LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn tới toàn bộ các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế - Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã tận tình giảng dạy cho em trong suốt quá trình học tập tại trường. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn tới PGS.TS Nguyễn Như Bình đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo em trong suốt quá trình hoàn thành bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Công ty TNHH một thành viên sở hữu trí tuệ VCCI đặc biệt là chú Trần Huy
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1549 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phương – Giám đốc Công ty và chị Nguyễn Mai Phương - Trưởng phòng Pháp chế và nhãn hiệu đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến để em hoàn thành bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên
Nguyễn Thị Trà Giang
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Cty
Công ty
DN
Doanh nghiệp
NH
Nhãn hiệu
SHTT
Sở hữư trí tuệ
SHCN
Sở hữu công nghiệp
TH
Thương hiệu
VN
Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11-1-2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Điều này mở ra cơ hội to lớn trong việc phát triển kinh tế đất nước nhưng chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức đặc biệt là tuân thủ các cam kết quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Việc bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ trước hết là do nhu cầu của sự phát triển và giao lưu quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá về kinh tế, thương mại diễn ra ngày càng sôi động. Bảo hộ quốc tế quyền sở hữu trí tuệ nói chung và vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nói riêng là một hoạt động có tính tất yếu, khách quan, không ngừng được phát triển, thể hiện trên hai hướng: mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ bằng các thiết chế quốc tế và không ngừng chi tiết hoá nội dung bảo hộ. Điều này, ngày càng gắn chặt với quan hệ thương mại song phương, khu vực và toàn cầu. Việc gắn bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá với thương mại quốc tế, một mặt, sẽ tạo điều kiện để có những cơ chế bảo hộ quốc tế hữu hiệu hơn về sở hữu trí tuệ, mặt khác, cũng sẽ gây ra rất nhiều sức ép và khó khăn cho các nước có trình độ khoa học công nghệ thấp, đang trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực hay toàn cầu phải thực thi các cam kết quốc tế về sở hữu trí tuệ.
Vì những ký do kể trên, em xin chọn đề tài: “Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
CHƯƠNG1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ
1.1. Nhãn hiệu là gì?
1.1.1. Lịch sử hình thành
Thuật ngữ tiếng Anh “brand"(nhãn hiệu) bắt nguồn từ chữ "burning" (đốt cháy), một từ thông dụng theo nghĩa kinh doanh có nghĩa là đốt cháy lên da hoặc lông của các con thú nuôi, gỗ, kim loại đúc hoặc các hàng hóa khác thời xưa để in ký hiệu riêng lên đó. Đến thế kỷ XIX, theo từ điển Oxford, từ này đã mang nghĩa là dấu hiệu của nhãn hiệu thương mại. Vào giữa thế kỷ XX, từ '"branơ" phát triển rộng ra để bao gồm cả những hình ảnh về một sản phẩm được ghi lại trong tâm trí người tiêu dùng tiềm năng hoặc cụ thể hơn là quan niệm về một người hay vật nào đó.
Ngày nay, "brand" được hiểu là tổng hòa tất cả các thông tin về một sản phẩm, dịch vụ hay một Công ty được truyền đạt tới đối tượng mục tiêu bằng tên gọi hoặc các dấu hiệu nhận biết khác, như logo hoặc hình tượng. Nhãn hiệu không phải là cái tên: một tên Công ty nào đó mà không truyền đạt tới đối tượng mục tiêu thông điệp hay thuộc tính gì thì không thể gọi là một nhãn hiệu. Các thuộc tính của nhãn hiệu tồn tại trong mắt của người sở hữu và phản ánh sự tích luỹ các thông điệp truyền thông mà đối tượng mục tiêu đã nhận được liên quan đến sản phẩm, dịch vụ hay Công ty và những “kinh nghiệm" mà người tiêu dùng đó đã trải qua với sản phẩm, dịch vụ hay Công ty đó.
Nhãn hiệu đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử. Những người cổ đại thời kỳ đồ đá vẫn thường trao đổi với nhau những vũ khí được thiết kế khác biệt với vẻ ngoài đem lại cảm tưởng sẽ giúp họ thành công hơn trong săn bắn. Những người đóng tàu Viking cũng có những "nhãn hiệu” tàu biển khác nhau. Về sau này, khi loài người biết đúc kim loại, nhiều người đã đúc lên sản phẩm tên họ của mình như một chứng tích khẳng định chất lượng của sản phẩm.
Trên thực tế, định nhãn (branding), hay việc sử dụng các biểu tượng để truyền đạt các thông tin về một sản phẩm hay dịch vụ có thể được coi là một hoạt động chỉ riêng gặp ở con người. Đây cũng là nền tảng của thương mại: nếu không có thông tin về danh tiếng của một người sản xuất hay người bán, hoạt động thương mại hẳn nhiên sẽ bị ngừng trệ. Tuy nhiên, quyền lực thực sự của các nhãn hiệu lại có từ khi dấu hiệu này được truyền từ một cá nhân nào đó sang một cộng đồng kinh doanh lớn hơn. Quá trình chuyển đổi này tăng cường giá trị nhãn hiệu, mở rộng mức độ ảnh hưởng của nó và kết quả là nó tạo ra của cải vật chất cho người sở hữu.
1.1.2. Khái niệm về nhãn hiệu
Nhãn hiệu là những dấu hiệu để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các cơ sở sản xuất,kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ ,hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá được công nhận là có khả năng phân biệt theo Điều 785 Bộ luật dân sự nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố độc đáo, dễ nhận biết hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể độc đáo, dễ nhận biết
- Không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đang được bảo hộ tại Việt Nam (kể cả các nhãn hiệu hàng hoá đang được bảo hộ theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia);
- Không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá nêu trong đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá đã nộp cho Cơ quan có thẩm quyền với ngày ưu tiên sớm hơn (kể cả các đơn về nhãn hiệu hàng hoá được nộp theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia);
- Không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực bảo hộ nhưng thời gian tính từ khi hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực chưa quá 5 năm;
- Không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác được coi là nổi tiếng (theo Điều 6bis Công ước Pari) hoặc với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi;
- Không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ hoặc với tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ; g) Không trùng với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc đã được nộp đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ với ngày ưu tiên sớm hơn;
- Không trùng với một hình tượng, nhân vật đã thuộc quyền tác giả của người khác trừ trường hợp được người đó cho phép.
Các dấu hiệu sau đây không được Nhà nước bảo hộ với danh nghĩa là nhãn hiệu hàng hoá:
- Dấu hiệu không có khả năng phân biệt, như các hình và hình học đơn giản, các chữ số, chữ cái, các chữ không có khả năng phát âm như một từ ngữ; chữ nước ngoài thuộc các ngôn ngữ không thông dụng trừ trường hợp các dấu hiêu này đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi;
- Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hoá thuộc bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến;
- Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị mang tính mô tả hàng hoá, dịch vụ và xuất xứ của hàng hoá, dịch vụ;
- Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa đảo người tiêu dùng về xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị của hàng hoá hoặc dịch vụ;
- Dấu hiệu giống hoặc tương tự với dấu chất lương, dấu kiểm tra, dấu bảo hành... của Việt Nam, nước ngoài cũng như của các tổ chức quốc tế;
- Dấu hiệu, tên gọi (bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh), hình vẽ, biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kì, quốc huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của Việt Nam cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan, người có thẩm quyền tương ứng cho phép.
Nhãn hiệu gồm:
Nhãn hiệu gắn vào sản phẩm,bao bì sản phẩm để phân biệt sản phẩm cùng loại của các cơ sở sản xuất khác nhau;
Nhãn hiệu dịch vụ gắn vào phương tiện dịch vụ để phân biệt dịch vụ cùng loại của các cơ sở kinh doanh,dịch vụ khác nhau.
- Dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu có thể là:
Chữ có khả năng phát âm,có nghĩa hoặc không có nghĩa,trình bày dưới dạng chữ viết,chữ in hoặc chữ được viết cách điệu;
Hình vẽ,ảnh chụp;
Chữ hoặc tập hợp các chữ kết hợp với hình vẽ,ảnh chụp.
VÍ DỤ:
1. Nhãn hiệu chữ: HONDA Chủ sở hữu: Công Ty HONDA MOTOR CO., LTD (JP)
2. Nhãn hiệu hình: hai đầu hổ Chủ sở hữu: Công Ty TNHH nước giải khát
Hoà Bình
3. Nhãn hiệu hình và chữ: WINCO & hình Chủ sở hữu: Công Ty luật Sở hữu Trí tuệ WINCO
4. Nhãn hiệu chữ cái dạng hình: IBM Chủ sở hữu: Công Ty INTERNATIONAL BUSINESS MACHINES CORPORATION (US)
1.1.3. Các khía cạnh giá trị của nhãn hiệu
Theo H.J. Riezebos, bên cạnh các giá trị vật lý mà một sản phẩm cụ thể cung cấp cho khách hàng mục tiêu, nhãn hiệu được đính lên để đưa sản phẩm vào quá trình lưu thông sẽ góp thêm vào sản phẩm một giá trị tâm lý bao gồm ba thành tố: mức độ nhận biết về nhãn hiệu (brand awareness), chất lượng cảm thụ của nhãn hiệu (brand perceived quality), và các ấn tượng liên kết với nhãn hiệu (brand associations).
- Mức độ nhận biết về một nhãn hiệu: là khả năng mà một khách hàng tiềm năng có thể nhận ra hoặc nhớ được rằng nhãn hiệu đó được dùng cho một chủng loại sản phẩm nào đó. Mức nhận biết càng cao, tính quen thuộc càng lớn, sự tin cậy đối với nhãn hiệu càng dễ được củng cố. Đó là cơ sở ban đầu của nhu cầu sử dụng các thông điệp quảng cáo: trước một loạt nhãn hiệu của cùng một loại sản phẩm trên cùng một quầy hàng bên trong một siêu thị, nếu độ chênh biệt về chất lượng, bao bì, giá cả… là không đáng kể, xu hướng tự nhiên của khách hàng là sẽ chọn lấy các nhãn hiệu mà họ từng được nghe nhắc đến nhiều nhất, hoặc qua truyền miệng, hoặc qua các phương tiện truyền thông đại chúng….
Bên cạnh nhu cầu phải tạo dựng mức độ nhận biết về nhãn hiệu, doanh nghiệp thường cũng cần khẳng định các nỗ lực đảm bảo hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Tuy nhiên, đa số người tiêu dùng lại ít có khả năng hoặc xu hướng sử dụng các chỉ tiêu chất lượng được công bố trong quá trình so sánh, chọn lựa giữa các nhãn hiệu (ngoại trừ trong lĩnh vực tiếp thị công nghiệp).
- Chất lượng cảm thụ của nhãn hiệu: tức sự cảm nhận về tính khác biệt trong chất lượng tổng thể (đặc biệt là nếu có sự ưu trội) của sản phẩm mang nhãn so với mục đích tiêu dùng và so với các sản phẩm cùng loại mang các nhãn hiệu khác. Do đó, trừ khi có bước đột phá về công nghệ và kèm theo đó là về chất lượng so với đối thủ cạnh tranh, thường thì sức hấp dẫn của một nhãn hiệu sẽ không nằm ở bản thân các chỉ tiêu kỹ thuật, mà sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào nghệ thuật chọn lựa và sử dụng các ngôn từ đơn giản, gần gũi và thuyết phục để diễn đạt về hiệu quả của các chỉ tiêu kỹ thuật đó đối với khách hàng mục tiêu: CÔ GÁI HÀ LAN 1,2,3 khẳng định “triple care”, EXPO nắp đỏ nhấn mạnh nguồn gốc đậu nành của sơn dầu alkyd, ABBOTT gọi GAIN IQ là dưỡng chất cho trí tuệ…
Biện chứng về chất lượng trong quản trị nhãn hiệu là, trong khi chất lượng tuyệt đối là kết quả của một quy trình sản xuất tương đối phức tạp để giúp sản phẩm đáp ứng một nhu cầu (need) xác định (ăn phở gà, uống nước ngọt, đi taxi, xem hài kịch…); thì chất lượng cảm thụ lại là một cảm nhận tâm (sinh) lý tương đối đơn giản về phương thức, mức độ mà sản phẩm đó thỏa mãn các ước muốn (wants) đa dạng (và thường là thầm kín) trong quá trình mà nhu cầu liên quan được đáp ứng (quán nào? hương vị gì? hãng xe? ai diễn?…). Chất lượng tuyệt đối tồn tại mặc nhiên trong sản phẩm và có thể chủ động định đoạt bởi doanh nghiệp; trong khi chất lượng cảm thụ hình thành trên cơ sở của các so sánh và phải tìm cách nhận diện trong mối quan hệ với cơ sở khách hàng của nhãn hiệu (brand’s customer base). Chất lượng tuyệt đối là một giá trị có tính chất vật lý nói chung chỉ có thể cao hay thấp; trong khi chất lượng cảm thụ là một giá trị tâm (sinh) lý lại có thể âm hoặc dương. Phấn đấu đạt mức chất lượng tuyệt đối ngang ngửa với các đối thủ cạnh tranh là mục tiêu của hoạt động quản trị chất lượng; nhận diện và nâng cao chất lượng cảm thụ là một trong các đối tượng của hoạt động quản trị marketing nói chung và quản trị nhãn hiệu nói riêng.
Chất lượng cảm thụ của nhãn hiệu không phải là một giá trị vận hành một cách biệt lập. Một mức độ nhận biết cao về nhãn hiệu cũng là một yếu tố làm tăng chất lượng cảm thụ; đặc biệt, các ấn tượng liên kết với nhãn hiệu có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc làm rõ và làm mạnh mức độ nhận biết (về) cũng như chất lượng cảm thụ của nhãn hiệu.
- Ấn tượng liên kết là mọi liên tưởng về nhãn hiệu trong trí nhớ của khách hàng: TRUNG NGUYÊN với các hoài bão của Đặng Lê Nguyên Vũ, BITI’S với “nâng niu bàn chân Việt”, BIA SÀI GÒN nhắc nhở “có thể bạn không cao nhưng ai cũng phải ngước nhìn”…. Các liên tưởng đó có khi nhằm làm tăng độ thân thuộc của sản phẩm (gần gũi của KYMDAN), có khi để chia sẻ tâm lý với khách hàng (trẻ trung của KOTEX, vui nhộn của FANTA), có lúc nhằm diễn đạt địa vị xã hội (thời trang của SPACY, sang trọng của MERCEDES)…. Vai trò của các ấn tượng liên kết là làm tăng thêm giá trị tâm lý cho sản phẩm thông qua việc làm giàu hình ảnh và cảm xúc về nhãn hiệu trong quá trình chọn mua và sử dụng một sản phẩm mang nhãn.
Tuy nhiên, ngay cả khi chất lượng cảm thụ hoặc các ấn tượng liên kết của một nhãn hiệu được bảo tồn, chiến thuật cạnh tranh liên tục bằng giá cả hoặc khuyến mãi của các nhãn hiệu cạnh tranh cũng có thể khiến cho người tiêu dùng thay đổi nhãn hiệu trong ngắn hạn, trung hạn, hoặc dài hạn. Do vậy, không thể không xem xét đến một thành tố giá trị quan trọng khác: ý hướng trung thành với nhãn hiệu (brand loyalty). David A. Aaker cho rằng có thể phân “ý hướng trung thành” thành năm cấp độ từ thấp tới cao thông qua khái niệm “tháp ý hướng trung thành” (The Loyalty Pyramid). Ở cấp độ thấp nhất là những người tiêu dùng không quan tâm gì đến các nhãn hiệu (no brand loyalty), đối với họ, các nhãn hiệu là không khác biệt gì nhau và họ dễ dàng thay đổi nhãn hiệu tùy theo giá cả (switchers). Ở cấp độ thứ hai, người tiêu dùng thỏa mãn với nhãn hiệu và có thể gọi là khách hàng quen biết (habitual buyers), chủ yếu do họ không có gì không ưng ý đối với sản phẩm mang nhãn, nhưng chỉ cần nhãn hiệu cạnh tranh đưa ra được một lý do đáng chú ý (mà không cần phải có bất kỳ một nỗ lực nào) thì họ có thể đổi nhãn. Ở cấp độ thứ ba cũng là các khách hàng quen biết, nhưng muốn họ đổi nhãn, nhãn hiệu cạnh tranh phải gánh chịu một khoản chi phí thuyết phục nhất định (switching cost). Ở cấp độ thứ tư là các khách hàng ưa thích nhãn hiệu nhờ vào chất lượng cảm thụ của nhãn hiệu hay một số ấn tượng liên kết nào đó, thường đi kèm với quá trình sử dụng nhãn hiệu khá lâu dài, được gọi là các khách hàng thân thiết (friends of the brand). Ở cấp độ cao nhất là các khách hàng tận tâm với nhãn hiệu (committed customers), họ cảm thấy có sự tự hào nhất định khi sử dụng nhãn hiệu và luôn sẵn sàng giới thiệu nhãn hiệu với người tiêu dùng khác.
Một nhãn hiệu đã đạt được một mức độ nhận biết nhất định, đã có được một chất lượng cảm thụ khác biệt, đã có các ấn tượng liên kết phong phú và qua đó đã duy trì và nâng cao được ý hướng trung thành của khách hàng, sẽ tạo đuợc một uy tín, danh tiếng (reputation)… nhất định hoặc nói một cách khác là lợi thế hình ảnh (trademark goodwill) trên thương trường. Có thể phân định ra hai cấp độ của lợi thế hình ảnh: nhãn hiệu được nhận biết rộng rãi (well known mark) là nhãn hiệu chỉ có năng lực gợi nhớ (brand recall) cao do được phân phối và/hoặc quảng bá rộng rãi, và nhãn hiệu nổi tiếng (famous mark) là nhãn hiệu không chỉ được nhận biết rộng rãi mà còn có hoặc chất lượng cảm thụ, hoặc các ấn tượng liên kết, hoặc ý hướng trung thành, hoặc một sự tổ hợp nào đó của hai hay cả ba thành tố giá trị trên đạt đến một mức độ nhất định.
Tuy nhiên, nếu nhãn hiệu đó không được bảo hộ pháp lý đúng mức, sẽ bị hạn chế hoặc thậm chí mất hẳn khả năng chống lại các hoạt động sản xuất hàng giả hoặc hàng nhái nhằm lợi dụng các thành quả đầu tư của nhãn hiệu. Ngược lại, nếu nhãn hiệu đó khởi động việc đi vào thị trường một nước khác bằng hoạt động đăng ký bảo hộ pháp lý kịp thời, nhãn hiệu sẽ ngăn chặn được khả năng xâm nhập thị trường của các nhãn hiệu trùng lắp hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn dùng cho sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh.
Hơn nữa, nếu sản phẩm mang nhãn có sử dụng một sáng chế hoặc kiểu dáng công nghiệp độc quyền hay các đối tượng sở hữu công nghiệp đã được bảo hộ khác (thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng mới, chỉ dẫn địa lý), nhãn hiệu có thể tạo lập và duy trì được chất lượng cảm thụ riêng có so với các nhãn hiệu cạnh tranh, và xác lập được cho mình một lợi thế pháp lý trên thương trường. Bên cạnh đó, nhãn hiệu còn có thể tạo lập được lợi thế công nghệ nếu tập trung thành công vào việc áp dụng và khai thác liên tục các kỹ thuật mới nhằm tạo thế đột phá cho sản phẩm mang nhãn, hoặc lợi thế thương mại qua hoạt động kinh doanh lâu năm hay tranh thủ hợp lý các thời cơ thị trường để chi phối hoặc khai thác tốt kênh phân phối. Cuối cùng, lợi thế tài chính nhờ tích lũy hay khai thác được các nguồn đầu tư dồi dào là một yếu tố hết sức quan trọng tạo khả năng tận dụng tốt hơn mọi thời cơ so với đối thủ cạnh tranh.
Như vậy, trong khi tên thương mại, nhãn hiệu và biểu tượng kinh doanh (logo) thiên về hướng phản ánh mặt chủ quan của doanh nghiệp: xuất xứ, quy mô, tầm cỡ, sức mạnh chuyên môn, phong cách kinh doanh…; thì trong quá trình được đính lên sản phẩm để đi vào thương trường, một sản phẩm mang nhãn lại phải tập trung theo hướng tìm hiểu, đáp ứng và thể hiện mặt khách quan trong mối quan hệ với khách hàng: nhu cầu, ước muốn, nét tính cách của người tiêu dùng mục tiêu và yêu cầu khác biệt hóa so với nhãn hiệu của đối thủ cạnh tranh. Tùy theo cấu trúc phong cách kinh doanh của doanh nghiệp, các giá trị và các nét tính cách của nhãn hiệu/lô-gô và các giá trị và các nét tính cách của nhãn hiệu có thể hội tụ (trong phong cách đa diện), trùng nhau (trong phong cách nhất thể) hay phân kỳ và tách biệt (trong phong cách đa nhãn).
1.2. Tại sao cần bảo hộ nhãn hiệu
Trong quá trình kinh doanh, các DN trên toàn thế giới đều đã nhất trí: Nhãn hiệu là một tài sản của DN, gắn chặt nhất với quá trình lưu thông hàng hoá. Thông qua nhãn hiệu, nhà sản xuất có thể quảng cáo về sản phẩm, về bản thân DN mình thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Nhãn hiệu sẽ đại diện cho danh tiếng, chất lượng và uy tín của sản phẩm, của DN sản xuất ra sản phẩm đó: Khi nhắc tới IBM, người ta biết tới một DN hàng đầu cung cấp các máy chủ chất lượng cao và ổn định. Ngoài ra, nhãn hiệu sẽ giúp người tiêu dùng phân biệt sản phẩm của nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác để họ lựa chọn.
Sự bảo hộ nhãn hiệu loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng đối với những sản phẩm và dịch vụ tương tự không bảo hộ. Những hành vi gây tổn thất, làm giảm uy tín hoặc xâm phạm giá trị của nhãn hiệu đã được bảo hộ có thể gây hại lớn đến hoạt động kinh doanh của DN.
Nói chung, việc đăng ký nhãn hiệu không phải là đòi hỏi có tính chất bắt buộc nhưng nếu không làm thủ tục đăng ký, Nhãn hiệu sẽ bị bắt chước dẫn đến các rủi ro không dễ dàng vượt qua được. Một nhãn hiệu không được đăng ký, tức là không có cơ sở pháp lý để pháp luật bảo hộ. Khi có người khác sử dụng nhãn hiệu y hệt hoặc tương tự với nhãn hiệu của bạn và cho cùng loại sản phẩm hoặc dịch vụ mà bạn kinh doanh, bạn bị rơi vào trạng thái bị cạnh tranh trực diện, bạn bị mất thị phần và mọi thành quả do bạn xây đắp cho nhãn hiệu đó (quảng cáo, tiếp thị, uy tín được xác lập trong tiềm thức khách hàng) đều bị đối thủ cạnh tranh khai thác. Khi đó, bạn phải nghĩ đến pháp luật và nhờ pháp luật can thiệp. Trong tình thế nhãn hiệu không được đăng ký, dường như không thể nhận được sự can thiệp của pháp luật bởi vì pháp luật không bảo hộ Nhãn hiệu hàng hóa không đăng ký.
Đây không chỉ là công cụ hữu hiệu giúp bảo vệ quyền sở hữu và sử dụng độc quyền nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp tại thị trường trong và ngoài nước, mà còn là cơ sở quan trọng nhất để giúp giải quyết một cách thoả đáng những tranh chấp thương mại xảy ra liên quan đến vi phạm về bản quyền, quyền sở hữu, từ đó bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của các doanh nghiệp.
Theo bà Phạm Thị An, chuyên gia thuộc Công ty TNHH tư vấn (Anphaco Ltd), Phạm Anh Nguyên, nhãn hiệu ngày càng được coi là tài sản có giá trị lớn nhất của doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với các tập đoàn xuyên quốc gia có quy mô càng lớn, thì giá trị của các nhãn hiệu càng cao và nếu có thể định giá được thì cũng phải vào khoảng vài chục tỷ USD. Bà An dẫn chứng ra một số nhãn hiệu có giá trị vào loại cao đã được Tạp chí Business Week công bố, như Coca - Cola khoảng 67,52 tỷ USD, Microsoft gần 60 tỷ USD, IBM 53 tỷ USD, Nokia 26,5 tỷ USD, Mc Donald’s 26 tỷ USD, Toyota 24,9 tỷ USD... (Nguồn: Cục SHTT).
Đối với những tập đoàn trên, việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu độc quyền nhãn hiệu là điều tối quan trọng, giúp họ có thể tránh được bất cứ sự xâm phạm nào về bản quyền sử dụng, cũng như giúp họ giải quyết hữu hiệu trong trường hợp bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. “Đây là một yêu cầu hết sức quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập, bởi khi doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường, một khi đã có được thế vững chắc trong lòng người tiêu dùng, chắc chắn nhãn hiệu của doanh nghiệp đó sẽ là mục tiêu "nhòm ngó" của nhiều nhà sản xuất của nước sở tại”.
Nếu chậm chân không đăng ký kịp thời nhãn hiệu thì DN dễ bị mất nhãn hiệu, mất thị trường, do đó nhiều kế hoạch kinh doanh của DN bị phá sản và hoạt động xuất nhập khẩu của DN sẽ gặp nhiều khó khăn. Trong trường hợp mất nhãn hiệu mà hàng chưa xuất vào thị trường thì việc xuất hàng sẽ không thực hiện được. DN phải thay đổi nhãn hiệu khác nếu muốn tiếp tục xuất khẩu, do đó tốn thêm chi phí. Nếu hàng đang xuất vào thị trường đó thì người chiếm đoạt nhãn hiệu có thể yêu cầu pháp luật can thiệp và hàng hoá nhập khẩu có thể bị bắt giữ, chủ hàng bị xử phạt, mất thị phần. Đó là chưa kể đến việc bị làm hàng giả, hàng nhái, ảnh hưởng đến uy tín DN.
Việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa mang tính lãnh thổ: nhãn hiệu đăng ký ở nứơc nào thì chỉ bảo hộ trên lãnh thổ nước đó. Muốn mở rộng phạm vi bảo hộ nhãn hiệu của mình sang lãnh thổ nước khác thì doanh nghiệp phải làm thủ tục đăng ký nhãn hiệu ở nước đó. Một trong những lý do cơ bản của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở nứơc ngoài là nhằm giành được độc quyền khai thác, sử dụng nhãn hiệu và ngăn cản người khác khai thác, sử dụng nhãn hiệu của doanh nghiệp tại nước đăng ký bảo hộ. Đây là việc làm có ý nghĩa đăc biệt quan trọng đối với những doanh nghiệp muốn mở rộng hoạt động của mình ra nước ngoài dưới hình thức đầu tư hoặc xuất khẩu hàng hóa.
1.3. Thể chế quốc tế và luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu
1.3.1.Thể chế quốc tế về bảo hộ nhãn hiệu
Công ước Stockholm về việc thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới.
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới, tiếng Anh viết tắt là WIPO, được thành lập trên cơ sở Công ước ký tại Stockholm này 14/07/1967 gọi là Công ước về việc thành lập "Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới". Đây là một tổ chức liên chính phủ có trụ sở tại Geneve, Thụy Sỹ và là một trong 16 Tổ chức chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. WIPO có trách nhiệm thúc đẩy việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn thế giới thông qua sự hợp tác giữa các quốc gia và quản lý các hiệp định, hiệp ước khác nhau liên quan đến các khía cạnh luật pháp và quản lý sở hữu trí tuệ. Tính đến ngày 22/06/1999 số nước thành viên của WIPO là 171. Việt Nam là thành viên của WIPO từ ngày 02/07/1976.
Công ước Paris về bảo hộ quyền SHCN
Được thông qua vào ngày 20/3/1883, được sửa đổi tại Brussels ngày 14/12/1900, tại Washington ngày 2/6/1911, tại LaHay ngày 6/11/1925, tại London ngày 2/6/1934, tại Lisbon ngày 31/10/1958 và tại Stockholm ngày 14/7/1967, và được tổng sửa đổi ngày 28/9/1979.
Công ước tạo lập cơ sở chung nhất cho các thỏa thuận đa phương và song phương khác về bảo hộ quyền SHCN. Công ước đề ra nguyên tắc “đối xử quốc gia” (Điều 2) mà theo đó, công dân Việt Nam có quyền được hưởng các điều kiện thuận lợi như công dân của bất kỳ một nước thành viên nào khác trong việc bảo hộ nhãn hiệu (NH) tại nước đó, miễn là tuân thủ các điều kiện và thủ tục quy định đối với công dân của nước tương ứng
Công ước cũng đề ra nguyên tắc được hưởng quyền ưu tiên trong việc đăng ký mở rộng thị trường quốc tế (các Khoản A,B,C Điều 4) theo đó, nếu một công dân Việt Nam đã nộp đơn đầu tiên để đăng ký NH tại bất kỳ một trong các nước thành viên nào của Công ước, trong thời hạn 6 tháng tiếp theo, nếu tiếp tục nộp đơn đăng ký NH đó vào các nước thành viên khác, sẽ có quyền yêu cầu các quốc gia liên quan xem ngày ưu tiên của các đơn nộp tiếp sau này sẽ là ngày đã nộp đơn đầu tiên. Đặc biệt, Công ước quan tâm đến việc bảo hộ các NH nổi tiếng (Điều 6 bis), theo đó, các nước thành viên có trách nhiệm từ chối hoặc hủy bỏ đăng ký, ngăn cấm việc sử dụng một NH có tính sao chép, bắt chước, phiên dịch ... và có khả năng gây nhầm lẫn với một NH đã được cơ quan có thẩm quyền coi là NH nổi tiếng tại nước đó.
Thoả ước Madrid và Nghị định thư liên quan đến Thoả ước :
Thoả ước này được ký tại Madrid năm 1891, trong đó quy định việc đăng ký quốc tế Nhãn hiệu hàng hoá tại Văn phòng quốc tế của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ở Geneva. Theo Thoả ước này thì công dân của một nước thành viên của Thoả ước muốn bảo hộ một nhãn hiệu hàng hoá của mình tại nhiều nước thành viên khác, trước tiên phải đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của mình tại Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia, sau đó thông qua Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia có thể nộp đơn đăng ký quốc tế cho Văn phòng quốc tế của WIPO. Văn phòng quốc tế sẽ công bố đơn đăng ký quốc tế và chỉ rõ những nước thành viên mà người nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của mình (nước được chỉ định). Nước được chỉ định có thời gian 1 năm để xem xét chấp nhận hoặc từ chối bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trên lãnh thổ của mình. Nếu sau 1 năm nước được chỉ định không có ý kiến thì nhãn hiệu hàng hoá coi như được chấp nhận bảo hộ ở nước đó.
Thoả ước Madrid hiện có 78 thành viên. Việt Nam tham gia Thoả ước này từ ngày 08/03/1949.
Nghị định thư liên quan tới Hiệp định Madrid về đăng ký các nhãn hiệu quốc tế - Nghị định thư Madrid - đã được thông qua tại thủ đô Tây Ban Nha ngày 27/6/1989, và có hiệu lực ngày 1/12/1995. Nghị định thư này là một trong hai hiệp định tạo nên hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế Madrid. Hiệp định đầu tiên - Hiệp định Madrid 1891 - đã quy định đăng ký nhãn hiệu ở một số quốc gia thông qua việc đăng ký nhãn hiệu quốc tế với WIPO tại Geneva.
Nghị định thư Madrid đã ra đời vì một số quốc gia gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện Hiệp định Madrid. Điều đó được coi là cải thiện hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế. Do đó, ngày càng nhiều chủ sở hữu nhãn hiệu đang sử dụng Nghị định thư Madrid mỗi năm để bảo hộ nhãn hiệu của họ ở nước ngoài. Tính đến ngày 15/9/2005, đã có 66 quốc gia ký kết Nghị định thư Madrid.
Nghị định thư Madrid là một hiệp định về thủ tục lập hồ sơ chứ không phải là hiệp định điều chỉnh về mặt nội dung. Nghị định thư giúp những người sở hữu nhãn hiệu - các cá nhân và doanh nghiệp - bảo vệ được nhãn hiệu của họ một cách hiệu quả cùng một lúc ở nhiều quốc gia thông qua việc lập hồ sơ xin cấp bằng phát minh sáng chế tới một cơ quan duy nhất với một ngôn ngữ, một khoản chi phí và một loại tiền tệ. Hơn nữa, không cần phải lập hồ sơ qua trung gian. Đơn xin cấp bằng phát minh, sáng chế có thể được lập bằng tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc Tây Ban Nha.
Việc nộp hồ sơ đăng ký mang tính quốc tế cũng có hiệu quả tương tự như hồ sơ đăng ký nhãn hiệu ở trong nước như đã được người nộp hồ sơ lựa chọn. Khi cơ quan bảo hộ nhãn hiệu ở một quốc gia được lựa chọn đồng ý bảo hộ thì nhãn hiệu đó sẽ được bảo hộ trong toàn hệ thống tương tự như cơ quan này đã đăng ký.
Nghị định thư Madrid cũng đơn giản hóa việc quản lý nhãn hiệu bởi lẽ một thủ tục đơn giản sẽ giúp Cục Quốc tế của WIPO cập nhật được những thay đổi sau này về sở hữu, hoặc tên, hoặc địa chỉ của người sở hữu nhãn hiệu.
Trước khi nghị định thư được ban hành, các yêu cầu hành chính phức tạp đối với việc chuyển giao tài sản bình thường của doanh nghiệp đã gây khó khăn cho những người sở hữu thực hiện việc chuyển nhượng hợp pháp các nhãn hiệu của họ trên thế giới. Nghị định thư đã cho phép người sở hữu đăng ký trên phạm vi quốc tế chỉ bằng một hồ sơ duy nhất, trả tiền một lần trước khi chuyển nhượng một nhãn hiệu ở tất cả mọi quốc gia tham gia ký kết. Việc gia hạn đăng ký cũng chỉ có duy nhất một thủ tục đơn giản. Việc đăng ký trên phạm vi quốc tế có thời hạn 10 năm và thời gian gia hạn mới là 10 năm.
Những người sở hữu nhãn hiệu có thể lựa chọn thêm một số quốc gia nữa nếu họ quyết định tìm cách bảo hộ ở nhiều quốc gia thành viên hơn hoặc nếu có thêm nhiều quốc gia mới gia nhập nghị định thư.
Nếu việc đăng ký cơ bản - hoặc việc đăng ký làm cơ sở cho đăng ký quốc tế - bị hủy vì bất kỳ lý do gì trong năm năm đầu tiên thì công ước Madrid sẽ tạo điều kiện cho người đăng ký quốc tế chuyển việc đăng ký đó thành một loạt các hồ sơ đăng ký ở các quốc gia tham gia ký kết như đã lựa chọn. Các đơn đăng ký này sẽ giữ nguyên ngày ưu tiên như đã nêu trong hồ sơ đăng ký quốc tế ban đầu ở mỗi nước. Người sở hữu cũng bảo lưu quyền ở mỗi quốc gia thành viên, ngay cả khi không thực hiện được đăng ký quốc tế.
Hiệp định TRIPS
Hiệp định TRIPS có hiệu lực vào năm 1995 trong khuôn khổ Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới. TRIPS đã tổng hợp và xây dựng trên cơ sở các hiệp định quan trọng và mới nhất về sở hữu trí tuệ do Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) thực thi với Công ước Paris về Bảo hộ Tài sản Công nghiệp và Công ước Berne về Bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật – những hiệp định có từ những năm 1880.
Hiệp định TRIPS có vị thế độc nhất trong số các điều ước quốc tế về IPR bởi lẽ việc trở thành thành viên của WTO đồng nghĩa với việc tham gia “trọn gói” các hiệp ước. Nói cách khác, các quốc gia thành viên của WTO không được phép lựa chọn các hiệp ước mà phải tuân thủ tất cả các hiệp ước đa phương của WTO, bao gồm cả TRIPS.
Hiệp định TRIPS áp dụng các nguyên tắc cơ bản trong thương mại quốc tế đối với các quốc gia thành viên về sở hữu trí tuệ, trong đó có quy chế đối xử quốc._. gia và quy chế tối huệ quốc. TRIPS cũng đề ra các chuẩn mực tối thiểu về mức độ, phạm vi và việc sử dụng bảy hình thức sở hữu trí tuệ - quyền tác giả, nhãn hiệu, xuất xứ địa lý, thiết kế công nghiệp, bằng phát minh sáng chế, thiết kế bố trí mạch điện tử tích hợp và thông tin mật (bí mật thương mại). TRIPS cũng nêu cụ thể những hạn chế và ngoại lệ có thể chấp nhận nhằm hài hòa lợi ích sở hữu trí tuệ với lợi ích trong những lĩnh vực khác, chẳng hạn như sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế. (Toàn văn Hiệp định TRIPS cũng như phần giải thích các điều khoản của hiệp định có tại trang web của WTO
Theo Hiệp định TRIPS, các nước phát triển hoàn toàn thực thi hiệp định này vào ngày 1/1/1996. Các quốc gia đang phát triển và những thành viên đang trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường được phép lùi ngày thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định trong TRIPS đến 1/1/2000. Các nước kém phát triển được phép bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ của mình vào ngày 1/1/2006, và có khả năng được kéo dài thời kỳ chuyển giao nếu có yêu cầu. Các quốc gia đang phát triển chưa có quy định bảo hộ bằng phát minh sáng chế đối với một số lĩnh vực công nghệ nhất định tính đến thời điểm xin gia nhập thì được phép kéo dài thêm năm năm nữa, tức là đến ngày 1/1/2005, để ban hành quy định bảo hộ như vậy.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Thương mại của WTO tại Doha năm 2001, các quốc gia kém phát triển đã được gia hạn thêm 10 năm để thực thi các quy định về bảo hộ bằng phát minh sáng chế và “bí mật thương mại” trong khuôn khổ của TRIPS vì những quy định này có liên quan đến dược phẩm.
Tuy nhiên, do Hiệp định TRIPS đã trải qua 10 năm nên không thể bao hàm được một số diễn biến mới, như các vấn đề về Internet và tác quyền kỹ thuật số, công nghệ sinh học tiên tiến, và quá trình nhất thể hóa những chuẩn mực toàn cầu về luật pháp hoặc thông lệ. Hiệp định này mới chỉ đặt nền tảng cho việc bảo hộ IPR ở mức tối thiểu chứ chưa phải tối đa.
Kể từ khi ký kết Hiệp định TRIPS, Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới đã giải quyết nhiều vấn đề tác quyền kỹ thuật số trong các hiệp định về Internet, cụ thể Hiệp định Quyền tác giả của WIPO (WCT) và Hiệp định về Biểu diễn và Ghi âm của WIPO (WPPT).
Yêu cầu:
Nhìn chung, hiện có 9 loại tài sản trí tuệ đang được thừa nhận và bảo hộ bởi các công ước quốc tế. Đó là:
- Các phát minh sáng chế trong lĩnh vực chế tạo (Công ước Pari; Hiệp ước hợp tác về phát minh sáng chế; Hiệp ước Buđapét);
- Các giải pháp hữu ích như các thiết kế chức năng trong lĩnh vực chế tạo (Công ước Pari);
- Nhãn hiệu thương mại phân biệt hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp khác nhau (Công ước Pari; Hiệp định Mađrít; Hiệp ước về Luật nhãn hiệu thương mại);
- Thiết kế công nghiệp trong lĩnh vực may mặc, ô tô, điện tử (Hiệp ước Hague; Công ước Pari; Hiệp định Lôcácnô);
- Chỉ dẫn địa lý xác định nguồn gốc và đặc tính của các sản phẩm nông nghiệp như rượu, bia (Hiệp định Lixbon; Hiệp định Mađrít về những chỉ dẫn giả);
- Bản quyền và các quyền cận kề trong các lĩnh vực in ấn, giải trí, phần mềm, phát thanh truyền hình (Công ước Bécnơ; Công ước Rôm; Công ước Giơnevơ; Công ước Brucxen; Công ước chung về bản quyền);
- Các giống và sản phẩm cây con mới trong nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm (Liên hiệp Bảo hộ quốc tế đối với các loại cây trồng mới - UPOV);
- Thiết kế mạch tích hợp trong công nghiệp vi điện tử (Hiệp ước Oasinhtơn);
- Bí mật thương mại.
Trừ UPOV, tất cả các hiệp định quốc tế nêu trên đều nằm trong sự quản lý của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) mà Việt Nam là thành viên
Điều 15 Hiệp định TRIPS quy định mọi dấu hiệu hoặc sự kết hợp các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá , dịch vụ của doanh nghiệp khác đều có thể được bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá.
Chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá có độcquyền ngăn chặn tất cả các bên thứ ba sử dụng trái phép trong hoạt động thương mại các dầu hiệu trùng hoặc tương tự đối với hàng hoá hoặc dịch vụ giống hệt hoặc tương tự với hàng hoá đã được đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của mình nếu việc sử dụng này có nguy cơ gây nhầm lẫn. Điều 16 qui định các thành viên của WTO phải tuân thủ điều 6bis của Công ươcs Paris liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
Điều 17 của Hiệp định cho phép các thành viên của WTO áp dụng một số ngoại lệ nhất định đối với các quyền liên quan đến một nhãn hiệu hàng hoá, chẳng hạn như sử dụng các thuật ngữ mang tính mô tả với mục đích lành mạnh, với điều kiện những ngoại lệ này không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá.
Các thành viên của WTO có thể quy định các điều kiện cấp Lixăng và chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hoá, trong đó không được quy định việc cấp lixăng không tự nguyện và chủ sở hưu nhãn hiệu hàng hoá đã đăng kí có quyền chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hoá đó có hoặc không kèm theo việc chuyển nhượng cơ sở kinh doanh mang nhãn hiệu hàng hoá đó.
Thời hạn bảo hộ một nhãn hiệu hàng háo là không dưới 7 năm và có thể được gia hạn với số lần không hạn chế.
Một mặt nhấn mạnh sự cần thiết phải thúc đẩy việc bảo hộ một cách có hiệu quả và toàn diện quyền SHTT, mặt khác muốn bảo đảm rằng những biện pháp và thủ tục thực thi quyền SHTT không trở thành các chướng ngại cho hoạt động thương mại quốc tế, đã đưa ra những quy định tối thiểu mà mỗi quốc gia thành viên đều phải tuân thủ, đặc biệt nhấn mạnh các thủ tục và các biện pháp chế tài dân sự, hành chính và hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền, kiểm soát biên giới về SHTT, ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp liên quan đến SHTT giữa các nước thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới
Hiệp ước về luật nhãn hiệu
Hiệp ước về Luật Nhãn hiệu (TLT), được thông qua ngày 27/10/1994, đã có hiệu lực ngày 1/8/1996. Tính đến ngày 1/7/2005, 33 quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, đã tham gia hiệp định. TLT được ban hành để đơn giản hóa các thủ tục xin cấp phép, đăng ký và hài hòa thủ tục đăng ký nhãn hiệu giữa các quốc gia khác nhau. TLT đã hài hòa thủ tục của các cơ quan cấp phép đăng ký nhãn hiệu của các quốc gia khác nhau thông qua việc quy định những yêu cầu tối đa mà một bên tham gia có thể đưa ra.
TLT dành cho nhãn hiệu dịch vụ - dấu hiệu nhận biết đặc thù của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ để phân biệt với hàng hóa - quy chế “bình đẳng” với nhãn hiệu. Trước đây, nhiều nước dành quy chế pháp lý khác nhau cho nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. TLT đã yêu cầu các quốc gia thành viên đăng ký nhãn hiệu dịch vụ và dành quy chế pháp lý tương tự như nhãn hiệu hàng hóa.
Theo quan điểm của những người sở hữu nhãn hiệu, TLT đã tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho quá trình chuẩn bị và lập hồ sơ xin đăng ký. Hiệp định này đã đơn giản hóa quy trình gia hạn sau khi đăng ký, thu âm, đổi tên và địa chỉ và quyền hạn của người được ủy quyền. Các quốc gia tham gia TLT có nghĩa vụ cho phép đăng ký đa chủng loại, giúp chủ sở hữu nhãn hiệu xin đăng ký một lần cho nhiều chủng loại hàng hóa và dịch vụ.
Một khía cạnh quan trọng khác của TLT cũng đem lại lợi ích cho chủ sở hữu nhãn hiệu là cấm các cơ quan cấp phép của các quốc gia thành viên yêu cầu xác thực các hồ sơ và chữ ký đối với các đơn thư xin đăng ký nhãn hiệu. Nhiều quốc gia yêu cầu bất kỳ chữ ký nào nộp kèm trong hồ sơ đăng ký nhãn hiệu cũng cần phải công chứng hoặc phải được hợp pháp hóa phù hợp với luật pháp của quốc gia đó. Theo quy định của TLT, trong hầu hết mọi trường hợp, không cần phải tuân thủ các thủ tục này nữa. Khía cạnh này cho phép người chủ sở hữu nhãn hiệu hoàn tất và nộp hồ sơ xin đăng ký nhãn hiệu nhanh hơn với chi phí thấp hơn.
Một lợi thế nữa của TLT là việc hài hòa thời hạn đăng kí nhãn hiệu ban đầu và gia hạn giữa các quốc gia thành viên: TLT quy định thời hạn đăng ký ban đầu là 10 năm, và có thêm 10 năm gia hạn.
Các đặc điểm chính khác của TLT còn bao gồm việc giới thiệu hệ thống ứng dụng đăng ký mục đích sử dụng (có bằng chứng chứng tỏ các nhãn hiệu này đã sử dụng trước khi đăng ký); hợp lý hóa thủ tục gia hạn; giảm thiểu những yêu cầu hoàn tất ngày nộp đơn đăng ký và đơn giản hóa thủ tục thay đổi tên và sở hữu hồ sơ và đăng ký nhãn hiệu.
Nói tóm lại, TLT nhằm tạo điều kiện thúc đẩy thương mại quốc tế: Điều đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các cá nhân và các doanh nghiệp nhỏ đang tìm kiếm thị trường ở các quốc gia khác. Hiện tại, Ủy ban Thường trực về Nhãn hiệu, Thiết kế công nghiệp và Ký hiệu địa lý WIPO (SCT) đang đàm phán các đề xuất sửa đổi TLT. Ủy ban này kiến nghị Đại hội đồng WIPO tổ chức một hội nghị ngoại giao từ ngày 13-31/3/2006 để xem xét việc thông qua TLT sửa đổi.
13.2. Luật sở hữu trí tuệ về bảo hộ nhãn hiệu của Việt Nam
Các quy định chung
- Định nghĩa
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức cá nhân khác nhau. (Điều 4 - Khoản 16 - Luật Sở hữu Trí tuệ 2005)
Văn bằng bảo hộ nhăn hiệu là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ và có thể được gia hạn liên tiếp nhiều lần, mỗi lần 10 năm.
- Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam áp dụng nguyên tắc "Nộp đơn đầu tiên"
Nguyên tắc "Nộp đơn đầu tiên" được áp dụng cho việc bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam, theo đó Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu sẽ được cấp cho người nộp đơn sớm nhất. Tuy nhiên, nguyên tắc "Nộp đơn đầu tiên" không áp dụng cho những nhãn hiệu được coi là nổi tiếng theo Công ước Paris hoặc với nhãn hiệu đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi. Trong các trường hợp này, quyền ưu tiên sẽ được dành cho người nào có thể chứng minh rằng nhãn hiệu của mình là nổi tiếng hoặc đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi mà không cần phải xét đến nguyên tắc này.
- Nhãn hiệu nổi tiếng
Theo Công ước Paris mà trong đó Việt Nam là một thành viên, nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ tại Việt Nam không cần phải qua đăng ký.Tuy nhiên, luật pháp hiện hành chưa quy định chi tiết thế nào là một nhãn hiệu nổi tiếng. Do đó, trong thực tế, yếu tố quyết định một hàng hoá là nổi tiếng hay không còn phụ thuộc vào chuyên gia giám định của Cục Sở hữu Công nghiệp. Do chưa có điều khoản nào quy định rõ một sản phẩm là nổi tiếng, Cục Sở hữu Công nghiệp thường dựa vào những yếu tố sau:
(1) Chất lượng hàng hoá do người tiêu dùng đánh giá,
(2) Vùng lãnh thổ nơi hàng hoá/dịch vụ mang nhãn hiệu này được bán ra/được cung cấp,
(3) Doanh thu bán hàng và chất lượng của hàng hoá/dịch vụ được bán ra hay được cung cấp.
(4) Thời gian sử dụng liên tục liên tục nhãn hiệu này,
(5) Danh tiếng của hàng hoá/dịch vụ khi sử dụng nhãn hiệu này, và
(6) Số quốc gia bảo hộ nhãn hiệu đó.
- Hệ thống tổ chức chỉ đạo hoạt động và quản lý sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu hàng hoá nói riêng:
Cục Sở hữu công nghiệp trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý các hoạt động sở hữu công nghiệp.
Cục Bản quyền tác giả trực thuộc Bộ Văn hoá Thông tin quản lý về bản quyền tác giả, còn ở cấp tỉnh và thành phố Phòng Sở hữu Công nghiệp trực thuộc Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường quản lý các hoạt động sở hữu công nghiệp còn Phòng Bản quyền tác giả trực thuộc Sở Văn hoá Thông tin quản lý các hoạt động liên quan đến bản quyền tác giả.
- Hệ thống đảm bảo thực thi quyền sở hữu công nghiệp
Hệ thống cơ quan xét xử và thi hành án:
Toà án nhân dân tối cao:
Hướng dẫn công tác xét xử các vụ án về sở hữu công nghiệp cho các toà án địa phương và tiến hành xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ án về sở hữu công nghiệp.
Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
Xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự và các vụ án hành chính về sở hữu công nghiệp; xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án hình sự các tội liên quan đến sở hữu công nghiệp.
Bộ Tư pháp (Cục thi hành án)
Hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án và chỉ đạo, giám sát công tác thi hành án.
Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Phòng thi hành án):
Thực hiện cưỡng chế thi hành các bản án, quyết định của toà án các cấp.
Hệ thống các cơ quan hành chính bảo đảm thực thi quyền sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu nói riêng trong nội địa:
Các cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu công nghiệp cấp trung ương:
Bộ Khoa học và Công nghệ (Thanh tra Bộ):
- Hướng dẫn thi hành các quy định pháp luật về xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp;
- Xử phạt vi phạm hành chính trong cả nước
- Các cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu công nghiệp thuộc địa phương.
Hệ thống cơ quan hành chính kiểm soát biên giới:
Hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật về sở hữu công nghiệp trong xuất nhập khẩu hàng hoá.
Chỉ đạo, giám sát việc thực hiện pháp luật và xử phạt vi phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp tại biên giới.
Cục Hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
Chỉ đạo, giám sát việc thực hiện pháp luật về sở hữu công nghiệp trong xuất nhập khẩu tại địa phương.
Xử lý vi phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp trong xuất nhập khẩu tại địa phương.
Hải quan cửa khẩu:
Kiểm tra tại cửa khẩu việc thực hiện quy định pháp luật về sở hữu công nghiệp trong xuất nhập khẩu hàng hoá. Xử lý vi phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp xảy ra tại cửa khẩu.
1.4. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
1.4.1. Thủ tục đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
- Điều kiện để đăng ký nhãn hiệu
Muốn đăng ký nhãn hiệu(ĐKNH) trước hết bạn phải là một chủ thể kinh doanh hợp pháp. Tiếp đến, bạn phải thiết kế cho minh một nhãn hiệu đáp ứng hai điều kiện:
Thứ nhất: là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Thứ hai: có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
- Ai có quyền nộp đơn đăng ký nhãn hiệu?
Tổ chức, cá nhân có quyền ĐKNH dùng cho hàng hóa do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp.
Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền ĐKNH cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất nếu người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó.
Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền ĐKNH tập thể để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể, đối với dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, tổ chức có quyền đăng ký là tổ chức tập thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sán xuất, kinh doanh tại địa phương đó.
Tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hóa, dịch vụ có quyền ĐKNH chúng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó.
- Đăng ký nhãn hiệu bằng cách nào?
Quyền đăng ký nhãn hiệu: Tổ chức, cá nhân Việt Nam, cá nhân nước ngoài thường trú tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nộp đơn đăng ký nhãn hiệu trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam, cá nhân nước ngoài không thường trú tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài không có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nộp đơn ĐKNH thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.
Thủ tục đăng ký nhãn hiệu: Để xác lập quyền đối với nhãn hiệu, người yêu cầu cần nộp đơn đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền (Cục Sở hữu Trí tuệ). Đơn đăng ký nhãn hiệu bao gồm các tài liệu sau đây: Tờ khai đăng ký theo mẫu quy định, tài liệu, mẫu vật, thông tin xác định nhãn hiệu cần bảo hộ (bao gồm: mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu, quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể, quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận), Giấy ủy quyền (nếu đơn nộp thông qua đại diện), Chứng từ nộp phí, lệ phí.
Căn cứ phát sinh quyền: Quyền sở hữu đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của Cục Sở hữu Trí tuệ. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký (Điều 6 Luật SHTT). Giới hạn quyền: Chủ nhãn hiệu chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của Luật SHTT. Việc thực hiện quyền của chủ nhãn hiệu không được xâm phạm lợi ích hợp pháp của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan (Điều 7 Luật SHTT).
Như vậy, muốn được bảo hộ nhãn hiệu doanh nghiệp phái tiến hành đăng ký để xác lập quyền sở hữu. Khi quyền được xác lập, chủ sở hữu có quyền khai thác tài sản của mình, có quyền cho phép hoặc ngăn cản người khác sử dụng (khai thác) tài sản đó và khi quyền bị xâm phạm thì pháp luật sẽ bảo vệ như bảo vệ quyền sở hữu tài sản.
Văn bằng bảo hộ nhăn hiệu là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu , có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ và có thể được gia hạn liên tiếp nhiều lần, mỗi lần 10 năm.
Việt Nam bảo họ nhãn hiệu theo nguyên tắc “nộp đơn đầu tiên” và “nhãn hiệu nổi tiếng theo công ước paris
*Áp dụng Hệ thống Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu tại Việt Nam
Đối với các đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu yêu cầu bảo hộ tại Việt Nam nhãn hiệu đăng ký theo Thỏa ước Madrid được xem xét theo từng giai đoạn:
Giai đoạn 1: Trước thời điểm Nghị định 63/CP có hiệu lực (ngày 24.10.1996), nhãn hiệu đăng ký quốc tế được chấp nhận bảo hộ ở Việt Nam mà không được công bố dưới bất kỳ hình thức nào từ phía cơ quan quản lý nhà nước về SHCN. Hiệu lực của nhãn hiệu đăng ký quốc tế tại Việt Nam là sau một năm kể từ ngày Văn phòng quốc tế công bố trên công báo nhãn hiệu quốc tế và không bị Cục SHTT Việt Nam từ chối bảo hộ.
Giai đoạn 2: Từ thời điểm Nghị định 63/CP được ban hành cho đến khi Nghị định 06/CP có hiệu lực (ngày 16/2/2001). Nhãn hiệu đăng ký theo Thỏa ước Madrid được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam thì được công bố trên công báo SHCN theo quy định của Điều 31.2b Nghị định 63/CP. Thời điểm hiệu lực áp dụng giống như giai đoạn trên.
Giai đoạn hiện nay: Từ thời điểm Nghị định 06/CP có hiệu lực, nhãn hiệu đăng ký quốc tế được công bố trên công báo SHCN và sẽ được Cục SHTT cấp quyết định chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế cho các nhãn hiệu được bảo hộ. Hiệu lực của nhãn hiệu quốc tế tính từ ngày đăng ký quốc tế được công bố trên công báo nhãn hiệu quốc tế của WIPO.
- Quy trình xử lý đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu
Để được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam, nhãn hiệu đăng ký quốc tế phải qua trình tự xử lý như sau:
Theo quy định tại Điểm 25 Thông tư 3055, sau khi nhận được Thông báo của Văn phòng quốc tế về đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu có chỉ định Việt Nam, Cục SHTT sẽ tiến hành một số thao tác kỹ thuật và xét nghiệm nội dung đơn (xem xét về khả năng bảo hộ của nhãn hiệu) như đối với đơn nhãn hiệu nộp trực tiếp theo thể thức quốc gia. Trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày nhãn hiệu đăng ký quốc tế được công bố trên công báo nhãn hiệu quốc tế của WIPO (sau khi đã hợp lệ về hình thức), Cục SHTT phải có kết luận về khả năng bảo hộ của nhãn hiệu đăng ký quốc tế có chỉ định Việt Nam. Đối với những nhãn hiệu có khả năng bị từ chối một phần hoặc toàn phần, Cục SHTT sẽ thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn thông qua Văn phòng quốc tế, có nêu rõ lý do từ chối. Nếu trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày nhãn hiệu đăng ký quốc tế công bố trên Công báo nhãn hiệu quốc tế của WIPO mà Văn phòng quốc tế không nhận được thông báo từ chối liên quan đến đăng ký quốc tế nhãn hiệu nào đó, điều đó có nghĩa là nhãn hiệu đó được bảo hộ ở Việt Nam. Những nhãn hiệu đăng ký quốc tế được công nhận bảo hộ ở Việt Nam sẽ được công bố trên công báo SHCN Việt Nam. Phạm vi bảo hộ của các nhãn hiệu nếu có thay đổi sẽ được Cục SHTT xác nhận theo nội dung đăng ký nhãn hiệu đó và được Văn phòng quốc tế ghi nhận vào đăng bạ quốc tế nhãn hiệu.
Nhãn hiệu đăng ký quốc tế theo Nghị định thư được xem xét như đối với nhãn hiệu quốc tế theo Thỏa ước Madrid nhưng có một số lưu ý về thời hạn từ chối; thời hạn chuyển thông báo từ chối đến Văn phòng quốc tế và thời hạn trả lời các thiếu sót liên quan đến thông báo từ chối của cơ quan quốc gia; thời hạn từ chối trong trường hợp có phản đối và một số lưu ý khác trong quá trình ra thông báo từ chối đăng ký quốc tế.
Theo thống kê của Cục SHTT, số lượng đăng ký quốc tế nhãn hiệu yêu cầu chỉ định mới, mở rộng lãnh thổ và gia hạn hiệu lực bảo hộ hiện nay là 56.055.
1.4.2. Ðăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại nước ngoài
- Đăng ký theo Thoả ước Madrid
Việt Nam đã là thành viên của Thoả ước Madrid (do tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO quản trị) về đăng ký quốc tế nhãn hiệu, với hơn 50 quốc gia là thành viên. Đăng ký theo thoả ước này, chủ nhãn hiệu chỉ cần dùng 1 đơn đăng ký quốc tế theo mẫu quy định, đánh dấu những nước thành viên doanh nghiệp muốn đăng ký nhãn hiệu và nộp đến Cục Sở hữu trí tuệ. Việc đăng ký theo hệ thống này khá đơn giản, tiện lợi và chi phí có thể rẻ hơn gấp 10 lần so với việc đăng ký trực tiếp ở từng nước. Tuy nhiên, đơn đăng ký này chỉ được thực hiện khi nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ ở Việt Nam. Thời hạn xem xét đơn đăng ký quốc tế trong vòng 01 năm. Nếu các doanh nghiệp quan tâm đến các thị trường là thành viên của Thoả ước thì nên thực hiện việc đăng ký theo hình thức này.
Mặt khác, từ ngày 11/7/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Nghị định thư Madrid. Do đó, doanh nghiệp Việt Nam có thể đăng ký nhãn hiệu bảo hộ ở các nước đã là thành viên của Thoả ước hoặc Nghị định thư.
Đăng ký trực tiếp tại từng quốc gia:
Với những nước không phải là thành viên của Thoả ước Madrid, khi có nhu cầu đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại các nước khác như: các nước ASEAN (trừ Singapore đã tham gia Nghị định thư)..., các doanh nghiệp sẽ phải đăng ký trực tiếp tại từng quốc gia đó.
Thủ tục đăng ký được tiến hành tại các cơ quan sở hữu công nghiệp của các nước đó. Để nộp đơn và làm thủ tục đăng ký, doanh nghiệp có thể sử dụng đại diện hoặc chi nhánh tại các quốc gia; hoặc sử dụng Công ty đại diện sở hữu công nghiệp Việt Nam và nước ngoài.
Đăng ký nhãn hiệu tại một số nơi trên thế giới:
Đăng ký nhãn hiệu tại Mỹ
Khác với đa số quốc gia trên thế giới quy định quyền sở hữu NH thông qua việc đăng ký, pháp luật Mỹ quy định quyền sở hữu NH đạt được thông qua việc thực sự sử dụng một NH. Để có quyền này, nhà sản xuất, cung cấp phải sử dụng NH. Ví dụ: bằng việc thể hiện trên mác đính liền với hàng hóa hoặc quảng cáo NH gắn liền với hàng hóa, dịch vụ.
Bạn không cư trú trên lãnh thổ Mỹ, do đó phải chỉ định một đại diện tại Mỹ tiến hành các thủ tục nộp đơn xin đăng ký NH trên toàn liên bang cũng như các thủ tục liên quan. Cần biết rằng, nếu nước sở tại của người nộp đơn là thành viên của một Công ước hoặc Hiệp ước quốc tế về NH mà Mỹ đã ký kết và người nộp đơn đã đăng ký NH, hoặc đã nộp đơn xin đăng ký NH tại nước thành viên đó, thì người nộp đơn này có quyền hưởng các lợi ích đặc biệt theo quy định của Công ước, Hiệp ước và của luật Mỹ.
Luật NH Mỹ quy định bất cứ cá nhân nào là công dân một nước thành viên của bất kỳ Công ước, Hiệp ước NH nào mà Mỹ cũng là thành viên hoặc nước đó dành cho công dân Mỹ các quyền đôi bên cùng hưởng, đều có quyền được bảo hộ theo quy định của Luật NH Mỹ, cũng như các quyền lợi đặc biệt khác bao gồm bảo hộ công dân nước ngoài chống cạnh tranh không lành mạnh, bảo hộ tên thương mại của công dân nước ngoài mà không cần đăng ký, và cho phép có tư cách để có được một đăng ký (ở đây được hiểu là Giấy chứng nhận đăng ký NH tại Mỹ), thậm chí cả khi công dân nước ngoài chưa bao giờ sử dụng NH trong giao dịch thương mại giữa các tiểu bang của Mỹ hoặc trong thương mại quốc tế. Sau khi được đăng ký theo hệ thống liên bang, nếu người đăng ký là người nước ngoài mà không sử dụng NH trong giao dịch thương mại giữa các tiểu bang của Mỹ hoặc giữa Mỹ với nước ngoài, đăng ký sẽ bị hủy bỏ.
Thời hạn hiệu lực của một đăng ký NH là 10 năm kể từ ngày nộp đơn. Tuy nhiên, để duy trì hiệu lực, người chủ phải sử dụng NH trong giao dịch thương mại. Tại Mỹ, li-xăng (chuyển quyền sử dụng) được coi là bằng chứng sử dụng, còn quảng cáo NH thì không. Thời hạn mà việc sử dụng phải bắt đầu là 5 năm kể từ ngày đăng ký, nếu không, đăng ký NH có thể bị vô hiệu (trừ phi việc không sử dụng được chứng minh một cách thỏa đáng). Theo quy định, trong khoảng thời gian giữa năm thứ năm và năm thứ sáu kể từ ngày đăng ký, người đăng ký phải nộp tờ khai xác nhận NH cũng như các hàng hóa, dịch vụ đã được liệt kê trong đăng ký hoặc gắn với NH vẫn đang được sử dụng.
Đăng ký nhãn hiệu tại Nhật Bản ( theo Công ước Paris)
Ở Nhật Bản các doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu theo Công ước Paris. Về nguyên tắc, việc đăng ký NH theo Công ước Paris được áp dụng trong trường hợp quốc gia, nơi mà chủ NH muốn NH của mình được bảo hộ là thành viên của Công ước Paris, nhưng không phải là thành viên của Thỏa ước Madrid. Nhật Bản không phải là thành viên của Thỏa ước Madrid (chỉ là thành viên của Nghị định thư Madrid), do đó nếu muốn đăng ký NH tại nước này, ông phải tiến hành nộp đơn theo Công ước Paris.
Thủ tục nộp đơn sơ bộ theo Công ước Paris như sau: trước hết bạn phải nộp đơn đăng ký NH tại Cục Sở hữu trí tuệ. Trong vòng 6 tháng kể từ ngày đơn được Cục Sở hữu trí tuệ chấp nhận hợp lệ, ông có thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ NH của mình tại bất cứ quốc gia thành viên nào của Công ước (mà người nộp đơn muốn NH của mình được bảo hộ). Các đơn nộp sau sẽ được coi như nộp cùng ngày với ngày nộp đơn tại Cục Sở hữu trí tuệ.
DN bắt buộc phải tiến hành các thủ tục nộp đơn thông qua một tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp ở quốc gia mà DN đăng ký NH, trừ trường hợp doanh nghiệp có cơ sở kinh doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện đang hoạt động thực sự tại nước đó. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này, vẫn nên tham khảo tư vấn của các luật sư để tránh những rắc rối do sự thiếu hiểu biết về pháp luật của nước sở tại gây ra.
Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ở Châu Âu
Cộng Đồng Châu Âu đã lập ra một hệ thống đăng ký NHHH riêng, độc lập với các nước thuộc cộng đồng, gọi là nhãn hiệu cộng đồng hay còn gọi là CTM. CTM là chữ cái đầu của tên tiếng Anh “Community Trade Mark". Khi đăng ký NHHH qua hệ thống đăng ký CTM, chủ sở hữu nhãn hiệu chỉ phải nộp một đơn duy nhất cho một cơ quan đăng ký được thành lập riêng, độc lập với hệ thống đăng ký quốc gia của mỗi nước thành viên. Để được đăng ký CTM, nhãn hiệu phải được 15 nước trong cộng đồng đồng ý. Sau khi được đăng ký tại cơ quan đăng ký này, nhãn hiệu đó sẽ có hiệu lực ở tất cả các nước thành viên Cộng đồng Châu Âu. Ngược lại nếu nhãn hiệu bị huỷ bỏ hay mất hiệu lực ở một nước thành viên thì đương nhiên bị mất hiệu lực trong cả cộng đồng. VN là thành viên của Công ước Paris. Vì vậy các cá nhân, pháp nhân VN nếu có nhu cầu đều có thể đăng ký CTM.
Chủ sở hữu nhãn hiệu hoàn toàn tự do nộp đơn đăng ký nhãn hiệu CTM hoặc nộp đớn quốc gia hoặc cả hai. Điều này có nghĩa là nhãn hiệu CTM và nhãn hiệu đăng ký quốc gia đều có thể song song tồn tại. Các loại nhãn hiệu được đăng ký bao gồm: NHHH, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận. Đơn đăng ký CTM nộp cho cơ quan đăng ký có tên là “The Office for Harmonnization in the Internal Market" viết tắt là OHIM có trụ sở đóng tại Tây Ban Nha. Đơn sau khi nộp tại OHIM sẽ được cơ quan này xét nghiệm về hình thức. Nếu đơn có các thông tin và tài liệu, ngày nộp đơn được ghi nhận. Sau đó đơn sẽ chuyển sang xét nghiệm nội dung. Trong giai đoạn xét nghiệm nội dung, nhãn hiệu trong đơn chỉ được xét nghiệm trên cơ sở tuyệt đối tức là đánh giá về khả năng phân biệt của nhãn hiệu.
Nhãn hiệu CTM sau khi được đăng ký sẽ có hiệu lực 10 năm kể từ ngày nộp đơn và có thể được gia hạn nhiều lần liên tục, mỗi lần 10 năm và chủ sở hữu phải nộp lệ phí gia hạn. Việc chuyển nhượng hoặc chuyển giao sử dụng chỉ được cho phép khi việc chuyển nhượng hay chuyển giao đó là trong phạm vi cả cộng đồng, chứ không chỉ đơn lẻ trong một nước thành viên nào. Việc chuyển nhượng hay chuyển giao licence phải được lập bằng văn bản và đăng ký với OHIM thì mới có hiệu lực pháp luật.
1.4.3.Một số lưu ý khi đăng ký nhãn hiệu
Qua thực trạng đăng ký kinh doanh tại Sở kế hoạch - Đầu tư các địa phương trong thời gian qua, có thể thấy một số vấn đề pháp lý đang nảy sinh như sau:
Xác định thế nào là tên thương mại của doanh nghiệp - một việc tưởng dễ mà hoá khó. Việc các doanh nghiệp có tên gọi trùng nhau trong giấy đăng ký kinh doanh (cả về tên riêng, các bổ ngữ và loại hình sản xuất, kinh doanh) trên cùng một tỉnh, thành phố thì không xảy ra, nhưng lại có thể xảy ra trên các tỉnh thành khác nhau do chúng ta không có một cơ quan chung chuyên cấp giấy đăng ký kinh doanh và vì vậy, không thể có một cơ sở dữ liệu chung duy nhất. Tuy nhiên, việc có các doanh nghiệp chỉ khác nhau về tên gọi loại hình sản xuất, kinh doanh và các bổ ngữ (ví dụ: kinh doanh thực phẩm, chế biến nông sản, v.v.) còn trùng nhau về tên riêng là điều đã xảy ra trên cùng một địa bàn. Giải quyết các tranh chấp này là rất khó vì thiếu quy định rõ ràng. Nếu như các doanh nghiệp có các lĩnh vực kinh doanh khác nhau thì dễ phân xử, nhưng trong điều kiện phát triển kinh tế hiện nay thì điều gì sẽ xảy ra nếu:
- Các doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề;
- Các tập đoàn lớn, đa ngành nghề có thể lấy cớ là uy tín của mình để có thể đè bẹp các doanh nghiệp nhỏ khác (không may trùng tên) tại các địa bàn khác;
Và những tình huống khác cần chú ý:
- Quy định nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu “trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác” sẽ gây khó khăn cho việc bảo hộ nhãn hiệu vì như đã biết, tên thương mại có phạm vi bảo hộ theo khu vực kinh doanh (hẹp hơn nhiều so với phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu). Vậy thì cơ quan chức năng sẽ căn cứ vào đâu để xác định khu vực kinh doanh của tên thương mại? Quy định này có thể được các bên sử dụng để làm phát sinh các tranh chấp trong tương lai. Chẳng hạn, có thể dùng để yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực của nhãn hiệu đang được bảo hộ. Việc này nếu xảy ra thì thực sự sẽ gây sự quá tải cho các cơ quan chức năng và nếu quá tải thì việc giải quyết tranh chấp sẽ bị đình trệ và từ đó, dẫn đến thực thi pháp luật không hiệu quả.
- Giả sử tên thương mại chỉ có danh tiếng trong một khu vực địa lý nhất định thì liệu một nhãn hiệu đang được bảo hộ có bị đình chỉ hiệu lực tương ứng với khu vực đó không? Chưa có quy định nào nói về vấn đề này.
- Xác định đâu là tên thương mại để làm cơ sở cho việc huỷ bỏ hiệu lực của một n._., các doanh nghiệp cũng cần thấy được lợi ích và phương cách xây dựng nhãn hiệu của mình trở nên nổi tiếng cũng như bảo hộ hữu hiệu chúng, mặt khác tránh được sự vi phạm các nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác trong quá trình kinh doanh ở nội địa cũng như trên thị trường quốc tế.
2.4. Đánh giá tổng quan về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam
2.4.1.Kết quả
Luật pháp Việt Nam chính thức bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá từ năm 1982. Hiện nay, việc bảo hộ nhãn hiệu được thực hiện theo Bộ Luật dân sự năm 1995 (chương II phần thứ sáu “Bảo hộ sở hữu công nghiệp”).Có thể chia bức tranh của công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn trước đổi mới (từ 1982-1989)
Đây là giai đoạn của quản lý kinh tế quan liêu bao cấp, hàng hoá sản xuất theo kế hoạch, dịch vụ không phát triển, vì vậy ý thức, nhu cầu của các doanh nghiệp về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá rất thấp. Tổng số Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá được cấp trong giai đoạn này là 1.550, như vậy trung bình mỗi năm chỉ có gần 200 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá cấp ra nhưng chủ yếu là của người nước ngoài. (Nguồn: Cục SHTT).
- Giai đoạn 10 năm đầu đổi mới (từ 1990-1999)
Trong giai đoạn này, do chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đã làm cho nền kinh tế bao cấp chuyển dần sang kinh tế thị trường có điều tiết. ý thức của các doanh nghiệp, nhà sản xuất đối với nhãn hiệu hàng hoá đã tăng lên một bước. Trong toàn bộ thời gian này, Cục Sở hữu công nghiệp đã cấp ra hơn 31.000 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, bình quân hơn 3.100 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá mỗi năm, gấp hơn 15 lần bình quân của giai đoạn trước đó. Một điều đáng mừng là từ chỗ tỷ lệ người Việt Nam đăng ký nhãn hiệu rất thấp thì từ nay tỷ lệ người Việt Nam đăng ký nhãn hiệu hàng hoá đã vươn lên gần bằng người nước ngoài (chiếm khoảng 34% số lượng đăng ký được cấp ra). (Nguồn: Cục SHTT).
- Giai đoạn tăng tốc và hội nhập (2000 đến nay)
Có thể nói đây là giai đoạn có những đột biến về số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Sự phát triển của nền kinh tế sau hơn 10 năm đổi mới và các đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế cùng với việc một số nhãn hiệu Việt Nam bị tiếm đoạt ở nước ngoài đã là những điều kiện và tác động để các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Việt Nam nhìn nhận đầy đủ hơn vai trò của nhãn hiệu hàng hoá trong kinh doanh và nền kinh tế đang hội nhập sâu vào kinh tế thế giới. Năm 2000, có 5.582 đơn đăng ký nhãn hiệu nộp trực tiếp tại Cục Sở hữu công nghiệp thì trong đó đã có gần 60% là của người Việt Nam. Năm 2002, tổng số đơn đăng ký nhãn hiệu nộp trực tiếp tại Cục Sở hữu công nghiệp tăng lên 8.818 đơn, tăng 39% so với năm 2001, trong đó số đơn của các doanh nghiệp Việt Nam là 6.564, tăng 112% (gấp hơn 2 lần) so với số đơn của doanh nghiệp Việt Nam nộp trong năm 2001 (3.095 đơn). Đặc biệt, cùng với bộ luật dân sự 2005, Luật SHTT 2005 và việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam vào năm 2007 thì số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá đã tăng đột biến. Năm 2007 Cục SHTT (hậu thân của Cục SHCN) đã tiếp nhận khoảng 27.000 đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. ( Nguồn: Cục SHTT).
2.4.2. Hạn chế
Có thể nói rằng vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ngày càng được quan tâm tại Việt Nam, lượng đơn xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cũng tăng theo từng năm. Tuy nhiên vẫn còn tn tại những hạn chế cần khắc phục:
Lượng nhãn hiệu hàng hoá đăng ký chưa đồng đều giữa các ngành: Lượng nhãn hiệu hàng hoá xin đăng ký nhiều nhất là cho các sản phẩm dược phẩm, thứ hai là thực phẩm và đồ uống, thứ ba là mỹ phẩm và đồ điện - điện tử, quần áo giày dép, thứ tư là phương tiện giao thông vận tải và văn phòng phẩm... Số lượng nhãn hiệu dịch vụ được đăng ký nhiều nhất cho các dịch vụ buôn bán hàng hoá và dịch vụ khách sạn, dịch vụ xây dựng và sửa chữa nhà cửa, công trình giao thông vận tải, dịch vụ vận tải hàng hoá và hành khách, dịch vụ tài chính...
Việc đăng ký nhãn hiệu cũng thay đổi theo các vùng, miền tùy thuộc vào mức độ phát triển kinh tế, thương mại của nơi đó: Địa phương có số lượng doanh nghiệp, cá nhân đăng ký nhãn hiệu nhiều nhất là Thành phố Hồ Chí Minh, chiếm hơn một nửa số lượng đăng ký của cả nước, tiếp theo là các địa phương Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng... Ngược lại có địa phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi có rất ít nhãn hiệu được đăng ký.
Trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty TNHH, công ty cổ phần..., rất nhạy bén trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu thì các doanh nghiệp Nhà nước, cá biệt là một số tổng công ty lớn lại khá thờ ơ trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, chỉ khi có tranh chấp hoặc gặp rắc rối với ở nước ngoài họ mới vội vàng xin đăng ký nhãn hiệu của mình. Phải chăng đây cũng là một tâm lý ỷ lại còn rơi rớt từ thời kỳ bao cấp, sự chậm trễ này đã gây những khó khăn, tốn kém cho chính bản thân doanh nghiệp khi nhãn hiệu của mình bị vi phạm hoặc bị tiếm đoạt.
Ngoài ra, thì việc đăng ký nhãn hiệu ra nước ngoài vẫn chưa có được sự quan tâm đúng mức của cac doanh nghiệp.
Số lượng nhãn hiệu đăng ký cũng chưa cân xứng với lượng nhãn hiệu hàng hoá có trên thị trường, điều này dẫn đến việc vi phạm nhãn hiệu vẫn thường xuyên xảy ra.
2.4.3. Nguyên nhân
- Khung pháp luật chưa hoàn chỉnh
Trong vòng một thập kỷ qua, Việt Nam đã có những cố gắng đáng kể để xây dựng hệ thống pháp luật về SHTT trong đó có vấn đề “bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá”. Bộ luật Dân sự được thông qua năm 1995 có một phần về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (Phần VI) và sau đó là hàng loạt các nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành được ban hành. Tuy nhiên, SHTT chỉ là một phần nhỏ trong Bộ luật Dân sự cho nên còn chung chung và tương đối sơ sài, bên cạnh đó nhiều văn bản hướng dẫn thi hành dưới luật chưa cụ thể và chi tiết. Thông thường ở các nước phát triển, luật SHTT là một bộ luật riêng biệt rất chi tiết, rõ ràng và được chia ra các nhánh cụ thể (bao gồm: quyền tác giả và sở hữu công nghiệp, sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp...). Các doanh nghiệp Việt Nam cũng thường đề cập đến một số chính sách bất cập trong việc phát triển nhãn hiệu, ví dụ như quy định về chi phí cho hoạt động tiếp thị và quảng cáo không được quá 10% tổng chi phí để tính thuế thu nhập trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Cơ chế xử lý vi phạm còn quá yếu
Hiện tại, có nhiều cơ quan cùng tham gia việc thực thi bảo hộ nhãn hiệu như Cục SHTT, Quản lý thị trường, Công an Kinh tế, Thanh tra khoa học công nghệ, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Toà án. Tuy nhiên, không có cơ quan nào chịu trách nhiệm chính về vấn đề này. Các thẩm phán thường thiếu kiến thức chuyên môn về SHTT, vì vậy khi xét xử, phải phụ thuộc vào ý kiến của nhiều cơ quan khác trước khi đưa ra phán quyết. Điều này làm cho quy trình xử lý vi phạm của toà án kéo dài và không hiệu quả. Do vậy, nhiều doanh nghiệp là nạn nhân của tình trạng đánh cắp và nhái nhãn hiệu đã buộc phải đàm phán trực tiếp với đối tượng vi phạm. Cách giải quyết không chính thức như thế này không những gây tốn kém về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp mà còn tạo cơ hội cho tham nhũng. Nhiều doanh nghiệp cho rằng mức xử phạt hành chính đối với vi phạm nhãn hiệu hiện nay từ 2 triệu đến 100 triệu đồng là còn quá thấp và không có tác dụng nhiều đến việc ngăn ngừa tình trạng làm hàng nhái hoặc hành vi đánh cắp nhãn hiệu. Việc xử phạt hình sự lại rất ít khi được áp dụng mà mức phạt cũng chỉ từ 20 đến 200 triệu đồng. (Nguồn: Cục SHTT).
- Năng lực hạn chế của các cơ quan quản lý việc đăng ký và thực thi bảo hộ SHTT
Gần đây số lượng hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá đã tăng nhiều do các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhận thức tốt hơn về tầm quan trọng của nhãn hiệu. Trong năm 2003, Cục SHTT đã nhận được tổng số gần 16.000 hồ sơ xin đăng ký sở hữu công nghiệp. Hiện Cục chưa có chi nhánh tại các tỉnh thành và với tổng số 140 cán bộ thì khối lượng công việc như vậy là quá tải. Vào năm 2002, Cục đã xây dựng trang web của mình, cung cấp một số thống kê cơ bản về số lượng hồ sơ đăng ký sở hữu công nghiệp và một số rất ít các văn bản pháp luật về sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên trang web này vẫn chưa đăng tải những thông tư hướng dẫn chi tiết, những thủ tục hay biểu mẫu để người dùng có thể tham khảo và đăng ký, và các thông tin chưa được cập nhật thường xuyên.
- Hiểu biết hạn chế về nhãn hiệu từ phía doanh nghiệp và thiếu vắng các chuyên gia giỏi về nhãn hiệu
Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của nhãn hiệu, song việc đầu tư cho nhãn hiệu vẫn còn rất dè dặt. Theo các chuyên gia, việc phát triển nhãn hiệu là vô cùng quan trọng, cần phải có thời gian và hệ thống; trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam thường chỉ đăng ký nhãn hiệu khi sản phẩm của mình bán chạy trên thị trường. Một kết quả khảo sát gần đây cho thấy: chỉ khoảng 16% doanh nghiệp có bộ phận chuyên phụ trách công tác tiếp thị, hơn 80% doanh nghiệp không có chức danh quản lý nhãn hiệu, và 74% doanh nghiệp chỉ đầu tư dưới 5% doanh thu cho việc xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu. ( Nguồn: Báo Sài Gòn Tiếp Thị ).
Không chỉ các doanh nghiệp mà các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực này cũng ít về số lượng, thiếu kỹ năng và chuyên môn. Phần lớn các công ty tư vấn chỉ đơn thuần giúp các doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu; rất ít công ty chuyên sâu về phát triển nhãn hiệu. Còn các công ty tư vấn nước ngoài tuy có tính chuyên nghiệp và chuyên môn cao song còn hạn chế về hiểu biết tâm lý và văn hoá bản địa nên cũng chưa cung cấp được dịch vụ hỗ trợ hiệu quả.
- Sự hiểu biết và ý thức pháp luật của cộng đồng xã hội đối với vấn đề của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn nhiều hạn chế
Điều này chính là nguyên nhân chính dẫn đến nạn hàng giả tràn lan hiện nay
- Trong thời gian qua, đã có nhiều doanh nghiệp Việt Nam bị “đánh cắp” nhãn hiệu ở thị trường nước ngoài khi không được đăng ký, bảo hộ
Điển hình nhất là các vụ bị tranh chấp nhãn hiệu của Petro Vietnam và Cà phê Trung Nguyên tại Hoa Kỳ, của thuốc lá Vinataba tại châu Á, kẹo dừa Bến Tre tại Trung Quốc; bánh phồng tôm Sa Giang tại Pháp và châu Âu... Không chỉ ở nước ngoài nhãn hiệu Việt Nam mới bị xâm phạm mà ngay cả thị trường trong nước các DN cũng đang phải đối mặt với tình trạng bị xâm phạm về nhãn hiệu hàng hoá cũng như nhãn hiệu. Theo bà Trần Thị Hồng Vân, Giám đốc Công ty Sở hữu trí tuệ Banca, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu hàng hoá ở trong nước ngày càng tinh vi. Nhiều DN lớn với nhãn hiệu nổi tiếng đang gặp khó khăn khi nhãn hiệu sản phẩm luôn trong tình trạng bị đe dọa. Riêng trong năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007, có tới 21.000 vụ vi phạm liên quan đến nhãn hiệu với tổng số tiền xử phạt tới 11 tỷ đồng. Hiện VN có đến 300.000 doanh nghiệp đang hoạt động, dự kiến đến năm 2010, số doanh nghiệp sẽ tăng lên 500.000 doanh nghiệp. Nhưng mới có 10% doanh nghiệp có ý thức tự bảo vệ nhãn hiệu sản phẩm.
Theo Cục Sở hữu trí tuệ: sở dĩ có tình trạng này là do việc xây dựng nhãn hiệu của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay còn mang tính tự phát, mang tính manh mún, rời rạc. Nhiều doanh nghiệp còn ngần ngại trong việc đầu tư xây dựng, đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Có như vậy là bởi đa số các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay nên ngại tốn kém chi phí khi phảibỏ ra số tiền không phải là nhỏ và còn gặp nhiều khó khăn trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, đặc biệt là ở thị trường nước ngoài. Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu về nhận thức luật pháp, phong cách kinh doanh manh mún nên chỉ khi nào thương hiệu bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại từ phía thứ ba thì doanh nghiệp mới tính đến việc làm thủ tục đăng ký bảo hộ. Ở các doanh nghiệp nhà nước, do ràng buộc về cơ chế, chính sách, sự bảo hộ và ưu đãi của Nhà nước dẫn đến vấn đề thương hiệu chưa được quan tâm thỏa đáng nên hiện có đến 80% số doanh nghiệp đầu tư dưới 5% chi phí cho nhãn hiệu. (Nguồn: Cục SHTT).
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ BẢO HỘ NHÃN HIỆU
3.1. Xu hướng gia tăng nhu cầu bảo hộ nhãn hiệu sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Việc VN gia nhập WTO về cơ bản đồng nghĩa với việc các DN VN bước vào một sân chơi rất rộng với vô số luật lệ vừa đa dạng vừa phức tạp. Cái khó không những ở chỗ phần lớn các DN VN chưa nắm và hiểu hết những luật lệ này là gì, ở những lĩnh vực nào mà còn ở chỗ dù VN đã cố gắng đến mức tối đa trong việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại để có thể gia nhập WTO, nhưng cũng phải thừa nhận rằng pháp luật của chúng ta còn thiếu nhiều định chế và một số định chế chưa tương thích với pháp luật quốc tế.
Gia nhập WTO, chúng ta sẽ phải đối mặt với không ít thách thức về SHTT. Chắc chắn các quan hệ thương mại, dân sự có yếu tố nước ngoài sẽ gia tăng nhanh chóng, đòi hỏi các cơ quan chức năng và doanh nghiệp phải tranh bị những kiến thức về pháp luật quốc tế. Lâu nay chúng ta vẫn quen chỉ sử dụng luật “nước mình”. Việc áp dụng chính xác luật, việc dẫn chiếu pháp luật, sử dụng thành thảo quy phạm xung đột pháp luật... là rất quan trọng đối với cả nhà nước và doanh nghiệp.
Có thể nhận thấy những lợi ích sẽ mang lại cho các doanh nghiệp từ việc xây dựng và bảo hộ nhãn hiệu trong quá trình xúc tiến thương mại và đầu tư như sau:
Thứ nhất, nhãn hiệu là một trong những yếu tố quan trọng góp phần khẳng định vị thế của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, tạo ra sự phát triển bình đẳng, lành mạnh trên thị trường. Việc bảo hộ nhãn hiệu không thoả đáng luôn bị coi là thiếu lành mạnh và là rào cản đối với việc mở cửa thị trường, khi các đối thủ cạnh tranh không cần đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, có thể bắt chước, sao chép và bán các sản phẩm với giá rẻ hơn nhiều và vì thế chiếm thị phần và đẩy các sản phẩm hợp pháp và chính hiệu ra khỏi thị trường. Kết quả là các nhà đầu tư chân chính không có khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục duy trì hoạt động cải tiến và sáng tạo, bao gồm cả việc tạo ra các sản phẩm mới dưới nhãn hiệu của mình.
Thứ hai, bảo hộ nhãn hiệu sẽ khuyến khích hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam. Thực tế cho thấy những khiếm khuyết trong hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ là nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế đầu nước ngoài. Các nhà kinh doanh nước ngoài sẽ không mạo hiểm đầu tư vốn liếng vào một môi trường kinh doanh mà không biết chắc chắn được rằng các sản phẩm của họ sẽ không bị chiếm đoạt một cách trái phép. Các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn nếu được tạo điều kiện thuận lợi và có cơ sở pháp lý vững chắc, an toàn khi đầu tư vào Việt Nam dưới một tên thương mại được bảo hộ hay đưa vào Việt Nam hàng hoá, dịch vụ dưới một nhãn hiệu hàng hoá, một chỉ dẫn địa lý được công nhận.
Thứ ba, xây dựng và bảo hộ nhãn hiệu cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam vươn ra chiếm lĩnh các thị trường nước ngoài, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước. Như vậy, bảo hộ nhãn hiệu sẽ góp phần làm cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất hiện với tư cách là những người tham gia bình đẳng trong hệ thống thương mại toàn cầu. Nếu một sản phẩm xuất khẩu không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại nước nhập khẩu thì dễ bị bắt chước, sao chép, nhất là khi đã gây dựng được uy tín nhất định đối với khách hàng. Điều đó không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp tới cơ sở sản xuất mà còn có thể ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế do tác động dây chuyền.
Thứ tư, bảo hộ nhãn hiệu còn có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, giúp người tiêu dùng tránh bị nhầm lẫn, bị lừa dối trong quá trình lựa chọn hàng hoá, dịch vụ. Bảo vệ tối đa quyền lợi người tiêu dùng là một trong những mục đích hướng tới của văn minh thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay.
Đồng thời chúng ta cũng phải từng bước thực thi luật sở hữu trí tuệ trong đó có vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá theo cam kết gia nhập WTO. Do đó mà nhu cầu của các doanh nghiệp về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ngày càng gia tăng.
Bảng 3.1. Biểu đồ về số nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ
3.2. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp
- Thứ nhất, doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược về bảo hộ nhãn hiệu
Tương tự như chiến lược kinh doanh, muốn bảo hộ có hiệu quả nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược về hoạt động này. Chiến lược về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá thường phải gắn chặt với chiến lược kinh doanh, đặc biệt khi doanh nghiệp có chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu. Chiến lược bảo hộ hàng hoá của doanh nghiệp phải đặt ra được những nội dung sau:
+) Xác định cách thức tạo dựng (nguồn) của khối tài sản của nhãn hiệu
Các quyền về bảo hộ nhãn hiệu hàng háo có thể phát sinh từ các thành quả sáng tạo của chính doanh nghiệp, cũng có thể được tạo dựng bằng cách nhận chuyển nhượng từ người khác. Khi xác định cách thức tạo dựng quyền sở hữu công nghiệp, doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý đến lợi thế cạnh tranh nói chung. Không nên tập trung vào việc tạo dựng những tài sản trí tuệ cần đến sự đầu tư quá lớn, không phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp.
+) Xác định lãnh thổ cần bảo hộ đối với từng nhãn hiệu
Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược bảo hộ nhãn hiệu vì nó liên quan đến các hoạt động xác lập, khai thác và bảo vệ nhãn hiệu. Lãnh thổ bảo hộ nhãn hiệu được xác định phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp sẽ không nhất thiết phải tiến hành bảo hộ các nhãn hiệu ở tất cả các thị trường mà mình kinh doanh. Có những thị trường mà việc đưa trực tiếp hàng hóa mang nhãn hiệu của mình vào hệ thống bán lẻ là không thể được thì cũng có nghĩa là doanh nghiệp cần sử dụng quyền của người khác bằng cách mua li-xăng.
+) Xác định bộ máy quản lý và phát triển nhãn hiệu
Tùy thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, việc quản lý và phát triển nhãn hiệu có thể được giao cho các bộ phận liên quan đến kinh doanh hoặc thành lập ra những bộ phận chuyên môn để quản lý và phát triển nhãn hiệu. Trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, do vậy phương thức phù hợp hơn cả là giao chức năng quản lý và phát triển nhãn hiệu của doanh nghiệp cho bộ phận có chức năng quản lý kinh doanh.
- Thứ hai, doanh nghiệp cần đầu tư nhân lực, vật lực cho việc bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá.
Nhãn hiệu hàng hoá đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp với quy mô khác nhau. Những doanh nghiệp lớn nói chung có các phòng, ban chuyên trách về phát triển và thực hiện chiến lược về bảo vệ và phát triển nhãn hiệu, gồm đội ngũ nhân viên với đầy đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết, có thể là các luật sư, các kỹ sư, nhà khoa học, nhà kinh tế, các chuyên gia nghiên cứu thị trường… Đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ cần có một bộ phận hoặc một người chuyên trách về vấn đề này. Hơn nữa, do nhãn hiệu hàng hoá là một lĩnh vực đặc thù có quan hệ tới tất cả các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, pháp lý nên những người trực tiếp tiến hành các công việc về nhãn hiệu hàng hoá đòi hỏi phải có hiểu biết về các vấn đề đó.
3.4. Các giải pháp từ nhà nước
- Thứ nhất, Nhà nước phải hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đăng ký, xác lập nhãn hiệu hàng hoá
Khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhãn hiệu, đơn giản thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu nhanh chóng; hỗ trợ doanh nghiệp trong đào tạo, cung cấp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp xây dựng và quảng bá nhãn hiệu. Tuy nhiên nhà nước chỉ tạo ra những cơ chế, hành lang pháp lý thích hợp để các chủ thể bảo vệ quyền của mình. Giải pháp hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp tiến hành đăng ký xác lập quyền không phải là giải pháp có hiệu quả. Cần phải nhắc lại rằng việc đăng ký xác lập quyền chỉ là một công đoạn đầu tiên trong một quá trình lâu dài để bảo vệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ, trong đó có quyền bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá. Nhà nước hỗ trợ tài chính để doanh nghiệp đăng ký xác lập quyền trong khi doanh nghiệp không hiểu rõ vai trò, ý nghĩa cũng như không có chiến lược cho hoạt động bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá thực tế sẽ phản tác dụng, làm cho doanh nghiệp ảo tưởng rằng chỉ cần đăng ký quyền là đủ mà không có bất cứ hành động nào khác để khai thác cũng như bảo vệ quyền đó. Hơn nữa, việc lấy ngân sách nhà nước (thực tế là tiền đóng thuế của các doanh nghiệp) để hỗ trợ cho một số doanh nghiệp nào đó đơn thuần để đăng ký xác lập nhãn hiệu hàng hoá là không công bằng, không bình đẳng trong hoạt động kinh doanh. Trong giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký xác lập nhãn hiệu hàng hoá, có một cách tiếp cận có hiệu quả đối với các doanh nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, đó là cách tiếp cận tập thể - tiếp cận theo ngành hàng.
+) Đối với các loại nông phẩm:
Dường như phương thức tiếp cận tập thể để bảo hộ nhãn hiệu là có hiệu quả nhất. Ví dụ điển hình là trường hợp cà-phê Cô-lôm-bi-a. Hành khách đi trên các hãng hàng không thường nghe thấy lời mời của tiếp viên về loại sản phẩm này. Khi đó, chúng ta có thể thấy tất cả những người sản xuất và buôn bán loại sản phẩm này của Cô-lôm-bi-a đều được hưởng lợi. Liên hệ với các sản phẩm xuất khẩu tương tự của Việt Nam, nếu từng doanh nghiệp sản xuất, chế biến cà-phê tiến hành quảng bá sản phẩm của mình với các nhãn hiệu riêng rẽ, sẽ rất khó có thể đạt được thành công trên thị trường quốc tế, nhất là hiện nay loại sản phẩm này hầu hết được xuất khẩu dưới dạng cà-phê hạt (sản phẩm thô). Trong trường hợp đó, khi các doanh nghiệp chế biến của nước ngoài mua nguyên liệu thô của Việt Nam và chế biến, gắn nhãn hiệu của họ vào sản phẩm và tung ra thị trường thì khi đó sẽ không còn mối liên quan nào đến Việt Nam trong sản phẩm đó.
+) Tương tự như vậy là đối với sản phẩm gạo:
Người tiêu dùng thường biết đến một loại gạo mà họ mua xuất xứ từ nước nào trước khi họ quan tâm đến việc hãng bán lẻ nào cung cấp loại gạo đó. Chưa nói đến việc tự mình tạo ra một mạng lưới phân phối và sử dụng riêng nhãn hiệu của mình trên bao bì bán lẻ hàng hóa, việc làm cho khách hàng biết được nguồn gốc gạo của Việt Nam hiện vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
+) Đối với sản phẩm dệt, may:
Khi hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu hướng tới các thị trường của các nước phát triển thì việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của riêng mình hay sử dụng nhãn hiệu của các hãng nổi tiếng trên thế giới cũng là một vấn đề đáng quan tâm trong kinh doanh. Một số công ty may mặc có truyền thống và đã có những thành công nhất định ở thị trường nước ngoài có thể nghĩ đến việc sử dụng nhãn hiệu riêng của mình (chẳng hạn Công ty May 10). Tuy nhiên, hầu hết các công ty may mặc của Việt Nam chủ yếu gia công cho các hãng nước ngoài. Trong trường hợp đó, đương nhiên bên đặt gia công sẽ yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam phải gắn trên sản phẩm nhãn hiệu của họ. Ngay cả trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam tự sản xuất (không phải là gia công) thì việc không có hệ thống phân phối ở nước ngoài cũng là một trở ngại cho các doanh nghiệp khi sử dụng nhãn hiệu của mình trên sản phẩm. Khi mua sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam sau đó gắn những nhãn hiệu nổi tiếng, các doanh nghiệp nhập khẩu của nước ngoài có thể thu được lợi nhuận rất lớn. Đó cũng là lý do vì sao có rất nhiều ý kiến của các doanh nghiệp dệt may cho rằng, không cần thiết phải đăng ký và sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của mình ở nước ngoài mà thay vào đó là xuất khẩu hàng không gắn nhãn hiệu, còn sau đó việc gắn nhãn hiệu nào vào sản phẩm đó là công việc của người nhập khẩu hàng. Như vậy, Nhà nước cần tập trung vào hỗ trợ các ngành hàng xác lập nhãn hiệu ở nước ngoài thay vì hỗ trợ từng doanh nghiệp xuất khẩu.
- Thứ hai, hỗ trợ thành lập các tổ chức quản lý tập thể chỉ dẫn về dăng ký nhãn hiệu
Ở nước ta, hầu như mỗi địa phương đều có không ít các đặc sản truyền thống mang tên của địa phương đó (như nước mắm Phú Quốc, cà-phê Đắc Lắc, bưởi năm roi Bình Minh, xoài cát Hòa Lộc, thanh long Bình Thuận, v.v.). Nhiều đặc sản được người tiêu dùng ưa chuộng, vì thế bị làm giả ở mức độ khác nhau và vì vậy doanh nghiệp cũng đã ít nhiều thấy được sự cần thiết phải có sự bảo hộ pháp lý đối với tên gọi của sản phẩm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thường không biết sản phẩm của mình có đáp ứng các điều kiện luật định để được hưởng sự bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá hay không. Bởi vậy, họ cần được hỗ trợ trong việc đánh giá sơ bộ khả năng đáp ứng các điều kiện bảo hộ đó. Mặt khác, công việc xác định và chứng minh các điều kiện bảo hộ rất tốn công và tốn của, trong khi cộng đồng doanh nghiệp chưa thể khẳng định được giá trị kinh tế thực sự do sự bảo hộ đem lại. Bởi vậy, họ cần được hỗ trợ về phương pháp luận và các nguồn lực để đánh giá sự cần thiết phải bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm của mình.
- Thứ ba, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, cho các doanh nghiệp hiểu rõ tầm quan trọng cũng như lợi ích của việc đăng ký nhãn hiệu:
Phổ biến các vấn đề chung về sở hữu công nghiệp cho doanh nghiệp như cách thức thủ tục để đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp, vấn đề quản trị sở hữu công nghiệp và đối với từng loại hình doanh nghiệp cụ thể có những chỉ dẫn riêng cho từng đối tượng.
Thứ tư, Nhà nước cần bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý có đủ các chế tài xử lý và có hình thức xử phạt cao, kể cả việc tước giấy phép kinh doanh:
Quy định trách nhiệm cho các cơ quan cấp giấy phép, cơ quan phối hợp cưỡng chế có trách nhiệm, sau khi có quyết định xử phạt hành chính. Xây dựng một hệ thống tòa án có khả năng giải quyết các khiếu nại, tố cáo vi phạm nhãn hiệu. Thành lập những lực lượng “cảnh sát nhãn hiệu”, “công an nhãn hiệu” chuyên xử lý về hành vi vi phạm quyền sở hữu về nhãn hiệu hàng hóa.
Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật dân sự. Hoàn thiện các quy định về việc xác định các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; nâng cao vai trò của Toà án dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ. Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách kịp thời và có hiệu quả. Xác định rõ thẩm quyền vụ việc của Toà án trong việc xét xử các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, bổ sung những quy định chi tiết về các chế tài đủ mạnh để chống lại các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, tham khảo một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ ở một số nước trên thế giới.
- Thứ năm, về vấn đề liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng
Hiện nay đã có một số đơn yêu cầu công nhận nhãn hiệu nổi tiếng được nộp cho Cục SHTT. Tuy nhiên, do VN chưa có văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể về thủ tục và các căn cứ để công nhận nhãn hiệu nổi tiếng nên chưa có nhãn hiệu nào được Cục SHTT VN chính thức ra quyết định công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng. Mặc dù vậy, qua các quyết định giải quyết các đơn khiếu nại, yêu cầu kết luận vi phạm nhãn hiệu, Cục SHTT cũng đã gián tiếp công nhận một số nhãn hiệu như Miliket, McDonald's, Superman, v.v. là nhãn hiệu nổi tiếng.
Trong thời gian tới cùng với việc thông qua Luật Sở hữu trí tuệ, VN sẽ và cần phải ban hành văn bản quy định cụ thể các căn cứ, thủ tục công nhận nhãn hiệu nổi tiếng. Các quy định này cần phải được xây dựng trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cũng như Khuyến nghị của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới về công nhận nhãn hiệu nổi tiếng. Các căn cứ để xác định nhãn hiệu nổi tiếng có thể là: số lượng người tiêu dùng đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc mua bán, sử dụng sản phẩm mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo; phạm vi lãnh thổ mà sản phẩm mang nhãn hiệu đã được lưu hành; doanh số từ việc bán sản phẩm mang nhãn hiệu hoặc số lượng sản phẩm đã được bán ra; thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu; uy tín rộng rãi của sản phẩm mang nhãn hiệu; số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu, v.v...
Thứ sáu, nhà nước cần khuyến khích thành lập các trung tâm, công ty tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp trong vấn đề đăng ký nhãn hiệu.
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường, với sự cạnh tranh khốc liệt giữa các loại hàng hóa và dịch vụ cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay, vai trò của nhãn hiệu - một trong những đối tượng truyền thống và chủ yếu của sở hữu công nghiệp - ngày càng trở nên quan trọng.
Với chức năng ban đầu là giúp người tiêu dùng phân biệt hàng hóa cùng loại của các nhà sản xuất khác nhau, qua quá trình sử dụng và phát triển, nhãn hiệu đã trở thành một công cụ hữu hiệu cho một doanh nghiệp (dù lớn hay nhỏ) tiếp cận, phát triển và bảo vệ thị phần hàng hóa và dịch vụ của mình. Vì vậy vấn đề bảo hộ hàng hoá là vấn đề cấp thiết và quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam bắt buộc phải thực thi các quyền về sở hữu trí tuệ theo cam kết hội nhập.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam. Năm 2005
2. Hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá theo thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu và nghị định thư của Thoả ước
3. GS.TS. Đỗ Đức Bình, PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng. Năm 2002. Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB Lao động – Xã hội
4. PGS.TS. Nguyễn Thừa Lộc; TS. Trần Văn Bão. Năm 2005. iáo trình chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, NXB Lao động – Xã hội
5. TS Nguyễn Quế Anh. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định về xác lập quyền sở hữu công nghiệp - Tạp chí Dân chủ và pháp luật, chuyên đề về sở hữu trí tuệ, tháng 3/2005.
6. Luận án Tiến sĩ của NCS Nguyễn Văn Luật về đề tài “ Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam – 28/2/2006
7. Ths. Phan Ngọc Tâm. Ngày 20/2/2008. Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật Châu Âuvà Hoa kỳ. Website:www.thongtinphapluatdansu.com.vn
8. Vũ Hạnh. Ngày 30/10/2007. Doanh nghiệp cần đăng ký nhãn hiệu hàng hoá khi thâm nhập thi trường Hoa Kỳ. Website: www.beta.baomoi.com
9. Luật sư Nguyễn Đức Thọ. Ngày 23/12/2007. Nhãn hiệu hàng hoá.Website: www.tuvanphaply.com.vn
10. - Luật sư Nguyễn Đức Thọ. Ngày 23/12/2007. Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá như thế nào. Website: www. tuvanphaply.com.vn
11. MBA. Vũ Quang Vịnh. Ngày 20/3/2008. Thương hiệu quốc gia . Website: nhanhieuviet.com.vn
12. MBA. Vũ Quang Vịnh. Ngày 3/3/2008. Lợi ích thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Webisite: nhanhieuviet.com.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30321.doc