1975), dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta bắt đầu tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Giữa thập niên 70, với nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lại bị chiến tranh kéo dài tàn phá nặng nề, Việt Nam đặt mục tiêu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa trong hoàn cảnh đất nước vừa mới hoà bình thống nhất. Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển, Liên Xô xây dựng cơ sở vật chất ban đầu của chủ nghĩa cộng sản. Hoàn cảnh đó tạo nhiều thuận lợi cho Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tại đại hội IV (12/1976) của Đảng đã xác định đường lối chung và đường lối xây dựng nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa trong thời kì mới ở nước ta.
Đường lối xây dựng nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa do đại hội IV đề ra như sau: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển công nghiệp và nông nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế Trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng” .
Đường lối đó được cụ thể hoá bằng việc xác định miền Bắc trên cơ sở đẩy mạnh công nhiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tiép tục củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, xây dựng và cải tiến chế độ quản lý, mở rộng và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh về mọi mặt. Việc các hợp tác xã nhanh chóng mở rộng quy mô, tổ chức lại thành quy mô lớn trên địa bàn cấp huyện đã trở thành một phong trào rầm rộ và rộng khắp. Ở miền Nam, phấn đấu đến năm 1980 về cơ bản đã hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa. Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các tư bản tư doanh thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và tiểu thương được tiến hành mạnh mẽ, ồ ạt trong hai năm 1977 và 1978. Mô hình hợp tác xã quy mô lớn ở miền Bắc được áp dụng rộng rãi vào các tỉnh miền Nam, nên đến năm 1980, việc đưa nông dân vào hợp tác xã đã trở nên phổ biến.
Tuy nhiên với một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, chủ yếu bằng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tổ chức lại sản xuất và mở rộng quy mô hợp tác xã, áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với hy vọng có nhiều chủ nghĩa xã hội hơn, chúng ta đã bộc lộ tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí cả trong lý luận lẫn chỉ đạo thực tiễn. Điều đó đã dẫn đến kết quả thực tế trái với ý định và dự kiến tốt đẹp ban đầu. Các mục tiêu đại hội IV đề ra đều không đạt được. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng rất chậm chạp, thậm chí đến cuối những năm 70 đã bước vào khủng hoảng, sản xuất trì trệ, giá cả tăng nhanh, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 6 khoá IV năm 1979 đã đánh giá lại tình hình, chỉ ra những sai lầm trong lãnh đạo kinh tế, chủ yếu là trong viêc xây dựng kế hoạch mang tính tập trung quan liêu, chưa kết hợp kế hoạch với thị trường, chưa sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế cá thể và tư sản dân tộc ở miền Nam, chậm khắc phục sự trì trệ, bảo thủ trong việc xây dựng các chính sách cụ thể về kinh tế, tài chính để khuyến khích sản xuất, có biểu hiện giản đơn trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam.
Vì vậy, tháng 3 năm 1982, tại đại hội lần V của Đảng đã xác định những chủ trương lớn, đề ra đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt bao gồm thời kì 5 năm 1981 - 1985 và kéo dài đến năm 1990: “trong 5 năm 1981 - 1985 và những năm 80, cần tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số nghành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Quyết tâm đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, hoàn thành về cơ bản hợp tác hoá nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam với hình thức phổ biến là tập đoàn sản xuất. Phấn đấu hoàn thành về cơ bản cải tạo thương nghiệp, vận tải công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở các tỉnh phía Nam bằng cách làm và hình thức thích hợp trong một thời gian nhất định, ở miền Nam vẫn còn 5 thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư nhân)” .
Trong thời kì này, tuy có nhiều khó khăn trở ngại, nhưng nước ta cũng đã đạt được một số thành tựu quan trọng, một số chỉ báo có mức tăng trưởng khá hơn so với thời kì 1976 - 1980. So với năm 1976, tổng sản phẩm xã hội năm 1980 chỉ tăng 4,2% thì trong giai đoạn 1981 - 1985 tổng sản phẩm xã hội đã tăng 42,3%, bình quân tăng 7,3%/ năm, riêng năm 1985 tăng 50,5%. Hàng trăm công trình xây dựng tương đối lớn trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, văn hoá xã hội… đã được xây dựng trên khắp các miền của đất nước, góp phần phát triển thêm một bước lực lượng sản xuất. Tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân cũng đã được tăng lên đáng kể, so với năm 1976 thì năm 1980 là 129,2% nhưng đến năm 1985 đã tăng 205,3% (tính theo giá năm 1982).
Sau khi thực hiện chủ trương tập trung cao độ cho sản xuất nông nghiệp, coi “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” do Đại hội lần V đề ra cùng với chế độ “khoán 100”, chúng ta đã ngăn chặn được tình hình giảm sút của những năm trước. Nông dân nhiệt tình và đầu tư nhiều hơn cho sản xuất. Đầu tư của Nhà nước cho ngành nông nghiệp cũng được tăng cao. Trong thời kì này, Nhà nước đã thực hiện chủ trương khai hoang, phục hoá, tăng vụ, diện tích gieo trồng đã được tăng thêm 1,5 triệu ha, đã cung ứng thêm cho nông nghiệp gần 10.000 máy kéo các loại, đưa tỉ lệ cơ giới hoá làm đất lên 25% diện tích gieo trồng. Do vậy, sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn 1981 - 1985 đã đạt một bước phát triển quan trọng. Năm 1985, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp đạt 126,9% so với năm 1980, bình quân hàng năm tăng 4,9%. Sản lượng lương thực tăng 27%, đạt 18,2 triện tấn, bình quân đầu người đạt 304 kg (so với mức 268 kg năm 1980). Nhờ những cố gắng trên mặt trận nông nghiệp mà lương thực, thực phẩm và những yêu cầu bức thiết của đời sống nhân dân cơ bản đã được đảm bảo.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cũng rất quan tâm đến vấn đề phát triển công nghiệp, tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Để tiếp tục sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước trong những năm qua, Nhà nước đã đầu tư vào các ngành công nghiệp gần 65 tỉ đồng (tính theo giá năm 1982), chiếm trên 40% tổng số vốn đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất, có tốc độ tăng cao hơn mức tăng bình quân của toàn bộ khu vực vật chất. Trong đó chúng ta đã đầu tư vào nhóm A trên 70% và nhóm B dưới 30%. Trong giai đoạn này, nhiều công trình tương đối lớn đã được xây dựng như nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thuỷ điện Hoà Bình, khu dầu khí Vũng Tàu… Do đó, giá trị tài sản cố định của toàn ngành công nghiệp đã tăng lên đáng kể, đạt 18,6 tỉ đồng, bằng 40% tổng giá trị tài sản cố định mới tăng thuộc khu vực này. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 57,4%, tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 9,5%. Kết quả một mặt là do những cải tiến quản lí trong công nghiệp quốc doanh theo tinh thần quyết định 25/CP, làm cho các xí nghiệp quốc doanh trở nên năng động, sản xuất công nghiệp được “bung ra”, cơ cấu công nghiệp điều chỉnh theo hướng đẩy mạnh hơn các ngành công nghiệp nhẹ, nên năm 1985 tỷ trọng của công nghiệp nhẹ trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp chiếm 67,3% (so với 56,9% năm 1980).
Mặc dù có những tiến bộ đáng kể trong giai đoạn này, nhưng nhìn chung công nghiệp Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé, năm 1985 mới thu hút được 10,7% tổng số lao động xã hội, chủ yếu là lao động thủ công với năng suất thấp. Tuy chiếm 41% giá trị tài sản cố định của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhưng công nghiệp chỉ tạo ra được 28,2% thu nhập quốc dân, hiệu quả sản xuất trên một đồng vốn đầu tư rất thấp. Công nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, nền kinh tế nước ta trong thời kì này cũng bộc lộ nhiều yếu kém, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai và thứ ba không đạt được. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra thì chỉ có 7 chỉ tiêu đạt 50 - 80% so với kế hoạch, còn 8 chỉ tiêu khác chỉ đạt 25 - 48%. Điều đó đã ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh tế và đời sống của nhân dân lao động.
Cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có của nền kinh tế quốc dân còn yếu kém, thiếu đồng bộ, cũ nát, trình độ kĩ thuật nói chung còn lạc hậu (phổ biến là trình độ kĩ thuật của những năm 1960 trở về trước); công nghiệp nặng còn xa mới đáp ứng được nhu cầu tối thiểu; công nghiệp nhẹ bị phụ thuộc 70 - 80% nguyên liệu nhập khẩu. Do đó, đại bộ phận lao động xã hội vẫn đang còn là lao động thủ công. Nền kinh tế chủ yếu vẫn còn là sản xuất nhỏ. Phân công lao động xã hội kém phát triển. Năng xuất lao động xã hội rất thấp.
Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Sản xuất phát triển chậm, không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Sản xuất không đủ tiêu dùng, làm không đủ ăn, phải dựa vào nguồn bên ngoài ngày càng lớn. Năm 1985, dân số cả nước là gần 59,9 triệu người, tăng bình quân 2,3%/ năm trong 10 năm. Để đảm bảo việc làm và thu nhập của dân cư không giảm thì ít nhất nền kinh tế phải tăng bình quân 7%/ năm. Nhưng thực tế nền kinh tế không đạt được như vậy, nên sản xuất trong nước luôn không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của dân cư. Trong 10 năm này, thu nhập quốc dân sản xuất trong nước chỉ bằng 80 - 90% thu nhập quốc dân sử dụng. Toàn bộ quỹ tích luỹ lớn ( rất nhỏ bé) và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài (riêng lương thực đã phải nhập 5,6 triệu tấn trong thời gian 1976 - 1980). Năm 1985, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỷ rúp - USD. Các hố ngăn cách giữa nhu cầu và năng lực sản xuất ngày càng sâu.
Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, nhất là đối với cán bộ, công nhân viên, lực lượng vũ trang và một bộ phận nông dân. Tiền lương thực tế bình quân hàng tháng của cán bộ công nhân viên chức so với năm 1975 thì năm 1980 chỉ bằng 51,1%; năm 1984 bằng 32,7%. Do đó, tiêu cực và bất công xã hội tăng lên. Trật tự xã hội bị giảm sút. Những điều đó chứng tỏ trong thời gian này nước ta bị khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng.
Sở dĩ nền kinh tế nước ta còn có những hạn chế yếu kém như trên, một phần là do chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lại bị 30 năm chiến tranh tàn phá nặng nề với hậu quả rất nghiêm trọng. Mặt khác, trong công tác xây dự._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35931.doc