Lời mở đầu
Giao thông vận tải là ngành kinh tế - kỹ thuật có vị trí quan trọng ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hầu hết các ngành kinh tế, xã hội an ninh quốc phòng. Giao thông vận tải là một bộ phận của kiến trúc hạ tầng kinh tế. Sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước có kiên quan chặt chẽ với sự phát triển của ngành giao thông vận tải. Bởi vậy có thể nói giao thông vận tải là huyết mạch của nền kinh tế, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1269 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở phòng Bảo hiểm huỵên Thanh Trì - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội của đất nước.
Giao thông vận tải nước ra gồm các hình thức chủ yếu: Vận tải đường bộ, đường thuỷ, đường sắt và hàng không. Trong đó vận tải đường bộ bằng xe cơ giới là hình thức phổ biến nhất, được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế. Với tốc độ vận chuyển nhanh hoàn thành quá trình vận chuyển một cách triệt để, chi phí vận chuyển tương đối thấp nên vận chuyển bằng xe cơ giới tiện lợi hơn rất nhiều so với vận chuyển bằng các hình thức khác. Hơn nữa vận chuyển bằng xe khác nhau có khả năng chuyên trở hàng hoá, con ngưòi tới mọi lúc, mọi lúc kể cả những điểm mà vận tải đường sắt, hàng không không tới được.
Tuy nhiên, do đặc điểm hoạt động của ngành vận tải là ngành sản xuất mang tính xã hội cao. Quá trình sản xuất tiến hành ngoài Công ty, chủ yếu là sự tiếp xúc giữa lái xe với xã hội, sự quản lý của Công ty chỉ trong một chừng mực nhất định. Vì vậy hình thức vận tải bằng xe cơ giới thường gặp rủi ro về tai nạn giao thông, cần phải có sự giáo dục, giúp đỡ của các ngành chức năng và toàn xã hội.
Cùng với sự biến động của nền kinh tế thị trường, vận chuyển bằng xe cơ giới cũng không ngừng phát triển, lượng xe lưu hành tăng lên một cách đáng kể. Bên cạnh đó, chất lượng hệ thống đường bộ ở đất nước ta còn kém, việc tu sửa lại
đường xá cháp vá chật hẹp, chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện mà chúng ta chưa có đủ biện pháp tối ưu để hạn chế, ngăn ngừa rủi ro.
Hơn thế nữa, mặc dù lượng xe lưu hành ngày một tăng nhưng vẫn không theo kịp với sự phát triển của cơ chế thị trường nên vẫn phải sử dụng những xe hết thời hạn sử dụng hoặc không đảm bảo độ an toàn. Lái xe không nghiêm túc chấp hành luật lệ an toàn giao thông.
Từ những đặc điểm trên, với phương châm "lá lành đùm lá rách" khi hoạn nạn, bảo hiểm là một hình thức gián tiếp giúp đỡ nhau khi khó khăn, sự ra đời của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự là cần thiết.
Từ thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này đã chứng minh được rằng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới không thể thiếu được và ngày càng phục vụ đắc lực cho sự phát triển của nền kinh tế.
Là sinh viên thuộc chuyên ngành kinh tế bảo hiểm, sau một thời gian nghiên cứu tài liệu và thực tập nghiệp vụ tại văn phòng Bảo hiểm huyện Thanh Trì, tôi xin chọn đề tài "Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở phòng Bảo hiểm huỵên Thanh Trì - Hà Nội" cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục đích của đề tài là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
- Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Văn phòng Bảo hiểm huyện Thanh Trì - Hà Nội.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện nghiệp vụ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Văn phòng Bảo hiểm huyện Thanh Trì - Hà Nội.
Hoàn thành chuyên đề này tôi đã nhận được sự giúp đỡ của cô giáo Ths. Nguyễn Thị Lệ Huyền, cán bộ chuyên môn của văn phòng Bảo hiểm huyện Thanh Trì - Hà Nội nơi tôi đã khảo sát trong suốt quá trình thực tập. Nhân đây tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự quan tâm giúp đỡ đó.
Lần đầu làm quen với thực tế, đối tượng nghiên cứu là một vấn đề rộng và phúc tạp nên không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn.
Phần I
Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
I- Sự cần thiết của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Dù ở phương thức sản xuất nào, con người và tài sản luôn bị đe doạ bởi thiên tai và các tai biến bất ngờ, phát sinh ngay trong các hoạt động của con người. Suốt trong lịch sử phát triển cuả mình, loài người đã phải chịu đựng và chứng kiến biết bao thảm hoạ, nào là động đất, núi lửa, sóng thần, bão tố, dịch bệnh rồi thì chiến tranh, tai nạn giao thông, phóng xạ, ô nhiễm, hoả hoạn. v.v… Các hiện tượng này luôn bất động và phát triển không theo một trình tự chu kỳ. Vì thế để đấu tranh cho sự tồn tại và phát triển của mình, con người đã có những biện pháp đấu tranh nhằm chinh phục và cải tạo thiên nhiên. Đồng thời con người phải tìm biện pháp đề phòng, ngăn ngừa những tai nạn xấu có thể xảy ra.
Tuy nhiên, kết quả đấu tranh còn phụ thuộc vào trình độ khoa học - kỹ thuật và tiềm lực phát triển của mỗi nước cũng như sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Song cho dù kha học - kỹ thuật có phát triển mức nào chăng nữa thì con người vẫn tồn tại trong lòng thiên nhiên, gánh chịu hậu quả do thiên nhiên gây ra với mức độ ngày càng giảm.
Để khắc phục hậu quả của thiên tai và tai nạn, đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống, mỗi gia đình, đơn vị sản xuất kinh doanh hay Nhà nước chỉ có một khoản dự trữ lớn để bù đắp thiệt hại và trang trải chi phí cho phần trách nhiệm phát sinh. Biện pháp tạo bảo hiểm bằng cách tiết kiệm tiền, dự trữ hiện vật hàng hoá của từng gia đình, từng doanh nghiệp tỏ ra kém hiệu quả về mặt kinh tế, nhất là khi xẩy ra thiệt hại lớn. Dự trữ lớn của Nhà nước thì lại không thể trang trải tổn thất nhỏ lẻ, phân tán của từng cá nhân gia đình hay một doanh nghiệp bị thất bại nhất là trong bối cảnh này nước ta đang chuyển dần sang nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp phải tự chủ và bảo toàn vốn của mình hay bị thiên tai và tai nạn bất ngờ gây thiệt hại. Biện pháp hữu hiệu nhất khắc phục được hai nhược điểm trên là tổ chức bảo hiểm như một dịch vụ tài chính có tính chất chuyên nghiệp - bảo hiểm thương mại (hay còn gọi là bảo hiểm rủi ro)
Đối tượng của bảo hiểm thương mại là: con người, tài sản và trách nhiệm. Quỹ bảo hiểm được lập ra từ sự đóng góp cá nhân, đơn vị tham gia baỏ hiểm. Ngoài ra còn dùng để chi lập quỹ dự trữ, chi cho việc quản lý của doanh nghiệp, chi thực hiện nghĩa vụ đói với ngân sách Nhà nước. trong những trường hợp cụ thể được chi dùng cho việc tiến hành các biện pháp để phòng hạn chế tổn thất. Như vậy có thể nói bảo hiểm có một sức mạnh tài chính để trở thành tấm lá chắn về kinh tế trước sự tàn phá của hiểm hoạ bất ngờ.
Thực chất bảo hiểm là sự cam kết của người bảo hiểm bồi thường đối với người được bảo hiểm về những mất mát thiệt hại của đối tượng bảo hiểm do những rủi ro gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã mua bảo hiểm cho những đối tượng đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.
Bên cạnh những rủi ro nghiêm trọng do thiên tai gây ra, chính bản thân sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến đã đem đến cho con người những sự cố bất thường không thể tránh khỏi.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, hàng năm trên thế giới có khoảng 7000 vụ tai nạn lớn nhỏ xẩy ra trên biển, cứ hai giây có một vụ tai nạn ô tô, trung bình mỗi ngày xẩy ra một trận động đất hoặc núi lửa phun, hai trận gió bão tuyết hoặc sóng thần, làm hàng triệu người chết và bị thương, số tài sản bị thiệt hại tính bằng tiền để đủ nuôi toàn bộ dân Châu Phi.
Trong số các tổn thất nghiêm trọng xẩy ra, đặc biệt phải kể đến các tổn thất về người và tài sản do tai nạn về điều khiển xe cơ giới gây ra, Có thể nói đây là một thiệt hại lớn nhất (gấp 10 lần tai nạn máy bay và xe lửa). Cùng với công cuộc cơ khí hoá và tự động hoá, tai nạn giao thông đường bộ đã tăng lên một con số đáng kể và trở thành hiểm hoạ lớn đối với xã hội. Riêng ở Nhật Bản, những người bị tai nạn ô tô, bị thương, bị chất trong tai nạn ô tô đã tăng từ 21.540 người trong năm 1948 lên 78.764 trong năm 1994, tức là tăng 36 lần chỉ trong vòng 6 năm.
ở Pháp tháng 12/1992 đã xẩy ra gần 13.000 vụ đụng xe, làm 648 người bị thiệt mạng.
ở nước ra, đi đôi với sự gia tăng của các loại phương tiện cơ giới, tai nạn giao thông cũng ngày một gia tăng. Theo cục Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt, chỉ tính riêng từ 1.1. đến 20.2.2000 trên phạm vi cả nước đã xẩy ra 4427 vụ tai nạn giao thông làm chết 1282 người và bị thương 4685 người. So với cùng kỳ năm trước, tình hình tai nạn giao thông trong thời gian qua tăng 14,5% số vụ; 22,56% số người thiệt mạng trong các vụ tai nạn giao thông so với vùng kỳ năm trước tăng 1 người.
Trong số các phương tiện gây tai nạn có 35,14% là xe ô tô vận chuyển hành khách, 63% là xe mô tô. Đặc biệt có một số vụ tai nạn giao thông rất nghiêm trọng đều xẩy ra đối với ô tô khách và do lôĩ của chủ phương tiện:
Vụ tai nạn xe khách mang biển số 63A - 53 - 89, bị mất phanh khi xuống dốc tại đèo Cù Mông, xe đâm vào vách đá làm 36 người chết, 47 người bị thương.
Vụ tai nạn tại đèo Cả tỉnh Khánh Hoà, xe 75B - 18 - 91 của HTX ô tô Huế tỉnh Thừa Thiên Huế so va chạm với một xe đã bốc cháy dữ dội rồi lao xuóng biển, 29 hành khách trên xe chết và 11 người bị thương nặng, xe bị phá huỷ hoàn toàn.
Vụ tai nạn xe khách mang biển số 37H -17 - 00, lái xe đã tự ý trao tay lái cho chủ xe không có bằng lái nên làm chết 6 người đi xe máy đang đi ngược đường.
Qua những số liệu trên cho thấy những vụ tai nạn để lại hậu quả rùng rợn như thế thiết nghĩ nếu không có bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì làm sao có thể kéo lại được phần nào mất mát và thiệt hại khủng khiếp ấy.
Như vậy, cũng như các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ khác, hoạt động GTVT cần được bảo hiểm hay nói một cách khác hoạt động GTVT không thể tách rời bảo hiểm. Vì thế sự ra đời của loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là đòi hỏi tất yếu.
Trên thế giới, nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được ra đời ở thế kỷ XIX gắn kèm với sự phát minh và sử dụng xe hơi.
Tốc độ phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm này rất mạnh mẽ, nhất là đối với các nươc phát triển như: Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật v.v… Doanh thu của nó chiếm tỷ trọng lớn (trên dưới 30% ) Trong tổng doanh thu toàn bộ hoạt động bảo hiểm. Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều có qui định đây là loại bảo hiểm "bắt buộc"
ở Việt Nam do những đặc điểm trên, đặc biệt là do tổ chức hoạt động của xe cơ giới là nguồn nguy hiểm cực độ, thực tế đã gây ra tai nạn thường xuyên không thể lường trước được. Hơn thế nữa, để đảm bảo quyền lợi cho người bị nạn khi có thiết hại xảy ra ngày 10/3/1998 Hội đồng Bộ trưởng đã ra nghị định số 30/HĐBT qui định bắt buộc tất cả các chủ xe cơ giới đăng ký hoạt động trên lãnh thổ các nước CHXHCN Việt Nam đều phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe tại Bảo Việt.
Trách nhiệm dân sự của chủ xe ở đây là phần trách nhiệm bồi thường những hậu quả được tính bằng tiền theo qui định của luật pháp hoặc phán quyết của toà án quyết định chủ xe của mình gây tai nạn làm cho:
+ Bên thứ 3 bị thiệt hại hoặc bị thương tích.
+ Của cải, tài sản của bên thứ 3 bị huỷ hoại, hư hỏng.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe là biện pháp kinh tế huy động sự đóng góp của các chủ xe hình thành nên quỹ bảo hiểm. Quỹ đó chủ yếu được sử dụng để bồi thường, bù đắp cho các chủ xe trong thời gian xe hoạt động gây ra tai nạn, làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe, nhằm góp phần ổn định về mặt tài chính cho chủ xe.
II. Tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá và đặc biệt là khi xoá bỏ cơ chế bao cấp, quỹ bảo hiểm chính là nguồn bảo đảm tài chính chắc chắn cho các tổ chức kinh tế để khắc phục hậu quả các hiểm hoạ, bảo toàn và tiếp tục phát triển các nguồn vốn của mình. Các nhà kinh doanh có lắm nỗi lo: Lo sao "có vốn làm ăn" là nỗi lo muôn thuở, rồi lại lo "cụt vốn, sạt nghiệp" khi không may gặp phải rủi ro nhất là đối với nguồn vốn trợ cấp tài chính trong cơ chế thị trường hiện nay. Quy mô đầu tư càng lớn thì rủi ro đầu tư cũng càng cao. Họ lựa chọn và gửi gắm doanh nghiệp của mình vào các loại hình bảo hiểm về tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Như ta đã biết, tai nạn giao thông ngày một gia tăng, một vấn đề tồn tại còn hết sức phức tạp là việc giải quyết hậu quả của nó. Bởi vì chức trách và khả năng giải quyết chỉ ở mức độ hết sức hạn hẹp, hình thức trước những mất mát đau thương của nạn nhân. Theo như luật pháp đã quy định: chủ xe cơ giới phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ những thiệt hại về người và tài sản do sự lưu hành xe của họ gây ra đối với người thứ ba. Song trên thực tế, khi xảy ra tai nạn do trách nhiệm hình sự mà có nhiều người lái xe bỏ chạy, cũng như do điều kiện kinh tế của chủ xe còn hạn hẹp không dư khả năng bồi thường cho nạn nhân. Vì thế trong rất nhiều trường hợp người bị nạn không biết khôi phục lại thiệt hại, mất mát đầu tư.
Như vậy để đảm bảo quyền lợi cho người bị nạn khi xảy ra tai nạn cũng như bảo đảm cho chủ xe (lái xe) khỏi những hoang mang về tinh thần và những chi phí về kinh tế không thể lường trước nổi, cần thiết phải có một biện pháp kinh tế thành lập quỹ dự trữ bồi thường trách nhiệm dân sự của chủ xe.
- Bồi thường chủ động, kịp thời cho chủ xe khi phát sinh trách nhiệm dân sự. Khi tai nạn giao thông xảy ra, trong đó lỗi của lái xe thì Công ty bảo hiểm (Nơi mà chủ xe tham gia bảo hiểm) sẽ thông qua hoạt động nghiệp vụ của mình tiến hành việc chi bồi thường cho các chủ xe một cách kịp thời, giúp các chủ xe có thêm điều kiện vật chất để nhanh chóng khắc phục hậu quả xẩy ra không khải chi ra những khoản chi bất thường gây mất cân đối về mặt tài chính.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe ra đời đã có tác dụng:
- Đề ra các biện pháp để phòng ngừa và ngăn ngừa tai nạn tích cực giảm số vụ tai nạn có thể xẩy ra. Bằng cách thông qua công tác bảo hiểm trách nhiệm chủ xe, thúc đẩy các lái xe thực hiện tốt biện pháp an toàn nhằm giảm một cách tối đa các tổn thất có thể xẩy ra. Bên cạnh đó thông qua việc thu phí bảo hiểm để có nguồn chi vào việc ngăn ngừa các tai nạn xảy ra, cụ thể là được thực hiện thông qua việc chi đề phòng, hạn chế tổn thất như: chi làm đường lánh nạn, mở rộng hoặc làm thêm đường xá.v.v…
Trong điều kiện cơ chế quản mới hiện nay, các đơn vị được giao vốn và tự cân đối về mặt tài chính. Vì vậy, đối với các chủ xe, khoản chi bồi thường cho người bị nạn khi không may xe gây tai nạn cho người khác là rất lớn. Song nếu chủ xe đã tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự, mà gặp phải tai nạn gây thiệt hại cho người thứ ba thì các chủ xe đã có nguồn để bì đắp sự thiệt hại. Đó chính là số tiền bồi thường giúp cho các đơn vị, chủ thể ổn định và phát huy quyền tự chủ về tài chính khi không may xẩy ra tai nạn mất ngờ phát sinh trách nhiệm của xe, làm thiệt hại kinh tế của chủ xe.
Bên cạnh các tác dụng trên, bảo hiểm TNDS còn hỗ trợ chủ xe trong việc thương lượng, hoà giải với nạn nhân, xoa dịu, làm bớt căng thẳng giữa lái xe với nạn nhân.
Đồng thời với người bị nạn, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng giúp cho họ giảm bớt những khó khăn ban đàu, có sự giải quyết thích đáng khi tai nạn xẩy ra.
Với những tác dụng trên, một lần nữa lại khẳng định sự cần thiết khách quan cũng như sự "bắt buộc" của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự là tất yếu.
III- Một số nội dung chính nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1- Đối tượng bảo hiểm - Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe
Đối tượng của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba chính là phần trách nhiệm dân sự của các chủ xe. Kể cả các chủ xe trong nước và các chủ xe là người nước ngoài có giấy phép sử dụng xe trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam.
Trách nhiệm dân sự của chủ xe bao gồm trách nhiệm trước sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ, trách nhiệm về việc điều khiển xe của người lái xe. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới không chịu trách nhiệm về mặt hình sự cuả chủ xe, cũng như thiệt hại vật chất của bản thân xe.
Đối tượng bảo hiểm là nghiã vụ hay trách nhiệm bồi thường của chủ xe. Đối tượng mang tính trìu tượng, hay được xác định bằng một con số cụ thể. chỉ khi nào việc lưu hành xe gây ra tai nạn trên lãnh thổ nước ta, thì khi đó đối tượng mới được xác định.
Đi đôi với trách nhiệm của chủ xe là trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm. Song trách nhiệm đó chỉ phát sinh khi có các điều kiện sau xẩy ra:
1- Có thiệt hại thực tế
Trong thực tế xe đã gây tai nạn làm thiệt hại về tài sản hoặc gây thương tích đến tính mạng hay tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba. Những thiệt hại này có thể tính bằng số liệu cụ thể từ những trường hợp đặc biệt có thể tính toán bằng số tương đối phù hợp với tình hình thực tế như:
+ Hậu quả tai nạn gây ra thiẹthại về hoa mầu sắp đến ngày thu hoạch.
+ Đối tượng thiệt hại là xúc vật sắp đến ngày sinh đẻ.
2- Hành vi trái pháp luật:
Tai nạn xảy ra, chủ xe phải có lỗi về mặt hình sự hoặc chủ xe (lái xe) đã vi phạm quy tắt đảm bảo an toàn luật lệ giao thông xã hội. Ngoài ra có thể vi phạm về đường lối chính sách của Đảng - Nhà nước cũng thuộc hành vi trái pháp luật được đánh giá cao thấp khác nhau tuỳ theo mức độ vi phạm bằng mức độ lỗi cụ thể.
3- Mối quan hệ nhân của giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại đã xẩy ra:
Thiệt hại xẩy ra: thiệt hại xẩy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật. Ngược lại hành vi pháp luật là nguyên nhân trực tiếp, có ý nghĩa quyết định gây ra thiệt hại. Không có hành vi trái pháp luật, chắc chắc không có thiệt hại.
Trường hợp hành vi trái pháp luật không phải là nguyên nhân chính gây ra thiệt hại nhưng lại là nguyên nhân trực tiếp, gây ra tai nạn thì cũng được coi là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của thiệt hại thức tế.
Ví dụ: Một số ô tô đang chạy trên đường, đội nhiên thấy xuất hiện xe máy trong ngõ hẻm lao ra. Buộc người lái xe ô tô đánh tay lái về phía lề đường bên phải để tránh chiếc xe máy. Nhưng không may đã gây tai nạn cho người đi xe đạp trong sát lề đường. Trường hợp vụ tai nạn đó người lái xe máy là nguyên nhân quyết định, gây ra tai nạn. Do với hành vi của người lái xe ô tô và với thiệt hại của người lái xe đạp vẫn có mối quan hệ nhân quả.
4- Người gây tai nạn có lỗi:
Khi xẩy ra tai nạn, chủ xe (lái xe) phải nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật. Hành vi đó có thể do lỗi cố ý, lỗi vô ý hoặc thiếu tinh thần trách nhiẹm. Mức độ lỗi đó sẽ là cơ sở để tính toám trách nhiệm bồi thường cho nạn nhân.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ vụ tai nạn nào người lái xe cũng có lỗi. Thực tế có những vụ tai nạn xảy ra không do lỗi của ai. Nguyên nhân tai nạn là do sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ.
Ví dụ: Xe đang chạy bị mất phanh đâm xuống vực hoặc va vào vách đá.v.v…
Tóm lại, khi có tai nạn xẩy ra, trách nhiệm dân sự của chủ xe hay trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm chỉ phát sinh khi vụ tai nạn có ít nhất 3 điều kiện.
- Thiệt hại thực tế
- Hành vi trái pháp luật
- Mối quan hệ nhân quả giữa chúng
Ba điều kiện đó phải xẩy ra đồng thời trong một vụ tai nạn. Không phát sinh trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm nếu thiếu một trong 3 điều kiện trên. Còn điều kiện thứ tư có thể có, có thể không xẩy ra nhưng vẫn phát sinh trách nhiệm bồi thường.
2- Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Quan hệ ràng buộc của chủ xe với bảo hiểm là nghị định 30/HĐBT và quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe do Bộ Tài chính ban hành, quy định quyền lợi và trách dân sự của chủ xe, đảm bảo lợi ích cho chủ xe đồng thời có tác dụng đảm bảo an toàn chung cho xã hội.
Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự được thiết lập dựa trên nguyên tắc bảo hiểm toàn diện. Tất cả mọi yêu cầu, mọi rủi ro cơ bản đều được bảo hiểm.
Đảm bảo yêu cầu, trong những năm qua hạn mức trách nhiệm của bảo hiểm cho mỗi vụ tai nạn luôn luôn được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Hơn thế nữa đã tiến tới bảo hiểm toàn bộ theo thiệt hại thực tế, để đáp ứng tốt nhất yêu cầu đó.
Quy định mức miễn bồi thường hay các biện pháp chế tài chủ yếu nhằm tác dụng giáo dục chủ xe và lái xe có ý thức trách nhiệm hơn trong đề phòng và hạn chế tai nạn. Do đó các quy định mức miễn thường được xem xét điều chỉnh cho phù hợp với sự biến động của giá cả.
Quy tắt bảo hiểm thiết lập biêt gắn trách nhiệm đề phòng ngăn ngừa tai nạn với nguyền lợi được hưởng bồi thường. Cơ quan bảo hiểm tiến hành bồi thường có lưu ý đến công tác đề phòng, ngăn ngừa tai nạn cho chủ xe. Chủ xe nào thực hiện tốt trách nhiệm khi xảy ra tai nạn sẽ được bồi thường. Chủ xe nào vi phạm trách đề phòng thì tuỳ theo mức độ sẽ áp dụng các mức miễn thường khác nhau.
Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới quy định những điều khoản chủ yếu sau đây:
- Điều khoản về rủi ro được bảo hiểm
- Điều khoản về phạm vi và trách nhiệm của bảo hiểm
- Điều khoản về phí bảo hiểm (mức phí và thời gian nộp).
- Điều khoản quy định sự thay đổi làm tăng giảm tính chất rủi ro của từng loại xe.
- Điều khoản đề phòng, ngăn ngừa và hạn chế tai nạn
- Điều khoản về thời gian hiệu lực bảo hiểm
- Điều khoản quy định quyền khiếu nại đòi bồi thường.
Ngoài những điều khoản chủ yếu trên, quy tắc còn có một số điều khoản phụ.
3- Người được bảo hiểm
Đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng như bảo hiểm tài sản, người được bảo hiểm bao giờ cũng là người được bồi thường.
Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe, khi xe gây thiệt hại cho bên thứ ba, người được bảo hiểm bồi thường là chủ xe hoặc người đại diện cho chủ xe. Đại diện chủ xe uỷ quyền.
Chủ xe là người được pháp luật Nhà nước công nhận có đủ các quyền hạn sau
- Quyền sở hữu xe
- Quyền quản lý xe
- Quyền cho thuê xe
- Quyền bán hoặc nhượng xe
Như vậy, lái xe không phải là chủ xe. Trước pháp luật Nhà nước, lái xe không đủ tư cách pháp nhân là người tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự trước Nhà nước về sự hoạt động xe của mình. Lái xe chỉ là người được chủ xe uỷ quyền điều khiển xe hoặc là người làm công ăn lương cho chủ xe. Do đó lái xe cũng phải là người được bảo vệ trực tiếp mà chính chủ xe mới là người được bảo hiểm về mặt trách nhiệm dân sự.
Khái niệm bên thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe là phía nạn nhân trong vụ tai nạn. Bên thứ ba có thể là người trực tiếp bị tai nạn, hoặc những người có tài sản, hành lý bị tai nạn, hoặc những người có tài sản, hành lý bị thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn gây ra. Hoặc không phải bất kỳ người nào là nạn nhân trong vụ tai nạn cũng thuộc bên thứ ba. Trong lúc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe có quy định loại trừ những người không thuộc người thứ ba, đó là:
- Thân nhân của chủ xe
- Thân nhân của người lái xe
- Người làm công cho chủ xe hoặc những người ở trên xe
- Của cải và tài sản của các đối tượng trên thị trường bị thiệt hại cũng như những tài sản của những người khác đang được giam giữ tại chủ xe.
Tất cả các đối tượng trên đây khi bị tai nạn gây thiệt hại không thuộc về bên thứ ba.
Bên thứ ba trong tai nạn giao thông không giới hạn số người. Tuỳ theo từng vụ thực tế bên thứ ba có thể là một hoặc nhiều người.
Bên thứ ba trong vụ tai nạn không phải là người được hưởng bồi thường của bảo hiểm. Vì họ không có mối quan hệ ràng buộc gì trong hợp đồng bảo hiểm. Việc giải quyết bồi thường cho nạn nhân chỉ là việc giải quyết linh hoạt nhằm đơn giản về mặt thủ tục thanh toán tiền bồi thường và tăng cường công tác tuyên truyền tác dụng của bảo hiểm sâu rộng. Bên cạnh đó giải quyết bồi thường cho nạn nhân còn phát huy được tính kịp thời, giúp người bị nạn có điều kiện nhanh chóng khắc phục hậu quả tai nạn.
4- Phạm vi bảo hiểm
Cơ quan bảo hiểm nhận bảo hiểm các rủi ro không lường trước được gây ra tai nạn làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Những rủi ro được bảo hiểm là những rủi ro do sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Cụ thể là những rủi ro tai nạn, thiệt hại sau:
- Tai nạn gây ra làm thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ đối với bên thứ ba.
- Tai nạn gây ra làm thiệt hại về đường sá, tài sản, cầu sống của bên thứ ba.
- Hậu quả tai nạn gây thiệt hại đến quá trình sản xuất và đời sống cuả các tài sản bị hư hỏng và huỷ hại làm cho nạn nhân bị mất hoặc giảm thu nhập.
- Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp hạn chế thiệt hại.
- Các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả những biện pháp không mang lại hiệu quả ).
- Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn.
- Chi phí cần thiết cho việc cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn.
- Chi phí cần thiết cho việc cứu chữa và chăm sóc nạn nhân.
Nhìn chung, vi phạm trách nhiệm của bảo hiểm rất rộng, song không phải là tất cả mọi tai nạn đều thuộc bảo hiểm. Cụ thể những tai nạn xẩy ra do những nguyên nhân sau, mặc dù có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe nhưng không được bảo hiểm bồi thường:
- Tai nạn xẩy ra do lái xe có hành động cố ý gây ra tai nạn. Hoặc lái xe không đủ điều kiện hợp pháp để lưu hành xe như lái xe đang trong tình trạng say rượu hay sử dụng quá nhiều chất kích thích.
- Nạn nhân tự mình lao vào xe đang chạy hoặc nhảy lên nhảy xuống khi xe chưa dừng bánh.
- Các vật dụng chuyên chở trên xe rơi xuống đường hoặc va quyệt gây tai nạn làm thiệt hại cho phía ngươì đi đường. Trường hợp này tai nạn sẩy ra không do sự hoạt động của xe mà do bốc xếp hay không đảm bảo đủ yêu cầu vận chuyển. Trách nhiệm đó thuộc lỗi người chuyên chở không thuộc chủ xe.
- Tai nạn xẩy ra do xe không đảm bảo kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành teo quy định trong điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ như: Phanh xe hỏng, vô lăng không đièu khiển được, xe đi đêm không có đèn, xe đang trong thời gian sửa chữa hoặc chậy thử ….
- Xe chuyên chở quá trọng tải, chạy quá tốc độ quy định gây thiệt hại đến đường xá, cầu cống và người thứ ba.
Những thiệt hại này thuộc rủi ro biết trước xẩy ra nhưng cố tình vi phạm.
Ngoài những nguyên nhân gây tai nạn trên, thiệt hại của người theo quy định không thuộc người thứ ba hoặc những thiệt hại xẩy ra ngoài lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam (Trừ những trường hợp có thoả thuận riêng với cơ quan bảo hiểm Nhà nước ) cũng không thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
5. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
5.1. Số tiền bảo hiểm:
Là giới hạn trách nhiệm bồi thường tối đa của bảo hiểm đối với các trường hợp trách nhiệm dân sự phát sinh.
Bộ Tài chính quy định hạn mức trách nhiệm tối thiểu bắt buộc cho mọi chủ xe. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể đưa ra các mức trách nhiệm tự nguyện cao hơn mức bắt buộc đó để các chủ xe lựa chọn. Việc quy định trách nhiệm cao hay thấp phụ thuộc vào các yếu tố như: nhu cầu bảo hiểm và khả năng tài chính của các chủ xe, tình hình thực tế tai nạn, loại phương tiện và thậm chí cả khả năng đảm bảo của nhà bảo hiểm. Nhà bảo hiểm có thể quy định mức một số tiền bảo hiểm để thuận tiện cho việc bán sản phẩm của mình, nhưng cũng có thể chia sản phẩm của mình thành nhiều mức khác nhau. Việc tổ chức bán sản phẩm bảo hiểm theo nhiều mức có ý nghĩa đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của các chủ xe theo cách đánh giá, phân đoạn thị trường của nhà bảo hiểm. Điều cần chú ý ở đây là hạn mức trách nhiệm trong hợp đồng hoặc trong giấy chứng nhận bảo hiểm mà chủ xe được cấp có ý nghía áp dụng cho từng vụ tổ thất. Thông thường thời hạn bảo hiểm của loại bảo hiểm này là 1 năm. Trong 1 năm được bảo hiểm, phương tiện được bảo hiểm có thể gây ra nhiều hơn một vụ tai nạn. Trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm cho người được bảo hiểm được tính theo từng vụ tai nạn theo hạn mức trách nhiệm đã thoả thuận. Việc tính toán bồi thường của nhà bảo hiểm theo từng vụ là độc lập nhau. Và trong mọi trường hợp, số tiền bồi thường tối đa mà người được bảo hiểm có thể nhận được trong từng vụ là bằng với hạn mức trách nhiệm. Với những vụ tổn thất lớn, trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm cho người thứ ba có thể quá hạn mức trách nhiệm mà họ đã thoả thuận với người bảo hiểm. Trong trường hợp như vậy, dĩ nhiên người được bảo hiểm phải tự gánh chịu phần vượt quá hạn mức trách nhiệm này. Trong cùng một điều kiện như nhau mức trách nhiệm bảo hiểm có ảnh hưởng quyết định đến mức phí mà người được bảo hiểm phải đóng góp. Người được bảo hiểm sẽ phải đóng mức phí cao hơn nếu họ được cung cấp một bảo hiểm có hạn mức trách nhiệm lớn hơn.
5.2. Phí bảo hiểm
Theo hình thức bắt buộc chủ xe (lái xe) tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự đều phải đóng một khoản phí nhất định. Phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe được thu theo mỗi đầu phương tiện hoạt động. Các phương tiện khác nhau có khả năng gây tai nạn khác nhau.
Do đó phí bảo hiểm cũng tính riêng cho từng loại phương tiện. Tuy nhiên đối với mỗi loại xe phí bảo hiểm chủ xe phải đóng cho mỗi hoạt động đầu xe gồm 2 phần:
- Phần thực phí (phí thuần) là phần chủ yếu trong số phí thu dùng cho việc bồi thường thiệt hại xẩy ra.
- Phần phụ phí được xác định bằng một tỷ lệ % nhất định trên toàn bộ chi phí thu, dùng để chi cho quản lý kinh doanh và các khoản chi khác (hoa hồng, giám định…)
Phí thuần được xác định dựa trên xác suất xẩy ra rủi ro và thiệt hại bình quân trên số xe hoạt động đã được thống kê trong khoảng thời gia trước đó.
F = Ư + d
Trong đó: F - Số phí thu một đầu xe
Ư - Thực phí
d - Phụ phí
Tuỳ theo mỗi nghiệp vụ bảo hiểm ở các thời kỳ khác nhau quá trình khai thác và quản lý nghiệp vụ khác nhau, phụ phí (d) chiếm tỷ lệ khác nhau. Nhưng thông thường chiếm từ 20 - 30%
Thực phí được xác định theo công thức:
Ư =
Trong đó:
Si: số vụ tai nạn xẩy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe trong năm thứ i
Ti: Thiệt hại bình quân đối với mõi vụ tai nạn cùng năm
Ci: Số xe hoạt động thực tế mỗi năm
i: Thứ tự năm lấy số liệu thống kê tính (thường dồn 5 năm )
Phương pháp tính phí trên được áp dụng để tính phí cho các loại xe hoạt động thông dụng. Còn đối với các loại xe không thông dụng có mức rủi ro lớn hơn như: Xe kéo rơ móoc, xe chở hàng nặng. v.v.v Tuỳ theo mức độ rủi ro sẽ tính thêm tỷ lệ phụ phí trên mức phí cơ bản.
Mức phí cơ bản được xác nhận theo công thức trên áp dụng cho mỗi năm sẽ được nhân thêm với tỷ lệ trượt giá do uỷ ban vật giá Nhà nước thông báo.
Đối với xe hoạt động ngắn hạn, kể cả xe của người nước ngoài mức phí đóng góp đã được xác định.
F x Sc
M =
12
F x Sk
Số phí hoàn lại =
12
Trong đó :
Sc : Là số tháng xe hoạt động
Sk : Là số tháng xe không hoạt động
Trên thực tế từ năm 1991 trở đi, bảo việt có các mức trách nhiệm khác nhau nên chủ xe tham gia bảo hiểm mức trách nhiệm nào thì phí bảo hiểm được tính theo mức trách nhiệm đó.
Ví dụ: Đối với bảo hiểm xe con (xe du lịch từ 5 chỗ ngồi chở xuống )
Biểu phí bắt buộc taị Công ty bảo hiểm Hà Nội.
* Mức trách nhiệm dân sự của chủ xe đối vớ._.i người thứ ba
Về người : 7 triệu đồng/ người/ vụ.
Về tài sản : 40 triệu đồng / vụ
Phí đóng là: 65.000 đồng
Ngoài ra Công ty bảo hiểm còn mở thêm các hạn mức trách nhiệm cao hơn, tương ứng với các vức phí cao hơn.
Chẳng hạn cũng ví dụ trên chủ xe còn có thể tham gia hai hạn mức trách nhiệm sau:
* Mức chọn 1:
Về người: 10 triệu đồng/người/ vụ
Về tài sản : 60 triệu đồng/ vụ
Phí đống: 80.000 đồng
* Mức chọn 2:
Về người: 15 triệu đồng / người / vụ
Về tài sản: 69 triệu đồng / vụ
Phí đóng : 85.000 đồng
* Mức chọn 2:
Về người: 15 triệu đồng/ người/vụ
Về tài sản: 60 triệu đồng/vụ
Phí đóng: 85.000đ
Trên cơ sở mức trách nhiệm bảo hiểm và mức phí bảo hiểm mà Bảo Việt đề ra chủ xe phải có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm đầy đủ và đúng kỳ hạn.
5.3. Trách nhiệm đóng phí và thời gian thu nộp phí
Nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm là trách nhiệm của những người đứng tên chủ xe trong giấy phép lưu hành xe. Những xe không được cấp giấy phép lưu hành, nghĩa vụ nộp phí thuộc về trách nhiệm của người quản lý chiếc xe đó. Đối với những xe lần đầu tiên đưa ra sử dụng, nghĩa vụ nộp phí thuộc người đứng tên cho chủ xe không có biển đăng lý, nghĩa vụ nộp phí thuộc về người đã mua xe.
a. Chủ xe là người nội địa
Nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm bắt đầu từ khi xe được cấp biển đăng ký mà kéo dài trong suốt thời gian mang biển đăng ký. Xe không có biển đăng lý nghĩa vụ nộp phí được bắt đầu từ khi xe đưa ra sử dụng và kéo dài đến khi xe hết khả năng hoạt động.
Trường hợp chủ xe đã đóp phí bảo hiểm trong năm những vào một thứng nào đó của xe bị hỏng, hết khả năng hoạt động thì chủ xe sẽ được hoàn số phí còn lại của những tháng xe ngừng hoạt động. Nếu xe bị hỏng gây ra tai nạn phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe thì không được hoàn phí.
Thời hạn nộp phí được quy định tối đa là một năm. Trong thời gian từ ngày 1 tháng 1 đến hết ngày 31 tháng 3 hàng năm chủ xe có thể tham gia bảo hiẻem thưo thời hạn nhưng thời gian bao rhiểm ghi trong giấy chứng nhận đối với những xe này chỉ đến ngày 31 tháng 3 năm sau.
Những xe có giấy phép hoạt động trước ngày 1 tháng 4, những từ ngaỳ 1 tháng 4 năm sau mới tham gia bảo hiểm thì ngoài phí bao rhiểm gốc còn phải chịu phạt nộp chậm phí bảo hiểm cho những ngày nộp chậm theo tỷ lệ 2 bên đã thoả thuận. Thời gian nộp chậm nhất là 15 ngày sau khi nhận được thông báo. Cụ thể theo quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ban hành ngày 30 tháng 3 năm 1998.
- Chậm từ 1 đến 2 tháng nộp thêm 100% mức phí cơ bản
- Chậm từ 2 đến 4 tháng nộp thêm 200%
- Chậm từ 4 tháng trở lên nộp thêm 300%
b- Chủ xe là người nước ngoài.
Đối với xe của người nước ngoài, nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm phát sinh khi phương tiện bắt đầu hoạt động và kéo dài trong suốt thời gian hoạt động trên lãnh thổ nước ta.
Nghĩa vụ xe của người nước ngoài, nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm phát sinh khi phương tiện bắt đầu hoạt động và kéo dài trong suốt thời gian hoạt động trên lãnh thổ nước ta.
Nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm quy định áp dụng đối với tất cả những người nước ngoài khi vào Việt Nam tham quan hay công tác có mang theo. Thời gian xe hoạt động trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam dài hơn so với thời gian đã nộp phí thì chủ xe phải nộp thêm phí bảo hiểm cho những ngày kéo dài đó.
Trường hợp chủ xe nước ngoài khi vào lãnh thổ nước ta có thể chứng minh được cơ quan bảo hiểm nước họ đã nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với những thiệt hại do hoạt động xe của họ gây ra, đồng thời uỷ quyền cho Bảo Việt bồi thường thiệt hại do sự lưu hành xe đó gây ra trong thời gianm hoạt động của xe nước ngoài vượt quá thời hạn uỷ nhiệm, chủ xe phải có trách nhiệm nộp phí cho những ngày kéo dài vào ngày dầu tiêu của thời gian đó.
Phí bảo hiểm thu trên cơ sở biểu phí của Bộ tài chính ban hành, nguyên tắc thay bằng USD hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi trường hợp chủ xe thật sự khó khăn ngoại tệ thì Bảo Việt có thể thu bằng đồng Việt Nam chuyển đổi trên cơ sở biểu phí ngoại tệ do Bộ Tài chính ban hành, theo tỷ giá ngân hàng công bố tại thời điểm thu phí.
5.4. Mức tăng, giảm phí:
Để động viên các chủ xe tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tai nạn. Bộ tài chính cho phép tăng giảm phí tuỳ theo mức độ tổn thất của từng xe chủ xe. Công ty phải thống kê, theo dõi số xe số phí bảo hiểm, tình hình tai nạn, bồi thường của từng chủ xe xét theo từng năm thì mới có điều kiện để thực hiện tăng giảm phí.
Đối với xe trong nước chỉ áp dụng tăng giảm phí với những chủ xe có ít nhát từ 10 xe trở lên.
Chủ xe là người nước ngoài, áp dụng tăng giảm phí đối với từng chủ không kể đến số lượng tham gia bảo hiểm nhiều hay ít.
Tỷ lệ tổn thất được xác định trên cơ sở số tiền bồi thường và số phí thu của chủ xe trong năm trước của năm bảo hiểm nhiều hay ít.
Tỷ lệ tổn thất được xác định trên cơ sở số tiền bồi thường và số phí thu của chủ xe trong năm trước của năm bảo hiểm. Khi tính toán số tiền bồi thường chú ý bao gồm cả số tiền bồi thường thiệt hại xe gây ra tai nạn ở các tỉnh khác gây ra vào đầu tháng 12 để các Công ty Bảo hiểm có điều kiện tính phí cho cả năm bảo hiểm tiếp theo. Sau hi chủ xe đã nộp phí bảo hiểm đầy đủ. Cơ quan bảo hiểm phải cấp giấy chứng nhận và phí bảo hiểm cho chủ xe.
- Giấy chứng nhận bảo hiểm là một bằng chứng chứng nhận hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết. Trên giấy chứng nhận bảo hiểm một số mục như: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ 3 và người ngồi trên xe. Bảo hiểm vật chất xe, thời gian tham gia bảo hiểm, ngày cáp chứng nhận.v.v… Ghi chính xác những thông tin này để khi xẩy ra tai nạn bất ngờ có thể giải quyết chính xác và thoả đáng.
- Phù điêu bảo hiểm dùng để dán lên kính xe, giúp cho việc kiểm tra của cảch sát giao thông và bảo hiểm phát hiện xe chưa tham gia bảo hiểm lưu hành trên đường.
6. Trách nhiệm và quyền lợi của chủ xe
Mặc dù đã tham gia bảo hiểm những chủ xe vẫn là người có trách nhiệm chính trong việc đề phòng hạn chế tai nạn và khi có tổn thất xẩy ra. Đề làm tốt trách nhiệm của mình, chủ xe phải chủ động phối hợp với các ngành thực hiện các biện pháp chủ yếu sau:
- Định kỳ hàng năm tiến hành tổ chức các lớp tập huấn cho lái xe, phụ xe nhằm đề cao trách nhiệm của lái xe, phụ xe trong việc đảm bảo an toàn giao thông.
- Bảo quản tốt các phương tiện vận tải, bảo đảm đủ điều kiện tiêu chuẩn kỹ thuật để hoạt động xe tốt.
- Đề xuất kiến nghị với ngành GTVT, công an, CSGT thường xuyên quan tâm chỉ đạo việc sửa sang lại hệ thống đường xá, xây dựng biển báo, Panô, áp phích tại các đầu nối giao thông quan trọng, đoạn đường nguy hiểm.
- Tổng kết đánh giá công tác ATGT trong mỗi đơn vị vận tải.
Tìm ra nguyên nhân thường xuyên gây ra tai nạn, từ đó đưa ra biện pháp hạn chế, ngăn ngừa.
Bên cạnh đó để giúp cho việc tính toán và giải quyết bồi thường của bảo hiểm thực hiện được kịp thời, giúp chủ xe và người bị nạn có điều kiện nhanh chóng khắc phục hậu quả tai nạn, yêu cầu chủ xe báo ngay cho cơ quan bảo hiểm gần nhất biết:
+ Ngày, giờ, địa điểm xẩy ra tai nạn
+ Số đăng ký xe gây tai nạn
+ Họ tên người lái xe.
+ Tên nạn nhân và địa chỉ .
+ Mức độ nghiêm trọng của vụ tai nạn
+ Nguyên nhân xẩy ra tai nạn và mức độ xử lý ban đầu của người chủ xe (lái xe) .
Mặt khác chủ xe có nghĩa vụ hoàn lại tiền cho cơ quan boả hiển khi cơ quan bảo hiểm đã gaỉi quyết trong một số trường hợp chủ xe hoặ lái xe vi phạm luật lệ giao thông cũng như những quy định khác của bảo hiểm.
Ngoài trách nhiệm của những người tham gia bảo hiểm, chủ xe có những quyền lợi trong hợp đồng như:
+ Quyền tham gia phân phối quỹ bảo hiểm, tức là quyền hưởng bồi thường khi có tai nạn rủi ro được bảo hiểm xảy ra.
+ Quyền yêu cầu của cơ quan bảo hiểm bổ xung, sửa đổi hợp đồng và mở rộng phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm.
+ Quyền bổ xung và khiếu nại đòi bồi thường trong thời hạn 2 năm kể từ khi có tai nạn xẩy ra. Quá thời hạn, nếu chủ xe không có yêu cầu gì thì trách nhiệm bảo hiểm mới kết thúc.
7. Công tác giám định và bồi thường.
7.1. Công tác giám định:
Để đảm bảo tính trung thực, khách quan cho cả 3 bên : Người bị nạn, chủ xe, (lái xe) và bảo hiểm , cơ quan bảo hiểm đã xúc tiến việc giám định nguyên nhân và hậu quả vụ tai nạn. Qua đó xác định phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm nấu xét thấy tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm, cơ quan bảo tiếp tục xúc tiến các công việc sau:
- Phối hợp với cảnh sát giao thông tiến hành giám định hiện trường sau khi xẩy ra tai nạn, mức độ nỗi của các bên có liên quan trong vụ tai nạn.
- Tranh thủ ý kiến của chủ xe và lời khai của nhân chứng qua tờ khai tai nạn với thực tế hiện trường để đi đến kết luận cuối cùng về nguyên nhân vụ tai nạn.
- Tranh thủ ý kiến của chủ xe và lời khai của nhân chứng qua tờ khai tai nạn với thực tế hiện trường để đi dến kết luận cuối cùng về nguyên nhân vụ tai nạn.
- Kiểm tra tính chính xác của vụ tai nạn qua việc đề nghị cơ quan CSGT, CSĐT cung cấp bản sao biên bản giám định, bao gồm.
+ Biên bản kiểm nghiệm hiện trường hiện tại.
+ Biên bản kiểm nghiệm xe có liên quan trong vụ tai nạn.
+ Biên bản kết luận điều tra
+ Các chứng cứ khác có liện quan đến vụ tai nạn .
- Đối chiếu thực tế vụ tai nạn đã được xác minh với quy tắc và điều khoản bảo hiểm hiện hành, có kết luận sơ bộ đi đến giải quyết bồi thường.
- Trước khi xác định thiệt hại thực tế của bên thứ ba cần chú ý đến khái niệm bên thứ 3 trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe. Tai nạn xẩy ra không thuộc diện bên thứ ba thì không cần xác minh bên thiệt hại.
Như vậy căn cứ vào biên bản xác minh và giám định mà cơ quan bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ xe. Bởi vì số tiền bồi thường này căn cứ vào:
+ Thiệt hại thực tế của bên thứ ba.
+ Mức độ lỗi của chủ xe
+ Mức trách nhiệm bảo hiểm mà chủ xe tham gia.
Xác định đúng đắn thiệt hại thực tế của ban thứ ba do hậu quả của vụ tai nạn gây ra là cơ sử đi đến kết luận số tiền bồi thường của bảo hiểm đúng đắn. Tuỳ theo thiệt hại thực tế của bên thứ ba là thiệt hại tài sản hay thiệt hại về con người việc tính bồi thường dựa vào các căn cứ khác nhau.
7.2. Công tác bồi thường
* Nguyên tắc bồi thường thiệt hại:
+ Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Mức bồi thường và hình thức bồi thường do hai bên thoả thuận với nhau trong biên bản hoà giải hoặc do toàn án phán quyết.
+ Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây ra thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
Khi quá mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì hai bên có quyền yêu cầu toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
* Tính toán mức bồi thường của người gây thiệt hại:
+ Mức bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào mức độ lỗi của người gây thiệt hại và thiệt hại của nạn nhân. Trường hợp tai nạn xảy ra hoàn toàn do lỗi của người gây thiệt hại thì họ có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại cho nạn nhân.
+ Trường hợp cả bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại cùng có lỗ thì bên gây thiệt hại vẫn phải bồi thường phù hợp với mức độ lỗi của họ. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của một người nào khác thì người này phải bồi thường. Nếu lỗi của người này và lỗi của phía xe cơ giới đều là nguyên nhân gây tai nạn thì hai bên đều phải liên đới bồi thường cho nạn nhân theo mức độ lỗi của mình.
Trách nhiệm bồi thường của mỗi bên = thiệt hại của nạn nhân x mức độ lỗi của từng bên.
* Quy trình và hoàn chỉnh hồ sơ:
Khi xẩy ra tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm, người bảo hiểm phải hướng dẫn và giúp chủ xe hoàn chỉnh hôg sơ bồi thường. Thông thường trong một bộ hồ sơ chủ xe phải cung cấp cho nhà bảo hiểm những giấy tờ tài liệu sau:
+ Tờ khai tai nạn của chủ xe
+ Bản sao giấy chứng nhận bảo hiểm
+ Biên bản khám nghiệm hiện trường
+ Biên bản khám nghiệm xe
+ Bản kết luận điều tra tai nạn (nếu có)
+ Biên bản hoà giải hoặc quyết định của toà án
+ Các chứng từ liên quan đến tổn thất, những khiến nại của nạn nhân như các hoá đớn chứng từ về viện phí, các chi phí y tế, tiền tàu xe, mai táng phí, hoá đơn sửa chữa mua mới tài sản .v.v…
- Xác định số tiền bồi thường của nhà bảo hiểm:
Căn cứ vào hồ sơ tai nạn, căn cứ vào việc tính toán trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm, căn cứ vào han mức trách nhiệm đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm, nhà bảo hiểm có thể tính toán số tiền bồi thường. Nhà bảo hiểm có thể bồi thường cho chủ xe hoặc có thể yêu cầu họ bồi thường trực tiếp cho nạn nhân.
Trường hợp tai nạn xảy ra do lỗi của một người nào đó, sau khi bồi thường, nhà bảo hiểm sẽ thay chủ xe khiếu nại người có lỗi này. Trường hợp hai xe cùng chủ đâm vào nhau, thiệt hại của hai xe không phát sinh trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm, tuy nhiên nhà bảo hiểm sẽ phải bồi thường nếu vụ tai nạn này làm thiệt hại cho một người thứ ba nào khác.
Nhà bảo hiểm sẽ từ chối bồi thường trong trường hợp người được bảo hiểm vì áp lực, vì dễ dãi đã thoả hiệp với nạn nhân dù khồn có cơ sở. Nhà bảo hiểm cũng sẽ từ chối bồi thường nếu có bằng chứng chứng minh được sự thông đồng gian lận giữa nạn nhân và người được bảo hiểm.
Việc bồi thường của nhà bảo hiểm được tiến hành trong một lần, tuy nhiên có những trường hợp để giảm bớt những khó khăn về tài chính cho chủ xe, nhà bảo hiểm có thể cho chủ xe ứng trước một số tiền bồi thường. Sau khi đã hoàn chỉnh hồ sơ, tính toán số tiền bồi thường cụ thể, nhà bảo hiểm sẽ trừ đi số tiền mà chủ xe đã ứng trước này.
Trường hợp có bảo hiểm trùng, người được bảo hiểm có thể được những quyền lợi từ các hợp đồng đã ký song tổng số tiền bồi thường của các nhà bảo hiểm cũng không vượt quá trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm đối với người thứ ba.
* Toàn bộ thiệt hại thực tế của bên thứ ba được tính như sau:
Thiệt hại thực tế của bên thứ ba bằng thiệt hại về tài sản công thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ bằng thiệt hại về tài sản cộng chi phí về nạn nhân cộng thu nhập của giảm sút hoặc bị mất.
Khi có tai nạn xảy ra phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm, số tiền bảo hiểm bồi thường được tính toán dự trên 2 cơ sở yếu tố:
+ Thiệt hại thực tế của bên thứ ba
+ Mức độ lỗi của chủ xe trong vụ tai nạn
Trên cơ sở đó số tiền bồi thường được tính toán theo công thức sau:
Số tiền bồi thường = lỗi của chủ xe x thiệt hại bên thứ ba + bồi thường nhân đạo
Bồi thường nhân đạo: Được áp dụng trong các trường hợp thiệt hại không thuộc phạm vi bồi thường của Bảo Việt, mặc dù xe gây tai nạn có tham gia bảo hiểm. Mức bồi thường cho những thiệt hại đó tối đa là 2 triệu đồng/người/vụ. Được áp dụng cho các trường hợp sau:
+) Nạn nhân có thu nhập bị mất, giảm nhưng không đòi bồi thường về mất giảm thu nhập.
+) Nạn nhân có thu nhập thấp thuộc các đối tương chính sách Nhà nước (người hưởng lương hưu, trợ cấp xã hội) mặc dù thu nhập không bị mất, giảm.
+) Nạn nhân không có thu nhập như: trẻ em chưa đến tuổi lao động, ngưòi già không còn sức lao động, người tàn tật.
+) Nạn nhân bị chết nhưng gia đình nạn nhân không được hưởng về bồi thường mất, giảm thu nhập, vì khi còn sống nạn nhân không phải nuôi dưỡng hay trợ cấp cho gia đình.
+) Nạn nhân bị tai nạn ô to nhưng ô tô gây tai nạn bỏ chạy hoặc chủ xe chưa tham gia bảo hiểm hoặc bảo hiểm đã hết hiệu lực.
Nạn nhân thuộc các đối tượng nói trên bị thương tật từ 61% trở lên hoặc bị chết được hưởng mức trợ cấp cao nhất 2 triệu đồng/ người. Nạn nhân bị thương với tỷ lệ thương tật dưới 61% được hưởng trợ cấp theo tỷ lệ thương tật là 2 triệu x tỷ lệ thương tật.
7.2.1. Bồi thường thiệt hại về tài sản:
Trường hợp tài sản bị thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm. Bảo Việt sẽ bồi thường toàn bộ những chi phí cần thiết, hợp lý phần sửa chữa khôi phục lại trạng thái ban đầu của tài sản. Tất cả bộ phận mới hay cũ đều phải trừ khấu hao theo dõi thời gian sử dụng.
Nếu giá trị thiệt hại tài sản thuộc phạm vi bảo hiểm ước từ 500.000đ trở lên thì Bảo Việt phải trực tiếp giám định, phải được minh hoạ bằng ảnh chụp.
Đối với những tài sản bị thiệt hại đã được Bảo Việt bồi thường toàn bộ giá trị phải thu hồi lại tài sản đó. Việc sử lý tài sản thu hồi phải thực hiện theo thông tư 04 ngày 7 tháng 5 năm 1996 của Bộ Tài chính. Giá trị tài sản thu hồi phải được ghi giảm số tiền đã bồi thường.
7.2.2. Bồi thường về tính mạng, sức khoẻ:
Trên thực tế, thiệt hại về tính mạng là những khoản thiệt hại không thể tính được, bổi vì sức khoẻ của con người là vô giá. Tiền bồi thường thực chất là khoản đền bù một phần thiệt hại do tai nạn gây ra giúp gia đình nạn nhân khắc phục những khó khăn về tài chính cho gia đình bản thân họ.
Chi phí thực tế cho nạn nhân là khoản chi phí về gia đình nạn nhân hoặc cơ quan đoàn thể bỏ ra do có sự thiệt hại về tính mạng hoặc sức khoẻ của nạn nhân. Bao gồm:
1. Chi phí mai táng: Là khoản chi cho việc đưa tang, chôn cất tìm kiếm xác (nếu có). Các khoản này giải quyết theo chi phí thực tế, nhưng tối đa không vượt quá 25% mức trách nhiệm.
2. Chi phí cứu chữa nạn nhân:
- Chi phí cấp cứu: Bao gồm chi phí cấp cứu ban đầu, chi phí di chuyển bệnh viện, chi phí đi lại khám chữa thương tích, chi phí đi lại của người chăm sóc nạn nhân (nếu có).
- Tiền hao phí vật chất và các chi phí y tế khác liên quan đến việc điều trị tai nạn như: tiền thuốc, máu, dịch tuyến, chụp phim, chi phí phẫu thuật, làm chân tay giả, viện phí.v.v…
- Tiền bồi dưỡng nạn nhân: bằng 0,1% mức trách nhiệm bảo hiểm trên ngày tính từ ngày bị nạn cho đến khi vết thương được điều trị ổn định, tối đa không quá 180 ngày.
- Tiền công chăm sóc nạn nhân (nếu nạn nhân không tự phục vụ được). Mức giải quyết 0,1% mức trách nhiệm bảo hiểm /ngày kể từ ngày nạn nhân bị tai nạn đến khi vết thương được điều trị ổn định, tối đa không quá 180 ngày.
3. Thiệt hại thu nhập:
Khoản thu nhập giảm sút hoặc bị mất gồm những khoản thu nhập do nạn nhân phải nằm điều trị. Thu nhập dùng làm cơ sở tính mức mất hoặc giảm thu nhập thực tế, ổn định ít nhất 6 tháng. Tiền của bản thân nạn nhân trước khi xẩy ra tai nạn.
Thiệt hại nhập gồm:
- Thu nhập trong và sau khi điều trị
- Trường hợp bị thương:
+ Sau khi xảy ra tai nạn, nếu nạn nhân còn thu nhập thì mức chênh lệch giữa thu nhập trước khi xảy ra tai nạn và sau khi xảy ra tai nạn là thu nhập bị giảm. Nếu không xác định được mức giảm thu nhập thì có thể bồi thường theo tỷ lệ giảm sút sức khoẻ nạn nhân với thu nhập thực tế trước khi xảy ra tai nạn. Tỷ lệ giảm sút sức khoẻ được căn cứ vào bên bản giám định y khoa hoặc căn cứ vào bảng quy định tỷ lệ thương tật 4 hạng ban hành kèm theo thông tư số 32/thị trường/TB ngày 27/11/1995 của bộ y tế thương binh xã hội.
+ Sau khi xẩy ra tai nạn, nếu nạn nhân không còn thu nhập nữa thì thu nhập bị mất là thu nhập trước khi xảy ra tai nạn.
+ Trong thời gian điều trị thương tích, nạn nhân phải ngừng lao động thì thu nhập bị mất là thu nhập của nạn nhân trước khi xảy ra tai nạn tương ứng với số ngày phải ngừng lao động. Nếu nạn nhân vẫn còn thu nhập về tiền lương thì thu nhập bị giảm là thu nhập trước khi xẩy ra tai nạn từ đi phần tiền lương đó.
- Trường hợp chết:
- Thu nhập bị mất đối với gia đình nạn nhân là thu nhập của nạn nhân trừ phàn chi tiêu của bản thân khi còn sống tạm thời quy định chi tieue cho bản thân nạn nhân là 60% thu nhập dành chi tiêu cho gia đình.
+ Trường hợp khi còn sống, nạn nhân không có trách nhiệm phải nuồi dưỡng hay trợ cấp cho người khác thì không phải bồi thường nốt thu nhập cho gia đình nạn nhân.
- Thời gian tính bồi thường mất giảm thu nhập:
+ Thời gian tính mất giảm thu nhập thông thường là 3 năm, trường hợp gia đình có khó khăn thực sự thì thời gian có thể được tính đến 5 năm
+ Thu nhập của nạn nhân được tính cả phần thu nhập chính và thu nhập phụ thường xuyên. Không tính đến các khoản thu nhập do làm ăn trái phép. Đối với nạn nhân làm nghề tự do, thu nhập bi giảm, mất được tính bằng cán bộ công nhân viên chức Nhà nước có cùng nghề và trình độ thành thạo.
+ Ngoài ra khi tính toán thiệt hại thực tế của bên thứ ba, còn tính đến thiệt hại về kinh doanh do hậu quả vụ tai nạn gây ra như: xe hỏng trong thời gian sửa chữa phải ngừng hoạt động làm thiệt hại kinh doanh đến chủ xe trong những ngày sửa chữa.v.v…
Về nguyên tắc, khi yêu cầu Bảo Việt bồi thường, chủ xe phải thu thập đầy đủ hồ sơ như đã quy định trong quy tắc cung cấp cho Bảo Việt. Nếu có những văn bản chứng từ chủ xe không thu thập được thì Bảo Việt có thể phối hợp cùng chủ xe thu thập nhưng chủ xe phải thanh toán các chi phí sao chụp mà Bảo Việt đã chi cho CSGT.
Việc tính toán và bồi thường dựa vào thông tư 03 và 173 của TAND tối cao và công văn số 1180/BH của Tổng Công ty Bảo Việt Việt Nam tức là việc bồi thường vẫn được túnh toán theo thiệt hại thực tế. Thiệt hại bao nhiêu tính toán bấy nhiều cộng với chi phí hợp lý liên quan số tiền bồi thường tối đa không quá số tièn bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng nhận. Từ năm 1974, Bảo Việt đã đề ra 4 hạn mức trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3:
Mức tối thiểu:
Về người: 12 triệu đồng/người /vụ
Về tài sản: 30 triệu đồng/vụ
Mức thứ hai:
Về người: 15 triệu đồng/người vụ
Về tài sản: 40 triệu đồng/ vụ
Mức thứ ba :
Về người : 20 triệu đồng/ người/ vụ
Về tài sản : 80 triệu đồng / vụ
Mức thứ tư :
Về người: 30 triệu đồng / người/ vụ
Về tài sản: 80 triệu đồng / vụ
Ngoài ra chủ xe còn có thể tham gia với hạn mức trách nhiệm bảo hiểm cao hơn tuỳ theo khả năng tài chính của mình.
Trong khi tính toán số tiền bồi thường của bảo hiểm cần lưu ý:
- Hai xe cùng thuộc một chủ đâm vào nhau ngoài thiệt hại của chủ xe còn gây thiệt hại cho người đi đường. Khi đó phần thiệt hại của bản thân hai xe không phát sinh trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm vì không thuộc TNDS của chủ xe. Nhưng phần thiệt hại của người đi đường lại phát sinh trách nhiệm dân sự và bảo hiểm sẽ bồi thường toàn bộ số tiền thiệt hại của người đi đường.
- Hai xe đâm va vào nhau, mức độ lỗi ngang nhau bảo hiểm vẫn bồi thường cho các chủ xe theo số tiền dược định bằng 50% thiệt hại của bên kia.
- Hai xe thuộc hai chủ khác nhau, tham gia bảo hiểm cùng một đại diện bảo hiểm địa phương. Việc tính toán số tiền bồi thường vẫn được tính toán bình thường.
Ví dụ: Về việc tính toán số tiền bồi thường
Trên đường xe A là 30 triệu, xe B là 20 triệu, xe B hỏng phải sửa chữa trong 4 ngày, mỗi ngày chủ xe thất thu 200.000đ. Cả hai bên đều không có thiệt hại về người, lỗi mỗi bên là 50%.
Yêu cầu: Xác định vụ tai nạn nói trên, biết rằng:
+ Xe A tham gia bảo hiểm với mức trách nhiệm dân sự của chủ xe là:
Về người: 4 triệu đồng/ người/ vụ
Về tài sản: 10 triệu đồng/ vụ
+ Xe B tham gia với mức trách nhiệm dân sự của chủ xe là:
Về người: 15 triệu đồng / người/ vụ
Về tài sản: 80 triệu đồng / vụ
+ Hai xe thuộc hai chủ khác nhau
Lời giải:
Bước 1: Xác định thiệt hại mỗi bên
Thiệt hại thực tế của xe A: 30 triệu
Thực hiện thực tế của xe B: 20 triệu
Thiệt hại thực tế của xe B về kinh doanh là 4 x 200.000 = 800.000đ
Tổng thiệt hại xe B là : 20.000.000 + 800.000 = 20.800.000đ
Bước 2: Xác định bồi thường của chủ xe A đối với xe B:
50% x 30.000.000 = 15.000.000đ
Số tiền bảo hiểm thay mặt A bồi thường cho Blà 10 triệu đồng
Số tiền bảo hiểm thay mặt B bồi thường cho A tham gia mức trách nhiệm về tài sản là 10 triệu đồng / vụ .
Mặt khác bảo hiểm thực hiện theo nguyên tắc bồi thường theo thiệt hại thực tế. Nên dù mức trách nhiệm về tài sản chủ xe B tham gia là 80 triệu dồng/ vụ nhưng vẫn chỉ được bồi thường 15triệu/ vụ.
Tuy nhiên để giải quyết một cách linh hoạt, đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra và nhằm nâng cao uy tín của Công ty, thu hút đông đảo khách hàng trên thực tế số tiền bồi thường của bảo hiểm được tiến hành chi trả trực tiếp cho nạn nhân để dảm bảo khắc phục hậu quả tai nạn một cách nhanh chóng .
Phần II
Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở phòng bảo hiểm huyện Thanh Trì - Hà Nội
I- Một số nét khái quát về phòng bảo hiểm Thanh Trì.
Huyện Thanh Trì là một huyện có số dân cư tương đối đông ở thành phố Hà Nội, có trên hàng trăm các cơ quan, xí nghiệp, doanh nghiệp .v.v...hoạt động, sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện đồng thời có tuyền đường quốc lộ 1A chạy qua trên địa bàn. Đây là nguồn đối tượng vô cùng to lớn trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên ở địa bàn huyện không chỉ có văn phòng đại diện bảo hiểm huyện độc quyền khai thác mà còn phải cạnh tranh với nhiều đại lý của các Công ty bảo hiểm khác như: Bảo Minh , PJiCo, PVIC…nên thị trường này luôn sôi động.
Với đặc điểm chỉ là văn phòng đại diện của Bảo Vịêt Hà Nội với 10 cán bộ trong đó:
- 1 trưởng phòng chỉ đạo chung
- 1 cán bộ kế toán kiêm tài vụ
- 1 cán bộ thủ quỹ
- 1 cán bộ thống kê
- 1 cán bộ giám định kiêm khai thác
- 5 cán bộ khai thác và thu thập hồ sơ .
Tất cả đội ngũ khai thác đều thực hiện tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm mà Bảo Việt Hà Nội giao triển khai, chủ yếu là các loại hình bảo hiểm như:
1- Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
2- Cảo hiểm hàng hoá vận chuyển nội địa
3- Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
4- Bảo hiểm vật chất ô tô
5- Bảo hiểm TNDS chủ xe đối với hành khách
6- Bảo hiểm trách nhiệm chủ xe đối với hàng hoá vận chuyển trên xe
7- Bảo hiểm TNDS chủ phương tiện đối với người thứ ba
8- Bảo hiểm toàn diện học sinh
9- Bảo hiểm kết hợp con người
10- Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật
11- Bảo hiểm sinh mạng cá nhân
12- Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi trên xe
13- Bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt .
Nhiệm vụ chính của phòng là tuyên truyền quảng cáo về bảo hiểm đến từng cơ sở trong địa bàn, bán phí bảo hiểm cho đối tượng tham gia giải quyết bồi thường cho nạn nhân.. Hàng kỳ văn phòng phải có thông báo mức doanh thu đạt được trong kỳ, mức đã chi trả bồi thường. Bảo Việt Hà Nội cho phép văn phòng giữ lại từ 5 dến 7% doanh thu để chi phí hạn chế tổn thất và quản lý, riêng phần hoa hồng của cán bộ khai thác được chi trả hàng tháng. Tất cả việc bồi thường cho người tham gia dù lớn hay nhỏ đều phải có quyết định của trưởng phòng và trưởng phòng chịu trách nhiệm chung trước Công ty.
* Những thuận và khó khăn
Trong những năm qua, nhất là từ khi nền kinh tế nước ta phát triển theo cơ chế thị trường, Hà Nội đã và đang có những bước chyển biến tích cực về nhiều mặt để trở thành thủ đo văn minh, trung tâm kinh tế, chính trị , văn hoá, khoa học - kỹ thuật của cả nước. Thu hút được ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là sau khi Mỹ xoá bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Tình hình giá cả ngày càng ổn định, lạm pháp được kiềm chế, đời sống của nhân dân thủ độ không ngừng tăng lên. Có thể nói đây là một môi trường thuận lợi cho ngành Bảo hiểm nói chung và chúng tôi Bảo hiểm Việt Nam nói riêng có điều kiện phát triển đi lên.
Phòng Bảo hiểm Thanh Trì, mọt trong mười hai văn phòng đại diện bảo hiểm trong thành phố trực thuộc chúng tôi Bảo hiểm Hà Nội cũng nắm bắt kịp thời những thuận lợi để từ đó cung cấp tốt nhất nhưng dịch vụ bảo hiểm mà Bảo Việt Hà Nội giao cho, đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho mọi người.
Với tình hình thực tiễn đó, bên cạnh những thuận lợi, hoạt động kinh doanh của phòng bảo hiểm Thanh Trì gặp không ít khó khăn.
1- Về thuận lợi:
Là một văn phòng đại diện bảo hiểm nằm trên địa bàn Hà Nội nơi mang đầy đủ tính chất của một nền kinh tế nhiều thành phần, có thể nói phòng bảo hiểm Thanh Trì là một trong những văn phòng đại diện bảo hiểm có điều kiện rất thuận lợi để hoạt động , cụ thể:
* Do địa bàn của phòng nằm trên một huyện có số dân đông của thành phố mà mức sống của người dân ngày càng được cải thiện, thu nhập ổn định, nhân dân lại có truyền thống tương thân, tương ái. Vì vậy nếu biết vận động và tổ chức tốt bằng nhiều hình thức thì Bảo Việt sẽ đạt hiệu quả cao.
* Lãnh đạo phòng đã nhanh nhạy nắm bắt tình hình, xác định được yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn, từng thời kỳ, có chủ trương và biện pháp đúng đắn, ra nghị quyết kịp thời đưa phòng bảo hiểm Thanh Trì ngày một tiến vững trong kinh doanh, bảo hiểm nhất là hoạt động kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
* Điều quan trọng là sự đoàn kết nhất trí cao của đội ngũ cán bộ, khai thác viên trong. Có sự hợp đồng chặt chẽ trong công việc giữa các bộ phận liên quan, giữa trên và dưới nhằm tạo nên một khí thế thi đua trong công việc cùng nhau hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
* Được sự giúp đỡ, chỉ đạo của Ban lãnh đạo chúng tôi Bảo hiểm Hà Nội và các cấp, các ngành có liên quan, giữa trên và dưới nhằm tạo nên một khí thế thi đua trong công việc cùng nhau hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
* Được sự giúp đỡ, chỉ đạo của Ban lãnh đạo Công ty Bảo hiểm Hà Nội và các cấp, các ngành có liên quan, các Công ty, xí nghiệp hoạt động trên địa bàn huyện. Đặc biệt là các cấp chính quyền: Hyện uỷ, UBND huyệnkết hợp chặt chẽ với các cơ quan đầu ngành trong huyện như phòng lao động - thương binh xã hội, phòng CSGT, phòng công nghiệp.v.v… đã tạo điều kiện giúp đỡ phòng bảo hiểm Thanh Trì hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện triển khai công tác bảo hiểm trên địa bàn được sâu rộng, có hiệu quả, tạo ra thế mạng trong kinh doanh và phục vụ khách hàng một cách tốt nhất.
2- Về khó khăn:
Đi đôi với điều kiện thuận lợi có được, trong quá trình hoạt động của mình phòng bảo hiểm Thanh Trì nói chung và bảo hiểm thách nhiệm dân sự nói riêng cũng còn gặp phải ít nhiều khó khăn cần được khắc phục:
* Thứ nhất do trình độ dân trí chưa cao, nhân dân ta chưa có tập quán bảo hiểm sản xuất - kinh doanh, mặc dù ở thủ đô đang trên đang phát triển mạnh nhưng chưa ổn định, nhiều đơn vị còn gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ, mức sống của đa số người dân chưa cao. Đây là một hạn chế rất lớn trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong việc tuyên truyền, thuyết phục quần chúng nhân dân tham gia bảo hiểm.
* Thứ hai, kể từ năm 1994, đứng trước bối cảnh mới đó là việc Nhà nước ban hành "Nghị định về kinh doanh bảo hiểm" cho phép mọi thành phần kinh tế được thành lập doanh nghiệp bảo hiểm và các tổ chức bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động bảo hiểm trên lãnh thổ Việt Nam. Trong bối cảnh đó, phòng bảo hiểm Thanh Trì phải đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ của các chúng tôi bảo hiểm khác, làm ảnh hưởng đến nghệp vụ bảo hiểm trên địa bàn.
* Thứ ba, phòn bảo hiểm thanh Trì chưa có nhiều cán bộ được ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34364.doc