Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ theo quy định của pháp luật Việt Nam

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhu cầu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) xuất hiện cùng với sự phát triển của giao lưu thương mại nhằm bảo vệ quyền của chủ sở hữu đối với các đối tượng SHCN. Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp vẫn không ngừng vận động và phát triển theo hướng mở rộng các quyền năng cho chủ sở hữu, mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ. Vấn đề bảo hộ SHCN không chỉ là vấn đề riêng lẻ của từng quốc gia mà nó chính là vấn đề mang tính toàn cầu trong bối cảnh tự d

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ theo quy định của pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o hóa, toàn cầu hóa thương mại hiện nay. Nền kinh tế Việt Nam có một bước ngoặt được đánh dấu bằng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12/1986 trong đó Đảng và Nhà nước ta đã dứt khoát xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu hành chính, bao cấp, chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình đổi mới về kinh tế đã ngày càng chứng tỏ nền kinh tế nước ta đã và đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lúc này, các doanh nghiệp cũng dần có được quyền bình đẳng trong hoạt động kinh doanh với môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tình hình này cũng làm giảm đáng kể sự độc quyền, sự độc quyền chỉ còn tồn tại đâu đó trong một số ngành cung cấp có tính chất đặc biệt còn hầu hết là sự phong phú của hàng hóa, dịch vụ được tạo ra bởi các thành phần kinh tế khác nhau. Do vậy, người tiêu dùng đang dần trở thành "thượng đế" theo đúng nghĩa của nó. Hàng hóa đa dạng, dịch vụ phong phú cũng khiến các doanh nghiệp để mời được "thượng đế" đến với mình buộc phải coi trọng và có sự thay đổi liên mục mẫu mã, chủng loại hàng hóa của mình trên thị trường nhưng đồng thời chữ tín ngày càng được các doanh nghiệp quan tâm xây dựng dựa vào các thương hiệu… Bởi, một trong những cơ sở để người tiêu dùng lựa chọn chính là những dấu hiệu thể hiện trên bao bì, nhãn mác, giấy tờ giao dịch, quảng cáo của sản phẩm, dịch vụ. Có rất nhiều dấu hiệu để người tiêu dùng có thể nhận biết được hàng hóa sản phẩm như: nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý…Và những dấu hiệu này làm phát sinh trách nhiệm của chính doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, đối với xã hội, bởi chúng chính là yếu tố quan trọng giúp người tiêu dùng xác định sản phẩm, dịch vụ mà họ mong muốn. Tuy vậy, một mặt các nhà sản xuất, kinh doanh phải lo phục vụ cho người tiêu dùng, đem đến cho người tiêu dùng những sản phẩm, dịch vụ với chất lượng tốt nhất, một mặt khác để tồn tại họ buộc phải đối mặt với nạn hàng nhái, hàng giả đang tràn ngập trên thị trường với những sự sao chép, mô phỏng, nhái theo ngày càng tinh vi. Tình trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đang ngày càng diễn ra một cách tràn lan và có quy mô, thủ đoạn ngày càng tinh vi và rộng khắp làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường kinh doanh lành mạnh mà pháp luật đang bảo vệ; quyền lợi của người tiêu dùng cũng vì thế mà không được đảm bảo. Chính vì vậy, vấn đề phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu hàng hóa (NHHH), tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đang ngày càng trở nên bức xúc đối với những người kinh doanh chân chính, đây cũng là đòi hỏi làm trong sạch thị trường nhằm bảo vệ cho quyền lợi của người tiêu dùng. Khi thực hiện được các bảo hộ này là đương nhiên chúng ta đã thực hiện được đòi hỏi trong sạch và lành mạnh hóa thị trường. Trong bối cảnh hiện nay, khi nhu cầu hội nhập là vấn đề mang tính tất yếu khách quan, kinh tế tri thức chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế toàn cầu thì vấn đề bảo hộ sở hữu công nghiệp càng được đặt ra là vấn đề bức thiết của bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là Việt Nam. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ 2001 đến 2010 đã chỉ rõ một trong những mục tiêu cơ bản trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam là "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta nhằm đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định Thương mại Việt Mỹ, tiến tới gia nhập WTO..". Chúng ta đã là thành viên của ASEAN, APEC… và ngày 14/11/2006 đánh dấu một điểm mốc quan trọng, chúng ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Điều này càng đặt vấn đề hoàn thiện pháp luật về sở hữu công nghiệp trước những thách thức mới bởi chúng ta phải thực hiện những quy định đã cam kết đặc biệt là Hiệp định TRIPS. Trước những yêu cầu khách quan đó, ngày 19/11/2005 Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) được Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. Đây là lần đầu tiên những quy định về SHTT được thống nhất và quy định chặt chẽ trong một bộ luật. Đó cũng chính là lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài "Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ theo quy định của pháp luật Việt Nam" để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh Luật SHTT mới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ 1 tháng 7 năm 2006. Luật SHTT đã có những quy định khá mới mẻ, cập nhật như những quy định về xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu nổi tiếng, những quy định về chỉ dẫn địa lý, quyền tự bảo vệ khi có xâm phạm của chủ thể quyền SHCN… Bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đã được nghiên cứu rất nhiều nhưng đó có thể chỉ là các nghiên cứu của các luận văn tốt nghiệp Đại học hoặc các nghiên cứu mang tính riêng lẻ của từng loại dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ mà thôi. Còn để nghiên cứu tổng hợp thì cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào cụ thể về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, bản chất, nội dung, của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ, vai trò và ý nghĩa của việc bảo hộ. Muốn vậy chúng tôi đã có sự nghiên cứu về sự hình thành pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ trên thế giới và ở Việt Nam. Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ cụ thể của luận văn là: - Tiếp cận một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ, so sánh với các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, từ đó chỉ ra những định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ. Những điểm mới của luận văn thể hiện ở những điểm sau: - Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu một cách tổng hợp về bảo hộ quyền SHCN đối với nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ gồm Tên thương mại, Chỉ dẫn địa lý và Nhãn hiệu theo quy định của Luật SHTT 2005. - Nghiên cứu một cách hệ thống nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ này với tư cách là đối tượng quyền SHCN và các biện pháp bảo vệ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ theo Luật SHTT 2005. - Dựa vào việc phân tích thực trạng bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ trong thời gian qua, Luận văn chỉ ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ này. 4. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến nhóm các đối tượng dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ bao gồm Tên thương mại, Chỉ dẫn địa lý và Nhãn hiệu cùng với việc đánh giá thực trạng bảo hộ quyền SHCN đối với những đối tượng này ở Việt Nam từ đó đưa ra những kiến giải nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo hộ quyền SHCN đối với các đối tượng này. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau: Phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp duy vật lịch sử; phương pháp thống kê; so sánh; tổng hợp; điều tra xã hội học... 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ. Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ ở Việt Nam cùng một số khuyến nghị hoàn thiện pháp luật. Chương 1 Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ 1.1. VAI TRÒ CỦA CÁC DẤU HIỆU DÙNG ĐỂ PHÂN BIỆT SẢN PHẨM, DỊCH VỤ VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CÁC DẤU HIỆU DÙNG ĐỂ PHÂN BIỆT SẢN PHẨM, DỊCH VỤ 1.1.1. Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ Một cách rất tự nhiên, ngay từ thời cổ đại con người đã có ý muốn cá biệt hóa kết quả sản phẩm lao động của mình bằng cách sử dụng các dấu hiệu khác nhau: tên gọi riêng, ký hiệu riêng, tên gọi địa lý… "nhiều bằng chứng cho thấy, từ thời cổ đại các nhà sản xuất đã sử dụng các dấu hiệu để chỉ ra nơi ở của mình (tức nơi xuất xứ hàng hóa) Ví dụ: Khoảng thế kỷ thứ IV trước Công nguyên đã xuất hiện những dấu hiệu dùng để phân biệt các loại rượu vang của Hy Lạp, mật ong Xixili…" [26] Qua khoảng thời gian lâu dài, với những kinh nghiệm sản xuất phong phú được tích lũy, những nơi mà có thêm điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc sản xuất sản phẩm được trở thành những vùng chuyên sản xuất sản phẩm đó, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Tên vùng, tên khu vực đó được nổi tiếng và khi nhắc đến chúng người ta liên tưởng ngay đến các sản phẩm đặc trưng có chất lượng cao của vùng. Vì vậy, đã hình thành nên quy luật sử dụng các dấu hiệu địa lý cho các sản phẩm uy tín xuất xứ từ vùng, khu vực nổi tiếng đó. Nhãn hiệu từ lâu đã được sử dụng để nhận biết nguồn gốc của sản phẩm. Có bằng chứng về việc từ xa xưa tới 4.000 năm về trước thợ thủ công ở Trung Quốc, Ấn Độ và Ba Tư đã sử dụng chữ ký của họ hoặc biểu tượng để phân biệt sản phẩm của họ. Thợ gốm La Mã đã sử dụng hơn 100 nhãn hiệu khác nhau để phân biệt tác phẩm của mình, nổi tiếng nhất là nhãn hiệu Fortis mà nhiều sản phẩm giả đã bắt chước. Người ta tin rằng các thợ thủ công đó đã sử dụng nhãn hiệu cho nhiều mục đích, bao gồm sử dụng để quảng cáo cho người làm ra các sản phẩm đó, làm bằng chứng để khẳng định sản phẩm thuộc về một thương gia cụ thể nào đó khi có tranh chấp về sở hữu cũng như sử dụng làm một sự đảm bảo về chất lượng. Rồi từ chính sự phát triển của quá trình phân công lao động và trao đổi hàng hóa đã hình thành những xưởng thủ công, những cơ sở sản xuất thủ công… chuyên sản xuất một số sản phẩm nhất định, nhãn hiệu được bắt đầu bằng những dấu hiệu riêng rất đơn giản để phân biệt hàng hóa giữa những xưởng, cơ sở sản xuất thủ công mang tính chất phường hội. Trong thời Trung cổ, việc sử dụng nhãn hiệu đã được gắn với phát triển và tăng trưởng của thương mại, do đó có thuật ngữ "nhãn hiệu hàng hóa". Nhãn hiệu đã được sử dụng để chỉ ra rằng một sản phẩm do một thành viên của một phường hội được biết đến là có kinh nghiệm trong ngành buôn bán đó làm ra. Trong tiếng Pháp, thuật ngữ được sử dụng là "marque deposée" trong đó deposée có nghĩa là nhãn hiệu đã được đăng ký với một phường hội buôn bán.Thời kỳ này cũng đã có sự giao thương quốc tế, buôn bán hàng hóa giữa các quốc gia, châu lục như con đường tơ lụa bắt đầu từ Hàng Châu, Trung Quốc xuyên qua các quốc gia như Mông Cổ, Ấn Độ, Iran… đến Hy Lạp, vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu… nhưng giao thương quốc tế vẫn chưa thực sự phát triển. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vào thế kỷ XVI - XVII dưới tác động to lớn của cách mạng khoa học công nghệ đặc biệt vào những năm 70, 80 của thể kỷ XIX, nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã có thể sản xuất các sản phẩm hàng loạt, những phát minh quan trọng trong lĩnh vực vận tải đã làm mở cửa thị trường quốc tế. Những sản phẩm mới phục vụ cho cuộc sống tiện nghi hơn liên tiếp được ra đời và sản xuất hàng loạt phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Những sản phẩm từ sản phẩm gia dụng như: từ cây kim, sợi chỉ đến quần áo, giày dép rồi dụng cụ gia đình… và cả những sản phẩm công nghệ cao như đồ điện lạnh, điện tử… được sản xuất hàng loạt và phạm vi tiêu thụ của nó không chỉ còn trong phạm vi một quốc gia hay vùng lãnh thổ nhất định nào mà phát triển mở rộng trên toàn thế giới. Những công ty xuyên quốc gia, những tập đoàn toàn cầu đã tạo nên cuộc cạnh tranh trên thị trường và ngày càng trở nên gay gắt. Tên thương mại là tên gọi được dùng để nhận biết doanh nghiệp, nó giúp phân biệt chủ thể này với chủ thể khác trong cùng một ngành nghề, một lĩnh vực. Đây cũng chính yếu tố quan trọng để thể hiện uy tín của doanh nghiệp. Do vậy, nhu cầu về việc phân biệt sản phẩm, dịch vụ thông qua các dấu hiệu là nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý không chỉ đơn giản là việc đánh dấu sự phân biệt giữa sản phẩm này với sản phẩm khác cùng loại mà nó trở thành công cụ để định vị trong chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Giá trị của chúng không chỉ đơn giản dừng lại ở việc là công cụ để cạnh tranh mà nó trở thành tài sản vô giá của doanh nghiệp. Như vậy, việc sử dụng độc quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đã trở thành nhu cầu sống còn. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường với đặc tính cơ bản là cạnh tranh, vấn đề phân biệt các chủ thể kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc cá thể hóa chủ thể kinh doanh và hoạt động kinh doanh của họ là một trong những điều kiện tiên quyết để làm cơ sở cho việc hình thành và củng cố uy tín kinh doanh cũng như mở rộng phạm vi hoạt động của các chủ thể. Việt Nam, trong nhiều năm qua, với nhiều nỗ lực Luật SHTT đã ra đời đánh dấu một bước phát triển trong sự phát triển của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tại Điều 1 Luật SHTT 2005 quy định: "Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức và cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạng tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu quyền chống cạnh tranh không lành mạnh". Sử dụng phương pháp liệt kê như vậy, cũng để định nghĩa về quyền sở hữu công nghiệp cũng là để phân biệt với quyền tác giả trong SHTT. Bởi lẽ cũng là sản phẩm trí tuệ nhưng nếu các sản phẩm này không liên quan đến việc tạo ra của cải, vật chất cho xã hội thì được bảo hộ bằng quyền tác giả còn nếu các sản phẩm đó gắn với sản xuất kinh doanh, có khả năng áp dụng để tạo ra của cải vật chất cho xã hội thì sẽ được bảo hộ bằng quyền sở hữu công nghiệp. Thuật ngữ quyền sở hữu công nghiệp xuất phát từ chỗ các đối tượng của loại hình sở hữu này là tài sản vô hình nhưng lại áp dụng vào hoạt động công nghiệp hoặc thủ công nghiệp để tạo ra các sản phẩm vật chất do đó có giá trị kinh tế trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Người nào là chủ sở hữu của những tài sản vô hình này thì được khai thác lợi ích kinh tế từ chúng và có lợi thế trong sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy để được bảo hộ thì các đối tượng đó phải thỏa mãn những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Có những đối tượng chỉ được bảo hộ khi được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ, nhưng cũng có những đối tượng không được bảo hộ thông qua hệ thống cấp văn bằng bảo hộ. Một trong những phần không thể thiếu trong quy trình của sở hữu công nghiệp khi mà các đối tượng vô hình của quyền sở hữu công nghiệp lại tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm cho xã hội, lúc đó buộc các nhà kinh doanh phải để ý đến những nhân tố như: nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý… Các nhân tố đó chính là các đối tượng, là công cụ xúc tiến kinh doanh, chúng mang giá trị kinh tế to lớn nhưng là giá trị vô hình trong sản phẩm hữu hình, chúng ta thấy chúng có thể không mang tính sáng tạo cao như sáng chế hay giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp… nhưng chúng lại là sự thể hiện uy tín, chất lượng và phải do có những điều kiện nhất định (ví dụ đối với chỉ dẫn địa lý, phải có những điều kiện tự nhiên ưu đãi nhất định mà chỉ nơi vùng miền đó có, hoặc ví dụ đối với nhãn hiệu, hay tên thương mại, cần phải có sự minh chứng về chất lượng, uy tín của sản phẩm, hay của doanh nghiệp đó) qua một khoảng thời gian) mới có thể tạo nên được sức cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường. Như vậy, có thể thấy các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Cụ thể: * Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đối với nền kinh tế: Nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ gồm nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, theo chúng tôi thực hiện hai chức năng kinh tế vĩ mô chủ yếu đó là (1) giúp người tiêu dùng quyết định về sự lựa chọn của họ đối với sản phẩm trên thị trường; (2) khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào việc phát triển, cung cấp hàng hóa, dịch vụ với chất lượng mà người tiêu dùng mong muốn. Hiện nay, khi Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tầm quan trọng về kinh tế, văn hóa của quyền sở hữu công nghiệp đã tăng lên đáng kể. Sự thay đổi nhận thức về quyền sở hữu công nghiệp xuất phát từ chính sự thay đổi nội tại của nền kinh tế.. Nguyên nhân khách quan dẫn đến sự phát triển của lĩnh vực sở hữu công nghiệp trong nước chính là sự phát triển công nghệ trên thế giới trong suốt mấy thập kỷ qua, thêm vào đó là sự gia tăng đáng kể của các hoạt động thương mại quốc tế. Chúng ta dễ dàng nhận thấy sự tồn tại của các công ty đa quốc gia, các tập đoàn toàn cầu với những dải sản phẩm đa dạng từ sản phẩm tiêu dùng đến những sản phẩm công nghệ cao, những cái tên như Unilever cùng những nhãn hàng toàn cầu của họ như: OMO, POND’S… rồi Microsoft, Intel, Samsung, hay General Electric… Sự phát triển công nghệ diễn ra một cách mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự sáng tạo này làm thay đổi tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ mới. Để khuyến khích sự sáng tạo cần phải bảo hộ SHCN, đặc biệt là bảo hộ SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ. Đối với nước ta, vấn đề này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình đổi mới đất nước cũng như trong việc đưa nền kinh tế hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới. Chúng ta đang xuất khẩu mạnh các mặt hàng nông sản, thực phẩm chế biến, giày dép, quần áo, hàng thủ công mỹ nghệ… với chất lượng ngày càng cao đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của các thị trường khó tính như EU, Mỹ… Tuy nhiên, gần tới 90% hàng Việt Nam vẫn phải vào thị trường thế giới thông qua trung gian dưới dạng gia công thô hoặc gia công cho các thương hiệu nổi tiếng thế giới của nước ngoài [60]. Chúng ta cũng đã có những bài học về việc chậm đăng ký nhãn hiệu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, dẫn đến những tổn thất to lớn về kinh tế, điển hình như vụ tranh chấp nhãn hiệu của Petro Vietnam và cà phê Trung Nguyên tại thị trường Hoa Kỳ, của thuốc lá Vinataba tại thị trường châu Á, phồng tôm Sa Giang tại Pháp và châu Âu… Sự gia tăng đáng kể các doanh nghiệp với nhiều loại hình của các thành phần kinh tế là nguyên nhân chủ quan của sự phát triển của lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào nền kinh tế thị trường đều muốn khẳng định tính ưu việt của mình, vị trí của mình thông qua các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ như tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu. Hiện nay, trong nước, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có những chiến lược phát triển rõ ràng trong việc khai thác các thế mạnh của mình, chúng ta thấy có sự chuyển giao khai thác nhãn hiệu nhằm phát huy tính cạnh tranh của nhãn hiệu đó như việc Tập đoàn Unilever nổi tiếng khi đầu tư ở Việt Nam đã mua lại nhãn hiệu kem đánh răng P/S với giá 7.5 triệu USD, và họ cũng đã chớp cơ hội để đầu tư khai thác chỉ dẫn địa lý ‘Phú Quốc’ với sản phẩm nước mắm Knorr Phú Quốc [48]. Chính sự phát triển không ngừng của các thành tựu khoa học công nghệ đã khẳng định được vị trí then chốt của các tài sản vô hình - sở hữu công nghiệp. Giá trị của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ không chỉ thể hiện ở lợi ích của các chủ thể tham gia vào nền kinh tế mà còn có lợi ích chung của toàn xã hội thể hiện ở việc bảo hộ các đối tượng này cũng khẳng định vị trí của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, tạo ra sự phát triển bình đẳng, lành mạnh của thị trường. Và nó càng có ý nghĩa quan trọng đặc biệt khi những sản phẩm, dịch vụ của chúng ta đến tay người tiêu dùng quốc tế, nó không chỉ góp phần phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước mà còn là sự khẳng định vị thế, thương hiệu của quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. * Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đối với các doanh nghiệp: Nói một cách khái quát nhất, nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ này có thể giúp doanh nghiệp: khẳng định uy tín; tách biệt sản phẩm; đẩy mạnh lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra; tăng cường sự chung thủy của khách hàng; hỗ trợ sự thích ứng với áp lực cạnh tranh; phát huy khả năng. Tuy nhiên hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam hầu như chỉ nhận thấy quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng là dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là một quyền được Nhà nước bảo hộ mà chưa nhận thấy hầu hết quyền SHCN đối với các đối tượng là dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là một lợi thế cạnh tranh dành cho chính họ. sinh lợi; tăng thêm tiền thù lao qua chương trình li-xăng; tạo cơ sở cho franchise; Xét dưới góc độ vốn, quyền SHCN nói chung thuộc hình thức vốn vô hình của thương nhân. Đây là tài sản có giá trị lớn trong khối tài sản của doanh nghiệp. Chúng ta đã thấy có những nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới được định giá đến con số hàng tỷ USD như: Coca-Cola 69,6 tỷ USD, Microsoft 64 tỷ USD, IBM 51,1 tỷ USD, General Electric 41,3 tỷ USD, Intel 30,8 tỷ USD, Nokia 29,9 tỷ USD… [48]. Xét dưới góc độ thương mại, các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là biểu trưng uy tín của doanh nghiệp, khẳng định vị trí của doanh nghiệp nhằm phân biệt doanh nghiệp đó với các doanh nghiệp khác. Thông qua các dấu hiệu đó thương nhân có thể tiếp cận thị trường và giao dịch thương mại. Chúng ta đã có những bài học xương máu về việc doanh nghiệp không nhạy bén dẫn đến việc bị mất nhãn hiệu trên một số thị trường lớn như EU, như Mỹ… những nhãn hiệu như cà phê Trung Nguyên… đã phải rất khó khăn mới lấy lại được nhãn hiệu của mình. Hiện hình thức nhượng quyền, cho thuê, thuê tên thương mại đang ngày càng phổ biến ở Việt Nam, đã xuất hiện những chuỗi nhà hàng thức ăn nhanh Burger, rồi KFC trên thị trường cả nước nhất là tại các thành phố lớn với sức tiêu thụ lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng… đặc biệt một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu của thị trường và tham gia vào việc chuyển nhượng thương hiệu của mình ở cả thị trường trong và ngoài nước như Cà phê Trung Nguyên, hiện nay trên 61 tỉnh thành của cả nước đã có đến hơn 400 cửa hàng cà phê mang tên Trung Nguyên... hay một số khác như Phở 24, thời trang Nino Maxx… Hình thức này mang đến cho doanh nghiệp sự chủ động trong việc kinh doanh và phát triển nguồn tài sản vô hình nhưng có giá trị to lớn của mình và hiện tại ở nhiều nước phát triển trên thế giới hoạt động cho thuê một số đối tượng tài sản vô hình được điều chỉnh bởi các hợp đồng mang tên "franchise" [23]. Tuy nhiên, hiện nay, do chưa nhận thức một cách đầy đủ về giá trị của các dấu hiệu này mà các doanh nghiệp Việt Nam hầu như chưa sử dụng được hết các quyền mà pháp luật đã dành bảo vệ cho họ, chính vì vậy mà các doanh nghiệp đã không những làm mất đi các lợi ích kinh tế chính đáng của mình, làm mất đi lợi thế cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp trên thương trường. Đây không chỉ là thiệt thòi cho bản thân doanh nghiệp mà còn là sự mất mát lớn đối với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, chúng ta không chỉ mất đi thương hiệu của doanh nghiệp mà thậm chí mất đi cả thương hiệu của cả quốc gia trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. * Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đối với người tiêu dùng: Qua điều tra sơ bộ của Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, trong số những người tiêu dùng ở Thành phố Hồ Chí Minh được phỏng vấn, 89% cho rằng nhãn hiệu là yếu tố quyết định khi họ lựa chọn mua sắm [54]. Lý do chủ yếu là nhãn hiệu tạo cho họ sự yên tâm về thông tin xuất xứ, tin tưởng vào chất lượng sản phẩm, tiết kiệm về thời gian tìm kiếm thông tin, giảm rủi ro… Kết quả này cho thấy ngày nay nhận thức của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ đã cao hơn rất nhiều so với trước đây và đây cũng chính là thách thức đòi hỏi bản thân doanh nghiệp, các hiệp hội làng nghề, các cơ quan chủ quản… phải quan tâm và đầu tư thích đáng cho việc phát triển nguồn vốn quý giá này. Hiện nay, trong xu thế mở cửa kinh tế, sự lựa chọn của người tiêu dùng được mở rộng, không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ những hàng hóa, dịch vụ nội địa mà còn là những sản phẩm, dịch vụ của những quốc gia khác trong đó có cả của những quốc gia đã rất phát triển. Chúng ta vẫn cho rằng tâm lý của người tiêu dùng là sính hàng ngoại nhập, chỉ lựa chọn những sản phẩm đã có uy tín của nước ngoài, nhưng trên thực tế không phải hoàn toàn như vậy, chúng ta cũng đã có những nhãn hiệu có thể được xem là nhãn hiệu nổi tiếng đối với người tiêu dùng Việt Nam bởi uy tín và chất lượng đã được kiểm định qua thời gian như: sữa Vinamilk, cà phê Trung Nguyên, sứ cao cấp Minh Long… Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa, bao cấp, vẫn có những nhãn hiệu, những chỉ dẫn địa lý, những tên thương mại gắn sâu vào tiềm thức người tiêu dùng về chất lượng của sản phẩm và uy tín của chúng vẫn còn nguyên giá trị tới bây giờ: những nhãn hiệu như Thuốc lá Thăng Long, giày vải Thượng Đình… hay những sản phẩm truyền thống của các làng nghề, vùng miền… những chỉ dẫn địa lý vàng cho việc lựa chọn sản phẩm không chỉ của người tiên dùng trong nước mà cả người tiêu dùng quốc tế như: nước mắm Cát Hải, nước mắm Phú Quốc, bưởi Đoan Hùng, gốm Bát Tràng… Các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đã thể hiện vai trò đặc biệt quan trọng của chúng trong việc giúp người tiêu dùng định hướng nhu cầu và lựa chọn sản phẩm mong muốn, đồng thời nó cũng chính là một trong những động lực tích cực để cạnh tranh giữa những nhà sản xuất nhằm tạo niềm tin và kích thích sức mua của người tiêu dùng. 1.1.2. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ Với vai trò quan trọng không chỉ đối với nhà sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng mà cả với nền kinh tế, việc bảo hộ quyền SHCN đối với các nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý có ý nghĩa to lớn thể hiện qua các khía cạnh sau: Trước hết việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý sẽ thúc đẩy hoạt động sáng tạo, đổi mới kỹ thuật sản xuất, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo đảm độc quyền khai thác sử dụng đối tượng để chủ sở hữu thu lợi, là biện pháp hữu hiệu để khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân nghiên cứu sáng tạo và áp dụng các kỹ thuật tiến bộ tạo ra những sản phẩm, dịch vụ mới thu hút được người tiêu dùng bằng con đường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp. Đồng thời, đó cũng chính là cách để buộc các nhà sản xuất, kinh doanh thực hiện cam kết về uy tín, chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình đối với người tiêu dùng và đối với toàn xã hội. Việc bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý còn là biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn nếu họ được tạo điều kiện thuận lợi và có cơ sở pháp lý vững chắc an toàn khi đầu tư vào Việt Nam dưới một tên thương mại được bảo hộ hay đưa vào Việt Nam hàng hoá, dịch vụ dưới một nhãn hiệu, một chỉ dẫn địa lý được công nhận. Đặc biệt khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã có hiệu lực thì việc bảo hộ các đối tượng này sẽ càng có ý nghĩa lớn lao bởi toàn bộ các nội dung của Hiệp định này đều có liên quan đến hoạt động SHTT nói chung và SHCN nói riêng. Bảo hộ quyền sở hữu đối với các đối tượng trên còn liên quan mật thiết đến lợi ích kinh tế của các quốc gia bởi việc bảo hộ các đối tượng này là một trong những công việc mà Việt Nam chúng ta đang nỗ lực thực hiện, nhất là trong bối cảnh chúng ta đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việc bảo hộ quyền SHCN đối với các đối tượng này còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bởi vai trò của các đối tượng này chính là giúp cho người tiêu dùng chọn lựa sản phẩm, dịch vụ phù hợp giữa những nhóm sản phẩm, dịch vụ cùng loại. Chúng là những yếu tố giúp người tiêu dùng tránh bị lừa dối hoặc nhầm lẫn khi lựa chọn sản phẩm, dịch vụ nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà hàng nhái, hàng giả tràn lan trên thị trường và ngay cả các cơ quan chức năng cũng khó mà phát hiện ra. 1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CÁC DẤU HIỆU DÙNG ĐỂ PHÂN BIỆT SẢN PHẨM, DỊCH VỤ 1.2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ trên thế giới Pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ trên thế giới đã có từ rất lâu. Điều này xuất phát bởi vai trò đặc biệt quan trọng của các dấu hiệu này đối với nền kinh tế. Tại Pháp, năm 1857 Luật nhãn hiệu đầu tiên được ban hành. Theo luật này, quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa thuộc về người thực hiện sớm nhất (so với người khác) một trong hai việc là sử dụng nhãn hiệu và đăng ký nhãn hiệu theo quy định của Luật. Nếu một người đăng ký một nhãn hiệu nhưng thời điểm đăng ký sử dụng nhãn hiệu đó lại sau người đăng ký thứ hai thì quyền đối với nhãn hiệu thuộc về người thứ hai (quyền thuộc về người sử dụng trước). Quyền đối với nhãn hiệu thuộc về ai thì người đó được độc quyền sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm tương ứng. Sau Pháp, một loạt các nước cũng ban hành luật nhãn hiệu riêng của mình như: Italia (1868), Bỉ (1879)… Nhu cầu bảo hộ các đối._. tượng sở hữu công nghiệp này, dưới đòi hỏi do sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế và xu hướng hội nhập quốc tế đã không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia, khu vực mà nó trở thành vấn đề toàn cầu, thu hút sự quan tâm chung của các quốc gia trên thế giới, vấn đề đặt ra là các đối tượng SHCN phải được bảo hộ bằng cả những điều ước quốc tế mà theo đó các quốc gia tham gia phải cam kết thực hiện vì những lợi ích và mục tiêu phát triển chung. Nhưng phải đến năm 1883 với sự ra đời của công ước Paris - một văn bản pháp luật quốc tế đầu tiên về bảo hộ sở hữu công nghiệp - đánh dấu sự liên kết của các quốc gia trên thế giới cùng quan tâm đến lĩnh vực này. Theo Công ước Paris đối tượng quyền SHCN bao gồm sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, mẫu hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Các quy định của Công ước Paris đề cập đến bốn vấn đề lớn là: nguyên tắc đối xử quốc gia, quyền ưu tiên, một số nguyên tắc chung đối với hệ thống bảo hộ quyền SHCN mà các nước thành viên phải tuân thủ và các quy định về hành chính phục vụ cho việc thi hành công ước. Tiếp theo Công ước Paris là Thỏa ước Madrid và Nghị định thư Madrid, văn bản pháp luật quốc tế điều chỉnh các vấn đề đăng ký NHHH ở các nước thành viên. Thỏa ước ký ngày 14/04/1891 tại Mandrid (Tây Ban Nha) dưới sự bảo trợ của Hiệp hội Paris về SHCN. Đến nay đã có khoảng 40 nước là thành viên của Thỏa ước này. Năm 1981, Việt Nam cũng đã là thành viên chính thức. Ngày 27/10/1994, Hiệp ước về Luật Nhãn hiệu (TLT) được thông qua. Hiệp ước TLT được ban hành để đơn giản hóa các thủ tục xin cấp phép, đăng ký và hài hòa thủ tục đăng ký nhãn hiệu giữa các quốc gia khác nhau. TLT đã hài hòa thủ tục của các cơ quan cấp phép đăng ký nhãn hiệu của các quốc gia khác nhau thông qua việc quy định những yêu cầu tối đa mà một bên tham gia có thể đưa ra. Hiệp định TRIPS: Cùng với sự phát triển hoạt động thương mại và đầu tư, việc bảo hộ quyền SHTT đối với các hoạt động này và quyền lợi thương mại hợp pháp của chủ sở hữu khi quyền SHTT đặt ra của họ không được bảo hộ và thực thi một cách có hiệu quả đã được đặt ra. Vì vậy, cùng với sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới - WTO, Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (gọi tắt là Hiệp định TRIPS) đã được ký kết ngày 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1995. Khác với các điều ước quốc tế đa phương trước đây về quyền sở hữu trí tuệ, mục đích chính của Hiệp định TRIPS là thông qua việc quy định những tiêu chuẩn, những biện pháp và thủ tục tối thiểu mà các nước thành viên của Hiệp định phải có nghĩa vụ tuân theo từ đó thiết lập một khung pháp lý thống nhất, có hiệu quả trong việc bảo hộ toàn diện quyền sở hữu trí tuệ trong đó có quyền sở hữu công nghiệp. Theo Hiệp định TRIPS, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một bộ phận của hệ thống đa quốc gia thuộc WTO. Hiệp định này quy định vệc bảo hộ nhiều đối tượng sở hữu trí tuệ khác nhau. Từ năm 1995, Hiệp định TRIPS đã mang lại những thay đổi căn bản trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Hiệp định TRIPS đã khẳng định lại và mở rộng các chuẩn mực và quy định của Công ước Paris và Công ước Berne, làm thay đổi bộ mặt của Luật sở hữu trí tuệ vì các nước thành viên WTO phải thay đổi luật của họ để phù hợp với Hiệp định TRIPS. Ngoài việc đồng nhất hóa về pháp luật, Hiệp định TRIPS còn tiến tới loại bỏ các quy định về hành chính, thủ tục và về kỹ thuật bất lợi cho hoạt động SHTT quốc tế. Hiệp định TRIPS quy định các tiêu chuẩn tối thiểu đối với việc bảo hộ tất cả các đối tượng SHTT. Nhưng điều quan trọng nhất đó là Hiệp định TRIPS là điều ước quốc tế đầu tiên quy định hệ thống các biện pháp chế tài trong đó có những biện pháp chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm và những biện pháp chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm tiếp diễn. Các biện pháp chế tài này hoàn toàn không có trong Công ước Paris. Mối quan hệ chặt chẽ giữa Hiệp định TRIPS và Công ước Paris được thể hiện trong Điều 2.1. Hiệp định này bắt buộc tất cả các thành viên WTO tuân thủ các điều từ Điều 1 đến Điều 12 và Điều 19 của Công ước Paris được sửa đổi năm 1967 tại Stockholm. Hiệp định TRIPS ngoài việc đề cập đến các nguyên tắc cơ bản của Công ước Paris, đã vượt ra ngoài Công ước Paris bằng việc lần đầu tiên đưa ra một nguyên tắc mới đó là "đối xử Tối huệ quốc" (MFN). Theo Điều 4 Hiệp định TRIPS: "Tất cả các lợi ích, ưu đãi, đặc ân, đặc lợi hay sự miễn trừ mà một thành viên dành cho công dân của bất kỳ một nước nào khác sẽ được áp dụng cho tất cả các thành viên khác, ngay lập tức và không có bất kỳ một điều kiện nào khác". Bên cạnh đó, Hiệp định TRIPS còn quy định các nguyên tắc tổng quát về thủ tục bảo hộ một cách thỏa đáng và hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp tại các nước thành viên. Trong phần 3 và phần 4 của Hiệp định TRIPS quy định rằng các nước thành viên phải quy định trong luật pháp quốc gia của mình các thủ tục cho phép áp dụng các biện pháp hiệu quả đối với các hành vi xâm phạm quyền SHCN. Các quốc gia thành viên cũng phải quy định một cơ chế nhằm ngăn chặn các hành vi tái vi phạm các quyền đó và có nghĩa vụ phải áp dụng và cả hai biện pháp nói trên để tránh các rào cản gây cản trở cho thương mại hợp pháp và các biện pháp an toàn đối với việc lạm dụng quyền. Hơn thế nữa, các thủ tục và hình thức quy định đối với việc bảo hộ quyền phải hợp lý và công bằng và không được "phức tạp và tốn kém đến mức không cần thiết" và không được "kéo dài một cách bất hợp lý và không có lý do". Như vậy, với việc ra đời Hiệp định TRIPS, việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới đã được đẩy mạnh, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế - xã hội nói chung và đảm bảo sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ. Và với Việt Nam, chúng ta đã là thành viên của WTO, ngoài việc đẩy mạnh các chính sách mở cửa, một công việc quan trọng mà chúng ta đã và đang tích cực thực hiện đó là cải thiện pháp luật đặc biệt là pháp luật về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, bởi một trong những điều kiện bắt buộc của chúng ta là phải đảm bảo thực hiện những quy định của hiệp định TRIPS về việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. 1.2.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ ở Việt Nam Việt Nam coi vấn đề bảo hộ SHCN nhân tố quan trọng của chính sách cải cách, mở cửa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Gắn liền với các giai đoạn phát triển kinh tế và xã hội của đất nước, hệ thống bảo hộ SHCN của Việt Nam cũng có những bước phát triển qua từng giai đoạn. Giai đoạn 1945-1981: Chính sách khuyến khích sáng tạo và bảo hộ thành quả sáng tạo được chú trọng ngay từ những ngày đầu thành lập chính quyền, thể hiện bằng các cuộc vận động thi đua cải tiến kỹ thuật. Trong giai đoạn này, một số văn bản pháp luật về khuyến khích sáng tạo đã được ban hành làm tiền đề cho hệ thống bảo hộ SHCN của Việt Nam như: - Thông tư 04/LĐTT ngày 8/3/1958 của Bộ Lao động quy định về vấn đề khen thưởng các tác giả sáng kiến cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh; - Nghị quyết số 175/TTg ngày 3/4/1958 của Thủ tướng Chính phủ quy định về nhãn hiệu thương phẩm; Nghị quyết này được ban hành thực chất nhằm mục đích quản lý sản phẩm trong sản xuất và lưu thông chứ không mang tính chất bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Ở miền Bắc, thời kỳ này chưa hình thành một hệ thống bảo hộ quyền SHCN theo đúng nghĩa. Quyền tư hữu đối với các đối tượng SHCN không được chấp nhận bảo hộ với lập luận cho rằng các sáng tạo của trí tuệ con người thuộc sở hữu chung của toàn xã hội. Những đối tượng đặc biệt là dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ còn chưa được đề cập đến ngoài nhãn hiệu hàng hóa. Trong khi đó, ở miền Nam, hệ thống bảo hộ SHCN được chú trọng hơn với quan điểm thừa nhận quyền tư hữu của chủ sở hữu đối với đối tượng SHCN đặc biệt là dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là nhãn hiệu hàng hóa. Chính quyền Sài Gòn đã ban hành Luật 13/57 ngày 1/8/1957 bảo hộ nhãn hiệu, Luật 14/59 ngày 11/6/1959 về chống sản xuất hàng giả. Các vấn đề liên quan đến đăng ký xác lập quyền đã được quy định cụ thể, chi tiết trong các văn bản pháp luật và là yêu cầu bắt buộc đối với các chủ thể nhằm chính thức ghi nhận sự bảo hộ từ phía nhà nước đối với quyền SHCN của chủ sở hữu. Giai đoạn từ 1981-1988: Hệ thống bảo hộ SHCN giai đoạn này được áp dụng theo mô hình phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đó là sự bảo hộ chủ yếu nhằm vào các quyền tinh thần hơn là các quyền tài sản của người sáng tạo. Cơ chế "dùng lợi ích vật chất làm động lực thúc đẩy hoạt động sáng tạo trí tuệ" hầu như chưa được áp dụng. Biện pháp bảo hộ chủ yếu và dường như duy nhất là biện pháp hành chính. "Sản phẩm sáng tạo trí tuệ được coi là sản phẩm phục vụ cho xã hội, quyền tư hữu và các lợi ích kinh tế đối với các sản phẩm đó của tác giả hầu như không được chấp nhận. Tác giả của sản phẩm chỉ có thể được thưởng hoặc ghi công mà thôi" [43]. Đối với các đối tượng là các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ mới chỉ có các nghị định: Nghị định 197/HĐBT ngày 14.12.1982 về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa; Nghị định 85/HĐBT ngày 13.5.1988 về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp; Lệnh số 10/LCT/HĐNN ngày 10.12.1988 của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Công bố Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam. Theo các văn bản trên, việc xác lập quyền SHCN đối với các đối tượng giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hóa được thực hiện trên cơ sở đăng ký bảo hộ tại Cục Sáng chế thuộc ủy ban Khoa học và Kỹ thuật nhà nước. Một đặc điểm nổi bật có thể nhận thấy trong giai đoạn này là trình tự, thủ tục đăng ký bảo hộ các đối tượng SHCN được quy định mang nặng tính hành chính, mệnh lệnh theo cơ chế xin-cho. Giai đoạn từ 1989-1995: Giai đoạn này được coi là giai đoạn hệ thống SHCN của Việt Nam tiếp cận với hệ thống SHCN hiện đại. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, hệ thống SHCN của Việt Nam cũng được đổi mới một bước, bắt đầu bằng việc ban hành Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN ngày 28/1/1989 và sau đó là hàng loạt các hoạt động đổi mới khác theo hướng chuyển dần hệ thống bảo hộ SHCN mang đặc trưng của nền kinh kế tập trung sang tiếp cận hệ thống SHCN hiện đại với đặc trưng của nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN ra đời xóa bỏ hình thức công hữu đối với sáng chế thay vào đó là chế độ tư hữu, đồng thời mở rộng đối tượng bảo hộ bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hóa. Trong giai đoạn này, đã có khoảng 50 văn bản pháp lý được ban hành quy định một cách khá đầy đủ, cụ thể và toàn diện về phạm vi, nội dung bảo hộ quyền SHCN cũng như trình tự, thủ tục xác lập quyền SHCN tại Việt Nam. Các văn bản này đã tạo nên một hệ thống pháp luật về SHCN tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ ở Việt Nam. Chúng thể hiện được định hướng mới của pháp luật trong bước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Quyền SHCN được công nhận bảo hộ là một loại quyền tài sản và được tự do khai thác, chuyển giao như một đối tượng của giao dịch dân sự. Đối với các đối tượng là dấu hiệu phân biệt sản phẩm, dịch vụ, Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã có những quy định về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa (bao gồm nhãn hiệu dịch vụ), tên gọi xuất xứ hàng hóa (ở đây là tên địa lý của vùng/địa phương có sản phẩm đặc thù mà tính chất đặc thù của sản phẩm do các yếu tố địa lý quyết định) trong giai đoạn này chưa có quy định về việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Các biện pháp bảo hộ, về nguyên tắc có thể áp dụng trình tự dân sự nhưng thực tế không có vụ kiện nào được xử trước tòa án; biện pháp áp dụng chủ là biện pháp hành chính. Giai đoạn từ 1995 - nay: Giai đoạn này được đánh giá là giai đoạn hệ thống SHCN Việt Nam hướng tới một hệ thống SHCN đầy đủ, và hiệu quả theo yêu cầu của WTO. Bộ luật dân sự 1995 được ban hành trong đó có một phần độc lập quy định về SHTT và chuyển giao công nghệ (Phần thứ VI) đã đánh dấu bước chuyển mới của hệ thống bảo hộ SHCN Việt Nam với mục tiêu đáp ứng ngày càng tốt hơn các tiêu chuẩn về SHTT của WTO. Đối với các việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ cũng có các nghị định hướng dẫn thi hành: - Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về SHCN. Nghị định này đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 06/2001/CP ngày 1/2/2001; - Nghị định 45/1998/NĐ-CP ngày 1.7.1998 quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ; Nghị định 54/200/NĐ-CP ngày 3.10.2000 về bảo hộ SHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới SHCN; Thông tư 3055/TT/SHCN ngày 31/12/1996 hướng dẫn thi hành các quy định về thủ tục xác lập quyền SHCN và một số thủ tục khác trong Nghị định 63/CP; Thông tư 825/2000/TT-BKHCNMT ngày 3.5.2000 của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thi hành Nghị định 12/1999/NĐ-CP; Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2005 ngày 14/6/2005 (trong đó có Phần thứ 6 quy định về Quyền SHTT và chuyển giao công nghệ). Nhưng năm 2005 là năm được coi là đột phá khi Luật Sở hữu trí tuệ đã được thông qua và chính thức có hiệu lực từ 01/07/2006. Đây là văn bản pháp lý riêng biệt bao gồm các quy định về sở hữu trí tuệ. Lần đầu tiên các quy định về bảo hộ SHCN nói chung và xác lập quyền SHCN nói riêng được tập trung, thống nhất và thể hiện trong một đạo luật độc lập. Đối với việc bảo hộ đối tượng SHCN là các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm dịch vụ, cho đến thời điểm hiện nay cũng đã có các nghị định hướng dẫn chi tiết việc thi hành Luật Sở hữu trí tuệ, cụ thể: - Nghị định 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về SHCN, ngày 22/9/2006. - Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về bảo vệ quyền SHTT và quản lý nhà nước về SHTT, ngày 22/9/2006. - Nghị định 106/2006/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính về SHCN, ngày 22/9/2006. Bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia tham gia các điều ước quốc tế về SHTT trong đó có các Điều ước quốc tế về xác lập quyền SHCN từ rất sớm: - Tham gia công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp ngày 8/3/1949; - Tham gia Thỏa ước Madid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa ngày 8/3/1949; - Tham gia Công ước Stockholm về thành lập Tổ chức SHTT thế giới và trở thành thành viên của tổ chức này ngày 2/7/1976; - Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết vào tháng 7/2000 và có hiệu lực pháp luật từ tháng 12/2001. Chúng ta đã là thành viên của WTO và một trong những điều kiện bắt buộc là chúng ta phải tuân thủ các quy định của Hiệp định TRIPs về những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền SHTT. Hiện nay chúng ta vẫn đang tích cực xây dựng một hệ thống pháp luật SHCN đầy đủ và hiệu quả đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi và thực thi các cam kết quốc tế. Như vậy, đến nay chúng ta đã có một hệ thống văn bản tương đối hoàn chỉnh về vấn đề bảo hộ quyền SHCN nói chung và bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý nói riêng. Việc làm đó góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu NHHH, tên thương mại, người có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý và người tiêu dùng từng bước đưa Việt Nam hòa nhập với sự phát triển chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Chương 2 Những quy định của pháp luật Việt nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ 2.1. ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CÁC DẤU HIỆU DÙNG ĐỂ PHÂN BIỆT SẢN PHẨM, DỊCH VỤ 2.1.1. Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu a) Khái niệm Có thể nói nhãn hiệu là một phần vô cùng quan trọng của quyền sở hữu công nghiệp. Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất khi sản xuất hoặc kinh doanh một sản phẩm không thể bỏ qua dấu hiệu này. Chính bởi vậy mà nó trở nên quan trọng. Nhãn hiệu hàng hóa là một thuật ngữ đã có từ lâu nhưng khái niệm về nó lại chỉ mới được đưa ra tại Hiệp định TRIPs. Tại khoản 1 Điều 15 quy định: Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình và sự kết hợp các sắc màu cũng như tổ hợp của bất kỳ các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa. Có thể thấy, khái niệm nhãn hiệu hàng hóa trong Hiệp định TRIPs là tương đối khái quát và mang tính quy chuẩn. Theo đó, bất kỳ một dấu hiệu nào (kể cả màu sắc, mùi vị, âm thanh…) miễn là có thể là dấu hiệu để nhận phân biệt được hàng hóa đều có thể coi là nhãn hiệu hàng hóa. Đây cũng là cơ sở để các nước tham khảo trên cơ sở đó theo đặc thù của từng quốc gia có thể đưa ra những khái niệm riêng trong pháp luật của quốc gia mình. Bởi vậy, trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia chúng ta có thể bắt gặp các khái niệm về nhãn hiệu hàng hóa khác nhau. Quy định liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa cũng được ghi nhận trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ: Nhãn hiệu hàng hóa được cấu thành bởi các dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác bao gồm từ ngữ, tên người, hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp mầu sắc, các yếu tố hình ảnh hoặc hình dạng của hàng hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận. Có thể thấy rằng, khái niệm này tương đối gần với khái niệm nhãn hiệu hàng hóa quy định trong Hiệp định TRIPs. Nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 được giải thích như sau: "Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau" (khoản 16 Điều 4 LSHTT 2005). Theo đó, nhãn hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh kể cả hình ảnh ba chiều hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc và có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác, nó không chỉ đơn giản là từ ngữ chỉ tên của sản phẩm, dịch vụ mà còn chỉ ra nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm, dịch vụ. Tác dụng lớn nhất của nhãn hiệu là truyền tải thông tin về nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng. Điểm khác biệt của nhãn hiệu so với các đối tượng sở hữu công nghiệp khác như sang chế hay kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu không mang tính sáng tạo trí tuệ cao, nó là biểu tượng để người sản xuất, kinh doanh đánh dấu cho sản phẩm, dịch vụ của mình. b) Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu Các dấu hiệu dùng để phân biệt bao gồm: * Dấu hiệu có thể cảm nhận được bao gồm chữ cái, từ ngữ, hình ảnh, hình khối… Đây chính là điểm mới của Luật SHTT 2006, tức là với những dấu hiệu này ta hoàn toàn có thể cảm nhận bằng trực quan. Hiện nay trên thế giới, việc bảo hộ nhãn hiệu không chỉ dừng lại ở những dấu hiệu nhận biết bằng thị giác mà còn cả những dấu hiệu khác như mùi vị, âm thanh… Tuy nhiên, so với phần quy định về nhãn hiệu trong bộ luật Dân sự 1995, Luật Sở hữu trí tuệ đã có điểm mới, phù hợp với thực tế hơn về khái niệm nhãn hiệu. Khả năng phân biệt: Để thực hiện chức năng phân biệt của sản phẩm và dịch vụ của nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác thì nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt. Để một dấu hiệu có khả năng phân biệt thì dấu hiệu đó phải đáp ứng các điều kiện về hình thức và các điều kiện nội dung. Điều kiện về hình thức: Theo quy định tại Điều 73 Luật sở hữu trí tuệ 2005, các dấu hiệu sau không được bảo hộ với tư cách là nhãn hiệu do không có khả năng phân biệt như: - Hình và hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ không thông dụng; - Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hóa, dịch vụ thông thường của hàng hóa, dịch vụ bằng bất cứ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên nhiều người biết đến. Chẳng hạn, hình bánh răng là biểu tượng của ngành cơ khí, không thể đăng ký làm nhãn hiệu cho các sản phẩm cơ khí. Điều kiện này cũng được thể hiện trong công ước Paris, tại mục B điểm 2 điều 6 quin quines theo đó, một nhãn hiệu sẽ không được đăng ký nếu chúng không có bất cứ dấu hiệu phân biệt nào hoặc chỉ bao gồm những dấu hiệu hoặc các chỉ dẫn được sử dụng trong thương mại để chỉ chủng loại, số lượng, chất lượng, mục đích sử dụng, giá trị, xuất xứ của một hàng hóa, hoặc thời gian sản xuất hoặc đã trở thành thông dụng trong ngôn ngữ hiện thời hoặc trong tập quán thương mại lành mạnh và lâu đời tại nước có yêu cầu bảo hộ. Điều kiện về nội dung: Những dấu hiệu mang tính miêu tả, công dụng, giá trị của hàng hóa hoặc dịch vụ và dấu hiệu chỉ chủng loại sẽ không được bảo hộ do mất khả năng phân biệt. Các điều kiện về nội dung bao gồm các quy định sau: - Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác mang tính mô tả hàng hóa, dịch vụ trừ trường hợp dấu hiệu đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng ký nhãn hiệu; - Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh doanh; - Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ trừ trường hợp dấu hiệu đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu hoặc được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận quy định tại Luật SHTT 2005; - Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn trong trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được đăng ký sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự mà đăng ký nhãn hiệu hàng hóa đó đã chấm dứt hiệu lực pháp luật chưa quá năm năm, trừ trường hợp hiệu lực bị chấm dứt vì lý do nhãn hiệu không được sử dụng theo quy định việc sử dụng và bắt đầu hoặc bắt đầu lại trước ít nhất 03 tháng tính đến ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực; Khi một nhãn hiệu đã được đăng ký và đã được sử dụng trên thị trường, ít nhiều người tiêu dùng đã có ấn tượng với sản phẩm mang nhãn hiệu đó và thường liên tưởng tới sản phẩm mang nhãn hiệu đó với một nguồn gốc (nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ) nhất định. Do đó, để tránh gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, sau khi nhãn hiệu đăng ký nhãn hiệu đó đã chấm dứt hiệu lực pháp luật chưa quá năm năm, trừ trường hợp hiệu lực bị chấm dứt vì lý do nhãn hiệu không được sử dụng theo quy định việc sử dụng và bắt đầu hoặc bắt đầu lại trước ít nhất 03 tháng tính đến ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nôi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ không tương tự nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa; - Dấu hiệu trùng với chỉ dẫn địa lý hoặc có chứa chỉ dẫn địa lý hoặc được dịch nghĩa, phiên âm từ chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho rượu vang, rượu vang mạnh nếu dấu hiệu được đăng ký để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó; - Dấu hiệu trùng hoặc không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp của người khác được bảo hộ trên cơ sở đăng ký kiểu dáng công nghiệp d\có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn so với ngày nộp đơn, ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu. * Các điều kiện khác bao gồm các dấu hiệu về đạo đức- không được trái với đạo đức; không trùng với quốc ca, quốc kỳ. Quốc ca, quốc kỳ là biểu tượng, là đại diện cho một dân tộc, một quốc gia bởi vậy nhãn hiệu không thể được bảo hộ nếu nó trùng với Quốc ca, quốc kỳ của đất nước. Luật sở hữu trí tuệ 2005 đã quy định rất rõ ràng về các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu: - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của các nước. - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép. - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài. - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận. - Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hóa dịch vụ. c) Phân loại nhãn hiệu Trong thực tiễn bảo hộ, nhãn hiệu hàng hóa được phân chia thành các loại khác nhau. Sự phân chia này là cần thiết, bởi với mỗi loại nhãn hiệu chúng ta sẽ có các dấu hiệu riêng để nhận biết. Chúng ta có thể phân chia nhãn hiệu dựa trên các tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào số lượng chủ sở hữu: Nhãn hiệu được phân thành nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu cá nhân. Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân khác nhau (khoản 17, Điều 4, Luật SHTT 2005). Như vậy, từ khái niệm trên có thể rút ra các đặc điểm về nhãn hiệu tập thể như: Pháp luật Việt Nam một mặt công nhận khả năng sử dụng nhãn hiệu tập thể bởi nhiều cá nhân hay pháp nhân trong một tập thể hoặc của chính bản thân các tổ chức tập thể; Quyền sở hữu nhãn hiệu tập thể có thể được trao cho một cá nhân hoặc pháp nhân đại diện cho tập thể. Căn cứ vào mức độ nổi tiếng, nhãn hiệu được chia thành nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu thường + Nhãn hiệu hàng hóa thường là những loại nhãn hiệu tồn tại trên thị trường nhiều nhất, phổ biến nhất và làm cơ sở cho những loại nhãn hiệu khác. Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam (khoản 20, Điều 4, Luật SHTT 2005). Căn cứ vào hình thức, nhãn hiệu được chia thành nhãn hiệu là chữ cái, nhãn hiệu là từ ngữ, nhãn hiệu là hình ảnh, nhãn hiệu là hình khối, nhãn hiệu kết hợp giữa hai hoặc nhiều yếu tố trên. Căn cứ vào tính chất, nhãn hiệu được chia thành nhãn hiệu thường, nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu chứng nhận. + Nhãn hiệu hàng hóa thường là những loại nhãn hiệu tồn tại trên thị trường nhiều nhất, phổ biến nhất và làm cơ sở cho những loại khác. + Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu đó cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu (khoản 18, Điều 4, Luật SHTT 2005). Mục đích của nhãn hiệu chứng nhận là đảm bảo chất lượng của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu phải đúng với yêu cầu của nhãn hiệu chứng nhận đã được ghi nhận. Người chủ của nhãn hiệu chứng nhận chỉ đơn thuần là người đứng ra đăng ký nhãn hiệu này và chỉ rõ nó nhằm xác nhận một tiêu chuẩn nhất định, thường là tiêu chuẩn về chất lượng, nếu không là đặc điểm về quy trình sản xuất hay sử dụng nhân công lao động. Chủ của nhãn hiệu chứng nhận phải có trách nhiệm kiểm tra chất lượng các sản phẩm gắn nhãn hiệu chứng nhận của mình và chủ của nhãn hiệu chứng nhận có thể được hưởng phí thông qua việc cho phép các nhà sản xuất khác sử dụng nhãn hiệu chứng nhận. Phạm vi sử dụng nhãn hiệu chứng nhận rất rộng bao gồm nhiều doanh nghiệp trong cùng một hiệp hội thậm chí không cùng một hiệp hội nhưng thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sử dụng nhãn do chủ sở hữu đặt ra và được chủ nhãn đồng ý. Do đặc điểm này mà chủ của nhãn hiệu chứng nhận thường là các hiệp hội doanh nghiệp, các liên minh doanh nghiệp hoặc các cơ quan Nhà nước hay chính bản thân nhà nước. + Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan đến nhau (khoản 19, Điều 4, Luật SHTT 2005). Nhãn hiệu liên kết mang lại cho người chủ sở hữu nhãn hiệu nhiều lợi thế như được độc quyền sử dụng dấu hiệu có khả năng phân biệt cho nhiều loại hàng hóa, dịch vụ không cùng nhóm của mình nếu hàng hóa, dịch vụ đó có liên quan đến nhau; tạo cho người tiêu dùng một sự liên tưởng là các hàng hóa, dịch vụ này có cùng một nguồn gốc xuất xứ. Khi một trong các nhãn hiệu liên kết đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ thì thủ tục đăng ký bảo hộ đối với nhãn hiệu liên kết khác cũng được chấp nhận dễ dàng và thuận lợi. 2.1.2. Điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý a) Khái niệm Luật Sở hữu trí tuệ 2005 của Việt Nam cũng đưa ra khái niệm như sau về chỉ dẫn địa lý: "Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể" (khoản 22 Điều 4). Đương nhiên, người ta chỉ sử dụng chỉ dẫn địa ._. đến quyền SHCN thường kéo dài từ 2-3 năm, có thể phải giải quyết qua nhiều thủ tục khác nhau, ảnh hưởng đến hiệu quả việc thực thi quyền SHCN. Trong khi đó, pháp luật hiện hành chưa quy định các biện pháp chế tài hữu hiệu để ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong suốt thời gian kể từ khi có hành vi xâm phạm đến Toà án thụ lý và giải quyết, do đó nhiều chủ thể xâm phạm đã lợi dụng thời cơ để kéo dài thời gian vi phạm để tìm kiếm lợi nhuận, tẩu tán hàng vi phạm. Thứ hai, chế tài bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của Tòa án là không khả thi. Các yêu cầu về bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu khi ra tòa là khó thực hiện được là bởi các quy định về xác định thiệt hại và bồi thường thiệt hại chưa được hướng dẫn cụ thể trong tranh chấp về quyền SHCN. Thứ ba, là yếu tố con người. Năng lực chuyên môn của thẩm phán trong lĩnh vực này chưa được thực sự chú trọng. Hơn nữa, cán bộ tại Tòa án không được tổ chức tập huấn chuyên sâu về lĩnh vực này. Đây là hạn chế đáng kể cần được khắc phục nhanh chóng cho phù hợp với việc gia nhập WTO của Việt Nam trong thời gian gần nhất. Thứ tư, bản thân doanh nghiệp, khi phát hiện xâm phạm cũng có tâm lý ngại theo kiện bởi các doanh nghiệp rất sợ mất nhiều thời gian khi tham gia tranh tụng tài tòa cũng như sợ mang tiếng có tranh chấp phải đưa ra tòa. Bởi vậy công tác xét xử tại tòa cần phải được rút ngắn thời gian, chế tài mạnh hơn và chất lượng xét xử cao hơn. 3.2 MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CÁC DẤU HIỆU DÙNG ĐỂ PHÂN BIỆT SẢN PHẨM, DỊCH VỤ Trên thế giới hiện nay, vấn đề vi phạm về SHTT đang làm đau đầu các cơ quan chức năng. Điều này càng trở nên quan trọng hơn khi xã hội đang ngày càng phát triển, đồng nghĩa với lợi nhuận đem lại do vi phạm SHTT nhất là đối với nhóm đối tượng nhạy cảm là các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là vô cùng lớn, điều này lý giải tại sao các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh lại đang ngày càng vi phạm nhiều hơn trong lĩnh vực này. Để hạn chế các hành vi này, các nước trên thế giới đã có các quy định nghiêm ngặt hơn và các hành vi vi phạm cũng bị xử lý cao hơn. Với mục tiêu để thực hiện thành công các mục tiêu cũng như định hướng phát triển trên của quốc gia, cá nhân tôi trong luận văn của mình xin được đưa ra một số đề xuất sau nhằm hoàn thiện, khắc phục những bất cập hiện tại của pháp luật về quyền SHCN nói chung và và bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ nói riêng như sau: + Cần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về sở hữu công nghiệp đặc biệt đối với nhóm đối tượng là các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay khi chúng ta đã là thành viên của WTO. Luật SHTT 2005 được xây dựng trong bối cảnh chúng ta đang gấp rút chuẩn bị các điều kiện cần thiết theo yêu cầu để gia nhập WTO và đảm bảo thi hành các cam kết quốc tế ghi nhận trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương. Một đạo luật với 222 điều với chủ trương tập hợp tất cả các vấn đề liên quan đến SHTT đã được xây dựng trong vòng 10 tháng. Mặc dù việc ra đời của đạo luật này đã đánh dấu một bước phát triển vượt bậc mang tính bước ngoặt của hệ thống pháp luật SHTT Việt Nam nói chung và hệ thống xác lập quyền SHCN nói riêng, tuy nhiên, với tư cách là một đạo luật, hơn nữa do thời gian soạn thảo gấp rút, luật không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót do các điều kiện khách quan, chủ quan khác nhau [35]. Thứ nhất, vẫn còn thiếu quy định về các biện pháp chế tài đủ mạnh như quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời đặc biệt riêng cho cơ chế thực thi quyền SHCN nói chung và đặc biệt là với nhóm đối tượng là các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ nói riêng. Hiện tại việc quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời vẫn chỉ là các biện pháp thông thường áp dụng đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm, nguyên liệu, vật liệu sản xuất, kinh doanh hàng hóa đó như thu giữ, kê biên, niêm phong; cấm thay đổi hiện trạng; cấm di chuyển; cấm dịch chuyển quyền sở hữu, trong khi việc vi phạm quyền sở hữu công nghiệp với nhiều hình thức, mức độ rất khác nhau và càng ngày càng tinh vi hơn. Hiện tại, với sự mở rộng của thương mại điện tử, thông qua các trang web bán đấu giá và bán lẻ trên Internet, nhiều sản phẩm được chào bán và sẽ là rất khó kiểm soát nếu những hãng kinh doanh trung gian này không trung thực và như vậy người nắm giữ những nhãn hiệu thương mại phải đối mặt việc bảo vệ quyền SHCN đối với nhãn hiệu của mình trong trường hợp các trang web này chào bán hàng giả bằng cách mang đến những thông tin đăng ký sai hoặc không đầy đủ cho khách hàng. Và việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hiện đang được quy định trong Luật SHTT 2005 có khả thi trong trường hợp này? Thứ hai, hiện nay, với việc phát triển mạnh mẽ như vũ bão của công nghệ cao, Internet ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người, có những vấn đề phát sinh liên quan đến việc bảo hộ quyền SHCN cũng cần phải được xem xét, điều chỉnh. Với trường hợp nếu một người đăng ký tên miền trên Internet trùng với một nhãn hiệu nổi tiếng hay một tên thương mại hoặc một chỉ dẫn địa lý được nhiều người biết đến thì vấn đề giải quyết tranh chấp như thế nào? Hiện tại, đã có một số tên miền như "trungnguyen.vn"… được đăng ký nhưng chủ sở hữu chính thức của những tên miền này không phải là chính doanh nghiệp sở hữu nhãn hiệu này [63]. Thứ ba, đối với việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý, hiện tại, việc bảo hộ là vĩnh viễn, vậy chúng ta đã có được cơ chế quản lý, kiểm soát chất lượng sản phẩm như thế nào để luôn đảm bảo rằng sản phẩm thực sự mang những yếu tố đặc trưng riêng biệt của vùng, miền mang chỉ dẫn địa lý đó? Đây cũng chính là vấn đề quan trọng trong việc bảo hộ SHCN đối với chỉ dẫn địa lý. Việc quy định quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý thuộc về nhà nước và nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, tổ chức, tập thể đại diện cho các tổ chức, cá nhân đó hoặc cơ quan quản lý hành chính địa phương nơi có chỉ dẫn địa lý thực hiện quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý liệu có thực sự phù hợp? Hay quy định này mang nặng tính hình thức bởi nếu thực sự chỉ dẫn địa lý không thực sự thuộc về một tập thể các nhà sản xuất, kinh doanh trong một khu vực, một địa phương cụ thể thì liệu việc quản lý, kiểm soát và phát triển giá trị của chỉ dẫn địa lý có đạt được hiệu quả? Thứ tư, hiện nay, liên quan đến tên thương mại cần có những quy định cụ thể hơn về vấn đề thuê, cho thuê tên thương mại. Điều này xuất phát từ thực tế khi hoạt động thương mại phát triển, việc chuyển nhượng quyền kinh doanh, cho thuê thương hiệu đã xuất hiện ngày càng phổ biến tại Việt Nam. Chúng ta thấy xuất hiện ngày càng nhiều những chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh KFC, hay phở 24… Ở nhiều nước trên thế giới với nền kinh tế phát triển, hoạt động cho thuê một số đối tượng tài sản vô hình thường được điều chỉnh bởi một loại hợp đồng mang tên "franchising" [23]. Như vậy, đối với vấn đề này pháp luật cần phải có những quy định chặt chẽ liên quan đến hợp đồng cho thuê tên thương mại như các vấn đề về xác định rõ đối tượng là tên thương mại được chuyển giao, lĩnh vực kinh doanh, phương thức sử dụng tên thương mại của người có quyền sử dụng… Và vấn đề quan trọng là luật cũng phải cân nhắc đến vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng bằng việc quy định chặt chẽ trong việc yêu cầu thông báo về việc sử dụng tên thương mại hay trách nhiệm liên đới của chủ sở hữu tên thương mại đối với nhưng khiếu nại về chất lượng hàng hóa, dịch vụ…. bởi việc sử dụng tên thương mại bởi một chủ thể khác có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nhân thân người trực tiếp tiêu thụ sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ. Thứ năm, liên quan đến việc xác định thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và mức độ bồi thường thiệt hại. Luật SHTT đã có những quy định về nguyên tắc xác định thiệt hại tại Điều 204 và căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại tại Điều 205, tuy nhiên, những quy định này còn chưa thực sự cụ thể, bởi việc xác định thiệt hại đối với đối tượng SHCN vốn là vấn đề khó khăn và gây nhiều tranh cãi đặc biệt với nhóm đối tượng là các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ. Như đã phân tích các dấu hiệu này đóng vai trò đặc biệt quan trọng và giá trị vật chất ẩn chứa trong chúng nhiều khi là rất lớn, đã có những nhãn hiệu được định giá đến 69,6 tỷ USD như Coca Cola hay Microsoft là 64 tỷ USD… [48]. Bên cạnh đó đối với việc vi phạm sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý, việc vi phạm này không chỉ gây thiệt hại cho những người có quyền sử dụng chúng, cho người tiêu dùng mà còn gây phương hại đến uy tín quốc gia, vậy có thể xác định được tổn thất thực tế hay không? Trong khi đó Luật SHTT 2005 quy định rằng, trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường về vật chất thì mức bồi thường do Tòa án ấn định nhưng không quá 500 triệu đồng. Còn việc xác định mức tổn hại về tinh thần luật giới hạn trong phạm vi từ 5 triệu đến 50 triệu đồng đã thực sự phản ánh đúng giá trị đích thực của nhóm đối tượng này mang lại cho chủ sở hữu của chúng? Việc bảo hộ nhãn hiệu còn có một phát sinh liên quan khác, cụ thể là hiện nay đang có một thực tế là các nhãn hiệu đều có các câu khẩu hiệu này nhằm quảng cáo một cách ấn tượng nhất cho nhãn hiệu đó nhưng hiện tượng cầm nhầm khẩu hiệu đang diễn ra một cách tràn lan đơn cử như khẩu hiệu "bạn của mọi nhà" của hệ thống siêu thị Co.op Mart (Thành phố Hồ Chí Minh) bỗng nhiên bị siêu thị Hà Nội lấy dùng chung… [42], khẩu hiệu đã được bảo hộ dưới dạng NHHH trong một vài năm gần đây ở Việt Nam, tuy nhiên trong thực tế xác định tiêu chí bảo hộ vẫn còn nhiều vấn đề bất cập và chưa hiệu quả, luật cần có những quy định cụ thể hơn về tiêu chí bảo hộ, điều này đặc biệt quan trọng để có thể xác định lý do chính xác trong các trường hợp từ chối bảo hộ để có thể đảm bảo được lợi ích chính đáng của chủ sở hữu. + Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến về sở hữu trí tuệ nói chung nhằm nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, của người tiêu dùng và cao hơn nữa là các bộ, ban, ngành và hệ thống Tòa án. Xuất phát từ những tính chất đặc thù của lĩnh vực SHTT có thể nói hệ thống pháp luật SHTT có nhiều điểm tương đối đồng nhất giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới. Với điều kiện hiện nay của Việt Nam, việc học hỏi và tiếp thu các kinh nghiệm của nước ngoài từ đó áp dụng vào hoàn cảnh của Việt Nam là một giải pháp tốt và đem lại hiệu quả cao. Thời gian, hoạt động hợp tác quốc tế về quyền SHCN đã được chú trọng và thu được những thành quả đáng kể. Chúng ta nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ các tổ chức quốc tế và các quốc gia nhằm tăng cường năng lực bảo hộ quyền SHCN bao gồm hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cao phù hợp với chuyên môn và trình độ cao của ngành luật tương đối mới mẻ này. Sự giúp đỡ, hỗ trợ của các quốc gia, tổ chức này là sự thúc đẩy tích cực, có hiệu quả trên con đường xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về xác lập quyền SHCN theo hướng ngày một hài hòa hơn và đáp ứng với các chuẩn mực quốc tế cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động xác lập quyền SHCN. + Cần xây dựng hệ thống thông tin về sở hữu trí tuệ. Việc này là vô cùng cần thiết vì qua hệ thống này những thông tin về tên thương mại, nhãn hiệu hoặc bất cứ chỉ dẫn địa lý nào đều được tập trung và sắp xếp theo hệ thống. Hệ thống ở một vài trung tâm dữ liệu rõ ràng sẽ có giá trị không nhỏ, bởi chúng cho phép đơn giản hóa việc giải quyết một số vấn đề, ví dụ như: việc lựa chọn tên thương mại của các chủ thể kinh doanh, việc xác định tính mới của dấu hiệu trong đăng ký NHHH (NHHH không được trùng với tên thương mại của người khác đã được bảo hộ từ trước), v.v... Bên cạnh đó khi có hệ thống thông tin này, các chủ thể khi tham gia hoạt động đăng ký tên sẽ giảm bớt gánh nặng chứng minh cho chủ thể kinh doanh là chủ sở hữu của tên thương mại đó. Theo Điều 22 Nghị định 54/CP, khi thực hiện quyền yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại chủ sở hữu tên thương mại có nghĩa vụ chứng minh điều kiện xác lập quyền và phạm vi quyền của mình. Nếu tên thương mại được đăng ký thì rõ ràng việc chứng minh quyền của chủ sở hữu đối với tên thương mại đó không còn là khó khăn. Nói một cách khác, ở đây sẽ tồn tại nguyên tắc suy đoán: chủ thể đầu tiên đang ký tên thương mại là chủ sở hữu hợp pháp của tên thương mại đó. Do hệ thống tên thương mại được đăng ký sẽ là nguồn thông tin phổ cập nên tất cả mọi chủ thể kinh doanh khác đều được coi như là đã biết rằng một tên thương mại cụ thể nào đó đã có chủ sở hữu hợp pháp của mình. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những trường hợp tên thương mại có thành phần là những từ mới mang tính đặc sắc, độc đáo. Rõ ràng rằng sự kiện tên thương mại trên được đăng ký bởi một chủ thể kinh doanh cụ thể hoàn toàn chưa loại trừ được khả năng chỉ dẫn thương mại đó có thể được những chủ thể khác lựa chọn với điều kiện lợi ích kinh doanh của những người này nằm ở các lĩnh vực hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, họ cần hiểu rõ rằng vào bất cứ thời điểm nào chủ thể đầu tiên đăng ký tên thương mại có thể yêu cầu họ chấm dứt việc sử dụng tên thương mại đó nếu anh ta chứng minh được rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm. + Tăng cường năng lực của hệ thống các cơ quan thực thi pháp luật. Hoàn thiện tổ chức, hoạt động của hệ thống tòa án: Hiệu quả của công tác bảo hộ và thực thi quyền SHTT ở nước ta chưa cao, chưa ngang tầm với những yêu cầu phát sinh trong thực tiễn. Cần nghiên cứu áp dụng thủ tục xét xử rút gọn trong giải quyết các vụ án liên quan tới SHTT tại tòa án nhằm bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể có liên quan và chú trọng việc tăng cường thẩm quyền và năng lực của tòa án trong hoạt động xét xử, giải quyết các vụ án xâm phạm quyền SHTT. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc giải quyết các vụ án xâm phạm quyền SHTT của các tòa án còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Các thẩm phán mới chỉ được đào tạo chuyên môn pháp lý, chưa có sự am hiểu sâu trong lĩnh vực SHTT. Chính vì vậy, họ khó có sự đánh giá chính xác trong việc giải quyết các vụ án xâm phạm SHTT nhất là việc xâm phạm quyền sở hữu đối với nhóm đối tượng là các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ, bởi nhóm đối tượng này vốn dễ bị xâm phạm và việc xác định mức độ xâm phạm cũng rất khó khăn. Do vậy, Tòa án Việt Nam cần sớm có những cải cách cần thiết trong hệ thống tổ chức tòa án theo hướng thành lập tòa án chuyên trách trong việc giải quyết các vụ kiện xâm phạm SHTT. Nhưng muốn thực hiện được điều này cần phải có quy định liên quan tới trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Trong Dự thảo chúng ta chỉ đưa ra 3 điều với những quy định thiếu chi tiết. Dự thảo mới nêu được chức năng của các cơ quan, chưa thực sự quy định các nguyên tắc và một cơ chế phối kết hợp toàn diện giữa các cơ quan trong hoạt động thực thi. Vai trò của tòa án lại thể hiện quá mờ nhạt. + Đề cao các thiết chế giám sát, kiểm tra, quản lý thị trường. Như chúng tôi đã trình bày tại mục 3.1.1, hiện nay chúng ta đã có Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, nhưng cho đến thời điểm này (năm 2005) chúng ta vẫn chưa có một cơ chế thực thi phù hợp. Chính bởi vậy, các vi phạm xảy ra càng nhiều, trong khi đó, nhiều cơ quan có trách nhiệm dường như không để ý quan tâm bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng và cuối cùng chỉ có người tiêu dùng là thiệt hại nặng nề hơn cả (tất nhiên đây còn là hậu quả của sự thiếu hiểu biết của người tiêu dùng). Vậy chúng ta làm gì để thoát khỏi tình trạng này? Theo chúng tôi, trước mắt cần có một cơ quan nhà nước đứng ra chịu trách nhiệm quản lý và chỉ đạo công tác bảo vệ người tiêu dùng. Đồng thời, tăng cường vai trò của Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng (VINATAS). Những người tiêu dùng sẽ được hướng dẫn để gửi những thông tin nhận xét về sản phẩm, từ đây sẽ hình thành một cơ chế giám sát, thực thi, kiểm tra ngay từ phía người tiêu dùng. Chúng ta đã có giải Sao vàng Đất Việt nhằm tôn vinh các sản phẩm đạt chất lượng tiêu chuẩn cao và giải này cũng đang phát huy tác dụng trở thành một tiêu chuẩn, địa chỉ mà người tiêu dùng tin tưởng. Nhưng chúng ta lại chưa có "giải" nào cho những sản phẩm kém chất lượng để khuyến cáo người tiêu dùng nhằm hạn chế thấp nhất những hậu quả và thiệt hại kinh tế cho người tiêu dùng. Chúng tôi rất tán thành mục "Cù nèo vàng" của Báo Tuổi trẻ cười trao cho những câu chuyện cười nhiều ý nghĩa nhưng càng tán đồng hơn với giải "Trái cóc xanh" mà báo này dành tặng cho những sản phẩm ngược lại. Đây cũng là yếu tố thúc đẩy các nhà sản xuất, các đối thủ cạnh tranh, tăng cường hơn sự giám sát lẫn nhau để bảo vệ uy tín, chất lượng sản phẩm họ làm ra. Song, nếu chỉ có vậy chưa chắc sẽ có hiệu quả trong việc kiểm tra, giám sát. Để thực hiện tốt hơn chức năng này, chính bản thân cán bộ và cơ quan quản lý thị trường phải tích cực nâng cao năng lực, trình độ hiểu biết pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế, kiến thức chuyên môn để có thể nhận biết được hàng thật, hàng giả, xử lý đúng người, đúng tội, chuẩn bị đối phó với các hành vi, thủ đoạn mới ngày càng tinh vi trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Việc thống nhất quy trình kiểm tra, kiểm soát, đổi mới, phù hợp yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn, tình hình từng nơi, từng lúc nhằm đạt hiệu quả công tác cao nhất. Trước tình hình sản xuất, buôn bán hàng giả, vi phạm sở hữu công nghiệp còn có những diễn biến phức tạp, thủ đoạn hoạt động phi pháp ngày càng tinh vi, đòi hỏi phải có phương thức kiểm tra, kiểm soát rất nhạy bén, chủ động, sáng tạo, bảo đảm đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra với hiệu suất, hiệu quả. KẾT LUẬN Dưới ảnh hưởng của những tiến bộ nhanh chóng về khoa học kỹ thuật, trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa đã trở thành xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế thế giới. Mọi quốc gia, nếu không muốn bị lãng quên trong nghèo nàn lạc hậu đều phải chủ động tham gia cuộc cạnh tranh gay gắt này và Việt Nam chắc chắn không là ngoại lệ, chúng ta đã nỗ lực thực hiện mục tiêu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát triển tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Ngày 07/11/2006, Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), một vận hội mới mở ra cho chúng ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhưng bên cạnh đó là những thách thức không nhỏ, đặc biệt trong việc bảo hộ sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ nói riêng. Như đã phân tích trên đây, những đối tượng sở hữu công nghiệp là dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ mang lại giá trị vật chất rất lớn cho chủ sở hữu hay người có quyền sử dụng chúng. Chúng là tài sản vô hình nhưng thực sự là tài sản vô giá của doanh nghiệp, bởi chúng được tạo nên không chỉ đơn giản là công sức sáng tạo thể hiện trong sản phẩm mà còn thể hiện chất lượng, uy tín của sản phẩm đối với người tiêu dùng. Một ví dụ điển hình, một chiếc áo sơ mi nam do công ty may của Việt Nam may mang nhãn hiệu An Phước được bán với giá 218.000 VND/chiếc, khi được mang nhãn hiệu nổi tiếng Piere Cardin thì giá bán lên tới 526.000 VND/chiếc, như vậy phần giá trị gia tăng 308.000 VND/chiếc là do nhãn hiệu mang lại cho doanh nghiệp [54]. Những doanh nghiệp của Việt Nam khi tham gia các thị trường lớn của thế giới như EU, Mỹ, Nhật Bản, ASEAN… đã vấp phải những bài học kinh nghiệm đắt giá về việc xem nhẹ vấn đề bảo hộ sở hữu công nghiệp đặc biệt đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp là các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đặc biệt là đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý… Chúng ta hẳn chưa quên bài học của Cà phê Trung Nguyên khi bị chính đối tác của mình nhanh chân đăng ký bảo hộ nhãn hiệu với cơ quan có thẩm quyền trước khi Trung Nguyên thực hiện việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại thị trường Mỹ. Rồi những bài học của Petro Vietnam, hay Vinataba… Việc bị mất nhãn hiệu tại các thị trường lớn của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua cho thấy doanh nghiệp của chúng ta còn thiếu ý thức về đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đặc biệt đối với nhãn hiệu... chúng ta thường bị động khi thâm nhập các thị trường nước ngoài, ngay cả khi nhãn hiệu đã bị đánh cắp tại các thị trường này thì những chủ sở hữu nhãn hiệu vẫn còn lúng túng trong việc giành lại quyền sở hữu của mình. Ngoài ra, do việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý của chúng ta còn yếu kém, hiện tại mới chỉ có 6 chỉ dẫn địa lý được bảo hộ. Điều này chính là bất lợi lớn của chúng ta, bởi Việt Nam vốn là một nước mạnh về nông nghiệp và có nhiều sản phẩm truyền thống được người tiêu dùng không chỉ trong nước mà cả quốc tế ưa chuộng. Bài học về nước mắm Phú Quốc sản xuất tại Thái Lan vẫn đáng để chúng ta phải suy nghĩ về việc bảo hộ quyền SHCN đối với chỉ dẫn địa lý nói riêng và bảo hộ SHCN nói chung, đặc biệt là đối với nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ.Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường với đặc tính cơ bản là cạnh tranh, vấn đề phân biệt các chủ thể kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc cá thể hóa chủ thể kinh doanh và hoạt động kinh doanh của họ là một trong những điều kiện tiên quyết để là cơ sở cho việc hình thành và củng cố uy tín kinh doanh cũng như mở rộng phạm vi hoạt động của các chủ thể. Việc bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý ngoài là việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể, khuyến khích đầu tư nước ngoài. Đồng thời, cũng là giúp người tiêu dùng thực sự được lựa chọn sản phẩm, dịch vụ tương ứng với nhu cầu của mình, đây cũng chính là phương tiện để người tiêu dùng bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc bảo hộ quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng, đặc biệt đối với nhóm đối tượng là các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ. Nhìn chung, những quy định pháp luật của chúng ta hiện nay là phù hợp và đầy đủ với yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế, góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, từng bước đưa Việt Nam hòa nhập với sự phát triển chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, cơ chế thực thi vẫn còn là bài toán khó và cần có những điều chỉnh phù hợp để luật Sở hữu trí tuệ thực sự đi vào đời sống. Vì những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài này mong đóng góp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhóm đối tượng là các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ cũng như nâng cao hiệu quả của cơ chế thực thi quyền SHCN đối với nhóm đối tượng này trong thực tế nhằm đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi khách quan trong thực tế đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ hiện nay của chúng ta. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO * Các văn bản Luật, Pháp lệnh Bộ luật Dân sự 1995, ngày 28/10/1995. Bộ Luật Dân sự 2005, ngày 14/06/2005. Bộ luật Hình sự 1999, ngày 21/12/1999. Luật Cạnh tranh. Luật Hải quan, ngày 29/06/2001. Luật Khoa học và Công nghệ, ngày 06/09/2000. Luật Sở hữu trí tuệ, ngày 29/11/2005. Luật Thương mại, ngày 14/06/2005. * Các nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ Nghị định 63/CP quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp, ngày 24/10/1996. Nghị định 60/CP hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, ngày 06/06/1997. Nghị định số 45/1998/NĐ-CP quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ, ngày 01/07/1998. Nghị định 12/1999/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, ngày 06/03/1999. Nghị định 16/2000/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về chuyển giao công nghệ, ngày 10/05/2000. Nghị định 54/2000/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp, ngày 03/10/2000. Nghị định 06/2001/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 63/CP quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp, ngày 01/02/2001. Nghị định 101/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan (Điều 14), ngày 31/12/2001. Nghị định 42/2003/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, ngày 02/05/2003. Nghị định số 11/2005/NĐ-CP quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ (sửa đổi), ngày 02/02/2005. Nghị định 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, ngày 22/9/2006. Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, ngày 22/9/2006. Nghị định 106/2006/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính về sở hữu công nghiệp, ngày 22/9/2006. Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả, ngày 27/10/1999. * Các sách, báo, tạp chí Nguyễn Thị Quế Anh (2002), "Bảo hộ tên thương mại và một số kiến nghị", Khoa học Kinh tế - Luật, (4), tr. 20-28. Nguyễn Thị Quế Anh (2004), Một số vấn đề về bảo hộ thương hiệu ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Doanh nghiệp với vấn đề thương hiệu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Trung tâm thông tin Kinh tế - xã họi Quốc gia, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, tr.183-198 Nguyễn Thị Quế Anh (2005), "Một số ý kiến về các quy định liên quan đến thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật Tố tụng dân sự và Dự thảo Luật sở hữu trí tuệ", Kỷ yếu Hội thảo: Cơ chế thực thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, Đề tài trong nghiên cứu khoa học trọng điểm QGTĐ, tháng 3/2005. Nguyễn Thị Quế Anh (2005), Bảo hộ chỉ dẫn địa lý và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam. Bộ Thương Mại (2006), Báo cáo của Ban Công tác Đàm phán Gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hà Nội. Bản tin của Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam số 2/2005: "Hàng giả - Mối đe dọa nghiêm trọng đối với nền kinh tế toàn cầu" - Bình Nguyên, Văn phòng luật sư Tân Hà. Nguyễn Văn Bảy (2006), "Bảo hộ chỉ dẫn địa lý", Báo Nhân dân Điện tử, ngày 19/10. Cục Sở hữu trí tuệ (2004), Báo cáo Đề án Hoàn thiện pháp luật về Sở hữu trí tuệ, Hà Nội. Cục Sở hữu trí tuệ (2005), Hoạt động sở hữu công nghiệp năm 2005, Hà Nội. Phạm Đình Chướng (2002), "Hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam trên đường hội nhập", Hoạt động khoa học (7), tr. 22. Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Hiệp định TRIPS. Ngô Kỷ (2006), Quyền Sở hữu công nghiệp, Sở Khoa học và Công nghệ Tiền Giang, Tiền Giang, tr.163. Kỷ yếu Hội thảo: Cơ chế thực thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, Đề tài trong nghiên cứu khoa học trọng điểm QGTĐ, tháng 3/2005 - Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Ngọc Minh (2004), "Tìm hiểu pháp luật quốc tế về sở hữu trí tuệ", Báo cáo tại Hội thảo khoa học: Lý luận và thực tiễn trong đấu tranh chống hàng giả và đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, Học viện Cảnh sát Nhân dân, Hà Nội. Đoàn Năng (2004), "Thực trạng pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ", Báo cáo tại Hội thảo khoa học: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng một đạo luật chuyên ngành về sở hữu trí tuệ, Hà Nội. Phạm Duy Nghĩa (2003), "Tài sản trí tuệ ở Việt Nam: Từ quan niệm đến các rào cản và cơ chế bảo hộ", Nghiên cứu lập pháp, (1), tr. 90. Phạm Duy Nghĩa (2005), "Từ cam kết (TRIPS +) đến việc đàm phán gia nhập WTO", Thời báo Kinh tế Sài gòn, ngày 20/4. Phạm Duy Nghĩa (2006), "Từ lề đường bước vào xa lộ", Tia Sáng, (10). "Nhái khẩu hiệu – một kiểu hàng giả mới", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Như Quỳnh (2001), "Một số vấn đề về nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng", Luật học. Paul E. Salmon (2006), "Giới thiệu khái quát các Điều ước Quốc tế về SHTT", Chuyên đề Sở hữu trí tuệ - Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 1/2006 Phùng Trung Tập (2004), Các yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 6/2004, số 7/2004. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2004, 11/2004. Tạp chí thương mại, số 45/2003 Nguyễn Thị Thắm (2005), "Tiềm năng phát triển chỉ dẫn địa lý của Việt Nam", Báo cáo tại Hội thảo: Chỉ dẫn địa lý - con đường dẫn đến thành công, Hà Nội Đinh Văn Thanh (2004), "Pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam trong điều kiện thế giới hiện nay", Nhà nước và pháp luật, (4), tr. 40-55. Lê Xuân Thảo (1996), Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chính pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Thomas G. Field Jr (2006), "Sở hữu trí tuệ là gì", Chuyên đề Sở hữu trí tuệ - Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 1/2006. Bùi Anh Tuấn và Phạm Thái Hưng (2006), "Những giải pháp vượt quan thách thức khi gia nhập WTO", Báo Nhân dân điện tử. Trung tâm Thông tin Kinh tế - Xã hội Quốc gia - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Doanh nghiệp Việt Nam với vấn đề thương hiệu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2004 Đoàn Văn Trường (2003), "Vai trò của quyền sở hữu trí tuệ trong phát triển kinh tế", Nghiên cứu kinh tế, (7) Trường Đại học Luật Hà Nội (1979), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Trương Đình Tuyển (Bộ trưởng Thương mại ) (2006), "Toàn cầu hóa kinh tế - cách tiếp cận, cơ hội và thách thức", Báo Nhân dân điện tử. E. Anthony Wayne, "Tại sao bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ lại quan trọng", Chuyên đề Sở hữu trí tuệ - Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 1/2006 * Trang Web www.apec_ipeg.org (Trang tin điện tử của Nhóm chuyên gia sở hữu trí tuệ của APEC). www.wipo.int (Trang tin điện tử của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới). www. vietnamese.vietnam.usembassy.gov (Trang tin điện tử của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam). www.nhandan.org (Trang tin điện tử báo Nhân dân) www.dangcongsan.org (Trang tin điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam). www.vietnamnet.vn www.vnexpress.net ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2597.doc
Tài liệu liên quan