Bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động - Bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Lời mở đầu Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước ,cùng với việc xây dựng các chính sách kinh tế mới ,Đảng và nhà nước rất quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách xã hội , trong đó chính sách về bảo hiểm xã hội ,đặc biệt là chính sách bảo hiểm xã hội đối với – bệnh nghề nghiệp của Đảng và nhà nước ta nhằm xây dựng một xã hội phồn vinh thịnh vượng trước thềm thế kỷ 21. Có thể nói rằng tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp luôn luôn là vấn đề nan giải chưa thể khẵc phục được

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1656 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động - Bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khong chỉ riêng nước ta mà nhiều nước khác trên thế giới .Chính vì vậy đi đôi với chính sách bảo hộ lao động , cải thiện điều kiện lao động nhằm đề phòng và hạn chế tai nạn lao động và bệnh nghề nghệp ,cần thiết phải có chính sách bảo hiểm xã hội cho những người không may bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp . Chế độ bảo hiểm bệnh nghề nghiệp ở nước ta được thực hiện từ năm 1962 cùng với chế độ bảo hiểm hưu trí mất sức lao động ,mất người nuôi dưỡng ,ốm đau thai sản theo quy định tại nghị định 218/cp của chính phủ ban hành ngày 27/12/61. Qua nhiều năm thực hiện, đặc biệt khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường cùng với hạn chế chung của bảo hiểm xã hội hiện hành, chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cũng bộc lộ những mặt yếu kém của mình mà không thể đáp ứng yêu cầu đặt ra của nền kinh tế xã hội hiện tại . Vì vậy việc nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp nói riêng là một vấn đề bức xúc của các cấp các ngành Đảng và nhà nước quan tâm . Giải quyết tốt vấn đề bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp nhằm giúp người lao động khắc phục khó khăn khi gặp rủi ro . Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường đại học kinh tế quốc dân ,nhận thức được tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp nói riêng vì vậy em đã chọn đề tài : “Bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp ở Việt nam hiện nay “. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn văn Định đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này . Do vốn kiến thức của em còn hạn chế , đề tài không thể không tránh khỏi những sai sót . Em mong sự chỉ bảo của các thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn. Chương I Khái quát chung về bảo hiểm xã hội và chế độ bảo hiểm tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp I. Vai trò ý nghĩa bảo hiểm xã hội Trong mọi nền sản xuất xã hội con người luôn là động lực chính và là trung tâm cho sự phát triển kinh tế xã hội , họ là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất , dịch vụ cho xã hội đồng thời cũng là tiêu dùng những sản phẩm dịch vụ đó. Vì vậy muốn có nhiều của cải vật chất hơn cho xã hội , muốn sự văn minh nhân loại không ngừng phát triển thì việc đầu tiên chúng ta phải đặc biệt quan tâm đó là cuộc sống thực tế của những người đã và đang ngày đêm lao động để bảo tồn và tái tạo sự sống. Người lao động là nhân tố chiếm số đông trong xã hội ở mọi nơi, mọi lúc sức mạnh quần chúng lao động luôn luôn cần thiết. Tuy nhiên điều kiện làm việc và học tập cũng như điều kiện sống của người lao động có đảm bảo đến đâu chăng nữa cũng không tránh khỏi những rủi ro bất lợi như ốm đau tai nạn, già yếu, chết, thiếu công ăn việc làm . .. do ảnh hưởng của quy luật tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện sống và lao động, tất cả những rủi ro đó đều đe doạ đời sống người lao động làm cho họ giảm hoặc mất khả năng lao động do đó sẽ bị giảm hoặc mất thu nhập. Bởi vậy muốn tồn tại và phát triển con người cần phải tìm ra những biện pháp để giải quyết thực tế trên và con người đã tìm ra được biện pháp giải quyết đó chính là BHXH. BHXH là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập chung được tồn tích dần do sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động với sự điều tiết của nhà nước và nó đảm bảo cho đời sống người lao động và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động họ mất việc làm trên cơ sở san sẻ trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHXH. BHXH với mục tiêu vì con người, vì sự nghiệp công bằng văn minh tiến bộ xã hội, không những chỉ có tác dụng đối với người lao động mà nó còn có tác dụng đối với các đối tượng khác trong xã hội. Để thấy được vai trò của BHXH một cách rõ ràng hơn chúng ta hãy xem xét ảnh hưởng của nó tới các lĩnh vực trong đời sống kinh tế xã hội. 1. Đối với các lĩnh vực kinh tế _ chính trị xã hội. Đối với lĩnh vực kinh tế nói chung các chế độ BHXH điều hoà sự phân phối thu nhập giữa người khoẻ và người ốm đau bệnh tật, giữa những người đang làm việc và người nghỉ việc do sinh đẻ, người nghỉ hưu, người bị tai nạn lao động. Mục đích của BHXH là trợ giúp cho những cá nhân có đóng góp bảo hiểm giảm bớt những khó khăn về kinh tế khi bản thân họ gặp phải rủi ro, bất hạnh. Trong lĩnh vực chính trị: BHXH thể hiện rõ đường lối, tư tưởng của Đảng trong vấn đề quan tâm đối với đời sống con người lao động. Bằng việc ban hành các chính sách, chế độ đúng đắn và hợp lý tạo lòng tinh của quần chúng nhân dân vào Đảng và nhà nươc từ đó người lao động yên tâm và nhiệt tình hơn trong lao động, và sản xuất giảm bớt những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, ổn định tình hình chính trị trong nước, hoà nhập vào xu thế phát triển chung. Trong lĩnh vực xã hội: BHXH thúc đẩy tiến bộ xã hội, hoà quyện giữa quyền lợi và trách nhiệm với bản thân cũng như đối với cộng đồng của các thành viên trong xã hội, phát huy bản chất nhân ái trợ giúp lẫn nhau dựa trên quy luật số đông bù số ít giữ vững ổn định xã hội và tạo lập sự bình đẳng trong xã hội. 2. Đối với các đối tượng tham gia. a. Đối với người lao động: Chúng ta có thể nói rằng BHXH có vai trò cực kỳ to lớn thông qua các hình thức trợ cấp BHXH đảm bảo đời sống cho người lao động bằng tiền trợ cấp khi họ buộc phải nghỉ việc do ốm đau, sinh đẻ, tai nạn, già yếu … Vai trò to lớn này của BHXH đã có tác dụng đối với hàng triệu người lao động trên thế giới. ở việt nam hơn 30 năm qua đã có hàng chục triệu lượt người được hưởng trợ cấp ngắn hạn như: ốm đau, thai sản, hơn hai triệu người được hưởng trợ cấp xã hội dài hạn như hưu trí, mất sức lao động tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tiền tuất. Chính qua đây đã khuyến khích người lao động yên tâm phấn khởi lao động sản xuất góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống của họ, đảm bảo an toàn xã hội. Cùng với quyền lợi đó người lao động có nghĩa vụ đóng góp đầy đủ vào quỹ BHXH thông qua một phần tiền lương, tiền công của mình theo pháp luật của mỗi nước quy định. Để phần nào hỗ trợ bản thân khi gặp khó khăn cùng với sự giúp đỡ của người sử dụng lao động và nhà nước. BHXH còn thể hiện ý thức trách nhiệm quan tâm tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên trong cộng đồng. b. Đối với người sử dụng lao động: Khi chúng ta nhìn riêng rẽ thì rất khó thấy được nhưng chúng ta đi sâu vào nghiên cứu và xem xét tổng thể và dưới góp độ nhìn từ hai phía: chủ _ thợ sẽ thấy được BHXH có vai trò gì đối với người sử dụng lao động. Trong quá trình phát triển kinh tế tồn tại nhiều thành phần kinh tế và dưới sự điều tiết của nền kinh tế thị trường và cùng với sự khuyến khích phát triển của nhà nước, hàng loạt các doanh nghiệp lớn nhỏ đã ra đời. Người sử dụng lao động được nhà nước đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản và lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh, họ có nghĩa vụ đối với nhà nước là trích từ tổng quỹ lưong ra 15% để đóng BHXH cho người lao động. Mặc dù đây là khoản tài chính không nhỏ nhưng bù lại sự đóng góp một phần BHXH trong quỹ tiền lương của người sử dụng lao động sẽ tránh đươc những thiệt hại kinh tế lớn trong một khoảng thời gian ngắn khi xẩy ra tai nạn đối với người lao động mà mình thuê mướn, bên cạnh đó cũng làm cho người lao động yên tâm sản xuất, giảm bớt được những tranh chấp xẩy ra, tạo lập mối quan hệ dung hoà gắn bó quan tâm tới nhau giữa người sử dụng lao động và người lao động và điều này có giá trị không nhỏ đối với sự sống còn của doanh nghiệp. c. Đối với nhà nước: Với chức năng quản lý kinh tế xã hội, ban hành các chính sách chế độ trong đó các chính sách về BHXH đảm bảo đời sống cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập. Trong cơ chế hiện nay sự tham gia của nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, chính sự tham gia của nhà nước góp phần điều hành mối quan hệ quyền lợi và nghĩa vụ giữa người sử dụng lao động và người lao động, nhưng vai trò lớn hơn cả của BHXH là giảm chi ngân sách, tạo nguồn thu ổn định góp phần không nhỏ trong việc ổn định kinh tế chính trị xã hội của quốc gia góp phần làm cho đất nước ngày càng giàu đẹp công bằng văn minh thông qua việc giải quyết tốt các chính sách của BHXH. II. Những nội dung cơ bản của BHXH: BHXH là quá trình tổ chức một quỹ tiền tệ tập chung được tồn tích dần do sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động dưới sự điều tiết của nhà nước, nhằm đảm bảo phần thu nhập để thoả mãn nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình họ khi gặp phải những rủi ro biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập. Những biến cố làm giảm hoặc làm mất thu nhập của người lao động trong khái niệm BHXH trên đây là những biến cố gắn liền vơí quá trình lao động và được nhìn nhận không chỉ trên cơ sở quan hệ lao động mà trên cả quan điểm xã hội nó không những bao gồm những trường hợp mất việc làm hoặc giảm khả năng lao động như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và có cả những trường hợp diễn ra ngoài quá trình lao động như không có người nuôi dưỡng hoặc tuổi già. BHXH cũng giúp thoả mãn một phần nhu cầu, những trường hợp tăng hoặc giảm chi tiêu của người lao động đột xuất do ốm đau, thai sản, chăm sóc y tế làm giảm ngân sách gia đình, làm tăng khả năng thanh toán của người lao động đối với những nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của họ. 1. Đối tượng của BHXH: Đối tượng của BHXH chính là người lao động khi thu nhập của họ bị biến động du giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc làm, nếu tham gia BHXH thì họ sẽ được trợ cấp theo từng chế độ bảo hiểm. Thu nhập được bảo hiểm là phần thu nhập của người lao động được dùng làm căn cứ để tính toán xác định mức đóng góp BHXH ( phí BHXH ) và BHXH phát sinh thì phần thu nhập được dùng làm căn cứ để tính toán, xác đính mức trợ cấp được hưởng BHXH của họ. Tất cả các nước đều xác định đối tượng chung nhất của BHXH là thu nhập của người làm công ăn lương trong toàn xã hội một số nước ban hành chế độ xã hội cho tất cả mọi đối tượng lao động, một số nước khác lại có chế độ BHXH riêng biệt cho từng loại đối tượng: viên chức nhà nước, một số nghành đặc thù như đường sắt, thợ mỏ, thương nghiệp, nông nghiệp …Nhiều nước không áp dụng BHXH đối với người nội trợ nghề tự do… Trong khi đó một số nước lại thực hiện BHXH tự nguyện đối với người lao động. ở các nước đang phát triển, phạm vi đối tượng BHXH chỉ tập chung chủ yếu vào các viên chức và những người làm công ăn lương trong nghành công nghiệp. Mặc dù mức trợ cấp khác nhau nhưng dẫu sao cũng đảm bảo được mức trợ cấp tương đối thoả mãn cho người lao động trong các chế độ BHXH. 2. Hình thức BHXH: BHXH nước ta áp dụng dưới hai hình thức đó là hình thức bắt buộc và tự nguyện. Hình thức bắt buộc: Hình thức này áp dụng đối với những người làm việc trong khu vực hành chính sự nghiệp, các lực lượng vũ trang, trong các tổ chức Đảng, người làm công ăn lương ở các doanh nghiệp có từ mười lao động trở lên. Những người làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác của nước ngoài đặt ở trong nước, những người làm việc trong khu chế xuất. Người lao động và người sử dụng lao động phải đóng góp vào quỹ BHXH theo đúng quy định. Đối với người lao động đóng góp 5% lương vào quỹ BHXH, còn đối với người sử dụng lao động đóng góp 15% trích ra từ tổng quỹ lương để đóng góp vào quỹ BHXH cho người lao động. Nhằm xây dựng quỹ BHXH còn lại do nhà nước điều tiết vì đây là một chính sách xã hội. Hình thức tự nguyện: Hình thức này áp dụng cho người lao động làm việc trong các cơ sở có sử dụng dưới mười lao động và những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có từ mười lao động trở lên nhưng lại làm việc theo mùa vụ hoặc các công việc có tính tạm thời khác. ở nước ta hình thức BHXH tự nguyện mới xuất hiện như BHXH đối với người nông dân vì vậy chưa có nhiều kinh nghiệm, cần phải xem xét đưa ra những giải pháp để phát triển hình thức này. 3. Hệ thống các chế độ BHXH: Năm 1952 tổ chức quốc tế về lao động thông qua công ước 102 gồm 9 chế độ trợ cấp: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp tuổi già Trợ cấp tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp khi sinh đẻ Trợ cấp tàn phế Trợ cấp cho những người còn sống Hội nghị cũng khuyến khích các nước thành viên tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi nước phải thực hiện ít nhất 3 chế độ trong đó phải có một trong 5 chế độ sau: (3), (4), (5), (8), (9) để được hưởng các chế độ thì điều kiện chung để người lao động được hưởng là phải đóng phí. Riêng đối với chế độ hưu trí tuổi già ở các nươc quy định thời gian đóng góp của người lao động từ 15 năm đến 37,5 năm ngoài ra còn có điều kiện tuổi đời (từ 55 tuổi đến 65 tuổi, có nước quy định bớt đối với nữ là lao động nặng nhọc độc hại.). ở Việt nam theo điều lệ BHXH ban hành kèm theo nghị định số 12/CP ngày 26/11/95 quy đinh thực hiện 5 chế độ đối với người lao động: Chế độ ốm đau Chế độ thai sản Chế độ trợ cấp tai nạn lao động _ bệnh nghề nghiệp Chế độ hưu trí Chế độ tử tuất Về nguyên tắc được hưởng BHXH phụ thuộc vào mức thời gian tham gia đóng phí BHXH của người lao động. Và đối với hình thức BHXH bắt buộc tuỳ theo thời gian, mức đóng góp vào quỹ BHXH và từng trường hợp cụ thể được hưởng trợ cấp BHXH theo tỷ lệ quy định 4. Tính chất và một số nguyên tắc của BHXH BHXH luôn gắn với quá trình lao động sản xuất và gắn với đời sống của người lao động vì vậy nó có tính chất cơ bản sau . Tính tất yếu khách quan Tính ngẫu nhiên và phát sinh không đồng đều theo không gian và thời gian của các trường hợp BHXH . BHXH vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội lại vừa có tính chất dịch vụ . .. Tính lịch sử và kế thừa phát triển . .. Với những tính chất như vậy, để hệ thống BHXH vận hành tốt cần tuôn theo những nguyên tắc sau : BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia BHXH : nhà nước, người sử dụng lao động , đồng thời người lao động cũng phải tham gia cho chính mình. Mọi người lao động đều có quyền hưởng BHXH . BHXH đảm bảo quyền lợi cho những người lao động đồng thời thúc đẩy sản xuất và xã hội phát triển. Việc tham gia BHXH là bắt buộc đối với người lao động theo nhà nước quy định nhưng cũng trừ một số trường hợp ngoại lệ . Phải kết hợp hài hoà các mục tiêu, các lợi ích và khả năng đáp ứng nhu cầu trong BHXH . Mức BHXH phải thấp hơn mức lương (tiền công) khi đang làm việc, nhưng phải bảo đảm mức sống tối thiểu cho người được hưởng BHXH. BHXH phải dựa trên cơ sở số đông bù số ít. BHXH phải xây dựng hệ thống nhất , đồng thời phải phát huy tính đa dạng, năng động của từng bộ phận trong hệ thống. BHXH phỉa phát triển dần thành từng bước phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước trong từng giai đoạn . BHXH có chức năng sau : Đảm bảo đời sống kinh tế cho người lao động và gia đình họ khi bản thân người lao động bị giảm và mất khả năng lao động . Chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH . Do tính chất của các trường hợp BHXH phát sinh không đồng đều, có tính chất ngẫu nhiên nên có trường hợp tổ chức phân phối cho người lao động (hưu, tuổi già ) . nhưng có trường hợp do phát sinh ngẫu nhiên (tai nạn lao động , ốm đau , thai sản . ..) mà số tiền trợ cấp cho người lao động nhận được có khi lớn hơn số tiền mà họ đóng góp, trong trường hợp này người lao động và gia đình họ nhận được sự phân phối lại của BHXH . 5. Quỹ BHXH Là một quỹ tiêu dùng , đồng thời là một quỹ dự phòng , nó vừa mang tính kinh tế , vừa mang tính xã hội cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH . Theo nghị định 12/CP ngày 26/11/95 quỹ BHXH được hình thành từ những nguồn sau : Người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ lương . Quỹ tiền lương này là tổng số tiền lương tháng của người tham gia BHXH trong đơn vị , qua đó thấy được sự phân phối lại thu nhập để bảo đảm an toàn xã hội , đó là yếu tố giúp người lao động hăng say với công việc hơn . Người lao động đóng 5% tiền lương để đóng vào quỹ BHXH khoản thu này tuy không nhiều nhưng nhiều người tham gia nên tổng số tiền thu được là rất lớn . Sự đóng góp này chính là sự bảo hiểm cho họ trước những rủi ro bất lợi trong cuộc sống . Nhà nước hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động bằng nhiều hình thức , biện pháp can thiệp có mức độ khác nhau , nhà nước trở thành chỗ dựa để đẩm bảo cho hệ thống hoạt động của hệ thống BHXH vững chắc và ổn định . Các nguồn khác : thực tế nguồn này cũng là một nguồn thu quỹ của BHXH như là tiền phạt nộp chậm BHXH , hoặc do các tổ chức phi chính phủ ,tổ chức cá nhân tự nguyện ủng hộ ,hỗ trợ quỹ. Cũng có thể do đầu tư từ quỹ nhàn rỗi của BHXH đem lại. III. Sự ra đời và phát triển của BHXH Việt Nam Mầm mống của BHXH ra đơi từ thế kỷ XIII ở Nam Âu khi nền kinh tế hàng hoá bắt đầu phát triển . Nửa cuối thế kỷ XIX BHXH đã xuất hiện ở Đức và một số nước công nghiệp phát triển ở châu Âu . Còn ở Việt Nam thực tế BHXH ra đời trong thời kỳ pháp thuộc một trong những chính sách nổi bật nhằm duy trì bộ máy cai trị của chính quyền thực dân là chính sách BHXH cho đội ngũ công nhân viên chức Việt Nam làm trong công sở của Pháp (gồm các chế độ lương bổng , chét , ốm đau ). Đây là những chế độ BHXH đầu tiên được thực hiên ở Việt Nam . Tuy nhiên việc thực hiện các chính sách này còn hạn hẹp . Sau cách mạng tháng 8-1945, Đảng và Nhà nước đã sớm quan tâm đến vấn đề BHXH . Việc ban hành sắc lệnh số 29/SL ngày 13/3/1947 và sắc lệnh 76/SL năm 1950 quy định về chế độ đãi ngộ đối với công nhân viên chức khi ốm đau tai nạn , hưu trí , thai sản là những khởi điểm quan trọng trong chính sách BHXH .Tuy nhiên văn bản pháp lý đầu tiên về BHXH là “Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước” ban hành kèm theo nghị định 218/CP ngày 27/12/1961. sự kiện này có ảnh hưởng to lớn đến đời sống chính trị xã hội của người lao động, mang lại sự đảm bảo về vật chất và tinh thần trong lĩnh vực BHXH cho hàng triệu người lao động. ở thời kỳ này nền kinh tế được điều hành theo cơ chế tập chung bao cấp, mọi vấn đề kinh tế xã hội nói chung, BHXH nói riêng đều do nhà nước quy định và trực tiếp thực hiện bằng bộ máy hành chính và ngân sách của mình, cho nên chỉ có công nhân viên chức nhà nước trong biên chế nhà nước mới được hưởng các chế độ BHXH như ốm đau, thai sản, hưu trí, tử tuất, mất sức lao động. Vì vậy hệ thống BHXH, diện người lao động được hưởng BHXH hẹp chiếm 12% tổng số lao động trong cả nước. Điều đó ảnh hưởng đến sự công bằng xã hội thiếu bình đẳng trong quyền lợi và nghĩa vụ đối với công nhân. bên cạnh đó chính sách BHXH còn bị đan xen rất nhiều với rất nhiều chính sách đãi ngộ xã hội khác như an dưỡng, du lịch, kế hoạch hoá gia đình, ưu đãi người có công… làm cho các chế độ không phối hợp chặt chẽ với nhau, việc thực hiện không đồng nhất lại tràn lan. Về quỹ BHXH, chỉ có sự đóng góp của các xí nghiệp mà không có sự đóng góp của người lao động, còn lại do ngân sách nhà nước cấp. Hàng năm phần cấp bù này chiếm khoảng 60-70% tổng chi BHXH. Trong bối cảnh lịch sử lúc đó, hệ thống BHXH là một thành tựu quan trọng. Nó đã góp phần đắc lực vào việc đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên chức nhà nước và gia đình họ. Nhưng khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì hệ thống BHXH cũng ngày bộc lộ những hạn chế nhất định. Sau hơn 20 năm thực hiện các chế độ BHXH, nghị định 236/HDBT ban hành ngày 18-09-1985 là lần sửa đổi, bổ sung quan trọng nhất. Nghị định được ban hành đồng thời với việc nhà nước tiến hành tổng điều chỉnh giá, lương, tiền. Xét về mặt bản chất, hệ thống BHXH vẫn giữ nguyên như cũ. Nhưng đó là bước đổi mới đáng ghi nhận về mặt đường lối, là tiền đề cho ngững đổi mới sau này. sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Do vậy cùng với việc đổi mới chính sách BHXH, các chính sách và cơ chế quản lý BHXH cần được đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với cơ chế quản lý mới. Ngày 22-06-1993 Chính phủ đã ban hành nghị định 43/CP quy định tạm thời chế độ BHXH tạm thời cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp và các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế. Nghị định 43/CP đã mở rộng đối tượng tham gia và hưởng BHXH: đổi mới cơ cấu đóng góp vào quỹ BHXH. Chỉ đến khi điều lệ BHXH bàn hành kèm theo nghị định 12/CP ban hành ngày 26/01/1995 và nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 thì cơ cấu tổ chức và quản lý hoạt động của hệ thống BHXH Việt nam mới được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu là: BHXH phải thống nhất về tổ chức, về thực hiện chính sách chế độ BHXH, thống nhất và tập trung nguồn thu và cấp phát chi BHXH. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH Việt nam là quá trình đổi mới không ngừng, liên tục nhằm phát huy mặt làm đợc và đề ra những giải pháp mới đáp ứng yêu cầu đổi mới tình hình đất nước trong từng giai đoạn nhất định. Có như vậy BHXH Việt nam mới trở thành một chính sách đi sâu vào lòng quần chúng lao động. IV. Chế độ trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp trong hệ thống BHXH 1. Sự cần thiết khách quan của chế độ bảo hiểm tai nạ lao động-bệnh nghề nghiệp Trong cuộc sống con người luôn luôn lao động. Lao động là động lực để phát triển xã hội.trong quá trình đó có những rủi ro ngẫu nhiên xảy ra gây tổn hại đến tính mạng, sức khoẻ, thu nhập … của người lao động, đặc biệt trong thời đại ngày nay cùng với xu thế hoá khoa học và công nghệ thông tin thì đó là vấn đề moi trường, bệnh tật, tai nạn luôn xảy ra và nguy cơ cao gây tổn hại cho người lao động. Đặc biệt một vấn đề chúng ta cần lưu tâm chú ý đó là vấn đề tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp gia tăng xảy ra ở mọi lĩnh vực trong thành phần kt gây hậu quả nặng nề cho người lao động và người sử dụng lao động cũng như đối với toàn xã hội. Chính vì vậy để giải quyết vấn đề này, chúng ta đã có chế độ bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp trong hệ thống BHXH Việt nam thông qua đó chúng ta đã giải quyết vấn đề này một cách cụ thể như sau. Người lao động khi bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp được đảm bảo an toàn về kinh tế khi họ gặp phải rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập. Mặt khác bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp còn được đảm bảo về mặt xã hội cho người lao động khi họ gặp phải tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp. Đó là việc thực hiện chế độ trợ cấp giúp người lao động phục hồi nhanh chóng cũng như phục hồi các chức năng vốn có của mình thông qua các dụng cụ, phương tiện y tế, dụng cụ giả. Bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp giúp người lao động hạn chế được những chi phí không cần thiết, gánh đỡ một phần trách nhiệm của họ đối với người lao động không may bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp mặc dù những chi phí y tế, tiền lương thì người sử dụng lao động vẫn phải trả cho người lao động. Còn nhìn trên bình diện xã hội thì bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp là sự san xẻ rủi ro cho mọi người tham gia, là sự giúp đỡ của cộng đồng đối với người lao động không may bị tai nạ lao động-bệnh nghề nghiệp. Qua đây ta cũng cần khẳng định rằng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp trong hệ thống BHXH có tầm quan trọng đặc biệt chính vì vậy xã hội và đặc biệt là những nhà làm chính sách phải đặc biệt quan tâm hoàn thiện chính sách này. Làm cho xã hội ngày càng công bằng văn minh và phát triển hoàn thiện hơn. Chế độ trợ cấp bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp trong hệ thống các chế độ BHXH. Chế độ trợ cấp ốm đau : Người lao động khi bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp được ưu đãi hơn khi bị ốm đau thông thường. Điều kiện để hưởng trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp và trợ cấp ốm đau có ranh giới rõ ràng. Người lao động bị tai nạn lao động khi nghỉ ngơi hay làm việc riêng, chẳng hạn tai nạn xảy ra trong thời gian người lao động nghỉ phép, học văn hoá, chính trị ngoài giờ làm việc hoặc khi ốm đau bác sĩ cho uống hoặc tiêm nhầm thuốc dẫn đến tử vong thì không được hưởng trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp mà chỉ được hưởng trợ cấp ốm đau. Khi người lao động bị ốm đau khi mắc bệnh thì chỉ những bệnh đúng với quy định trong danh mục các bệnh nghề nghiệp được hưởng trợ cấp, lúc đó người lao động mới được hưởng trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp. Với chế độ trợ cấp tử tuất: Nghị định 12/CP quy định như sau: Người lao động chết khi bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp (kêt cả chết trong thời gian điều trị lần đầu) thì gia đình được trợ cấp một lần bằng 24 tháng tiền lương tối thiểu và được hưởng chế độ tử tuất. Người lao động được hưởng chế độ tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp hàng tháng, khi chết thì người lo mai táng được nhận tiền lo mai táng bằng 8 tháng lương tối thiểu. Người lao động đã có thời gian đóng BHXH đủ 15 năm trở lên, người đang được hưởng trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp hàng tháng, người lao động đang làm việc bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp mà chết thì những nhân thân do họ trực tiếp nuôi dưỡng dưới đây đựơc hưởng tiền tử tuất hàng tháng : Con chưa đủ 15 tuổi (bao gồm con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú được pháp luật quy định, con đẻ mà khi người chồng chết người vợ đang mang thai). Nếu còn đi học thì được hưởng tiền tuất hàng tháng đến khi đủ 18 tuổi. Bố, mẹ (cả bên vợ và bên chồng), vợ hoặc chồng, người nuôi dưỡng hợp pháp đã hết tuổi lao động (nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi trở lên). Mức tiền lương quy định hàng tháng đối với mỗi thân nhân quy định bằng 40% mức lương tối thiểu. Trong trường hợp thân nhân không có nguồn thu nhập nào khác và không còn thân nhân nào khác và không còn người thân trực tiếp nuôi dưỡng thì tiền tuất hàng tháng bằng 70% mức lương tối thiểu. Số thân nhân được hưởng tìên tuất hàng tháng không quá 4 người và được hưởng từ ngày người lao động chết. Trường hợp đặc biệt do bộ lao động-thương binh và xã hội xem xét giải quyết. Người lao động đang được hưởng trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp hàng tháng và người lao động đang làm việc bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp bị chết mà không có thân nhân có thân nhân thuộc diện hưởng tiền tuất hàng tháng thì gia đình đựơc nhận tiền tuất một lần. Mức tiền tuất đối với gia đình người lao động đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp hàng tháng thì tính theo thời gian đã hưởng trợ cấp, nếu chết trong năm thứ nhất thì tính bằng 12 tháng đã được hưởng trợ cấp, nếu chết từ năm thứ 2 trở đi thì mỗi năm giảm đi 1 tháng nhưng tối thiểu bằng 3 tháng trợ cấp. Với chế độ hưu trí : Người lao động có ít nhất 15 năm làm việc nặng nhọc, đặc biệt độc hại đã đóng BHXH đủ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên (không phụ thuộc vào tuổi đời) thì được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương thấp hơn chế độ hưu trí đã quy định. Danh mục nghề hoặc công việc nặng nhọc độc hại và đặc biệt độc hại do bộ lao động-thương binh xã hội và bộ y tế ban hành. Người lao động bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp được hưởng trợ cấp và phụ cấp trong thời gian nghỉ việc để điều trị, điều dưỡng kể từ ngày bắt đầu nghỉ để điều trị đến khi chuyển sang hưởng chế độ hưu trí ( nếu đủ điều kiện). Nhưng nếu mắc bệnh nghề nghiệp đã điều trị ổn định rồi về hưu mà bệnh tái phát, kể cả tái phát trong thời gian bảo đảm thì được hưởng chế độ điều trị bệnh nghề nghiệp trong suốt thời gian điều trị, cứ giữ nguyên chế độ hưởng trợ cấp hưu cho đến khi được xác định lại tỷ lệ mất sức lao động do bệnh nghề nghiệp và điều chỉnh lại mức trợ cấp hàng tháng. Với chế độ thai sản : Mối quan hệ ở đây thể hiện qua quá trình lao động, trong thời gian người phụ nữ mang thai, điều kiện lao động có sự tác động đến sức khoẻ của người phụ nữ, thai nhi. Do tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp có thể dẫn đến làm sẩy thai, hay thai nhi chết, không bình thường… Trong trường hợp đó người mẹ được hưởng trợ cấp tuỳ theo mỗi chế độ. Người lao động đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp hàng tháng, người lao động đang làm việc bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp chết thì con (con đẻ khi người chồng chết vợ đang mang thai) được hưởng trợ cấp hàng tháng. Chương II Những vấn đề cơ bản về chế độ trợ cấp bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp. I. Khái niệm về tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp. 1. Khái niệm, phân loại tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp. Tai nạn lao động là những tai nạn do tác động của những yếu tố nguy hiểm độc hại, trong lao động gây chấn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong trong quá trình lao động gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động (thời gian làm việc, chuẩn bị hoặc thu dọn sau khi làm việc). Tuỳ theo mục đích nghiên cứu tai nạn lao động được phân theo các tiêu thức sau : Theo mức tổn thương đến cơ thể con người : Tai nạn lao động làm người chết : người bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp chết ngay tại nơi xảy ra tai nạn, trên đường đi cấp cứu, chết trong thời gian cấp cứu, chết trong thời gian đang điều trị, chết do tái phát của chính vết thương do tai nạn lao động gây ra. Tai nạn lao động : người bị tai nạn bị ít nhất một trong những chấn thương được quy định tại phụ lục số 1. Tai nạn lao động nhẹ : là những loại tai nạn lao động không thuộc hai loại tai nạn lao động nói trên. Theo nghành nghề sản xuất : Đây là một phân loại hết sức quan trọng. Bởi vì đặc điểm sản xuất của mỗi nghành nghề có khác nhau nên xác suất xảy ra tai nạn lao động cũng như mức độ trầm trọng của tổn thương do tai nạn lao động gây ra cũng khác nhau. Phân loại này cho phép tìm ra những biện pháp hạn chế tai nạn lao động phù hợp với đặc điểm của từng nghành nghề. Theo nguyên nhân : Nguyên nhân chủ quan : do trang bị máy móc có trang bị phương tiện bảo hộ không chu đáo, do có sự vi phạm quy trình kỹ thuật an toàn trong hoạt động sản xuất của người lao động … Nguyên nhân khách quan : do các yếu tố tự nhiên xảy ra bất ngờ không lường trước được như bão lũ động đất… Việc phân loại này nhằm tìm ra nguyên nhân để có biện pháp khắc phục và sử lý về sự vi phạm luật lao động, pháp luật bảo hộ lao động quyết định về việc bồi thường của người sử dụng lao động đối với người lao động khi bị tai nạn lao động. Theo độ tuổi, giới tính : Thông thường tai nạn lao động xảy ra đối với nam giới nhiều hơn đối với nữ giới vì nam giới thường làm các công việc nặng nhọc độc hại nhiều hơn nữ giới. Tuỳ theo độ tuổi khác nhau mà tai nạn lao động xảy ra khác._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35340.doc
Tài liệu liên quan