LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước đang chuyển mình với những bước đi đúng hướng, những thành tựu mới trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Xu hướng toàn cầu hoá trên thế giới cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã mở ra nhiều cơ hội mới cho mọi nhà, mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh vực trong đó không thể không nói tới bảo hiểm - một lĩnh vực hết sức nhạy cảm ở Việt Nam. Chúng ta đang bắt đầu thực hiện các cam kết mở cửa, khiến cho các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh ngày c
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Bảo hiểm xe cơ giới tại Tổng Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng khốc liệt, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Chính vì lẽ đó mà các Công ty bảo hiểm muốn có bước đột phá thành công thì phải luôn nổ lực hết mình, phải tạo dựng được niềm tin đối với khách hàng và một điều quan trọng hơn hết đó là phải không ngừng nghiên cứu, sáng tạo và phát triển sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày một cao của khách hàng. Từ khi ra đời cho tới nay, PJICO luôn đặt mục tiêu phát triển lên hàng đầu, và kết quả của ngày hôm nay là một minh chứng cho điều đó.
Bảo hiểm xe cơ giới là một trong những nghiệp vụ chủ chốt của PJICO, đóng góp phần lớn trong tổng doanh thu toàn công ty. Thực tế cho thấy qua thời gian thực hiện, triển khai, nghiệp vụ này đã trở thành nghiệp vụ nòng cốt không thể thiếu trong chiến lược phát triển của công ty.
Nhận thấy vai trò vô cùng quan trọng của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Bảo hiểm xe cơ giới tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex, thực trạng và giải pháp ”
Kết cấu của đề tài gồm 3 phần chính:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xe cơ giới
Chương 2: Thực trạng bảo hiểm xe cơ giới tại Tổng công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolimex
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
Do thời gian và kiến thức có hạn nên đề tài của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự đánh giá và góp ý của thầy cô giáo để đề tài của em hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Văn Định đã hướng dẫn em tận tình trong suốt thời gian thực tập cũng như giúp đỡ em hoàn thành đề tài đã chọn!
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI
1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của bảo hiểm xe cơ giới
Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xe cơ giới
Điều 623 Bộ luật dân sự thay thế,sửa đổi và bổ sung năm 2005 liệt kê nguồn nguy hiểm cao độ trong đó có phương tiện giao thông vận tải cơ giới bao gồm có phương tiện tham gia giao thông đường hàng không, đường thuỷ, đường sắt và đường bộ.Và loại phương tiện tham gia giao thông đường bộ có tần suất hoạt động tham gia giao thông nhiều dẫn đến xác suất xảy ra tai nạn là rất lớn, đó là phương tiện giao thông cơ giới đường bộ(gọi là xe cơ giới). Là phương tiện vận chuyển cơ động và tham gia triệt để vào quá trình vận chuyển, xe cơ giới hoạt động phần lớn trong các khu vực dân cư đông đúc và những vùng kinh tế tập trung nhiều loại tài sản và hàng hoá. Do đó, nó thường gây ra những sự cố rủi ro tai nạn như đâm va, cháy, nổ, lật xe gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản cho chính chủ phương tiện và những người khác cùng tham gia giao thông, cũng như cho xã hội.
Trong thời đại hiện nay,khi khoa học – kỹ thuật ngày càng phát triển, để phục vụ cho nhu cầu đi lại bằng phương tiện giao thông ngày càng tăng, thì con người đã phát minh và sản xuất ra nhiều loại phương tiện hiện đại và tối tân hơn, chất lượng tốt hơn, tốc độ lớn hơn và an toàn hơn. Trên thực tế cho thấy, mặc dù các phương tiện rất hiện đại, chất lượng và an toàn như đã nêu ở trên tham gia giao thông đường bộ trên những tuyến đường được nâng cấp, làm mới rất hiện đại với mặt đường, cầu rộng rãi, chất lượng tốt, với hệ thống chiếu sáng, đèn hiệu, biển báo hiệu giao thông hiện đại. Song tai nạn giao thông vẫn cứ xảy ra với nhiều vụ xảy ra gây thiệt hại nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Tai nạn giao thông xảy ra do rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như do ý thức chấp hành luật lệ an toàn giao thông thấp, do việc quản lý các phương tiện giao thông của chính phủ về tiêu chuẩn, điều kiện cho phương tiện lưu hành, do khí hậu, do chất lượng các công trình giao thông không tốt và do nhiều nguyên nhân khác.
Bảng 1: Sự gia tăng phương tiện giao thông cá nhân ở Việt Nam (2003- 2007)
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Số ô tô
675 000
774 824
891 104
1 026 512
1 183 260
Số gắn máy
11 379 000
13 375 992
16 086 644
18 901 206
22 350 676
(Nguồn: Báo cáo của uỷ ban an toàn giao thông)
Theo thống kê cho thấy, số lượng xe cơ giới ngày một tăng, điều đó đi đôi với sự gia tăng tai nạn giao thông ngày càng nhiều. Điều đó tất yếu gây ra những hậu quả và tổn thất nặng nề.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy bảo hiểm xe cơ giới đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Nó giúp cho các chủ phương tiện giảm bớt gánh nặng về mặt kinh tế khi không may xảy ra tai nạn rủi ro,giúp cho họ trang trải các khoản chi phí khi gây ra tổn thất,thiệt hại về người và tài sản cho bên thứ ba cùng tham gia giao thông với những chi phí đôi khi còn lớn hơn giá trị thực của chính chiếc xe tham gia, cũng như giúp họ trang trải chi phí sữa chữa ,bù đắp cho chính chiếc xe tham gia bảo hiểm và cho những người sử dụng và tham gia giao thông trên chính chiếc xe đó.Bên cạnh đó,từ quỹ tài chính bảo hiểm do các chủ phương tiện đóng góp từ khoản phí bảo hiểm còn được sử dụng một phần vào việc nâng cấp các tuyến đường giao thông,làm các biển báo giao thông, đường lánh nạn, đóng góp vào các quỹ từ thịên….vv
Vai trò của bảo hiểm xe cơ giới
Có thể thấy,sự tồn tại của rủi ro cùng hậu quả gây ra thiệt hại cho con người,huỷ hoại của cải vật chất,làm ngưng trệ quá trình sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác là cội nguồn phát sinh bảo hiểm.Gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia,hoạt động của bảo hiểm ngày càng đa dạng.Trong đó nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới đóng một vai trò quan trọng cho sự an toàn xã hội.
Thứ nhất,giúp ổn định tình hình tài chính của chủ phương tiện khi không may rủi ro được bảo hiểm xảy ra.
Khi tham gia giao thông tất nhiên ai cũng mong muốn rủi ro không xảy ra với mình,gây thiệt hại cả về người và của.Nhưng rủi ro lại không loại trừ bất kỳ ai,nhiều khi chỉ là do sơ suất bất cẩn khiến chủ phương tiện rơi vào tình thế bị động.Tình trạng này sẽ được khắc phục nếu như chủ xe tham gia bảo hiêmr xe cơ giới và sau khi đóng một khoản phí nhất định để xây dựng quỹ bảo hiểm thì đến khi rủi ro xảy ra công ty bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về mặt tài chính cho chủ phương tiện,bao gồm cả thiệt hại gây ra cho người thứ ba và vật chất thân xe tuỳ theo loại hình chủ xe tham gia.cần phải lưu ý rằng ,công ty bảo hiểm chỉ bồi thường trong hạn mức trách nhiệm (đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự) và số tiền bảo hiểm(đối với bảo hiểm vật chất xe) để tránh những trục lợi từ phía khách hàng.Như vậy tham gia bảo hiểm xe cơ giới tạo tâm lý yên tâm,thoải mái,tự tin khi điều khiển các phương tiện tham gia giao thông; số tiền bồi thường cũng góp phần ổn định tình hình tài chính và tránh những xáo trộn lớn cho chủ phương tiện giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn; đồng thời qua đó góp phần xoa dịu,làm giảm bớt căng thẳng giữa chủ xe và người bị nạn.Ngoài ra,mục đích cao cả trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 là bảo hiểm thay mặt chủ xe bồi thường những thiệt hại cho nạn nhân một cách nhanh chóng,kịp thời mà không phụ thuộc vào tài chính của chủ xe giúp cho người thứ ba ổn định cả về mặt tài chính và về mặt tinh thần.
Thứ hai,tăng khả năng tự chủ về mặt tài chính cho người tham gia bảo hiểm
Hơn bao giờ hết kinh tế Việt Nam đang có những biến chuyển to lớn về cả chất và lượng,Nhà nước không ngừng khuyến khích mọi thành phần kinh tế đặc biệt là tư nhân tham gia vào guồng máy kinh doanh sản xuất chung nhằm tận dụng nguồn tài chính nằm trong dân, đưa nguồn vốn nhàn rỗi này ra sản xuất kinh doanh sinh lời. Đối với một doanh nghiệp thì nguồn vốn quyết định sức mạnh,vị thế của doanh nghiệp,vì thế mà trong quá trình kinh doanh nếu doanh nghiệp phải tự dự trữ một khoản tiền tương đối lớn để đề phòng khi rủi ro xảy ra bất ngờ thì quả là sự lãng phí lớn. Đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, ít phương tiện đã vậy, đặc biệt là với các doanh nghiệp có quy mô lớn ,số lượng đầu xe nhiều thì quỹ dự trữ này sẽ chiếm một tỷ kệ lớn và rất khóa xác định trong nguồn vốn kinh doanh.
Các khó khăn này sẽ được giải quyết thông qua các hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới,công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm và quỹ này hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít”. Lúc này thay vì phải tự thành lập riêng một quỹ cho doanh nghiệp thì các chủ phương tiện có thể yên tâm hoạt động nhờ một quỹ lớn hơn rất nhiều do các thành viên khác cùng đóng góp.
Thứ ba,góp phần đề phòng hạn chế tổn thất do tai nạn giao thông .
Với số phí thu được từ các chủ xe tham gia,công ty bảo hiểm lập những quỹ ngoài mục đích chính là để bồi thường cho các xe nếu rủi ro xảy ra còn được sử dụng cho mục đích đề phòng hạn chế tổn thất. Những nguy cơ gây ra tai nạn do chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng còn thấp như tại các đèo,dốc nguy hiểm (ví dụ như: đèo Cả, đèo Cù Mông…) đã được các công ty bảo hiểm lớn là Bảo Việt,PJICO hỗ trợ đầu tư hàng tỷ đồng để xây dựng đường lánh nạn, đường phụ,hốc cứu nạn…hàng năm cứu thoát khỏi nguy hiểm hàng trăm tính mạng.
Ngoài ra các công ty cũng khuyến khích chủ xe tự thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, nâng cao ý thức thông qua công tác tuyên truyền luật lệ an toàn giao thông, đặc biệt công ty còn giảm phí nếu sau một thời gian nhất định mà xe không gặp phải bất kỳ sự cố nào. Như vậy việc tham gia bảo hiểm rõ ràng có tác dụng đề phòng hạn chế tổn thất góp phần ổn định đời sống xã hội.
Thứ tư,góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước.
Mức sống ngày được nâng lên, số lượng các phương tiện cơ giới tăng mạnh, đồng thời giá trị của từng chiếc xe cũng tăng cao.
Hơn nữa, khi các điều kiện sống đầy đủ, trình độ dân trí cao thì nhu cầu tự bảo vệ cho bản thân, gia đình,tài sản lại càng được nâng cao.Vì thế triển vọng của nghiệp vụ xe cơ giới là rất lớn và nguồn thu từ nghiệp vụ này không phải là ít, nó sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước thông qua hình thức nộp thuế của các công ty bảo hiểm. Và ngược lại Chính phủ có thể sử dụng ngân sách Nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm khác đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng, đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu đi lại của người dân từ đó góp phần nâng cao chất lượng đời sống dân cư.
Như vậy vai trò, tác dụng của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là rất lớn, mang ý nghĩa tích cực, nhân đạo sâu sắc và việc triển khai nghiệp vụ này là rất cần thiết.
2/ Các nghiệp vụ bảo hiểm liên quan đến xe cơ giới
Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm mà nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới được chia thành một số sản phẩm sau:
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba
Bảo hiểm vật chất xe
BHTNDS của chủ xe đối với hàng hoá chở trên xe.
Bảo hiểm tai nạn hành khách trên xe.
Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe
Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe.
Trong các nghiệp vụ trên thì nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba và bảo hiểm vật chất thân xe cơ giới là hai nghiệp vụ trọng tâm góp phần hỗ trợ tích cực cho người tham gia bảo hiểm khi bị tai nạn đồng thời cũng đem lại doanh thu lớn cho các doanh nghiệp bảo hiểm.
2.1 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Trong cuộc sống hàng ngày mỗi cá nhân,tổ chức đều phải chịu trước pháp luật về hành vi của mình, nếu hành vi bất cẩn đó gây thiệt hại cho người khác thì cá nhân, tổ chức đó phải chịu trách nhiệm đền bù thiệt hại do mình gây ra. Thực tế không chỉ trong bảo hiểm xe cơ giới mới có BHTNDS mà còn tồn tại rất nhiều loại hình BHTNDS khác: bảo hiểm trách nhiệm dân sự sản phẩm, TNDS của chủ sử dụng lao động. Vì vậy loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự rất phổ biến và có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội. BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba cũng là dạng BHTNDS vì thế nó cũng có đầy đủ các đặc điểm bảo hiểm trách nhiệm.
Thứ nhất, đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng. Vì đối tượng của bảo hiểm trách nhiệm là phần trách nhiệm pháp lý phát sinh phải bồi thường trách nhiệm dân sự tại thời điểm tham gia bảo hiểm. Phần trách nhiệm này chưa xác định bởi vì nó chưa xảy ra chỉ khi trách nhiệm dân sự phát sinh thì mới biết giá trị cụ thể của trách nhiệm là bao nhiêu.
Thứ hai, bảo hiểm trách nhiệm chỉ có một rủi ro duy nhất là khi pháp luật quy định đã phát sinh trách nhiệm dân sự.
Thứ ba, bảo hiểm trách nhiệm thường áp dụng dưới hình thức bắt buộc. Mục đích ngoài việc ổn định tài chính cho người được bảo hiểm còn bảo vệ quyền lợi cho phía nạn nhân (vì có những thiệt hại xảy ra vượt quá khả năng tài chính của chủ phương tiện ).
Thứ tư là, bảo hiểm trách nhiệm thường chỉ giới hạn ở một mức trách nhiệm nhất định, hay nói cách khác công ty bảo hiểm thường giới hạn trách nhiệm của mình bởi số tiền bảo hiểm.
2.1.1 Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm:
Người tham gia bảo hiểm thông thường là các chủ xe,có thể là cá nhân hay đại diện cho một tập thể.Người bảo hiểm chỉ nhận cho phần BHTNDS của chủ xe phát sinh do hoạt động điều khiển xe cơ giới của lái xe.Như vậy, đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là phần trách nhiệm đươc xác định như sau:
Số tiền bồi thường
TNDS
=
Mức độ
lỗi
*
Thiệt hại thực tế
của bên thứ ba
Tuy nhiên số tiền bồi thường trách nhiệm dân sự luôn phụ thuộc vào quyết định cuối cùng của toà án nếu như hai bên không thỏa thuận được.Vậy đối tượng không được xác định trước, chỉ khi nào xảy ra tai nạn mới xác định được một cách cụ thể.
Các điều kiện phát sinh TNDS của chủ xe đối với người thứ ba:
Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khỏe của bên thứ ba.
Chủ xe phải có hành vi gây thiệt hại về người hoặc tài sản cho bên thứ ba (hành vi này có thể là vô tình hay cố tình ) mà lái xe vi phạm luật an toàn giao thông đường bộ hoặc vi phạm các quy định khác của nhà nước,cũng có thể là rủi ro về mặt kỹ thuật mà chủ xe không lường trước được.
Phải có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe với những thiệt hại của người thứ ba.
Phải có khiếu nại của bên thứ ba.
Người thứ ba có thể là người đi bộ hay người đi xe đạp hoặc các phương tiện cơ giới khác, đường sá hoa màu…nhưng không bao gồm các trường hợp sau:
+ Lái phụ xe,người làm công cho chủ xe
+ Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha mẹ,vợ con…
+ Hành khách những người có mặt trên xe
+ Thiệt hại xảy ra do bản thân phương tiện gây ra
+ Thiệt hại về tình trạng sức khỏe xảy ra do bản thân người điều khiển xe
+ Các khoản phạt mà lái xe hay phụ xe phải chịu.
Phạm vi bảo hiểm:
Trong BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba,các thiệt hại nằm trong phạm vi trách nhiệm của người được bảo hiểm bao gồm:
Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sứ khỏe của bên thứ ba.
Thiệt hại về hàng hóa,tài sản của bên thứ ba.
Thiệt hại về tài sản là ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh hoặc làm giảm thu nhập.
Các chi phí cần thiết và hợp lý để ngăn ngừa và hạn chế thiệt hại, các chi phí thực hiện các biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả biện pháp không mang lại hiệu quả)
Những thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của người tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân.
Tuy nhiên người bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các vụ tai nạn mặc dù có phát sinh TNDS trong các trường hợp sau:
Tai nạn do hành động cố ý của chủ xe,lái xe và người bị thiệt hại.
Xe không đủ điều kiện an toàn kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông theo quy định của điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ.
Chủ xe lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông như:
+ Xe không có giấy phép lưu hành,giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và môi trường
+ Lái xe không bằng lái.
+ Lái xe bị ảnh hưởng của các chất kích thích như :rượu ,bia ,ma túy
+ Xe chở chất cháy,chất nổ trái phép
+ Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép,chạy thử sau khi sữa chữa
+ Xe đi vào đường cấm, đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải.
+ Xe không có hệ thống lái bên phải
Thiệt hại do chiến tranh
Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh
Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn.
Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia trừ khi có thoả thuận khác.
Ngoài ra,người bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt như vàng bạc đá quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm….
2.1.2 Mức trách nhiệm bảo hiểm
Mức trách nhiệm bảo hiểm là số tiền cao nhất mà doanh nghiệp bảo hiểm có thể trả cho mỗi vụ tai nạn xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Như ta đã biết thiệt hại TNDS chưa thể xác định ngay tại thời điểm tham gia bảo hiểm nó có thể là không đáng kể có thể là rất lớn.Vì vậy một mặt để nâng cao trách nhiệm của người tham gia,mặt khác để đảm bảo chi trả bảo hiểm cho người tham gia nên công ty bảo hiểm đã đưa ra các giới hạn nhất định đối với mức bồi thường tối đa để người tham gia bảo hiểm tự lựa chọn. Tức là công ty bảo hiểm không bồi thường toàn bộ thiệt hại TNDS phát sinh mà chỉ khống chế trong phạm vi số tiền bảo hiểm đã xác định ra khi tham gia. Số thiệt hại còn lại thì chủ xe hoặc lái xe bồi thường cho người thứ ba.
Hiện nay, Bộ tài chính ban hành quyết định 23 Bảo hiểm Bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới thì mức TNDS bắt buộc mà chủ xe tham gia là :
+ Đối với xe mô tô:
Về người: 30 triệu đồng / người / vụ
Về tài sản: 30 triệu đồng / vụ
+ Đối với xe ô tô:
Về người : 50 triệu đồng / người / vụ
Về tài sản : 50 triệu đồng / vụ
2.1.3 Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ xe phải nộp cho công ty bảo hiểm để hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung đủ lớn để bồi thường thiệt hại xảy ra trong năm nghiệp vụ theo phạm vi bảo hiểm. Có thể coi phí bảo hiểm là giá cả của của sản phẩm bảo hiểm nên nó có thể tăng giảm như các sản phẩm khác.
Biểu phí nghiệp vụ BHTNDS do Bộ Tài Chính quy định ngoài ra doanh nghiệp có thể thoả thuận với chủ xe cơ giới để đảm bảo biểu phí cao hơn hoặc phạm vi bảo hiểm rủi ro bảo hiểm rộng hơn theo quy tắc bảo hiểm. Phí bảo hiểm tính cho mỗi đầu phương tiện đối với mỗi loại phương tiện (thường tính theo năm) là:
P = f + d
Trong đó : P – Phí bảo hiểm / đầu phương tiện
f – Phí thuần
d - Phụ phí
2.2 Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Bảo hiểm vật chất thân xe cơ giới là một loại hình bảo hiểm tài sản có đối tượng bảo hiểm là thiệt hại vật chất của xe xảy ra do những tai nạn bất ngờ ngoài sự kiểm soát của chủ xe trong những trường hợp cụ thể do quy tắc bảo hiểm quy định.
2.2.1 Đối tượng và phạm vi bảo hiểm:
Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm ở đây là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ của mỗi quốc gia.
Để xác định xe cơ giới người ta dùng các tiêu thức sau:
Xe cơ giới được gắn với động cơ ( khác với xe không có động cơ như:xe đạp,xe thồ ,xe súc vật kéo)
Xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn(khác với tàu hoả ,xe điện)
Xe cơ giới phải có tối thiểu 1 chỗ cho người điều khiển
Như vậy,xe cơ giới bao gồm nhiều loại xe: ô tô, mô tô, xe chở hàng, xe chuyên dụng khác.
Để được xét trở thành đối tượng bảo hiểm,xe cơ giới phải đảm bảo những điều kiện về mặt kỹ thuật,pháp lý cho sự lưu hành, được cơ quan thẩm quyền cấp giấy đăng ký xe,biển kiểm soát,giấy phép lái xe,giấy kiểm đinh an toàn kỹ thuật và môi trường.
Có những quy định về điều kiện kỹ thuật vì:
+ Xuất phát từ nguyên tắc trong bảo hiểm đó là chỉ bảo hiểm cho những rủi ro ngẫu nhiên. Vì vậy, nếu xe cơ giới tham gia bảo hiểm mà không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật thì có thể không được chấp nhận.
+ Công ty Bảo hiểm cũng như các công ty sản xuất kinh doanh khác luôn chấp hành theo đúng quy định và luật pháp của Nhà nước. Nếu công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm bảo hiểm cho xe cơ giới không đủ các điều kiện về mặt pháp lý(không có giấy đăng ký xe, bằng lái, không có biển kiểm soát đối với xe đã lưu hành lâu rồi) thì vô hình dung là một sự tiếp tay cho hành vi phạm pháp;còn đối với những xe mới chưa có biển kiểm soát, chưa đi đăng ký vẫn được tham gia bảo hiểm vì bảo hiểm chỉ cần dựa vào số khung và số mã.
Căn cứ vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật xe cơ giới được chia thành các tổng thành sau:
+ Tổng thành thân vỏ: Có 3 nhóm
Thân vỏ,ca bin,ga lăng,toàn bộ vỏ kim loại.
Ghế đệm nội thất :toàn bộ ghế đệm ngồi hoặc cầm,các trang thiết bị điều hoà nhiệt độ,quạt dài.
Sắt xi:gồm khung,tổng bơm,phanh,các bình chứa nguyên liệu.
+ Tổng thành động cơ: (động cơ,bộ chế hoà khí,bơm cao áp,bộ phận lọc gió)
Tổng thành hệ thống lái ( vô lăng,trục tay lái…)
Tổng thành hộp số : (Hộp số chính,hộp số phụ,hệ thống dẫn trục các loại)
Tổng thành trục trước : ( dầm cầu,trục láp.hệ thống treo nhíp,cơ cấu phanh,xi lanh phanh)
Tổng thành trục sau :
Tổng thành lốp : bộ phần săm lốp hoàn chỉnh của xe (kể cả lốp dự trữ)
Trên cơ sở đó,người ta tham gia bảo hiểm có thể tham gia bảo hiểm toàn bộ xe hoặc là tham gia bảo hiểm từng bộ phận xe. Trong đó tổng thành thân vỏ xe chiếm tỷ trọng lớn nhất cũng như chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ hậu quả của tai nạn, rủi ro. Chính vì thế mà các công ty bảo hiểm Việt Nam thường tiến hành bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe.
Phạm vi bảo hiểm
Là giới hạn những rủi ro mà theo thoã thuận nếu những rủi ro đó xảy ra người bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường tổn thất.
Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ những thiệt hại vật chất của xe xảy ra do những tai nạn bất ngờ, ngoài sự kiểm soát của chủ xe, lái xe trong những trường hợp sau:
Những rủi ro thông thường gắn liền với hoạt động của chủ xe,lái xe: đâm va,lật đổ.
Những rủi ro bất thường dễ phát sinh khác:hoả hoạn,cháy nổ.
Rủi ro khách quan có nguồn gốc tự nhiên: bão,lũ lụt,sét đánh,động đất.
Rủi ro khách quan có nguồn gốc “ xã hội”:mất cắp, đập phá…Tuy nhiên ở Việt Nam thì áp dụng một nguyên tắc chung là nếu mất cắp bộ phận thì không giải quyết chỉ mất cắp toàn bộ xe mới thuộc trách nhiệm của bảo hiểm.
Tai nạn rủi ro bất ngờ khác ngoài những điểm loại trừ.
Ngoài ra,doanh nghiệp bảo hiểm còn thanh toán những chi phí cần thiết và hợp lý phát sinh trong tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm ngăn ngừa,hạn chế tổn thất phát sinh thêm bảo vệ và đưa xe thiệt hại đến nơi sữa chữa gần nhất,giám định tổn thất.
Trong mọi trường hợp,tổng số tiền bồi thường trong một vụ tai nạn không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm.
Bảo hiểm Vật chất xe cơ giới không phải là loại hình bảo hiểm bắt buộc trực tiếp theo quy định của Luật giao thông đường bộ.
Nghị quyết 332/HĐBT ngày 23/10/1991 được cụ thể hóa bằng Thông tư số 82TC/CN ngày 31/12/1991 của Bộ Tài chính đã quy định rõ: “để tránh các trường hợp không bảo toàn được vốn do những nguyên nhân khách quan,thiên tai, địch họa,rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó tại công ty Bảo hiểm Việt Nam. Khoản chi về phí bảo hiểm được hạch toán vào giá thành, hoặc phí lưu thông của doanh nghiệp”.
Hiện nay, trên lãnh thổ của Việt Nam đang triển khai các hình thức vật chất thân xe cơ giới như sau:
Bảo hiểm theo giá trị thực tế của xe:
Giá trị thực tế của xe là giá trị thực thực tế của xe trên thị trường tại thời điểm xe tham gia bảo hiểm.
Theo phạm vi đối tượng bảo hiểm có thể chia làm 2 loại:
+ Bảo hiểm toàn bộ xe: đối tượng bảo hiểm là toàn bộ xe cơ giới với đầy đủ các bộ phận tổng thành của xe như:thân vỏ xe,tổng thành động cơ,hệ thống truyền lực,hệ thống điều khiển,hệ thống phanh…
+ Bảo hiểm bộ phận thân vỏ xe: đối tượng được bảo hiểm chỉ là phần thân vỏ xe.Những bộ phận tổng thành khác không thuộc thân vỏ xe bao gồm:tổng thành động cơ,tổng thành hộp số,tổng thành cầu trước,cầu sau,hệ thống lái,hệ thống các bánh xe thì chủ xe tự gánh chịu nếu có tổn thất phát sinh .Trong bảo hiểm bộ phận xe,các doanh nghiệp chỉ nhận bảo bảo hiểm thân vỏ xe,không nhận bảo hiểm riêng các bộ phận khác của xe.
Bảo hiểm dưới giá trị: giá trị xe tham gia bảo hiểm thấp hơn giá trị thực tế của xe tại thời điểm tham gia bảo hiểm. Trường hợp này,nếu xe bị tổn thất bộ phận thì số tiền bồi thường được tính theo tỷ lệ phần trăm giữa giá trị xe tham gia bảo hiểm và giá trị thực tế của xe. Nếu xe bị tổn thất toàn bộ thì bồi thường toàn bộ giá trị xe tham gia bảo hiểm.
Các điều khoản mở rộng: Đây chính là yếu tố cạnh tranh của các công ty bảo hiểm. Tuỳ từng công ty mà có những điều khoản bổ sung hợp lý.
2.2.2 Số tiền bảo hiểm
STBH là khoản tiền nhất định ghi trong đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm để xác định giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm trong việc bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm là giá trị bằng tiền của tài sản. Nó thường được xác định bằng giá trị thực tế của tài sản vào thời điểm ký kết hợp đồng. Cách thức chọn bảo hiểm toàn bộ hay bộ phận xe sẽ chi phối việc thoả thuận về số tiền bảo hiểm của hợp đồng.
Giá trị bảo hiểm = Giá trị ban đầu - Khấu hao
Đối với việc bảo hiểm toàn bộ xe, STBH dựa vào việc xác định giá trị bảo hiểm xe. Giá trị của xe là giá trị thực tế của xe vảo thời điểm tham gia ký kết hợp đồng. Thực tế, việc đánh giá giá trị bảo hiểm của xe là rất phức tạp, ở nước ta hiện nay phần lớn xe đã qua sử dụng, sữa chữa tân trang. Cộng thêm việc kê khai của các chủ xe chưa thật sự chính xác. Vì vậy cán bộ khai thác, cần phải nhạy bén với thông tin về giá cả các loại xe trên thị trường, cần phải thường xuyên kết hợp với các chuyên viên mới có thể định ra giá trị bảo hiểm hợp lý, tránh tối đa trường hợp bảo hiểm trên giá trị dẫn đến hậu quả bất lợi cho hai bên.
Bảo hiểm xe bộ phận (thân vỏ hoặc 1 trong các tổng thành) STBH được định trên cơ sở giá trị bảo hiểm toàn bộ xe và tỷ lệ phần trăm về phần giá trị của bộ phận đó trên giá trị toàn bộ xe (tỷ lệ này được người bảo hiểm quy định đối với từng loại xe).
Bảo hiểm dưới giá trị cũng được các công ty bảo hiểm chấp nhận. Tuy nhiên phải kèm theo quy định về tỷ lệ tối thiểu ( tỷ lệ % giữa STBH và giá trị bảo hiểm) và việc áp dụng quy tắc bồi thường theo tỷ lệ.
2.2.3 Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà chủ phương tiện khi tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới phải đóng cho công ty bảo hiểm.Các Công ty Bảo hiểm tiến hành thu phí theo biểu phí của Bộ Tài Chính quy định.
Mức phí của hợp đồng bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới được xác định bằng tỷ lệ phí nhân với số tiền bảo hiểm.
P = Sb x R
Trong đó:
Sb : Số tiền bảo hiểm
R : Tỷ lệ phí bảo hiểm
Phí cũng được xác định cho mỗi đầu xe có cả phí ngắn hạn và phí dài hạn. Thông thường phí tính trong một năm và phí ngắn hạn thường chỉ vài tháng, phí dài hạn bao giờ cũng bằng hoặc lớn hơn một năm
Phương pháp tính phí bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới của nhiều công ty bảo hiểm lớn nhất trên thế giới luôn dựa vào những yếu tố cơ bản sau:
Những yếu tố liên quan đến bản thân chiếc xe và vấn đề sử dụng xe
+ Loại xe : (xác định bởi nhãn mác,năm sản xuất):liên quan đến trang thiết bị an toàn,giá cả,chi phí sữa chữa,phụ tùng thay thế
+ Phạm vi và địa bàn hoạt động: đây không phải là phương pháp tốt nhất để dựa vào đó mà tính phí bảo hiểm vì công ty bảo hiểm không biết chắc xe sử dụng tại đâu. Dù sao đây cũng là tiêu chuẩn của nhiều đơn bảo hiểm và một số công ty bảo hiểm vẫn có cách xác định tỷ lệ phí dựa theo khu vực là rất phức tạp
+ Mục đích sử dụng xe : đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Nó giúp công ty bảo hiểm biết được mức độ rủi ro có thể xảy ra.Xe được điều khiển bởi một người lớn tuổi, đã về hưu và lưu thông với mục đích thông thường thì sẽ gặp rủi ro hơn những người có xe với mục đích kinh doanh,lưu thông trên một khu vực rộng lớn,thường xuyên. Xe càng lưu hành nhiều thì mức độ, xác suất xảy ra tai nạn càng lớn
Ở Việt Nam thì tính phí bảo hiểm lại căn cứ vào một số tiêu thức sau:
+ Loại xe, đời xe, năm sử dụng…để có được giá trị thực tế của xe tham gia bảo hiểm.
+ Mục đích sử dụng của xe : Phân làm hai loại là xe kinh doanh và xe không kinh doanh
+ Các điều kiện bảo hiểm bổ sung
+ Mức miễn thường: Để giảm phí bảo hiểm, chủ xe có thể lựa chọn việc tự chịu một phần thiệt hại, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chỉ chịu trách nhiệm đối với phần thiệt hại vượt quá mức miễn thường nói trên của chủ xe.
Bảo hiểm cũng là một sản phẩm cung cấp trên thị trường nên phải tham gia theo quy luật cạnh tranh của thị trường. Ngoài chất lượng dịch vụ thì giá cả là yếu tố quyết định rất lớn. Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn xe hay có số phí tham gia bảo hiểm cao thì các công ty bảo hiểm cũng có chính sách giảm phí. Đặc biệt là với những đầu mối giới thiệu khách hàng lớn và thường xuyên.Ví dụ như thông qua ngân hàng, các hãng bán xe, môi giới. Đây là biện pháp phổ biến trong bảo hiểm xe cơ giới.
Những hoạt động mang tính chất mùa vụ tức chỉ hoạt động một số ngày trong năm,thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức:
Phí
bảo hiểm
=
Mức phí
cả năm
x
Số ngày hoạt động
365 ngày
Nếu chủ xe đã nộp phí cả năm nhưng vì một lý do nào đó trong năm có một số tháng không hoạt động nhà bảo hiểm hoàn lại phí trong những tháng đó nhưng chủ xe phải báo cho nhà bảo hiểm biết
Phí
hoàn lại
=
Phí cả
năm
x
Tỷ lệ
hoàn phí
x
Số ngày không hoạt động
365 ngày
Khi giảm phí bảo hiểm PJICO chỉ áp dụng giảm phí một trong các phương án dưới đây khi khách hàng tham gia loại hình bảo hiểm xe cơ giới tự nguyện sau đây:
Bảng 2 : Giảm phí theo tỷ lệ tổn thất
Thời hạn
Mức giảm phí tối đa
01 năm liên tục
15% tổng số phí bảo hiểm
02 năm liên tục
20% tổng số phí bảo hiểm
03 năm liên tục
25% tổng số phí bảo hiểm
(Nguồn : QĐ 02/2008 của PJICO về hướngdẫn khai thác bảo hiểm xe cơ giới)
Bảng 3 : Giảm theo tỷ lệ bồi thường thấp trong một năm bảo hiểm
Tỷ lệ bồi thường
Mức giảm phí tối đa
Nhỏ hơn hoặc bằng 40%
10%
Nhỏ hơn hoặc bằng 30%
15%
Nhỏ hơn hoặc bằng 20%
20%
(Nguồn : QĐ 02/2008 của PJICO về hướngdẫn khai thác bảo hiểm xe cơ giới)
Bảng 4 :Giảm phí theo số lượng xe tham gia bảo hiểm
Số lượng
Mức giảm phí tối đa
Từ 05 đến 10 xe
10% tổng số phí bảo hiểm
Từ 11 đến 20 xe
15% tổng số phí bảo hiểm
Từ 21 đến 30 xe
20% tổng số phí bảo hiểm
Từ 31 đến 50 xe
25% tổng số phí bảo hiểm
(Nguồn : QĐ 02/2008 của PJICO về hướngdẫn khai thác bảo hiểm xe cơ giới)
Ngoài cạnh tranh bằng phí các đơn vị còn cạnh tranh nhau về thời gian phí.Phí có thể căn cứ vào đối tượng khách ._.hàng (có số phí lớn hoặc khách hàng tiềm năng) để chia làm nhiều kỳ nộp tuỳ thoã thuận giữa công ty Bảo hiểm và khách hàng.
2.2.4 Các điểm loại trừ
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ bảo hiểm tài sản vì vậy nó thực hiện dưới hình thức tự nguyện.Khi tham gia bảo hiểm chủ xe phải chú ý đến những trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
Những điểm loại trừ chung:
+ Hành động cố ý gây tai nạn cho chủ xe;
+ Xe không có Giấy chứng nhận kiểm định an toàn và bảo vệ môi trường hợp lệ,xe đi đêm không có đèn chiếu sáng bên trái ;
+ Lái xe không có giấy phép hợp lệ,lái xe có nồng độ cồn rượu bia vượt quá quy định của pháp luật hiện hành ;
+ Xe vận chuyển chất nổ trái phép ;
+ Xe sử dụng để tập lái, đua xe ( xe hợp pháp hoặc trái phép);xe chạy thử sau khi sửa chữa;
+ Xe đi vào đường cấm,khu vực cấm;
+ Thiệt hại có tính hiệu quả gián tiếp như:giảm giá trị thương mại,ngừng sản xuất,sử dụng,khai thác;
+ Xe chở quá trọng tải hoặc số chỗ ngồi cho phép;
+ Tai nạn ngoài lãnh thổ Việt Nam;
+ Chiến tranh.
Những điểm loại trừ riêng:
+ Hao mòn do sử dụng,lão hoá,mất giá,hỏng hóc do khuyết tật hoặc tổn thất thêm do sữa chữa,trong quá trình sữa chữa;
+ Hư hỏng về điện hoặc các bộ phận máy móc thiết bị mà không phải do tai nạn gây ra;
+ Tổn thất đối với săm lốp,nhãn mác trừ trường hợp tổn thất này xảy ra do cùng nguyên nhân và đồng thời với các bộ phận khác của xe trong cùng một tai nạn.
+ Mất cắp bộ phận xe;
+ Những vụ tổn thất nhỏ dưới mức miễn thường (mà hiện nay các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức chung là 200.000 đồng/vụ).
Ngoài ra các doanh nghiệp còn từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường cho chủ xe trong các trường hợp chủ xe:
+ Cung cấp không đầy đủ,không trung thực các thông tin ban đầu về đối tượng bảo hiểm trong Giấy yêu cầu bảo hiểm;
+ Khi xảy ra tai nạn,không kịp thời thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm,không áp dụng các biện pháp kịp thời để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất gia tăng,tự ý tháo dỡ,sữa chữa xe mà chưa có sự đồng ý hoặc giám sát của doanh nghiệp bảo hiểm hay đại diện của họ;
+ Không làm các thủ tục bảo lưu quyền đòi người thứ ba có lỗi trong việc gây thiệt hại của người chủ phương tiện cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Ngoài ra chủ xe cần lưu ý:
+ Nhà bảo hiểm không chịu trách nhiệm phần hao mòn tự nhiên của chiếc xe có nghĩa là tính đến khấu hao làm tròn theo tháng cụ thể nếu xe bị tai nạn từ ngày 16 trở về cuối tháng thì tháng đó phải tính khấu hao.
Nếu xe tham gia bảo hiểm từ ngày 1 đến ngày 15 thì tháng đó không phải tính khấu hao.
+ Nếu chủ xe đã mua bảo hiểm sau đó lại chuyển nhượng cho người khác thì chủ xe mới vẫn được hưởng quyền lợi bảo hiểm đến hạn hợp đồng nếu có sự thông báo với nhà bảo hiểm có xác nhận việc này bằng phụ lục hợp đồng hoặc văn bản.
+ Trong mọi trường hợp không bao giờ bảo hiểm bồi thường vượt quá số tiền ghi trong đơn bảo hiểm.
+ Khi tham gia bảo hiểm cần phải có các giấy tờ:giấy phép lưu hành,bằng lái, đăng ký xe.
Việc các công ty bảo hiểm thực hiện và đưa ra các hạn mức cũng nhằm:
+ Để ổn định quá trình kinh doanh,tránh sự sụp đổ,phá sản của công ty bảo hiểm nên một số rủi ro gây ra tổn thất nằm ngoài khả năng tài chính của công ty được loại trừ ra khỏi phạm vi bảo hiểm.
+ Để tránh phải giải quyết một số lượng lớn hồ sơ bồi thường bảo hiểm làm tăng chi phí quản lý khi tổn thất nhỏ không đáng kể,người chủ phương tiện có thể tự giải quyết hoặc trang trải được
+ Để tránh hiện tượng trục lợi của người được bảo hiểm khi nguyên nhân rủi ro khó xác định
2.2.5 Giám định và bồi thường tổn thất
Giám định tổn thất :
Giám định bảo hiểm là quá trình xem xét đánh giá,phân tích sự kiện xảy ra để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất.
Công việc giám định được tiến hành bởi các giám định viên.Các giám định viên phải ghi nhận một cách khách quan,trung thực về trạng thái của đối tượng bảo hiểm,hạn chế tổn thất và thông tin cho tổ chức bảo hiểm.
Giám định bảo hiểm đòi hỏi phải có kinh nghiệm thực tế,giác quan tinh tế nhạy bén, sự hiểu biết sâu về nghiệp vụ. Công việc giám định tuỳ theo từng trường hợp mà cần có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật, cần có sự chứng kiến của các bên liên quan đảm bảo tính pháp lý
Do vậy công tác giám định không thể thiếu được trong dây chuyền triển khai nghiệp vụ bảo hiểm. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho các công việc khác đặc biệt là công tác bồi thường, nó còn làm ngăn chặn các hiện tượng gian lận trong bảo hiểm.
Giám định được thực hiện theo một trình tự sau:
+ Nhà bảo hiểm nhận tin và xử lý thông tin.
+ Dự kiến phương án chuẩn bị giám định.
+ Tiến hành giám định,chụp ảnh,lập biên bản giám định
+ Phân loại,xác định chính xác những thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm
+ Đánh giá thiệt hại,chọn phương án để khắc phục thiệt hại
+ Hoàn chỉnh hồ sơ cho cán bộ bồi thường hoặc chuyển về bảo hiểm gốc để giải quyết bồi thường
Các công việc cụ thể:
Công tác tiếp nhận thông tin là công việc khi được báo tin,người có trách nhiệm tiếp nhận thông tin phải chú ý kiểm tra tính hợp lệ của các giấy tờ,thông tin: giấy chứng nhận bảo hiểm,giấy đăng ký xe,giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường…
Công tác tại hiện trường,thu thập các yếu tố liên quan đến tai nạn như:tác động của thời tiết,tình trạng giao thông,các vật chứng liên quan đến vụ tai nạn,phát hiện những dấu vết gian lận,trục lợi.
Phát hiện và làm rõ những nghi ngờ trong công tác hồ sơ,hiện trường nếu rủi ro không thuộc phạm vi bồi thường hoặc công tu bảo hiểm từ chối bồi thường thì phải thông báo và phải giải thích cho người được bảo hiểm biết rõ.
Lập biên bản giám định sau khi tiến hành công tác giám định bởi đây là một văn bản có tính pháp lý quan trọng phản ánh một cách chính xác,trung thực khách quan nguyên nhân và mức độ thiệt hại của vụ tai nạn
Bồi thường tổn thất
Công tác bồi thường có quyết định rất lớn đến chất lượng dịch vụ bảo hiểm.Làm tốt công tác này sẽ nâng cao uy tín của công ty bảo hiểm,nâng cao tính cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm.
Bồi thường tổn thất là việc người bảo hiểm thực hiện cam kết của hợp đồng,chi trả một khoản tiền nhất định nhằm đền bù cho người được bảo hiểm khi có thiệt hại vật chất xảy ra cho phương tiện trong sự cố bảo hiểm.
Để được xem xét và giải quyết bồi thường,các chủ xe cần phải có các giấy tờ trong bộ hồ sơ khiếu nại bồi thường:
Giấy thông báo tai nạn;
Giấy yêu cầu bồi thường của chủ xe cơ giới;
Bản sao các giấy tờ ( giấy chứng nhận bảo hiểm,giấy phép lái xe, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường,giấy phép đăng ký kinh doanh);
Bản kết luận điều tra tai nạn của công an hoặc bản sao hồ sơ tai nạn( có xác nhận của công an nơi thụ lý) bao gồm ( bản khám nghiệm hiện trường,biên bản giải quyết tai nạn giao thông,quyết định của toà án(nếu có),biên bản giám định thiệt hại (nếu có);
Ngoài ra, các chủ xe còn phải cung cấp cho công ty bảo hiểm các giấy tờ như các bằng chứng chứng minh sự thiệt hại như hoá sữa chữa, thay mới tài sản bị thiệt hại; các giấy tờ chứng minh các chi phí cần thiết và hợp lý mà chủ xe đã chi ra để giảm tổn thất hay để thực hiện các chỉ dẫn của doanh nghiệp.
Thời hạn giải quyết khiếu nại bồi thường:
Trong vòng 6 tháng kể từ ngày xảy ra tai nạn chủ phương tiện phải trình nộp giấy yêu cầu bồi thường. Trường hợp chậm trễ do nguyên nhân khách quan và bất khả kháng thì theo quy định của pháp luật.
Thời hạn thanh toán bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm:15 ngày kể từ khi nhận hồ sơ bồi thường đầy đủ và hợp lệ,không kéo dài quá 30 ngày trong trường hợp phải xác minh lại hồ sơ.Nếu từ chối bồi thường doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo cho chủ xe bằng văn bản lý do từ chối bồi thường trong thời gian nói trên.
Thời hạn khiếu nại bồi thường của chủ xe cơ giới:03 tháng kể từ ngày doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán tiền bồi thường hoặc từ chối bồi thường.Quá thời hạn trên mọi khiếu nại không còn giá trị.
Phương pháp xác định số tiền bồi thường:
Công ty bảo hiểm bồi thường vật chất xe do những thiệt hại thực tế bao gồm:
+ Chi phí sửa chữa : Tiền công sửa chữa và vật tư sửa chữa
+ Chi phí thay thế phụ tùng: Giá trị phụ tùng và công lắp ráp vận chuyển.
+ Chi phí khắc phục ban đầu: chi phí ngăn ngừa hạn chế tổn thất,bảo vệ,cẩu kéo về nơi sửa chữa gần nhất.
Các chi phí trên phải hợp lý,hợp lệ và phải phù hợp với các điều kiện tham gia của chủ xe.
Bồi thường chi phí thay thế bộ phận mới thì phải tính đến khấu hao trừ hao mòn sử dụng hoặc tính giá trị tương đương với giá trị của bộ phận đó trước khi xảy ra tai nạn.Song nếu chủ xe có tham gia điều kiện bảo hiểm bổ sung là thay mới không tính khấu hao thì vẫn được tính là thay thế đồ mới trên thị trường.Các bộ phận được thay thế mới phải thu hồi ngay sau khi bồi thường.
Thiệt hại thực tế = (Chi phí sửa chữa + Chi phí thay thế phụ tùng + Chi phí khắc phục ban đầu).
Bồi thường tổn thất toàn bộ:
Trường hợp xe bị tai nạn được coi là tổn thất toàn bộ khi giá trị thiệt hại bằng hoặc trên 80% giá trị thực tế tính theo bảng tỉ lệ cấu thành giá trị xe của PJICO.
Nếu số tiền bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế của xe thì PJICO sẽ bồi thường cho chủ xe toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm.
Bồi thường tổn thất bộ phận:
Trong trường hợp này, chủ xe sẽ được giải quyết bồi thường trên cơ sở:
+ Nếu trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế
Số tiền
bồi thường
=
Giá trị thiệt
hại thực tế
*
STBH
GTBH
+ Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế
Theo nguyên tắc để tránh việc “lợi dụng” bảo hiểm, công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận STBH nhỏ hơn hoặc bằng GTBH. Nếu người tham gia bảo hiểm cố tình tham gia với STBH lớn hơn giá trị bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm, HĐBH sẽ không có hiệu lực, còn nếu là vô tình tham gia bảo hiểm trên giá trị, công ty bảo hiểm vẫn bồi thường, nhưng STBT chỉ bằng thiệt hại thực tế và luôn luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe.
Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm thường giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng bảng tỉ lệ giá trị tổng thành xe.
2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình triển khai bảo hiểm xe cơ giới của doanh nghiệp bảo hiểm
Có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng tới sự phát triển của loại hình bảo hiểm xe cơ giới.Xét theo nguồn gốc,các yếu tố này có thể chia thành: các yếu tố bên trong của bản thân từng doanh nghiệp bảo hiểm và các yếu tố tác động từ bên ngoài.
2.3.1 Các yếu tố thuộc phạm vi doanh nghiệp
Có rất nhiều yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng tới thị phần bảo hiểm xe cơ giới của từng doanh nghiệp bảo hiểm như: Vốn của các DNBH vì nó thể hiện khả năng tài chính của doanh nghiệp,thương hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm tạo niềm tin của khách hàng đối với doanh nghiệp bảo hiểm và nâng cao vị trí cạnh tranh của mình đối với các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ,sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới của mỗi DNBH chịu tác động rất lớn từ các yếu tố trên các mặt: sản phẩm,giá cả,chất lượng phục vụ và tuyên truyền quảng cáo.
Sản phẩm bảo hiểm là cái mà các công ty bảo hiểm cung cấp cho người mua trên cơ sở nhu cầu của họ.Vì vậy,để thị trường bảo hiểm xe cơ giới có thể phát triển,các sản phẩm mà thị trường cung cấp phải có sự đa dạng theo đúng các nhu cầu phát sinh trên thị trường.Khi các điều kiện kinh tế xã hội càng phát triển,nhu cầu về bảo hiểm càng tăng và đa dạng đòi hỏi các công ty bảo hiểm cũng ngày càng phải có nhiều sản phẩm mới cũng như cải tiến các sản phẩm cũ cho phù hợp.
Giá cả sản phẩm bảo hiểm là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc khách hàng có mua bảo hiểm hay không.Với khả năng tài chính là có giới hạn,trong khi còn phải đáp ứng nhiều nhu cầu khác,khách hàng luôn cân nhắc mức giá nào là phù hợp với túi tiền của mình.Vì vậy,bên cạnh việc đưa ra một sản phẩm đáp ứng nhu cầu của người mua,các công ty bảo hiểm còn cần phải thiết kế mức phí bảo hiểm cho phù hợp với khách hàng.Thông thường cùng với sản phẩm bảo hiểm,công ty bảo hiểm đưa ra nhiều mức phí cho khách hàng lựa chọn.Và tất nhiên mức phí bảo hiểm sẽ ảnh hưởng đến phạm vi bảo hiểm rộng hay hẹp mà khách hàng được hưởng.Ví dụ hiện nay ở Việt Nam,bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba có mức bắt buộc của pháp luật là 60.500 đồng tương ứng với mức trách nhiệm là 30 triệu đồng/người/vụ và 30 triệu đồng/tài sản/vụ.Ngoài ra,còn có các mức tự nguyện để khách hàng lựa chọn như mức 80.500 đồng tương ứng với mức trách nhiệm là 30 triệu đồng/người/vụ và 30 triệu đồng/tài sản/vụ và có kết hợp bảo hiểm tai nạn 02 người ngồi mức 10 triệu đồng/người/vụ.Với nhiều sự lựa chọn như vậy,khách hàng sẽ được thoã mãn nhu cầu tốt hơn và sẽ tham gia đông đảo hơn.
Chất lượng phục vụ là một yếu tố đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến sự phât triển của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ nói chung và nghiệp vụ xe cơ giới nói riêng.Do đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm là vô hình và dễ bắt chước,sản phẩm bảo hiểm cũng như giá cả,nên lúc này chất lượng phục vụ khách hàng lại đóng vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới,khách hàng cũng thường hay gặp rủi ro gây ra tổn thất nhỏ,nên việc mua bảo hiểm một cách dễ dàng hay được bồi thường đầy đủ kịp thời tất yếu làm cho khách hàng hài lòng;thấy được lợi ích cũng như tiện ích của việc mua bảo hiểm,góp phần tạo nên tập quán mua bảo hiểm.Do đó vấn đề kênh phân phối sản phẩm và nhân tố con người cần đặc biệt coi trọng.Xây dựng văn hoá kinh doanh mang tính đặc thù riêng luôn được các công ty bảo hiểm chú trọng nhằm tạo ra những con người chuyên nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm.Nhiều khi khâu phục vụ khách hàng của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ còn ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng cả đến danh tiếng của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm.Mà kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh phần chưa nhìn thấy được, điều mà không ai tham gia bảo hiểm muốn được nhận nhưng lời hứa khi xảy ra tổn thất và dịch vụ khách hàng hậu mãi chính là yếu tố quảng bá danh tiếng của doanh nghiệp bảo hiểm và của chính nghiệp vụ đó.Ở Việt Nam người dân mới làm quen với bảo hiểm,họ còn e ngại về khâu bồi thường này.Theo họ thì đây là khâu có nhiều phức tạp.Đó chính là điều làm cho tình trạng tham gia bảo hiểm xe cơ giới chưa phải là phổ biến mà mới chỉ là để đối phó theo quy định của Chính phủ hoặc vì sự ràng buộc với những tổ chức tài chính.
Công tác tuyên truyền quảng cáo:Bảo hiểm là một sản phẩm đáp ứng nhu cầu ở bậc cao và khá phức tạp.Ngoài ra,nó có tính đặc thù là sản phẩm “không mong đợi” vì không ai muốn rủi ro xảy ra với mình cả.Vì vậy công việc tuyên truyền quảng cáo luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy thị trường bảo hiểm nói chung,bảo hiểm xe cơ giới nói riêng phát triển.Bởi vì thông qua công tác tuyên truyền quảng cáo,người dân sẽ có được nhận thức sâu hơn, đầy đủ hơn về bảo hiểm.Từ đó thấy được sự cần thiết phải tham gia bảo hiểm.Tại Việt Nam khi nền kinh tế thị trường đã phát triển trong một thời gian dài,thị trường bảo hiểm đã có những bước tiến nhất định đã đóng góp tới 2% GDP cả nước nhưng thực sự tỷ lệ nhận thức về bảo hiểm chưa cao.Các khái niệm về bảo hiểm,sản phẩm bảo hiểm và bản thân các công ty bảo hiểm chưa được nhiều người dân biết đến.Tham gia bảo hiểm mới chỉ là đối phó chưa phải là nhu cầu cần được bảo vệ nên công tác tuyên truyền quảng cáo luôn cần hơn lúc nào hết.
2.3.2 Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Sự phát triển của thị trường bảo hiểm xe cơ giới còn chịu sự tác động của các yếu tố môi trường bên ngoài,bao gồm:Môi trường pháp lý,môi trường kinh tế xã hội,và môi trường kinh tế quốc tế.
Môi trường pháp lý:Hoạt động của thị trường bảo hiểm không thể nằm ngoài khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia.Nó không chỉ đơn thuần là việc các công ty bảo hiểm trên thị trường phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật,mà chính điều này đảm bảo cho các công ty được cạnh tranh một cách công bằng và lành mạnh trên thị trường,bảo đảm cho quyền lợi của người tham gia bảo hiểm,từ đó thúc đẩy thị trường phát triển.Sự phát triển của loại hình bảo hiểm xe cơ giới cũng không nằm ngoài điều đó.Ngoài ra khuôn khổ pháp luật còn ảnh hưởng tới bảo hiểm xe cơ giới ở khía cạnh khác nữa. Đó là khi các luật về giao thông đường bộ phát triển,luật về đầu tư phát triển ngành bảo hiểm,ngành sản xuất và lắp ráp ô tô,luật về xuất nhập khẩu ô tô,hoàn thiện môi trường pháp lý là một trong những điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bảo hiểm xe cơ giới nói riêng và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ nói chung.
Môi trường kinh tế xã hội: Sự phát triển kinh tế của quốc gia là yếu tố quan trọng tiếp theo ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.Trước hết kinh tế phát triển,cơ sở hạ tầng được nâng cao,nhu cầu cuộc sống cũng được nâng lên và nhu cầu được bảo vệ trở nên quan trọng.Khi đó số lượng xe cơ giới sẽ ngày một gia tăng và đây là một trong những mảnh đất màu mỡ cho các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp sản phẩm của mình.Có thể nói khi kinh tế phát triển sẽ ảnh hưởng tích cực đến tất cả các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ,từ những loại hình truyền thống như bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đến những loại hình bảo hiểm mới như bảo hiểm tài sản,bảo hiểm xe cơ giới.
Bên cạnh yếu tố kinh tế,các yếu tố văn hoá xã hội cũng có tác động đáng kể đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.Văn hoá là nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến nhu cầu và hành vi tiêu dùng của con người.Văn hoá ảnh hưởng đến mọi mặt trong cuộc sống,từ nơi con người sống đến những gì con người ăn,cách con người mặc,phương thức con người sử dụng và tiết kiệm tiền cũng như những gì mà con người đánh giá các thuộc tính của sản phẩm.Khách hàng tham gia bảo hiểm xe cơ giới cũng không nằm ngoài quy luật đó.Thực tế cho thấy,các công ty bảo hiểm ở Việt Nam đã rất khó khăn khi bán các sản phẩm bảo hiểm xe cơ giới hình thức tự nguyện.Tập quán tự bảo vệ hoặ lo sợ những phiền phức trong khi thanh toán bảo hiểm đã ăn sâu vào rất nhiều người dân Việt Nam và đây chính là một cách thức đồi với các doanh nghiệp bảo hiểm trong chiến lược phát triển của mình.
Môi trường kinh tế quốc tế: Xu hướng toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay có ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm trong đó có bảo hiểm xe cơ giới.Trước hết,nó tạo thêm nhiều dịch vụ bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm.Ngoài ra,việc mở cửa và hội nhập còn tạo nhiều cơ hội khác cho các công ty bảo hiểm trong nước tiếp cận công nghệ bảo hiểm tiên tiến,tiếp cận thị trường nước ngoài.Tuy nhiên,hội nhập quốc tế cũng tạo nhiều thách thức đối với sự phát triển của thi trường nước ngoài nhất là khi mất dần sự bảo hộ của nhà nước.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PETROLIMEX
1. Một vài nét về Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX (gọi tắt là PJICO) là doanh nghiệp cổ phần được thành lập theo Giấp phép số 1873/GP-UB ngày 8 tháng 6 năm 1995 do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp với thời gian hoạt động là 25 năm bắt đầu từ năm 1995 với số vốn điều lệ ban đầu là 53 tỷ đồng. Công ty được cấp giấy phép chấp nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm số 06/TTC/GCN ngày 27 tháng 5 năm 1995 của Bộ Tài chính. Ngày 21 tháng 6 năm 1995, PJICO chính thức được thành lập trong sự chào đón nồng nhiệt của các khách hàng trong nước và bạn bè quốc tế.
Ngày 15 tháng 4 năm 2004, PJICO nhận Giấy phép điều chỉnh số 06/GPĐC12/KDBH của Bộ Tài chính cho phép doanh nghiệp bổ sung vốn điều lệ lên 70 tỷ đồng. Năm 2006, PJICO tăng vốn điều lệ lên 140 tỷ đồng.
PJICO hoạt động theo Luật kinh doanh bảo hiểm và Điều lệ hoạt động đã được Đại hội đồng Cổ đông thông qua. Doanh nghiệp được Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp Giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày 15/06/1995 và Đăng ký kinh doanh thay đổi lần 2 ngày 24/05/2004.
. 1.2 Cơ cấu, bộ máy tổ chức của PJICO
Sơ đồ cơ cấu, tổ chức bộ máy và quản lý của PJICO
Phòng BH tàu thuyền
P. Tái BH
P.
GĐ- BT
P. Thanh tra
Pháp chế
Phòng
BH Con người
P.BH Tài sản - kỹ thuật
P. BH
Xe cơ giới
Phòng BH Hàng hoá
TỔNG GIÁM ĐỐC
Phó Tổng giám đốc
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN KIỂM SOÁT
Phó Tổng giám đốc
HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
P. BH Phi Hàng hải
Các VP đại diện
P. QL & PTĐL
P. CNTT
Các Tổng đại lý & Đại lý
Các Chi nhánh
P. Đầu tư
P. TC- KT
Phòng
Đào tạo
P. Tổng hợp
P. Tổ chức
Ra đời trong cơ chế thị trường, PJICO phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Bảo hiểm là một ngành nghề kinh doanh dịch vụ mang tính đặc thù và có tính xã hội sâu rộng nên PJICO đã thể hiện quan điểm xây dựng một phong cách phục vụ mới với những nét văn hoá doanh nghiệp đặc trưng mà trọng tâm là đào tạo một đội ngũ cán bộ có đạo đức nghề nghiệp, tận tâm với công việc, với doanh nghiệp, có nghiệp vụ bảo hiểm và kiến thức xã hội vững vàng; gắn lợi ích của khách hàng với lợi ích của mình vì chỉ có sự tin tưởng và hợp tác của khách hàng mới đem lại sự phát triển bền vững cho PJICO trong tương lai. Xác định kinh doanh bảo hiểm là loại hình dịch vụ đặc biệt chưa phổ biến ở Việt nam nên PJICO ngoài chức năng kinh doanh tạo thuận lợi cho bản thân doanh nghiệp và đóng góp thuế cho Nhà nước, PJICO còn là nhà tư vấn bảo hiểm tích cực vận động, tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo hiểm cho cộng đồng các doanh nghiệp, tư vấn và đóng góp cụ thể bằng vật chất cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất, phòng tránh rủi ro cho khách hàng.
Một điều được đánh giá cao là sự ra đời của PJICO gắn liền với việc xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh bảo hiểm, trả lại cho khách hàng những ưu đãi và quyền lợi chính đáng mà họ được hưởng trong nền kinh tế thị trường kể cả về phương diện tài chính (phí bảo hiểm giảm) cũng như chính sách chăm sóc khách hàng thường xuyên, phục vụ tận tình, chu đáo khi tổn thất xảy ra. Khách hàng đã có thêm nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm và người cung cấp dịch vụ phù hợp cho mình. Uy tín kinh doanh của PJICO luôn thể hiện trong khâu giải quyết bồi thường nhanh chóng, hợp tình, hợp lý. Nhiều vụ giải quyết bồi thường của PJICO đã được khách hàng coi như đó là mẫu mực về sự hợp tác vì quyền lợi chung và thể hiện tính chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm cao của PJICO như vụ tổn thất Trụ 8 Cầu Đuống, cháy Kho xăng dầu K131, tổn thất trách nhiệm bên thứ ba của Cầu Đạo Long, . . .
Trải qua 13 năm hoạt động, đặc biệt từ năm 2002 đến nay, PJICO đã có bước phát triển đột phá để trở thành 1 trong 3 công ty bảo hiểm phi nhân thọ hàng đầu Việt Nam. Năm 2003, doanh thu đạt 400 tỷ đồng tăng trưởng gần 90%, cao nhất thị trường và cao gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng của toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam; năm 2004, doanh thu đạt gần 700 tỷ đồng tăng trưởng 80%, bổ sung vốn cổ đông và trích lập dự phòng tăng trên 150%, tổng vốn và tài sản tăng gần 2 lần so với năm 2003; năm 2005 doanh thu tiếp tục tăng cao, đạt 840 tỷ và đến nay công ty đã có số vốn tích luỹ tăng 10 lần so với vốn góp ban đầu. Uy tín và thương hiệu PJICO ngày càng được nhân rộng. Đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ nhân viên liên tục được nâng cao. Công ty đã có nhiều đóng góp cho ngân sách Nhà nước và xã hội. Hàng loạt các công trình, dịch vụ với giá trị hàng nghìn tỷ đồng mà PJICO tham gia bảo hiểm đã minh chứng cho sự năng động và khả năng cạnh tranh cao của công ty như: các đội tàu viễn dương của Vitaco, Vietpetroco, VOSCO, dự án quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh, cao tốc Nội Bài – Bắc Ninh, Cầu Thanh Trì, Bãi Cháy…
1.3 Định hướng phát triển trong thời gian tới
PJICO là công ty chuyên kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ. Những năm qua công ty đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để hoàn thành tốt kế hoạch, nhiệm vụ được giao trong một bối cảnh cạnh tranh hết sức gay gắt. Trong thời gian tới, sức ép mở cửa hội nhập ngày càng tăng: năm 2006 Việt Nam gia nhập WTO, năm 2007 chính thức mở cửa thị trường bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ. Thị trường bảo hiểm trong nước sẽ có thêm các đối thủ cạnh tranh mới đầy tham vọng và các thủ thuật cạnh tranh (tăng chi phí, giảm phí) như VASS, 3A, Groupama… cùng với sự phát triển nền kinh tế, cũng như sự lớn mạnh của nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm, công ty sẽ phải đối mặt với nhiều thử thách và khó khăn mới. Để luôn giữ vững được uy tín trên thị trường, Công ty đã vạch ra những mục tiêu và định hướng phát triển của mình, bao gồm những nội dung sau:
(1) Nâng cao năng lực cạnh tranh của PJICO, nâng cao hiệụ quả hoạt động để thực sự trở thành một nhà bảo hiểm chuyên nghiệp.
(2) Từng bước tìm hiểu và hướng hoạt động bảo hiểm ra nước ngoài bằng cách mở một vài văn phòng đại diện ở nước ngoài.
(3) Tiếp tục giữ vững, duy trì thị phần, thị trường đã có thông qua việc quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn với các đại lý, quan tâm nhiều đến nhu cầu,nguyện vọng của khách hàng để giữ khách đặc biệt là nguồn khách hàng tiềm năng. Duy trì và phát triển các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống vốn là thế mạnh của công ty như bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, bảo hiểm xây dựng lắp đặt…
(4) Mở rộng địa bàn bảo hiểm thông qua việc xây dựng thêm các mạng lưới đại lý trên tất cả các tỉnh, thành phố mà công ty đã đặt chi nhánh. Mở rộng kênh phân phối thông qua việc xây dựng một mạng lưới thông tin kết nối các chi nhánh ở tất cả các địa bàn cũng như kết nối các đơn vị trực thuộc công ty, nhằm thực hiện chiến lược phát triển mà công ty đã đề ra: “trở thành một tập đoàn PJICO vững mạnh về kinh doanh bảo hiểm và tài chính”.
(5) Hoàn thiện nâng cao tính ưu việt của các sản phẩm hiện công ty đang triển khai. Đồng thời tìm kiếm, phát triển các sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.
(6) Không ngừng hoàn thiện quy chế quản lý tài chính của công ty. Thường xuyên kiểm tra giám sát hoạt động của các phòng ban về công tác thu chi và có những xử lý kịp thời đối với các trường hợp vi phạm tài chính.
2. Khái quát về bảo hiểm xe cơ giới trên thị trường bảo hiểm Việt Nam
2.1 Về doanh thu phí bảo hiểm
So với năm 2006, năm nay nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới có tốc độ tăng trưởng cao nhất với 463,13%, tiếp đến là nghiệp vụ tài sản và thiệt hại, bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người, bảo hiểm mọi rủi ro, …. Có thể nói năm 2007 là một năm bội thu của toàn ngành bảo hiểm phi nhân thọ, đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới.
Bảng 5 : Doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường theo từng nghiệp vụ
( 2003 – 2007 )
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Nghiệp vụ
2003
2004
2005
2006
2007
1
Sức khoẻ&tai nạn con người
472,341
728,092
843,491
958,890
1,203,156
2
Hàng hoá vận chuyển
316,123
405,766
439,535
529,178
712,092
3
Hàng không
248,582
335,714
323,913
333,249
321,448
4
Xe cơ giới
768,069
1,349,534
1,530,999
1,711,907
2,550,406
5
Cháy nổ
305,575
456,559
496,532
510,409
510,646
6
Gián đoạn KD
38,947
10,998
17,725
22,736
19,004
7
Trách nhiệm chung
47,301
70,805
89,896
131,125
175,036
8
Nông nghiệp
2,908
1,554
986
674
833
9
Tín dụng&mọi RR tài chính
271
21
376
671
649
10
Thân tàu và TNDS chủ tàu
344,990
452,646
562,553
621,759
809,030
11
Mọi rủi ro tài sản khác
5,004
9,523
98,256
123,243
970,587
12
Tài sản và thiệt hại
805,659
956,014
1,123,078
1,414,089
1,546,107
13
Bảo hiểm khác
4,136
2,676
108,071
213,351
308,523
TỔNG CỘNG
3,359,911
4,779,907
5,635,411
6,357,930
8,359,994
(Nguồn : Báo cáo thường niên của Vụ bảo hiểm bộ tài chính)
Trong cơ cấu phí bảo hiểm theo nghiệp vụ năm 2006, nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới chiếm tỷ trọng lớn nhất : 26.93%, tiếp đến là tài sản và thiệt hại: 22,24%, bảo hiểm sức khoẻ và TNCN là 15,8%...Năm 2007 nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới vẫn giữ vị trí đầu bảng với doanh thu đạt 2.550.406 triệu đồng chiếm 30,5% doanh thu toàn thị trường phi nhân thọ.Tiếp đến là bảo hiểm tài sản và thiệt hại chiếm 18,5% sau đó là bảo hiểm sức khoẻ và tai nạn con người.
Đứng trước yêu cầu hội nhập quốc tế, các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước dần bị dỡ bỏ buộc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải cắt giảm chi phí đầu vào, điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến doanh thu ngành bảo hiểm, nhất là bảo hiểm phi nhân thọ.
Thực hiện chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010 của Thủ tướng chính phủ thì sau một năm thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp đã có những tín hiệu đáng mừng. Năng lực tài chính, năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm đã tăng lên đáng kể, công tác đánh giá rủi ro và đề phòng hạn chế tổn thất cũng được cải thiện một bước.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế cộng với các chính sách mở rộng của Nhà nước số lượng xe cơ giới không ngừng gia tăng hàng năm. Chính vì vậy nhu cầu mua loại hình bảo hiểm này cũng tăng lên một con số đáng kể, nhất là sau nghị quyết 32 của Chính phủ về kiềm chế tai nạn giao thông, trong đó có quy định người đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm.
Bảng 6: Báo cáo doanh thu phí bảo hiểm của từng DN bảo hiểm ở Việt Nam
( Đơn vị: Triệu đồng)
TT
Tên DN
Doanh thu
phí BH gốc
Nhận TBH
trong nước
Nhận TBH
ngoài nước
Nhượng TBH
trong nước
Nhượng TBH
Ngoài nước
Giảm phí,
Hoàn phí BH
Phí bảo hiểm
thực thu
1
2
3 3
4
5
6
7
8=2+3+4-5-6-7
1
Bảo Minh
1,611,700
85,847
38,912
184,201
398,267
17,252
1,136,739
2
Bảo Việt
2,601,461
125,980
20,900
335,378
472,846
1,940,117
3
Bảo Long
164,568
23,464
27,350
581
3,477
156,624
4
PJICO
880,682
42,998
9,073
120,241
105,937
3,955
702,620
5
PTI
304,811
27,229
28,279
48,441
6,135
249,185
6
PVI
1,650,218
49,749
20,811
371,669
744,805
567,084
7
AAA
155,940
7,049
22,111
10
140,915
8
BIC
147,922
15,404
43
66,980
13,384
83,005
9
Viễn Đông
156,723
10,870
13,017
27,077
127,499
10
Khác
685,969
131234
38,952
276,780
270,762
32,273
1,462,781`
Tổng
8,359,994
569,573
128,691
1,446,006
2,082,100
100,322
5,429,830
(Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
Về doanh thu phí bảo hiểm gốc dẫn đầu là Bảo Việt tiếp đến là PVI, Bảo Minh và PJICO. Còn về phí bảo hiểm thực thu thì Bảo Việt vẫn đứng vị trí quán quân sau đó là Bảo Minh, PJICO và PVI.
2.2 Về bồi thường Bảo ._.ấp cao. Các vấn đề phát sinh xung quanh sự kiện này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh doanh và tâm lý làm việc của cán bộ nhân viên trong công ty. Mặc dù sau đó bộ máy tổ chức đã được điều chỉnh và các phòng ban tại công ty cũng như ở các chi nhánh đều đã được bổ sung cán bộ nhưng nhìn chung năng lực khai thác, kỹ năng nghiệp vụ, khả năng maketing vẫn còn nhiều hạn chế, năng suất lao động còn thấp so với thị trường chung. Việc tuyển chọn nhân viên còn lơi lỏng, tình trạng thi cử lấy lệ đã gây ra hiện tượng thừa những nhân viên thiếu năng lực nhưng lại thiếu những người có năng lực, trình độ chuyên môn thực sự.
+ Về bảo hiểm ô tô: Doanh thu BH xe ô tô của Pjico chỉ tăng khoảng 14% so với năm 2006 (bằng một nữa tốc độ tăng trưởng chung của toàn thị trường), nguyên nhân chủ yếu do:
Pjico vẫn tiếp tục rà soát loại bỏ không khai thác vào các đối tượng xe không có hiệu quả như: taxi, đầu kéo, xe đông lạnh, xe tư nhân…
Cơ chế kinh doanh tập trung chủ yếu vào các đối tượng kinh doanh có hiệu quả, không kích thích đối với xe tư nhân mà đối tượng này chiếm khoảng 75-80% số xe trên thị trường do vậy doanh thu không tăng cao.
+ Về sản phẩm: Sản phẩm mới ra đời nhưng chưa đa dạng và mức phí còn cao: Trong tình hình cạnh tranh ngày nay có một số công ty bảo hiểm cũng bắt đầu đưa ra các điều khoản bổ sung tương tự như Pjico nhưng phí thấp hơn…
+ Về khâu khai thác còn nhiều hạn chế, trình độ cán bộ không đồng đều, ở nhiều nơi khách hàng còn chưa biết đến thương hiệu Pjico. Trình độ cán bộ không đồng đều do chính sách tập huấn của từng địa phương cuãng khác nhau dẫn đến tình trạng cùng một vấn đề nhưng cả về phí và bồi thường đều không có sự đồng nhất trong Tổng công ty.
Năm 2008 sẽ là năm thị trường bảo hiểm có sự cạnh tranh khốc liệt, bởi sự ra đời của nhiều công ty bảo hiểm mới: Xu hướng lien kết các hang bán xe, các Ngân hàng thành lập công ty bảo hiểm đã xuất hiện nhiều ở Việt Nam. Điều đó đòi hỏi Pjico phải thực sự nỗ lực nhiều hơn nữa để khẳng định mình và không ngừng tìm tòi nghiên cứu sáng tạo con đường phát triển của riêng mình nhằm đứng vững trên thị trường và phát triển trong hội nhập.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PETROLIMEX
Các giải pháp
1.1 Về công tác khai thác
Chúng ta biết khai thác là khâu đầu tiên và cũng là khâu quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nó quyết định đến việc tồn tại của nghiệp vụ bảo hiểm mà doanh nghiệp triển khai. Nếu thực hiện tốt công tác khai thác thì quỹ tài chính chung mà các chủ phương tiện đóng góp sẽ đủ lớn để thực hiện được việc dàn trải rủi ro, đáp ứng hiệu quả kinh doanh mong đợi của doanh nghiệp bảo hiểm. Để nâng cao hiệu quả công tác khai thác thì công ty cần có những biện pháp sau:
Thứ nhất là để nâng cao chất lượng nghiệp vụ nói chung và chất lượng trong khai thác nói riêng cần phải nâng cao hơn nữa trình độ,chất lượng dịch vụ của cán bộ khai thác qua việc phải tiếp thu, tôn trọng ý kiến của khách hàng tinh thần phục vụ hướng dẫn khách hàng nhiệt tình chu đáo.
Thực hiện tốt chiến lược phủ kín địa bàn, luôn bám sát khách hàng đặc biệt là những khách hàng truyền thống để tái tục và thu phí kịp thời. Chi phí cho việc ký kết hợp đồng mới cao hơn chi phí cho việc tái tục hợp đồng nên luôn luôn cần phải theo dõi các hợp đồng đã ký kết.
Thứ hai là tổ chức các kênh phân phối rộng khắp:
Cần phải giữ vững và mở nhiều hơn nữa các điểm bán hàng: các cửa hàng bán xe, điểm thi lấy bằng lái xe, nơi rửa xe, quầy sách báo, cửa hàng điện thoại di động, tại các trung tâm bưu điện, nhà gửi xe…Cụ thể là:
+ Đối với ô tô:
Công ty cần tiếp tục tiến hành khai thác qua hệ thống đại lý chuyên nghiệp, thông qua hệ thống ngân hàng,bán xe ô tô.
Đẩy mạnh khai thác xe mới, tăng chi phí cho kinh doanh các kênh trung gian như Ngân hàng, Thuê mua tài chính,Showroom,…
Tiếp tục tập trung và phát triển mạnh vào các kênh khai thác: Đăng kiểm,TĐL xăng dầu, Công ty vận tải hành khách chất lượng cao (phục vụ tour, khách nước ngoài…)
+ Đối với xe máy:
Duy trì và phát triển hệ thống bán bảo hiểm xe máy qua các đại lý: chủ yếu tại các cây xăng, cửa hàng bán gas, dầu nhờn trong hệ thống của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam, các điểm đăng ký xe, thu thuế ước bạ, bán xe mới, cơ sở lắp ráp xe, bảo dưỡng xe…
Công ty cần phải bổ sung thêm chi phí bán hàng, chi phí quản lý nhằm củng cố mạng lưới, hệ thống bán bảo hiểm xe máy để việc bán bảo hiểm xe máy giữ vững và phát triển thị trường trước các đối thủ cạnh tranh.
Công ty cần nắm vững số lượng xe lưu hành và các chủ xe đang có xe hoạt động trên địa bàn. Để làm được việc này Công ty cần phải phối hợp với các cơ quan chức năng cũng như phòng CSGT, bộ đăng kiểm để thống kê đầy đủ số lượng xe đang lưu hành. Sau đó sàng lọc các chủ xe tham gia tại công ty,các nhân viên khai thác thông qua mối quan hệ trực tiếp, gián tiếp vận động các chủ xe tham gia bảo hiểm xe cơ giới tại công ty.
Về giải pháp đối với các đại lý:
Cần phải tăng thêm số lượng đại lý, chú trọng đến công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho họ, PJICO phấn đấu trở thành nhà bảo hiểm xe cơ giới chuyên nghiệp thì đại lý của PJICO cũng phải trở thành những nhà đại lý chuyên nghiệp: phải am hiểu nghiệp vụ của mình để có thể cung cấp đầy đủ thông tin, giải đáp mọi thắc mắc ý kiến của khách hàng.
Công ty cần phải tổ chức các cuộc thi đua đại lý khai thác giỏi nhằm tăng khả năng khai thác của họ.
Ngoài ra,công ty cần phải có những chiến lược thích hợp để giữ chân lực lượng đại lý của mình, không để đối thủ thu hút mất như thưởng đại lý giỏi: các đại lý có doanh thu cao (từ 50 triệu trở lên) sẽ được thưởng. Nhưng khoản thưởng này chỉ được nhận vảo cuối năm để phòng tránh hiện tượng đại lý bỏ đi, đại lý có doanh thu cao công ty sẽ giữ lại để làm cán bộ chính thức.
Đặc biệt là bảo hiểm xe máy, đây là sản phẩm dịch vụ nhỏ lẻ, đi vào dân cư nên cần phải có những điểm bán hàng ở khắp mọi nơi, không có những đại lý bán hàng đến từng khách hàng thì không đủ sức đón được lợi thế về bảo hiểm bắt buộc (chủ xe phải tham gia bảo hiểm)
Bởi vậy công ty cần phải chú ý hơn đến hệ thống đại lý của mình. Vì chỉ cần công ty lơ là, ít chú ý đến hệ thống đại lý này, khi đối thủ cạnh tranh đưa ra cơ chế tốt hơn, họ có thể chuyển sang hoặc bán bảo hiểm cho cả những công ty bảo hiểm khác.
Thứ ba là, công tác tuyên truyền quảng cáo:
Chúng ta đã biết sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình nên quảng cáo sản phẩm bảo hiểm là vô cùng trừu tượng do vậy việc cung cấp và tuyên truyền về sản phẩm, đặc điểm, lợi ích của nó đến khách hàng là rất quan trọng. Việc quảng cáo, khuyếch trương đúng là có cơ hội làm cho doanh nghiệp tăng được thị phần của mình lên bằng cách củng cố được lòng tin, thu hút được nhiều khách hàng tiềm năng, những khách hàng thỉnh thoảng hay mua hay là những khách hàng đang còn lưỡng lự về việc lựa chọn Công ty bảo hiểm.
Quảng cáo là đặc biệt quan trọng cho việc quảng bá thương hiệu của Công ty, thương hiệu sản phẩm cũng như tiêu chí của công ty ra công chúng. Một điều tất yếu là chỉ khi thực sự ký kết được hợp đồng bảo hiểm thì mới có cơ hội thể hiện khả năng thực hiện tốt các tác nghiệp khác như giám định, bồi thường, mở rộng khách hàng. Như vậy quảng cáo mở rộng khả năng tìm kiếm và tiếp cận khách hàng cho công ty.
Có thể thực hiện quảng cáo qua sách báo, tờ rơi, trên truyền hình, hoặc qua các hoạt động tài trợ để người dân biết rõ hơn về công ty. Là một doanh nghiệp cổ phần với các cổ đông lớn là Tổng công ty Nhà nước, PJICO cần tận dụng hệ thống chi nhánh của các cổ đông này trên toàn quốc để quảng cáo hình ảnh của Công ty.
Mở các đợt quảng cáo bảo hiểm xe cơ giới để hướng dẫn người tham gia bảo hiểm lựa chọn công ty bảo hiểm tốt nhất trên thị trường, trong đó có công ty bảo hiểm PJICO: khẳng định PJICO là nhà bảo hiểm ô tô, xe máy chuyên nghiệp. Công ty xác lập được uy tín trên thị trường, có mạng lưới phục vụ rộng khắp và chất lượng dịch vụ đảm bảo cam kết. Khuyến cáo cho khách hàng biết nếu không mua bảo hiểm ở một công ty bảo hiểm uy tín thì khi tai nạn xảy ra khách hàng có thể không tìm thấy địa chỉ của công ty bảo hiểm. PJICO có mạng lưới rộng khắp cả nước, đảm bảo phục vụ khách hàng 24/24 ở mọi nơi.
Thứ tư là chính sách khách hàng:
Công ty cần phải có một chính sách khách hàng hợp lý hơn, phải phân loại được khách hàng để từ đó có cách tiếp cận được khách hàng của mình:
Khách hàng cổ đông xăng dầu: là khách hàng quan trọng, hiệu quả nhất của công ty, vì vậy cần phải có chính sách khai thác triệt để. Ngoài ra, công ty cần phải tận dụng hơn nữa các mối quan hệ làm ăn, các bạn hàng của các cổ đông để có thể tiếp cận và khai thác lực lượng khách hàng này
Đối với khách hàng ngoài cổ đông: công ty vẫn phải tiếp tục duy trì khả năng phát triển khu vực khách hàng này. Có thể chia thành khách hàng mới tham gia và khách hàng tham gia thường xuyên
+ Đối với khách hàng tham gia thường xuyên: Công ty phải giữ được mối quan hệ thường xuyên và mật thiết với họ, có thể thăm hỏi, gửi quà vào những dịp đặc biệt
Công ty đã có mối quan hệ với các khách hàng ở khối hành chính vì vậy công ty cần phải tập trung hơn nữa vào khối này. Ngoài ra cần phải chú ý đến các doanh nghiệp Nhà nước, công ty liên doanh và 100% vốn nước ngoài, các Đại sứ quán và các văn phòng nước ngoài, các đơn vị vận tải có số lượng xe lớn.
+ Đối với khách hàng mới tham gia: công ty phải giữ được chữ tín, có các dịch vụ chăm sóc khách hàng chu đáo, tận tình giải đáp thắc mắc của khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi, tiến hành giám định, bồi thường nhanh chóng, từ đó khẳng định được khách hàng đã chọn PJICO là hoàn toàn đúng.
Đối với những khách hàng lớn hoặc những khách hàng đã tham gia lâu không gặp hoặc ít gặp tổn thất thì công ty cần phải có chính sách khen thưởng, có thể hỗ trợ trong công tác đề phòng tổn thất hoặc tiến hành giảm phí cho họ.
Thứ năm là, giá phí và hạn mức trách nhiệm
Hiện nay doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới tại các Doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu tập trung vào hai loại hình bảo hiểm chính:
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (bao gồm bắt buộc và tự nguyện)
+ Bảo hiểm vật chất xe
Hiện nay phí bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới do Bộ tài chính ban hành đã tăng lên khoảng 1.5 lần so với mức phí cũ.
Doanh thu dự kiến về bảo hiểm TNDS sẽ tăng 30% so với năm 2007 (vì doanh thu 2007 đã tăng từ 6 tháng cuối năm )
Hiện nay trên thị trường bảo hiểm xe cơ giới có 3 doanh nghiệp (Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO) có ảnh hưởng lớn đến thị trường do đó việc điều chỉnh phí bảo hiểm của 3 DN này sẽ tác động tới các DN khác. Việc PJICO ban hành quy định về phí bảo hiểm tự nguyện từ đầu năm 2008 sẽ đảm bảo mang lại tính cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường bảo hiểm. Doanh thu tăng dự kiến từ 30-35%.
Việc tăng giá phí lên cũng đồng nghĩa với việc Công ty cần nâng cao trách nhiệm bởi giá phí tăng thì nhu cầu của khách hàng khi họ tham gia cũng yêu cầu được cao hơn. Vì vậy dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt, mà mức phí hợp lý với túi tiền và sự an tâm của khách hàng thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng tham gia.
1.2 Về công tác đề phòng hạn chế tổn thất
Tai nạn giao thông là mối quan tâm nhức nhối của toàn xã hội, tai nạn giao thông xảy ra gây ra những lo lắng, bất ổn trong cuộc sống và kinh doanh, gây ra sự bất ổn về tài chính và thu nhập, làm gián đoạn công việc kinh doanh cũng như sinh hoạt của mọi người. Khi tai nạn xảy ra cả người tham gia bảo hiểm, cơ quan chức năng cũng như công ty bảo hiểm đều bị ảnh hưởng. Do đó đề phòng và hạn chế tổn thất có ý nghĩa hết sức quan trọng, làm tốt công tác này sẽ góp phần làm giảm số vụ tai nạn và mức độ thiệt hại khi tai nạn xảy ra. Từ đó góp phần giảm chi bồi thường, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ, để thực hiện được điều đó Tổng Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex cần thực hiện tốt các công việc sau:
Cần phải nâng cao ý thức tham gia giao thông của người dân bằng cách phối hợp với cảnh sát giao thông, các trường học, cùng với đài truyền hình tổ chức tuyên truyền về an toàn giao thông, mở các lớp học về luật lệ giao thông, hỗ trợ chi phí tổ chức các cuộc thi tìm hiểu luật giao thông.
Cùng với các công ty bảo hiểm khác và ngành giao thông công chính, các ban ngành có liên quan để nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông, mở rộng đường, xây dựng thêm các đường lánh nạn, lắp thêm các gương cầu, các biển báo, pano…chỉ rõ những đoạn đường nguy hiểm.
Trong đơn bảo hiểm cấp cho chủ xe nên có thêm nội dung ghi rõ những nguyên nhân thường gây ra tai nạn giao thông, nhắc nhở chủ xe chú ý khi điều khiển phương tiện của mình.
Hơn nữa trước khi bán bảo hiểm, công ty nên cùng với chủ xe kiểm tra những tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn tham gia giao thông của chiếc xe. Ngoài ra, cần khuyến cáo các chủ xe đảm bảo các điều kiện đó để vừa đảm bảo an toàn cho các chủ xe cũng như hạn chế được tổn thất cho công ty.
1.3. Về công tác giám định và bồi thường tổn thất
Công tác giám định bồi thường là dịch vụ sau bán hàng có tác động rất lớn đến uy tín của doanh nghiệp. Do vậy cần phải chú trọng đến công tác này
Cần phải xây dựng một đội ngũ cán bộ làm giám định chuyên nghiệp đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn phẩm chất đạo đức. Trang bị thêm cho giám định viên một số trang thiết bị hiện đại để đảm bảo cho quá trình giám định được chính xác, trung thực và nhanh chóng vừa tránh được hiện tượng trục lợi bảo hiểm vừa đưa ra được mức bồi thường chính xác.
Cần phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan công an để tiến hành giám định: Xác định nguyên nhân gây tai nạn, mức độ lỗi của các bên, phương án giải quyết. Đối với thiệt hại về tài sản, để có thể kiểm soát tốt hơn chi phí sữa chữa, công ty cần phải ban hành các quy định về định giá sữa chữa: chỉ định sữa chữa và đấu thầu sữa chữa. Đối với thiệt hại về người, đặc biệt là các vụ tai nạn ở Hà Nội công ty cần phải thiết lập mối quan hệ với một bệnh viện hoặc trung tâm y tế để có thể xác định chi phí điều trị chính xác, tránh tình trạng gian lận trong việc khai bảo của người thiệt hại dẫn đến thất thoát số tiền bồi thường.
Cần phải hoàn thiện hệ thống quy trình, hướng dẫn giám định-bồi thường. Ban hành hướng dẫn bồi thường thống nhất trên toàn công ty. Trong quá trình thực hiện, các cán bộ làm công tác giám định, bồi thường phải tuân thủ đầy đủ quy trình này.
Phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về thực hiện quy trình giám định- bồi thường ở các đơn vị trực thuộc và ở công ty: đúng các bước và thời gian quy định.
Công ty cần phải trang bị thêm các thiết bị hiện đại cho các cán bộ để thực hiện giám định được nhanh chóng và chính xác hơn.
Thực hiện nghiêm chỉnh phân cấp bồi thường nhằm giảm bớt khối lượng công việc cho phòng giám định bồi thường. Cải tiến phương pháp giải quyết bồi thường trên phân cấp theo hướng tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, nhanh chóng, hiệu quả và cộng đồng trách nhiệm giữa công ty với các đơn vị cơ sở PJICO. Đảm bảo cam kết bồi thường của PJICO: nhanh chóng, thoả đáng.
Cần phải nâng cao tính chuyên nghiệp trong công tác giám định bồi thường : tăng tốc độ giám định-bồi thường, phải thể hiện tinh thần trách nhiệm với khách hàng, tận tình hướng dẫn giúp khách hàng hoàn tất hồ sơ thủ tục yêu cầu bồi thường, tránh các thủ tục rườm rà không cần thiết để có thể bồi thường được nhanh chóng, giải thích cặn kẽ cho khách hàng về mức bồi thường khách hàng được nhận, tạo tâm lý yên tâm thoã mãn cho khách hàng.
Hiện nay công ty đã có số điện thoại nóng 24/24, cán bộ giám định phải xuống ngay hiện trường khi có thông báo của khách hàng, việc này đã giúp công tác giám định được tiến hành nhanh chóng và chính xác. Công ty cần phải tiếp tục duy trì và thực hiện tốt hơn nữa.
1.4. Về công tác đào tạo cán bộ
Để trở thành một nhà bảo hiểm chuyên nghiệp thì PJICO phải có đội ngũ nhân viên bảo hiểm chuyên nghiệp và hệ thống quản lý, công nghệ chuyên nghiệp:
Phải đào tạo và đào tạo lại chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ, nhân viên, đặc biệt là cán bộ làm nhiệm vụ giám định bồi thường. Vừa qua công ty đã mở một đợt đào tạo lại cho cán bộ công nhân viên của công ty tại khu vực miền Bắc, đợt đào tạo được tổ chức thực hiện tại Cát Bà, điều này cho thấy PJICO rất coi trọng và quan tâm đến đội ngũ nhân lực nhằm giúp công ty đáp ứng được những thay đổi và đòi hỏi của thị trường.
Hơn nữa công ty còn trang bị cho cán bộ, nhân viên của công ty các kiến thức về luật giao thông, luật dân sự, nhất là về xe cơ giới và nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. Để khi khách hàng có thắc mắc cán bộ công ty có thể giải đáp một cách nhanh chóng và hiệu quả
Cần phải căn cứ vào khối lượng công việc để tuyển dụng, bố trí cán bộ sao cho phù hợp với năng lực của từng người và yêu cầu công việc
Mở nhiều hơn các lớp đào tạo đại lý nhưng phải chú ý đến chất lượng đào tạo, khối lượng kiến thức cho từng cấp đào tạo, khối lượng kiến thức cho từng cấp đào tạo, số lượng đại lý cần đào tạo trong từng giai đoạn
Bên cạnh đó, hàng năm công ty phải tiến hành rà soát lại cán bộ, đại lý của mình với mục đích xem xét những cán bộ nào làm việc không hiệu quả, không có năng lực chuyên môn, có sai phạm nghiêm trọng về mặt đạo đức nghề nghiệp thì phải tiến hành kỷ luật hoặc sa thải, tránh làm ảnh hưởng đến uy tín hình ảnh của công ty.
2. Một số kiến nghị
2.1 Đối với Nhà nước
Nhà nước cần nghiên cứu và sửa đổi bộ Luật bảo hiểm nhằm tạo ra khung pháp lý cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động, tăng cường hiệu lực và tiến tới hoàn thiện dần dần luật kinh doanh bảo hiểm dựa trên đóng góp ý kiến thực tiễn từ các doanh nghiệp. Ví dụ như trong Luật kinh doanh bảo hiểm tại Điều 25 khoản 3 của Luật doanh nghiệp có ghi: doanh nghiệp có quyền lập chi nhánh, văn phòng đại diện trong nước và nước ngoài, không có bất kỳ một điều nào quy định một doanh nghiệp không được phép thành lập các chi nhánh hay văn phòng đại diện tại nơi có trụ sở chính đóng. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp được tự chủ trong việc thành lập các chi nhánh hay văn phòng đại diện của mình tại bất kỳ nơi nào kể cả nơi có trụ sở chính. Trong khi đó, Luật kinh doanh bảo hiểm và các Nghị định cũng như Thông tư hướng dẫn luật kinh doanh bảo hiểm lại không cho phép… đây là một trong những điều chồng chéo của luật kinh doanh bảo hiểm. Vì vậy trong thời gian tới Quốc hội cần phải thống nhất lại, ra những văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật cụ thể và chính xác hơn, tránh gây khó hiểu và rắc rối cho các công ty bảo hiểm và những người thi hành.
Ngoài ra, Nhà nước cần phải có văn bản quy định xử phạt nghiêm khắc với những công ty bảo hiểm, đại lý bảo hiểm vi phạm luật kinh doanh bảo hiểm. Đặc biệt là hiện nay tình trạng giảm phí bảo hiểm một cách tùy tiện bất chấp khung phí đã quy định của Bộ Tài Chính, các hình thức khuyến mại của các công ty… vì mục đích cạnh tranh thu hút khách hàng đã hạ phí xuống sát mức nguy hiểm, gây rủi ro trong việc hoạt động kinh doanh của công ty, nguy hại đến lợi ích của khách hàng, mất ổn định thị trường bảo hiểm. Vì khi giảm phí quá mức sẽ làm cho thu không đủ bù chi dẫn tới việc bồi thường bị trì trệ hoặc không có khả năng bồi thường đúng như hợp đồng cho khách hàng.
Các cơ quan quản lý giao thông cần phải có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn nữa công tác cấp đăng ký và giấy phép lưu hành xe. Hiện nay còn tồn tại một số lượng không nhỏ xe ôtô đã qua thời hạn sử dụng từ lâu, chất lượng không đảm bảo nhưng vẫn đang được lưu hành. Đây là nguồn rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty, các cơ quan có chức năng về quản lý phương tiện cần có biện pháp kiên quyết xoá bỏ những xe không đạt tiêu chuẩn và không cho tham gia giao thông. Vì nó không những ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh bảo hiểm của công ty mà nó còn là mối đe doạ lớn đối với người dân khi tham gia giao thông.
2.2 Đối với Công ty
Công ty cần phải xây dựng một chiến lược khai thác phù hợp vì trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh ngày càng gay gắt quyết liệt hơn, sự dậm chan tại chỗ của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng đồng nghĩa với sự tụt hậu và thất bại trên thị trường. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển trên thị trường bảo hiểm hiện nay, các công ty bảo hiểm phải liên tục đổi mới phương thức hoạt động, tìm ra các biện pháp khắc phục hạn chế những mặt yếu và phát huy những mặt mạnh của mình. Vì thế nên khi xây dựng chiến lược khai thác PIJICO phải xác định được vị trí, uy tín của mình trên thị trường, điều này có ảnh hưởng rất nhiều tới kế hoạch kinh doanh của công ty. Ví dụ như xem xét về quy mô doanh nghiệp dựa trên các chỉ tiêu như thị phần, sự đa dạng của mạng lưới phân phối … Tổ chức nghiên cứu hành vi của khách hàng mục tiêu, tìm ra những ưu nhược điểm của sản phẩm mà công ty cung cấp để từ đó có thể đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, thu hút khách hàng mua sản phẩm của công ty vì chất lượng sản phẩm là nhân tố quyết định. Điều này đã một phần tạo được niềm tin của khách hàng truyền thống cũng như những khách hàng tiềm năng của công ty Bảo Việt.
Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo trong quần chúng nhân dân, vì tuyên truyền quảng cáo là một trong những chiến lược maketing, là một hoạt động rất quan trọng trong công tác hỗ trợ cho khai thác và xúc tiến bán hàng, nhưng do hạn chế về chi phí quảng cáo của các chi nhánh nên công tác quảng cáo chưa được chú trọng lắm. Vì vậy công ty cần tăng thêm chi phí cho lĩnh vực này để có thể thực hiện tốt chương trình quảng cáo lớn và ấn tượng. Các biển quảng cáo cần được về số lượng và lắp đặt tại các nơi đông dân cư như: nhà ga, bến cảng, trên đường phố .. sự xuất hiện một tấm áp phích lớn của PJICO giữa một không gian rộng sẽ gây thu hút cho khách hàng (vì muốn thành công thì trước hết công ty phải để khách hàng biết đến mình sau đó biết đến sản phẩm của mình, đặc điểm cũng như chất lượng của sản phẩm đó và nếu tham gia họ sẽ có những quyền lợi gì. Tuy nhiên muốn tuyên truyền quảng cáo tốt thì trước tiên công ty phải có kế hoạch soạn thảo chương trình quảng cáo cụ thể: xây dựng mục tiêu, ngân sách chi cho quảng cáo, phương tiện quảng cáo,mức chi phí thông điệp được gửi đi nội dung thông điệp đánh giá hiệu quả quảng cáo mang lại. Phương tiện truyền tin có thể qua ti vi, báo chí, tờ rơi…. Tivi là phương tiện truyền tin đến được với số đông người xem nhưng chi phí cao.
Báo chí: chi phí rẻ hơn song có nhiều người không có cơ hội tiếp xúc
Phát tờ rơi: chi phí rẻ nhất nhưng hạn chế số lượng người nhận tin .
Nôi dung thông điệp cần phải ngắn gọn, dễ hiểu, thông tin phải được lựa chọn kỹ càng. Sau khi thông tin được gửi đi thì cần phải đánh giá hiệu quả hoạt động tuyên truyền quảng cáo dựa vào các tiêu chí như: doanh thu, thị phần ….
Tổ chức các hội thi tìm hiểu về chất lượng am toàn giao thông, hội thi khách hàng tìm hiểu về bảo hiểm, hợp tác với các phương tiện thông tin đại chúng, tham gia giải đáp những thắc mắc về lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ.
Xây dựng và quản lý một hệ thống đại lý có hiệu quả đồng thời mở các lớp tập huấn nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, cộng tác viên để đáp ứng nhu cầu thực tiễn hiện nay. Công ty cũng phải thường xuyên theo dõi, giám sát hoạt động của các đại lý có hiệu quả từ đó rút ra kinh nghiệm và có chiến lược cho phù hợp hơn.
Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý bằng cách phân chia khách hàng theo các tiêu thức khác nhau để tiện cho viêc khai thác và có chính sách ưu đãi hợp lý cho từng loại khách hàng .
Đẩy mạnh việc phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng như cảnh sát giao thông, sở giao thông công chính, cục thuế, các trạm đăng kiểm…Trong việc khai thác bảo hiểm làm các thủ tục trước bạ, đăng ký bằng lái …. Công ty cần phải có hướng dẫn cụ thể về nghiệp vụ bảo hiểm đang triển khai về việc thu phí và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Phối hợp với ngành giao thông vận tải để nắm bắt được số lượng xe thực tế lưu hành từ đó để biết được mình phải làm gì để mở rộng thị phần .
Tăng cường việc giới thiệu khuyếch trương sản phẩm danh tiếng của công ty, tăng cường bán bảo hiểm thông qua mạng Internet. Hình thức này mang lại lợi ích lớn cho các công ty và trên thế giới hiện nay nó là hình thức phổ biến vì :
● Có thể giới thiệu sản phẩm không bị giới han về thời gian, không gian, số lượng người được giới thiệu trong cùng một lúc.
● Mở ra kênh liên lạc trực tiếp với khách hàng qua mạng.
● Giảm chi phí trung gian, quản lý .
● Chi phí quảng cáo trên mạng không tốn kém chỉ khoảng 3-4 triệu đồng/1 tháng so với 45-50 triệu đồng cho phút quảng cáo trên ti vi.
Đến nay công ty PJICO đã có trang Web (www.pjico.com.vn ) song thông tin với nội dung chưa được phong phú. Do vậy cần tăng cường những thông tin cần thiết như: những quy định về phạm vi bảo hiểm, phí bảo hiểm, bồi thường…
● Trong khi làm khai thác phải đặc biệt chú ý đến công tác đánh giá mức độ rủi ro.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện thị trường bảo hiểm cạnh tranh gay gắt của các công ty bảo hiểm, để có thể tồn tại và phát triển, bên cạnh việc đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, các doanh nghiệp cần phải biết giữ tín với khách hàng. Và Pjico là một trong những doanh nghiệp đó. Chính sách của Pjico là “Chỉ cam kết những gì chúng tôi thực sự có khả năng và thực hiện đầy đủ những gì chúng tôi đã cam kết”. Chính nhờ điều này cộng với sự nổ lực không biết mệt mỏi của tập thể lãnh đạo và cán bộ nhân viên, Pjico đã được đền đáp bằng sự phát triển liên tục với doanh thu tăng trưởng hàng năm bình quân trên 36%, vốn và tích luỹ dự phòng gấp 10 lần so với vốn góp ban đầu. Công ty đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều huân, Huy chương cao quý, nhưng vượt lên tất cả là sự tín nhiệm của khách hàng trong cả nước. Và đó cũng chính là tiền đề cho sự phát triển của các nghiệp vụ bảo hiểm của công ty, đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, minh chứng cụ thể và rõ ràng qua doanh thu, bồi thường và đặc biệt là số lượng khách hàng tìm đến.
Giờ đây PJICO đã là công ty bảo hiểm lớn trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PJICO :
BHTNDS :
TNDS :
STBH :
DNBH :
TNCN :
TLBT :
Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự
Số tiền bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm
Tai nạn con người
Tỷ lệ bồi thường
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
Tên bảng biểu
Trang
Bảng 1: Sự gia tăng phương tiện giao thông cá nhân ở Việt Nam 4
Bảng 2: Giảm phí theo tỷ lệ tổn thất 20
Bảng 3: Giảm phí theo tỷ lệ bồi thường thấp trong một năm bảo hiểm 20
Bảng 4: Giảm phí theo số lượng xe tham gia bảo hiểm 21
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy và quản lý của PJICO 33
Bảng 5:Doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường theo từng nghiệp vụ 38
Bảng 6: Báo cáo doanh thu phí bảo hiểm của từng doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam 40
Bảng 7: Số tiền bồi thường và tỷ lệ bồi thường bảo hiểm của các nghiệp vụ 41
Bảng 8: Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam (2003- 2007) 42
Bảng 9: Bồi thường bảo hiểm xe cơ giới của các DN ở Việt Nam 43
Bảng 10: Cơ cấu doanh thu của các nghiệp vụ chính năm 2007 47
Bảng 11: Doanh thu nghiệp vụ BH xe cơ giới tại PJICO (2003-2007) 49
Bảng 12: Tình hình khai thác bảo hiểm vật chất xe ô tô tại PJICO (2003-2007) 50
Bảng 13: Tình hình tham gia bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại PJICO (2002-2006) 52
Bảng 14: Tình hình bồi thường bảo hiểm vật chất xe ô tô tại PJICO (2003-2007) 54
Biểu đồ 1: Cơ cấu doanh thu các nghiệp vụ năm 2007 48
Biểu đồ 2: Biểu đồ doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại PJICO 49
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xe cơ giới 3
1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của Bảo hiểm xe cơ giới 3
1.1 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xe cơ giới 3
1.2 Vai trò của bảo hiểm xe cơ giới 4
2. Các nghiệp vụ bảo hiểm liên quan đến xe cơ giới 7
2.1 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 8
2.1.1 Đối tượng và phạm vi bảo hiểm 9
2.1.2 Mức trách nhiệm bảo hiểm 11
2.1.3 Phí bảo hiểm 12
2.2 Bảo hiểm vật chất xe cơ giới 12
2.2.1 Đối tượng và phạm vi bảo hiểm 13
2.2.2 Số tiền bảo hiểm 17
2.2.3 Phí bảo hiểm 18
2.2.4 Các điểm loại trừ 21
2.2.5 Giám định và bồi thường tổn thất 23
2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình triển khai bảo hiểm xe cơ giới của doanh nghiệp bảo hiểm 28
2.3.1 Các yếu tố thuộc phạm vi doanh nghiệp 28
2.3.2 Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp 30
Chương 2: Thực trạng bảo hiểm xe cơ giới tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex 33
1. Một vài nét về Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex 33
1.1 Quá trình hình thành và phát triển 33
1.2 Cơ cấu bộ máy tổ chức của PJICO 33
1.3 Định hướng phát triển trong thời gian tới 36
2. Khái quát về bảo hiểm xe cơ giới trên thị trường bảo hiểm Việt Nam 37
2.1 Về doanh thu phí bảo hiểm 37
2.2 Về bồi thường bảo hiểm xe cơ giới 40
3. Thực trạng bảo hiểm xe cơ giới tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex 44
3.1 Các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới ở PJICO 44
3.1.1 Bảo hiểm vật chất thân xe 45
3.1.2 Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới 45
3.1.3 Bảo hiểm người ngồi trên xe và lái xe 46
3.1.4 Bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hàng hoá chở trên xe 46
3.2 Kết quả triển khai bảo hiểm xe cơ giới của PJICO 46
3.2.1 Doanh thu phí bảo hiểm 46
3.2.2 Tình hình bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới 54
3.3 Những thuận lợi và khó khăn 56
3.3.1 Thuận lợi 56
3.3.2 Khó khăn 58
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex 63
1.1. Về công tác khai thác 63
1.2. Về công tác đề phòng hạn chế tổn thất 68
1.3. Về công tác giám định và bồi thường tổn thất 69
1.4. Về công tác đào tạo cán bộ 70
2. Một số kiến nghị 71
2.1 Đối với nhà nước 71
2.2 Đối với công ty 72
Kết luận 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm – PGS.TS Nguyễn Văn Định - Đại học Kinh tế Quốc dân.
2. Giáo trình Quản trị kinh doanh Bảo hiểm – PGS.TS Nguyễn Văn Định - Đại học kinh tế Quốc dân.
3. Báo cáo Tổng kết hoạt động Kinh doanh năm 2007 - Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm PJICO
4. Bản tin số 4 – năm 2006 - Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
5. Bản tin số 4 – năm 2007 - Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
6. Hướng dẫn khai thác Bảo hiểm xe cơ giới - Tổng Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex
7. Website: www.PJICO.com.vn
www.baohiem.pro.vn ...
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34945.doc