Lời mở đầu
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Để thực hiện chủ trương trên có nhiều biện pháp trong đó bảo hiểm xã hội góp phần không nhỏ. Người lao động chiếm tỷ lệ rất lớn trong dân số và do điều kiện lao động làm việc ngoài những rủi ro mang tính tự nhiên, họ cần phải chịu những rủi ro mang tính nghề nghiệp làm giảm hoặc mất thu nhập ảnh hưởng đến bản thân người lao động và gia đình họ cũng như xã hội. Vì vậy, bảo hiểm xã hội cùng với các
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1568 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bảo hiểm xã hội cho người lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ phận khác của bảo đảm xã hội như trợ cấp xã hội, trợ cấp gia đình khó khăn …. đã tạo ra một lưới an toàn xã hội cho người lao động góp phần ổn định xã hội, công bằng xã hội, để quá trình tái sản xuất được diễn ra bình thường và liên tục.
Đề tài nghiên cứu chủ yếu về mặt lý thuyết của vấn đề, chỉ ra những thực trạng chủ yếu và đề ra những giải pháp liên quan đến bảo hiểm xã hội.
Với mong muốn tìm hiểu và làm sáng tỏ tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội đối với người lao động em đã chọn đề tài “Bảo hiểm xã hội cho người lao động”.
Kết cấu của đề tài bao gồm:
Lời mở đầu
Phần I: Những vấn đề lý luận chung về Bảo hiểm xã hội.
Phần II: Đánh giá thực trạng về công tác Bảo hiểm xã hội ở nước ta trong thời kỳ vừa qua.
Phần III: Phương hướng và giải pháp.
Kết luận.
Phần I
Những vấn đề lý luận chung
về Bảo hiểm xã hội
I. Qúa trình phát triển của Bảo hiểm xã hội.
1.1 Sơ lược lịch sử phát triển của Bảo hiểm xã hội.
BHXH đã có từ lâu và thực sự trở thành hoạt động mang tính xã hội từ đầu thế kỷ 19. Bộ luật đầu tiên về chế độ Bảo hiểm được được hình thành ở Anh năm 1919 với tên gọi “ luật nhà máy” và tập trung vào bảo hiểm cho người lao động làm việc trong các xưởng thợ. Vào năm 1883, luật bảo hiểm ốm đau hình thành ở Đức. cũng tại Đức , một số luật khác được hình thành , sau đó chẳng hạn luật tai nạn lao động được hình thành năm 1889. Đến nay BHXH được thực hiện trên nhiều nước và trở thành một bộ phận quan trọng trong hoạt động liên hợp quốc. Một tổ chức quốc tế lớn mạnh nhất thế giới hiện nay. Trong tuyên ngôn của liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948 có ghi “tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội ,có quyền hưởng BHXH , quyền đó đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”. Để thể chế hoá tinh thần đó, tổ chức lao động quốc tế ILD đã đưa ra công ước 102, quy định về tiêu chuẩn tối thiểu của BHXH và những khuyến nghị và các nước thành viên về việc thực hiện các tiêu chuẩn này.
2.2 Lịch sử phát triển của BHXH Việt Nam.
Như ở phần trên, BHXH phát triển gắn liền với sự phát triển của sản xuất công nghiệp ở Việt Nam trong gần một thế kỷ cai trị, bọn thực dân pháp hầu như không đề ra được những gì để bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Không thực hiện được chế độ, chính sách BHXH đối với người lao động Việt Nam. Sau cách mạng tháng 8/ 1945, Nhà nước ta đã thực hiện các chế độ BHXH cho công nhân viên chức trong phạm vi cho phép, với các chế độ như chế độ bảo hiểm ốm đau, chế độ bảo hiểm sinh đẻ, chế độ bảo hiểm tai nận, chế độ hưu trí. Tuy nhiên việc thực hiện còn phân tán. Đến tháng 12/1961, Nhà nước ban hành chế độ BHXH thống nhất và thi hành ngày 11/1961 trên cơ sở hình thành và sử dụng quỹ BHXH tập trung, dựa vào sự đóng góp của các doanh nghiệp và cơ quan nhà nước. Quỹ BHXH được sử dụng vì lợi ích của công nhân viên chức. Các chế độ thực hiện trong thời gian này bao gồm các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí mất sức, tử tuất. Việc thực hiện các chế độ BHXH ban hành năm 1961 là một lỗ lực lớn của Đảng và Nhà nước, nhân dân. Trong hơn 30 năm có hàng triệu lượt người được hưởng các chế độ về BHXH . Tuy nhiên các chế độ BHXH trong thời kỳ đó còn mang tính tập trung và bao cấp, đổi mới khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước nhu cầu mới toàn diện về kinh tế , xã hội năm 1994, Bộ luật lao động đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá IX. Trong đó, có nội dung của chế độ BHXH được đổi mới. Trong lần đổi mới này, các chế độ BHXH được nghiên cứu và xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc và yêu cầu của cơ chế mới.
II. Khái niệm, bản chất của BHXH
2.1 Khái niệm BHXH
BHXH là một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã hội mà nhà nước bảo đảm trước pháp luật cho mỗi người dân nói chung và người lao động nói riêng. BHXH là sự bảo đảm về vật chất cho người lao động thông qua các chế độ của BHXH nhằm góp phần ổn địn đời sống của người lao động và gia đình họ. BHXH là một hoạt động mang tính xã hội rất cao trên cơ sở sự tham gia, đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự quản lý bảo hộ của Nhà nước.
2.2 Bản chất của BHXH
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn phát triển đến mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH .
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp … hoặc những trường hợp xảy ra hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản … Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn trích lại.
- Mục đích của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm.
III. Đối tượng, chức năng, tính chất, ý nghĩa và tác dụng của Bảo hiểm xã hội.
3.1 Đối tượng của BHXH
Đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH .Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, theo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Hầu hết các nước khi có chính sách BHXH , đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt Nam cũng không vượt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là không bình đẳng giữa tất cả những người lao động.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH , ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH , dưới sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng riêng có của BHXH . Nó quyết định sự tồn tại, hoạt động và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững.
3.2 Chức năng của BHXH
BHXH có những chức năng chủ yếu sau:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ gặp những rủi ro như giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ dẫn đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo điều kiện quy định của BHXH . Còn mất việc và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH , nó quyết định nhiệm vụ tính chất và cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH .
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH . Tham gia BHXH không chỉ người lao động mà cả người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH . Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc .. Thực hiện chức năng này góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất, người lao động xã hội. Khi khoả mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, về già đã có BHXH trợ cấp thay thế phần thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được bảo đảm ổn định và có chỗ dựa. Do đó người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó họ tích cực lao động, sản xuất, nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế.
- Gắn bó lợi ích người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế người lao động với người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương … Thông qua BHXH , những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với nhà nước và xã hội, chỉ cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm ổn định sản xuất kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn.
3.3 Tính chất của BHXH
BHXH gắn liền với đời sống của người lao động. Vậy nên nó có một số tính chất sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội.
Như đã trình bày ở trên, trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể gặp nhiều biến cố, rủi ro khi người đó sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng và hợp đồng lao động luôn phải được đặt ra để thay thế. Sản xuất ngày càng phát triển, những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng lao động càng nhiều và càng trở lên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ nợ càng trở nên phức tạp, căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này Nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua BHXH . Và như vậy BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH . Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ BHXH .
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ. Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, quỹ BHXH muốn được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán rất cụ thể dựa trên xác xuất phát sinh thiệt hại của tập hợp người tham gia BHXH . Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao động theo các điều kiện của BHXH . Thực chất, phần đóng góp của người lao động là không đáng kể nhưng quyền lợi nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động việc tham gia đóng vào quỹ BHXH là để bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng.
Xét dưới góc độ kinh tế, họ cũng có lợi ích vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động
3.4. ý nghĩa – Tác dụng của BHXH
3.4.1 Đối với người lao động.
- Thực hiện tốt BHXH , Nếu gặp phải những rủi ro xã hội thì đời sống của người lao động vẫn được bảo đảm do đó họ yên tâm làm việc, tăng năng suất lao động, đem lại hiệu quả kinh tế.
- Việc người lao động đóng BHXH có tầm quan trọng về tâm lý rất đáng kể, nhắc nhở ý thức trách nhiệm và bảo vệ nhân phẩm của người lao động, xác lập quyền của người lao động được hưởng trợ cấp, chưa kể là còn có quyền tham gia quản lý chế độ BHXH .
- Việc người lao động đóng BHXH còn có tầm quan trọng về tình đoàn kết cộng đồng rất sâu rộng.
3.4.2. Đối với người sử dụng lao động
- BHXH cũng phục vụ lợi ích của người sử dụng lao động vì góp phần duy trì hoà bình và ổn đỉnh trong lao động, ổn định trong xã hội.
Người sử dụng lao động trả lương cho người lao động là đẻ đáp ứng nhu cầu của người lao động khi họ làm việc cho người sử dụng lao động. Chính là thông qua cơ chế BHXH mà sự chuyển giao tiền lương giữa hai hoàn cảnh đó được thực hiện.
- Người sử dụng lao động là lớp người thường ở vào hoàn cảnh may mắn, thuận lợi nhiều hơn. Sự đóng góp thêm của người sử dụng lao động chính là nhằm san sẻ bớt gánh nặng đó, là nhân danh tình đoàn kết xã hội, là căn cứ vào thực tế khả năng thanh toán của mỗi bên.
3.4.3 Đối với Nhà nước
Trước mắt BHXH vừa mới thoát khỏi cơ chế bao cấp, những tác dụng quan trọng đối với tiết kiệm nội bộ và đầu tư chưa đủ thời gian để tự biểu hiện.
Tuy vậy, mục đích của BHXH không giống Bảo hiểm thương mại ở tính chất kinh doanh mà chủ yếu là bảo vệ người lao động trước những rủi ro ngẫu nhiên. Tiết kiệm nội bộ và đầu tư dù là quan trọn nhưng cũng chỉ là chức năng dẫn xuất xã hội. Tác dụng phân phối lại thu nhập trong cơ chế BHXH cũng chỉ là một phần trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội của đất nước, nhất là trong điều kiện thực hiện BHXH ở nước ta chưa phổ cập đến tất cả thành viên trong xã hội
IV. Các nguyên tắc của BHXH
4.1. BHXH là sự bảo đảm về mặt xã hội.
Để người lao động có thể ổn định và duy trì và ổn định cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời hoặc hết tuổi lao động. Đây là nguyên tắc bảo đảm ý nghĩa và tính chất của bảo hiểm nó vừa mang giá trị vật chất, vừa mang tính xã hội. Điều này được thể hiện trước hết là sự bảo đảm bằng vật chất. Mức đảm bảo về vật chất cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tham gia vào BHXH . Vì vậy ảnh hưởng đến sự phát triển của sự nghiệp này .Về mặt xã hội theo nguyên tắc này, BHXH lấy số đông bù đáp số ít, lấy quãng đời lao động thực tế có thu nhập làm cơ sở để đảm bảo cho quãng đời không tham gia vào lao động .
4.2. BHXH vừa manh tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện
Tính bát buôc thể hiện ở nghĩa vụ than gia tói thiểu. như vậy nhà nước đóng vai trò tổ chức, định hướng người lao động và ngừng sử dụng loa động hiểu được nghĩa vụ và trách nhiệm hợp lý tham gia. Các loại hình và chế độ bảo hiểm, mà người lao động có thể tham gia, các loại hình và chế độ bảo hiểm, mà người lao động tham gia trên cơ sở sự phát triển của hệ thống BHXH của một nước trong từng giai đoạn nhát định . nguyên tắc này cho phép BHXH có điều kiện phát triển và mở rộng
4.3 xác định đúng đán mức tối thiểu của các chế độ BHXH
Vấn đề này có liên quan trưc tiếp đến các khía cạnh có liên quan đến thiết kế các chính sách và nội dung cụ thể của từng chế độ BHXH . Mức tối thiểu của các chế độ BHXH cụ thể . Mặt khác mức tối thiểu còn phải tính đến giá trị của các chế độ BHXH mà người tham gia dược hưởng . Nguyên tắc này liên quan trưc tiếp đến việc tạo người , xây dụng quỹ BHXH , và khuyến khích người lao động và các tầng lớp xã hội tham gia .
4.4 BHXH phải đảm bảo sự thống nhất và liên tục cả mức tham gia và tính thực hiện.
Nguyên tắc này bảo đảm sự thích hợp của BHXH trong cơ chế thị trường, thậm trí mang tính thường xuyên . Sự thay đổi nơi làm việc và thay đổi hợp đồng lao động cả về nội dung , đối tác … tạo ra những giai đoạn về thời gian và không gian của quá trình làm việc . Điều này có thể xảy ra trong các quan hệ về BHXH . Việc đảm bảo cho người tham gia BHXH có thể duy trì quan hệ một cách liên tục theo thời gian có tham gia và thống nhất về các chế độ sẽ tạo ra sự linh hoạt cần thiết và thuận tiện cho người lao động tham gia vào các quan hệ BHXH tốt hơn, đầy đủ và tích cực hơn do vậy, mức tham gia và thời gian thực tế tham gia là căn cứ chủ yếu nhất để duy trì quan hệ BHXH đối với người lao động.
4.5 Công bằng trong BHXH .
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng song cũng rất phức tạp trong chính sách BHXH . Quan hệ BHXH được thực hiện trong một thời gian dài, cả trong và ngoài quá trình lao động. Trong quá trình đó có thể có những thay đổi diễn ra. Mức và thời gian tham gia của từng người và mức hưởng lương của họ cũng có thể không giống nhau. Việc theo dõi và ghi nhận các vấn đề này không đơn giản, nhất là trong điều kiện một hệ thống BHXH đang còn có những khác biệt về đối tượng thành phần và khu vực tham gia ở nước ta hiện nay. Do vậy, bảo đảm công bằng trong BHXH là cần thiết nhưng rất khó đảm bảo tính tuyệt đối.
Sự công bằng, trước hết là phải đặt ra trong quan hệ giữa đóng góp và được hưởng. Điều này được thể hiện trong nội dung và điều kiện tham gia trong từng chế độ BHXH . Xét trên góc độ khác, công bằng còn đặt trong quan hệ xã hội giữa những người tham gia BHXH trong từng khu vực hay giữa các vùng, địa bàn, nghành nghề khác nhau … dựa trên nguyên tắc tính xã hội của bảo hiểm.
Trên đây là những nguyên tắc phải tính đến khi thiết kế và thực hiện các quan hệ và các chế độ về BHXH .
4.6. Phải lấy số đông bù số ít.
Cách làm riêng có của BHXH là mọi người tham gia BHXH , đóng góp cho bên nhận BHXH còn tính dần thành một quỹ tài chính độc lập và tập trung dùng để chi trả trợ cấp cho những người lao động khi và chỉ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập theo các chế độ xác định. Mức đóng góp BHXH thường rất thấp nên phần lớn những người lao động trong nước đều có thể đóng góp dễ dàng. Nhưng điều quan trọng là sự đóng góp đó được thực hiện đều kỳ là đóng góp của số đông.
Như vậy, trong số đông người tham gia đóng góp BHXH , chỉ những người lao động mới là đối tượng được hưởng trợ cấp. Trong số những người lao động lại chỉ những người bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay tuổi già có đủ các điều kiện cần thiết mới thực sự được hưởng trợ cấp. Trong số đó có những người đã tham gia đóng góp từ lâu, nhưng cũng có nhiều người vừa mới tham gia đóng góp. Vì thế số trợ cấp mà họ nhận được lớn hơn rất nhiều so với số tiền đã đóng góp của họ. Muốn làm được như vậy thì không có cách nào khác là phải lấy kết quả đóng góp của số đông người tham gia để bù cho số ít người được hưởng trợ cấp. Những người lao động chưa đủ điều kiện để hưởng trợ cấp này thì phần đóng góp của họ là để người khác được hưởng, nhưng không vì thế mà họ bị thiệt thòi. Một lúc nào đó trong cuộc đời làm việc chắc chắn họ sẽ còn phải được trợ cấp BHXH , khi đó trợ cấp mà họ được hưởng cũng là do nhiều người khác đóng góp.
4.7. Mức trợ cấp BHXH thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải bảo đảm mức sống tối thiểu.
Trợ cấp BHXH nói ở đây là trợ cấp thay thế cho tiền lương như trợ cấp ốm đau, thai sản, hưu trí tuổi già chứ không phải là loại trợ cấp bù đắp hoặc trợ cấp BHXH khác.
Như đã biết, tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ thực hiện công việc nhất định. Nghĩa là chỉ người lao động có sức khoẻ bình thường, có việc làm bình thường và thực hiện được công việc nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không thực hiện được công việc nhất định hoặc không việc làm mà trước đó khoong thể bằng tiền lương do lao động tạo ra được. Hơn nữa, cách lập quỹ phương thức dàn trải rủi ro của BHXH cũng không cho phép trả trợ cấp BHXH bằng tiền lương lúc đang đi làm. Vì trả trợ cấp bằng tiền lương thì chẳng khác gì người lao động bị rủi ro đem rủi ro của mình dàn trải hết những người khác.
Vậy mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm. Tuy nhiên , do mục đích, bản chất và cách làm cuar BHXH thì mức trợ cấp BHXH thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hàng ngày.
V. Các chế độ BHXH
5.1. Chế độ ốm đau.
- Đối tượng: là mọi người lao động đang tham gia BHXH .
- Trường hợp được hưởng: Do ốm đau, tai nạn rủi ro hoặc có con dưới 7 tuổi bị ốm mẹ/ bố nghỉ trông con. Loại trừ các trường hợp tự huỷ hoại sức khoẻ, say rượu, ma tuý
- Điều kiện: Đã đóng góp phí BHXH đủ 3 tháng trở lên, có giấy xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền do Bộ y tế xác nhận.
- Mức và thời hạn hưởng: Từ 85% đến 100% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH tuỳ từng trường hợp và tuỳ vào nhóm đối tượng. Nếu ốm quá thời hạn quy định đối với các bệnh cần điều trị dài ngày thì được hưởng bằng mức tiền lương tối thiểu. Thời hạn hưởng phụ thuộc vào điều kiện làm việc, thời gian đóng phí BHXH và tình trạng bệnh tật từ 30 ngày đến 60 ngày. Ngoài ra người lao động còn được hưởng chế độ nghỉ nghơi, dưỡng sức.
5.2. Chế độ thai sản.
- Đối tượng: lao động nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
- Trường hợp được hưởng: khám thai, sinh con, nuôi con, nuôi sơ sinh, thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình.
- Điều kiện hưởng: Đã đóng góp phí BHXH tối thiểu 3 tháng.
- Mức hưởng và thời hạn hưởng.
+ Mức trợ cấp thai sản bằng 100% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH . Ngoài ra khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi sơ sinh được trợ cấp 1 lần bằng 2 tháng tiền lương tối thiểu.
+ Thời hạn hưởng: Nghỉ khám thai tối đa 3 lần, mỗi lần từ 1 – 2 ngày tuỳ theo tình trạng thai sản, sảy thai được nghỉ 3 ngày Nếu thai dưới 3 tháng trở đi, 40 ngày Nếu thai từ 3 tháng trở lên.
5.3. Chế độ tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp.
- Đối tượng: là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, không bao gồm quân nhân, công an hưởng sinh hoạt phí.
- Trường hợp được hưởng: Bị tai nạn lao động ở nơi làm việc tai nạn lao động ngoài nơi làm việc theo yêu cầu của con ngươì sử dụng lao động, bị tai nạn rủi ro trên đường đi và từ nơi ở đến làm.
- Điều kiện: Phải có giám định khả năng lao động.
- Mức hưởng và thời hạn hưởng: Trợ cấp một lần được áp dụng cho các trường hợp suy giảm khả năng lao động từ 5%- 30% với mức từ 4- 12 tháng tiền lương tối thiểu, tuỳ theo tỷ lệ suy giảm khả năng lao động. Trợ cấp hàng tháng được áp dụng cho các trường hợp suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên với mức hưởng từ 0,6- 2,0 tháng tiền lương tối thiểu, tuỳ theo tỷ lệ suy giảm khả năng lao động.
5.4. Chế độ hưu trí:
- Đối tượng: Người lao động tham gia BHXH .
- Trường hợp hưởng: Đạt đến độ tuổi và thời gian đóng BHXH theo quy định.
- Điều kiện: Độ tuổi và thời gian đóng phí BHXH . Tuổi đời nam đủ 60 tuổi, nữ 55 tuổi trong điều kiện lao động bình thường; có 20 năm đóng BHXH .
- Mức hưởng: Trợ cấp hàng tháng từ 45% đến 75% mức lương bình quân; những người không đủ các điều kiện chuẩn thì cứ thiếu một tuổi đời trừ đi 1% theo mức chuẩn.
5.5. Chế độ tử tuất:
- Đối tượng: Người lao độngười đang lao động có tham gia BHXH , nghỉ hưu chết.
- Trường hợp được hưởng: thân nhân của người chết bao gồm con đẻ, con nuôi hợp pháp chưa đủ 15 tuổi( hoặc đang đi học thì đủ 18 tuổi ). Bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ/ chồng đã hết tuổi lao động; vợ chồng đã hết tuổi lao động.
- Điều kiện: Đã đóng BHXH đủ 15 năm trở lên. Người lao độngười có dưới 15 năm đóng BHXH thì chỉ nhận trợ cấp 1 lần.
- Mức trợ cấp: Trợ cấp hàng tháng bằng 50% mức tiền lương tối thiểu, trợ cấp một lần cứ mỗi năm đóng BHXH được tính bằng 1,5 tháng mức lương bình quân.
VI. Nguồn hình thành quỹ và mục đích sử dụng:
6.1. Nguồn hình thành quỹ BHXH :
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước.
Quỹ được hình thành từ các nguồn chủ yếu sau:
- Người sử dụng lao động đóng góp.
- Người lao độngười lao động đóng góp .
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm.
Các nguồn khác.
Người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để trả
cho chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi cho chế độ ốm đau, thai sản lao động bệnh nghề nghiệp.
Người lao độngười lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất.
Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động.
Các nguồn khác: Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH . Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH . Vì vậy, quỹ này được tính toán một cách khoa học . Trong thực tế việc tính chi phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH là khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước.
Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn hạn. Vì vậy, số đóng phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm.
Đối với các chế độ dài hạn quá trình đóng và hưởng tương đối độc lập và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định.
Như vậy, để xác định được mức phí phải đóng và mức hưởng BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu lao động theo tuổi, giới tính …
6.2. Mục đích sử dụng quỹ Bảo hiểm xã hội.
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, được sử dụng cho bản thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp phải rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong công ước 102 tháng 6 tại Gioneve: Chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp sinh đẻ, trợ cấp cho người tàn phế, trợ cấp cho người còn sống.
Tuỳ từng điều kiện mà mỗi nước thực hiện ở mức độ khác nhau. Cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế độ BHXH cụ thể.
Thời gian hưởng trợ cấp và mức trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng góp phí của người lao động, trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính BHXH . Nhưng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc tiền công khi người lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với mức tiền lương hay tiền công.Ngoài việc chi trả theo chế độ BHXH , quỹ BHXH còn được sử dụng cho chi phí quản lý, phần nhàn rỗi đem đầu tư sinh lợi.
Phần II
Đánh giá thực trạng về công tác BHXH ở nước ta trong thời gian vừa qua.
I. Khái quát tình hình thực hiện chính sách BHXH cho người lao động thời gian vừa qua.
1.1.Trước khi ( trước đại hội VI).
Nhà nước ta thực hiện chính sách BHXH gần 40 năm qua, đã đạt được những kết quả to lớn như: góp phần bảo đảm ổn định đời sống của công nhân viên chức nhà nước, góp phần giải quyết hậu quả chiến tranh, giải quyết hậu quả của việc dư lao động. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ những thiếu sót những tồn tại như:
- Nguồn quỹ chi trả BHXH hoàn toàn từ ngân sách Nhà nước.
- Đối tượng chính sách nh chỉ giới hạn là cán bộ công nhân, viên chức làm việc trong khu vực nhà nước và lực lượng vũ trang.
- Việc kiểm soát đối tượng hưởng chính sách còn lỏng lẻo, đã xảy ra nhiều thiếu sót trong việc thực hiện chính sách BHXH
1.2. Sau Đại hội Đảng VI.
1.2.1. Kết quả thu được.
Để phù hợp với cơ chế quản lý mới nền kinh tế nhiều thành phần. Chính phủ đã ban hành điều lệ BHXH kèm theo nghị định 12/ CP ngày 26/1/1995. Nội dung cơ bản của chính sách BHXH mới giải quyết những vấn đề có tác dụng nhiều mặt trong việc đảm bảo an toàn xã hội và ý nghĩa kinh tế – xã hội rất quan trọng đó là:
- Phạm vi đối tượng của điều lệ BHXH mang tính xã hội rộng lớn hơn, được áp dụng đối với mọi người lao động trong cơ quan, tổ chức doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Người lao động sử dụng lao động và người lao động đề có trách nhiệm trong việc đóng BHXH
- Thành lập được quỹ BHXH độc lập với ngân sách nhà nước.
- Nhà nước thực hiện quản lý thống nhất các chế độ BHXH thể hiện qua việc ban hành các quy định cụ thể các chế độ chính sách BHXH , tổ chức hướng dẫn, thanh tra việc thực hiện các chế độ đó.
Nhìn chung, chính sách BHXH mới phù hợp với thực tiễn, với đường lối đổi mới về kinh tế xã hội xhính trị của Nhà nước.
1.2.2. Tồn tại
Ngoài kết quả trên, chính sách BHXH mới còn tồn tại một số vấn đề sau:
- Nhận thức của người sử dụng lao động và người lao động về chính sách BHXH còn chưa đầy đủ.
Việc thực hiện chính sách BHXH khu vực ngoài quốc doanh chưa rộng.
Trả chế độ trợ cấp BHXH còn chậm.
- Công tác kiểm tra thanh tra việc thực hiện các chế độ BHXH còn hạn chế.
1.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại.
- Chính sách BHXH là một trong những chính sách đa dạng, phong phú và phức tạp. Vì vậy, có rất nhiều vấn đề tồn tại so với lịch sử để lại không thể giải quyết được ngay một lúc, hơn nữa nó liên quan đến nhiều chính sách khác nên không thể hoàn thiện trong một thời gian ngắn.
- Về nhận thức ý nghĩa, tầm quan trọng và cơ chế chính sách BHXH theo cơ chế mới chưa được các nghành, các cấp quán triết đầy đủ.
II. Đánh giá thực trạng về công tác BHXH qua một số năm.
2.1. Đối tượng, loại hình.
* Thực trạng
- Đối với loại hình BHXH tự nguyện.
+ Do đối tượng tham gia hoạt động tự do xuất phát từ sự tự giác của họ nên đối tượng tham gia còn quá ít. Thực tế cho thấy, loại hình BHXH tự nguyện là giai đoạn quá độ để chuyển từ hình thức tự nguyện thành tự giác, đơn giản trong việc quản lý giám sát tổ chức thực hiện ( tự nguyện ở đây chính là không cưỡng chế).
+ Đây là loại hình BHXH áp dụng cho những người lao động làm việc nơi có sử dụng từ dưới 10 người lao động và cả những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp từ 10 người lao động trở lên nhưng họ chỉ làm những công việc mà thời hạn dưới 3 tháng, làm việc theo mùa vụ hoặc các công việc có tính chất tạm thời khác. Với những đối tượng này thì khoản tiền BHXH mà họ được hưởng được trả luôn vào tiền lương. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên xuất hiện loại hình BHXH tự nguyện ở nước ta, nó chỉ thừa nhận về mặt pháp lý.
- Đối với loại hình BHXH bắt buộc.
+ Đây là loại hình bảo hiểm áp dụng đối với những doanh nghiệp sử dụng 10 người lao động trở lên. Thực tế hiện nay những đối tượng tham gia loại hình BHXH này còn ít hơn số người tham gia lao động ở các doanh nghiệp.
* Tồn tại
Số người tham gia cả hai loại hình BHXH bắt buộc và tự nguyện hiện nay ở nước ta quá ít.
* Nguyên nhân
Đối với loại hình BHXH tự nguyện thì chưa có hướng dẫn cụ thể cho người tham gia.
Đối với loại hình BHXH bắt buộc thì nguyên nhân của những tồn tại trên là do nhà nước còn chưa có hình thức phạt đích đáng đối với những đối tượng lẩn tránh nghĩa vụ đóng BHX._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34572.doc