LỜI MỞ ĐẦU
Giao thông vận tải là ngành kinh tế - kỹ thuật có vị trí quan trọng ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hầu hết các ngành kinh tế, xã hội an ninh quốc phòng. Giao thông vận tải là một bộ phận của kiến trúc hạ tầng kinh tế. Sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước có kiên quan chặt chẽ với sự phát triển của ngành giao thông vận tải. Bởi vậy có thể nói giao thông vận tải là huyết mạch của nền kinh tế, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1591 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Công ty cổ phần bào hiểm bưu điện PTI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội của đất nước.
Giao thông vận tải nước ra gồm các hình thức chủ yếu: Vận tải đường bộ, đường thuỷ, đường sắt và hàng không. Trong đó vận tải đường bộ bằng xe cơ giới là hình thức phổ biến nhất, được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế. Với tốc độ vận chuyển nhanh hoàn thành quá trình vận chuyển một cách triệt để, chi phí vận chuyển tương đối thấp nên vận chuyển bằng xe cơ giới tiện lợi hơn rất nhiều so với vận chuyển bằng các hình thức khác. Hơn nữa vận chuyển bằng xe khác nhau có khả năng chuyên trở hàng hoá, con ngưòi tới mọi lúc, mọi lúc kể cả những điểm mà vận tải đường sắt, hàng không không tới được.
Tuy nhiên, do đặc điểm hoạt động của ngành vận tải là ngành sản xuất mang tính xã hội cao. Quá trình sản xuất tiến hành ngoài Công ty, chủ yếu là sự tiếp xúc giữa lái xe với xã hội, sự quản lý của Công ty chỉ trong một chừng mực nhất định. Vì vậy hình thức vận tải bằng xe cơ giới thường gặp rủi ro về tai nạn giao thông, cần phải có sự giáo dục, giúp đỡ của các ngành chức năng và toàn xã hội.
Cùng với sự biến động của nền kinh tế thị trường, vận chuyển bằng xe cơ giới cũng không ngừng phát triển, lượng xe lưu hành tăng lên một cách đáng kể. Bên cạnh đó, chất lượng hệ thống đường bộ ở đất nước ta còn kém, việc tu sửa lại đường xá cháp vá chật hẹp, chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện mà chúng ta chưa có đủ biện pháp tối ưu để hạn chế, ngăn ngừa rủi ro.
Hơn thế nữa, mặc dù lượng xe lưu hành ngày một tăng nhưng vẫn không theo kịp với sự phát triển của cơ chế thị trường nên vẫn phải sử dụng những xe hết thời hạn sử dụng hoặc không đảm bảo độ an toàn. Lái xe không nghiêm túc chấp hành luật lệ an toàn giao thông.
Từ những đặc điểm trên, với phương châm "lá lành đùm lá rách" khi hoạn nạn, bảo hiểm là một hình thức gián tiếp giúp đỡ nhau khi khó khăn, sự ra đời của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự là cần thiết.
Từ thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này đã chứng minh được rằng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới không thể thiếu được và ngày càng phục vụ đắc lực cho sự phát triển của nền kinh tế.
Là sinh viên thuộc chuyên ngành kinh tế bảo hiểm, sau một thời gian nghiên cứu tài liệu và thực tập nghiệp vụ tại phòng kinh doanh số 2, tôi xin chọn đề tài "Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở công ty cổ phần bào hiểm bưu điện PTI" cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục đích của đề tài là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
- Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện PTI.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện nghiệp vụ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở công ty cổ phần bào hiểm bưu điện PTI
Hoàn thành chuyên đề này tôi đã nhận được sự giúp đỡ của cô giáo Ths. Nguyễn Thị HảI Đường, giáo viên khoa bảo hiểm trường Đại Học Kinh tế Quốc Dân, Lần đầu làm quen với thực tế, đối tượng nghiên cứu là một vấn đề rộng và phúc tạp nên không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA
I- Sự cần thiết của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Dù ở phương thức sản xuất nào, con người và tài sản luôn bị đe doạ bởi thiên tai và các tai biến bất ngờ, phát sinh ngay trong các hoạt động của con người. Suốt trong lịch sử phát triển cuả mình, loài người đã phải chịu đựng và chứng kiến biết bao thảm hoạ, nào là động đất, núi lửa, sóng thần, bão tố, dịch bệnh rồi thì chiến tranh, tai nạn giao thông, phóng xạ, ô nhiễm, hoả hoạn. v.v… Các hiện tượng này luôn bất động và phát triển không theo một trình tự chu kỳ. Vì thế để đấu tranh cho sự tồn tại và phát triển của mình, con người đã có những biện pháp đấu tranh nhằm chinh phục và cải tạo thiên nhiên. Đồng thời con người phải tìm biện pháp đề phòng, ngăn ngừa những tai nạn xấu có thể xảy ra.
Tuy nhiên, kết quả đấu tranh còn phụ thuộc vào trình độ khoa học - kỹ thuật và tiềm lực phát triển của mỗi nước cũng như sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Song cho dù khoa học - kỹ thuật có phát triển mức nào chăng nữa thì con người vẫn tồn tại trong lòng thiên nhiên, gánh chịu hậu quả do thiên nhiên gây ra với mức độ ngày càng giảm.
Để khắc phục hậu quả của thiên tai và tai nạn, đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống, mỗi gia đình, đơn vị sản xuất kinh doanh hay Nhà nước chỉ có một khoản dự trữ lớn để bù đắp thiệt hại và trang trải chi phí cho phần trách nhiệm phát sinh. Biện pháp tạo bảo hiểm bằng cách tiết kiệm tiền, dự trữ hiện vật hàng hoá của từng gia đình, từng doanh nghiệp tỏ ra kém hiệu quả về mặt kinh tế, nhất là khi xẩy ra thiệt hại lớn. Dự trữ lớn của Nhà nước thì lại không thể trang trải tổn thất nhỏ lẻ, phân tán của từng cá nhân gia đình hay một doanh nghiệp bị thất bại nhất là trong bối cảnh này nước ta đang chuyển dần sang nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp phải tự chủ và bảo toàn vốn của mình hay bị thiên tai và tai nạn bất ngờ gây thiệt hại. Biện pháp hữu hiệu nhất khắc phục được hai nhược điểm trên là tổ chức bảo hiểm như một dịch vụ tài chính có tính chất chuyên nghiệp - bảo hiểm thương mại (hay còn gọi là bảo hiểm rủi ro)
Đối tượng của bảo hiểm thương mại là: con người, tài sản và trách nhiệm. Quỹ bảo hiểm được lập ra từ sự đóng góp cá nhân, đơn vị tham gia baỏ hiểm. Ngoài ra còn dùng để chi lập quỹ dự trữ, chi cho việc quản lý của doanh nghiệp, chi thực hiện nghĩa vụ đói với ngân sách Nhà nước. trong những trường hợp cụ thể được chi dùng cho việc tiến hành các biện pháp để phòng hạn chế tổn thất. Như vậy có thể nói bảo hiểm có một sức mạnh tài chính để trở thành tấm lá chắn về kinh tế trước sự tàn phá của hiểm hoạ bất ngờ.
Thực chất bảo hiểm là sự cam kết của người bảo hiểm bồi thường đối với người được bảo hiểm về những mất mát thiệt hại của đối tượng bảo hiểm do những rủi ro gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã mua bảo hiểm cho những đối tượng đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.
Bên cạnh những rủi ro nghiêm trọng do thiên tai gây ra, chính bản thân sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến đã đem đến cho con người những sự cố bất thường không thể tránh khỏi.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, hàng năm trên thế giới có khoảng 7000 vụ tai nạn lớn nhỏ xẩy ra trên biển, cứ hai giây có một vụ tai nạn ô tô, trung bình mỗi ngày xẩy ra một trận động đất hoặc núi lửa phun, hai trận gió bão tuyết hoặc sóng thần, làm hàng triệu người chết và bị thương, số tài sản bị thiệt hại tính bằng tiền để đủ nuôi toàn bộ dân Châu Phi.
Trong số các tổn thất nghiêm trọng xẩy ra, đặc biệt phải kể đến các tổn thất về người và tài sản do tai nạn về điều khiển xe cơ giới gây ra, Có thể nói đây là một thiệt hại lớn nhất (gấp 10 lần tai nạn máy bay và xe lửa). Cùng với công cuộc cơ khí hoá và tự động hoá, tai nạn giao thông đường bộ đã tăng lên một con số đáng kể và trở thành hiểm hoạ lớn đối với xã hội. Riêng ở Nhật Bản, những người bị tai nạn ô tô, bị thương, bị chất trong tai nạn ô tô đã tăng từ 21.540 người trong năm 1948 lên 78.764 trong năm 1994, tức là tăng 36 lần chỉ trong vòng 6 năm.
Ở Pháp tháng 12/1992 đã xẩy ra gần 13.000 vụ đụng xe, làm 648 người bị thiệt mạng.
Ở nước ra, đi đôi với sự gia tăng của các loại phương tiện cơ giới, tai nạn giao thông cũng ngày một gia tăng. Theo cục Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt, chỉ tính riêng từ ngày 01.01. đến ngày 20. 02. 2000 trên phạm vi cả nước đã xẩy ra 4427 vụ tai nạn giao thông làm chết 1282 người và bị thương 4685 người. So với cùng kỳ năm trước, tình hình tai nạn giao thông trong thời gian qua tăng 14,5% số vụ; 22,56% số người thiệt mạng trong các vụ tai nạn giao thông so với vùng kỳ năm trước tăng 1 người.
Trong số các phương tiện gây tai nạn có 35,14% là xe ô tô vận chuyển hành khách, 63% là xe mô tô. Đặc biệt có một số vụ tai nạn giao thông rất nghiêm trọng đều xẩy ra đối với ô tô khách và do lôĩ của chủ phương tiện:
Ngày 02.03.2000 vụ tai nạn xe khách mang biển số 63A - 53 - 89, bị mất phanh khi xuống dốc tại đèo Cù Mông, xe đâm vào vách đá làm 36 người chết, 47 người bị thương.
Ngày 21.05 2001 vụ tai nạn tại đèo Cả tỉnh Khánh Hoà, xe 75B - 18 - 91 của HTX ô tô Huế tỉnh Thừa Thiên Huế so va chạm với một xe đã bốc cháy dữ dội rồi lao xuóng biển, 29 hành khách trên xe chết và 11 người bị thương nặng, xe bị phá huỷ hoàn toàn.
Ngày 18.05 2005 vụ tai nạn xe khách mang biển số 37H -17 - 00, lái xe đã tự ý trao tay lái cho chủ xe không có bằng lái nên làm chết 6 người đi xe máy đang đi ngược đường.
Qua những số liệu trên cho thấy những vụ tai nạn để lại hậu quả rùng rợn như thế thiết nghĩ nếu không có bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì làm sao có thể kéo lại được phần nào mất mát và thiệt hại khủng khiếp ấy.
Như vậy, cũng như các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ khác, hoạt động GTVT cần được bảo hiểm hay nói một cách khác hoạt động GTVT không thể tách rời bảo hiểm. Vì thế sự ra đời của loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là đòi hỏi tất yếu.
Trên thế giới, nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được ra đời ở thế kỷ XIX gắn kèm với sự phát minh và sử dụng xe hơi.
Tốc độ phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm này rất mạnh mẽ, nhất là đối với các nươc phát triển như: Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật v.v… Doanh thu của nó chiếm tỷ trọng lớn (trên dưới 30% ) Trong tổng doanh thu toàn bộ hoạt động bảo hiểm. Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều có qui định đây là loại bảo hiểm "bắt buộc"
Ở Việt Nam do những đặc điểm trên, đặc biệt là do tổ chức hoạt động của xe cơ giới là nguồn nguy hiểm cực độ, thực tế đã gây ra tai nạn thường xuyên không thể lường trước được. Hơn thế nữa, để đảm bảo quyền lợi cho người bị nạn khi có thiết hại xảy ra ngày 10/3/1998 Hội đồng Bộ trưởng đã ra nghị định số 30/HĐBT qui định bắt buộc tất cả các chủ xe cơ giới đăng ký hoạt động trên lãnh thổ các nước CHXHCN Việt Nam đều phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe tại Công ty.
Trách nhiệm dân sự của chủ xe ở đây là phần trách nhiệm bồi thường những hậu quả được tính bằng tiền theo qui định của luật pháp hoặc phán quyết của toà án quyết định chủ xe của mình gây tai nạn làm cho:
+ Bên thứ 3 bị thiệt hại hoặc bị thương tích.
+ Của cải, tài sản của bên thứ 3 bị huỷ hoại, hư hỏng.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe là biện pháp kinh tế huy động sự đóng góp của các chủ xe hình thành nên quỹ bảo hiểm. Quỹ đó chủ yếu được sử dụng để bồi thường, bù đắp cho các chủ xe trong thời gian xe hoạt động gây ra tai nạn, làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe, nhằm góp phần ổn định về mặt tài chính cho chủ xe.
II. Tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá và đặc biệt là khi xoá bỏ cơ chế bao cấp, quỹ bảo hiểm chính là nguồn bảo đảm tài chính chắc chắn cho các tổ chức kinh tế để khắc phục hậu quả các hiểm hoạ, bảo toàn và tiếp tục phát triển các nguồn vốn của mình. Các nhà kinh doanh có lắm nỗi lo: Lo sao "có vốn làm ăn" là nỗi lo muôn thuở, rồi lại lo "cụt vốn, sạt nghiệp" khi không may gặp phải rủi ro nhất là đối với nguồn vốn trợ cấp tài chính trong cơ chế thị trường hiện nay. Quy mô đầu tư càng lớn thì rủi ro đầu tư cũng càng cao. Họ lựa chọn và gửi gắm doanh nghiệp của mình vào các loại hình bảo hiểm về tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Như ta đã biết, tai nạn giao thông ngày một gia tăng, một vấn đề tồn tại còn hết sức phức tạp là việc giải quyết hậu quả của nó. Bởi vì chức trách và khả năng giải quyết chỉ ở mức độ hết sức hạn hẹp, hình thức trước những mất mát đau thương của nạn nhân. Theo như luật pháp đã quy định: chủ xe cơ giới phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ những thiệt hại về người và tài sản do sự lưu hành xe của họ gây ra đối với người thứ ba. Song trên thực tế, khi xảy ra tai nạn do trách nhiệm hình sự mà có nhiều người lái xe bỏ chạy, cũng như do điều kiện kinh tế của chủ xe còn hạn hẹp không dư khả năng bồi thường cho nạn nhân. Vì thế trong rất nhiều trường hợp người bị nạn không biết khôi phục lại thiệt hại, mất mát đầu tư.
Như vậy để đảm bảo quyền lợi cho người bị nạn khi xảy ra tai nạn cũng như bảo đảm cho chủ xe (lái xe) khỏi những hoang mang về tinh thần và những chi phí về kinh tế không thể lường trước nổi, cần thiết phải có một biện pháp kinh tế thành lập quỹ dự trữ bồi thường trách nhiệm dân sự của chủ xe.
- Bồi thường chủ động, kịp thời cho chủ xe khi phát sinh trách nhiệm dân sự. Khi tai nạn giao thông xảy ra, trong đó lỗi của lái xe thì Công ty bảo hiểm (Nơi mà chủ xe tham gia bảo hiểm) sẽ thông qua hoạt động nghiệp vụ của mình tiến hành việc chi bồi thường cho các chủ xe một cách kịp thời, giúp các chủ xe có thêm điều kiện vật chất để nhanh chóng khắc phục hậu quả xẩy ra không khải chi ra những khoản chi bất thường gây mất cân đối về mặt tài chính.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe ra đời đã có tác dụng:
- Đề ra các biện pháp để phòng ngừa và ngăn ngừa tai nạn tích cực giảm số vụ tai nạn có thể xẩy ra. Bằng cách thông qua công tác bảo hiểm trách nhiệm chủ xe, thúc đẩy các lái xe thực hiện tốt biện pháp an toàn nhằm giảm một cách tối đa các tổn thất có thể xẩy ra. Bên cạnh đó thông qua việc thu phí bảo hiểm để có nguồn chi vào việc ngăn ngừa các tai nạn xảy ra, cụ thể là được thực hiện thông qua việc chi đề phòng, hạn chế tổn thất như: chi làm đường lánh nạn, mở rộng hoặc làm thêm đường xá.v.v…
Trong điều kiện cơ chế quản mới hiện nay, các đơn vị được giao vốn và tự cân đối về mặt tài chính. Vì vậy, đối với các chủ xe, khoản chi bồi thường cho người bị nạn khi không may xe gây tai nạn cho người khác là rất lớn. Song nếu chủ xe đã tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự, mà gặp phải tai nạn gây thiệt hại cho người thứ ba thì các chủ xe đã có nguồn để bì đắp sự thiệt hại. Đó chính là số tiền bồi thường giúp cho các đơn vị, chủ thể ổn định và phát huy quyền tự chủ về tài chính khi không may xẩy ra tai nạn mất ngờ phát sinh trách nhiệm của xe, làm thiệt hại kinh tế của chủ xe.
Bên cạnh các tác dụng trên, bảo hiểm TNDS còn hỗ trợ chủ xe trong việc thương lượng, hoà giải với nạn nhân, xoa dịu, làm bớt căng thẳng giữa lái xe với nạn nhân.
Đồng thời với người bị nạn, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng giúp cho họ giảm bớt những khó khăn ban đàu, có sự giải quyết thích đáng khi tai nạn xẩy ra.
Với những tác dụng trên, một lần nữa lại khẳng định sự cần thiết khách quan cũng như sự "bắt buộc" của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự là tất yếu.
III- Một số nội dung chính nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1- Đối tượng bảo hiểm - Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe
Đối tượng của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba chính là phần trách nhiệm dân sự của các chủ xe. Kể cả các chủ xe trong nước và các chủ xe là người nước ngoài có giấy phép sử dụng xe trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam.
Trách nhiệm dân sự của chủ xe bao gồm trách nhiệm trước sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ, trách nhiệm về việc điều khiển xe của người lái xe. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới không chịu trách nhiệm về mặt hình sự cuả chủ xe, cũng như thiệt hại vật chất của bản thân xe.
Đối tượng bảo hiểm là nghiã vụ hay trách nhiệm bồi thường của chủ xe. Đối tượng mang tính trìu tượng, hay được xác định bằng một con số cụ thể. chỉ khi nào việc lưu hành xe gây ra tai nạn trên lãnh thổ nước ta, thì khi đó đối tượng mới được xác định.
Đi đôi với trách nhiệm của chủ xe là trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm. Song trách nhiệm đó chỉ phát sinh khi có các điều kiện sau xẩy ra:
a- Có thiệt hại thực tế
Trong thực tế xe đã gây tai nạn làm thiệt hại về tài sản hoặc gây thương tích đến tính mạng hay tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba. Những thiệt hại này có thể tính bằng số liệu cụ thể từ những trường hợp đặc biệt có thể tính toán bằng số tương đối phù hợp với tình hình thực tế như:
+ Hậu quả tai nạn gây ra thiẹthại về hoa mầu sắp đến ngày thu hoạch.
+ Đối tượng thiệt hại là xúc vật sắp đến ngày sinh đẻ.
b- Hành vi trái pháp luật:
Tai nạn xảy ra, chủ xe phải có lỗi về mặt hình sự hoặc chủ xe (lái xe) đã vi phạm quy tắt đảm bảo an toàn luật lệ giao thông xã hội. Ngoài ra có thể vi phạm về đường lối chính sách của Đảng - Nhà nước cũng thuộc hành vi trái pháp luật được đánh giá cao thấp khác nhau tuỳ theo mức độ vi phạm bằng mức độ lỗi cụ thể.
c- Mối quan hệ nhân của giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại đã xẩy ra:
Thiệt hại xẩy ra: thiệt hại xẩy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật. Ngược lại hành vi pháp luật là nguyên nhân trực tiếp, có ý nghĩa quyết định gây ra thiệt hại. Không có hành vi trái pháp luật, chắc chắc không có thiệt hại.
Trường hợp hành vi trái pháp luật không phải là nguyên nhân chính gây ra thiệt hại nhưng lại là nguyên nhân trực tiếp, gây ra tai nạn thì cũng được coi là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của thiệt hại thức tế.
Ví dụ: Một số ô tô đang chạy trên đường, đội nhiên thấy xuất hiện xe máy trong ngõ hẻm lao ra. Buộc người lái xe ô tô đánh tay lái về phía lề đường bên phải để tránh chiếc xe máy. Nhưng không may đã gây tai nạn cho người đi xe đạp trong sát lề đường. Trường hợp vụ tai nạn đó người lái xe máy là nguyên nhân quyết định, gây ra tai nạn. Do với hành vi của người lái xe ô tô và với thiệt hại của người lái xe đạp vẫn có mối quan hệ nhân quả.
d - Người gây tai nạn có lỗi:
Khi xẩy ra tai nạn, chủ xe (lái xe) phải nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật. Hành vi đó có thể do lỗi cố ý, lỗi vô ý hoặc thiếu tinh thần trách nhiẹm. Mức độ lỗi đó sẽ là cơ sở để tính toám trách nhiệm bồi thường cho nạn nhân.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ vụ tai nạn nào người lái xe cũng có lỗi. Thực tế có những vụ tai nạn xảy ra không do lỗi của ai. Nguyên nhân tai nạn là do sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ.
Ví dụ: Xe đang chạy bị mất phanh đâm xuống vực hoặc va vào vách đá.v.v…
Tóm lại, khi có tai nạn xẩy ra, trách nhiệm dân sự của chủ xe hay trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm chỉ phát sinh khi vụ tai nạn có ít nhất 3 điều kiện.
- Thiệt hại thực tế
- Hành vi trái pháp luật
- Mối quan hệ nhân quả giữa chúng
Ba điều kiện đó phải xẩy ra đồng thời trong một vụ tai nạn. Không phát sinh trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm nếu thiếu một trong 3 điều kiện trên. Còn điều kiện thứ tư có thể có, có thể không xẩy ra nhưng vẫn phát sinh trách nhiệm bồi thường.
2- Phạm vi bảo hiểm:
Đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng như bảo hiểm tài sản, người được bảo hiểm bao giờ cũng là người được bồi thường.
Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe, khi xe gây thiệt hại cho bên thứ ba, người được bảo hiểm bồi thường là chủ xe hoặc người đại diện cho chủ xe. Đại diện chủ xe uỷ quyền.
Chủ xe là người được pháp luật Nhà nước công nhận có đủ các quyền hạn sau
- Quyền sở hữu xe
- Quyền quản lý xe
- Quyền cho thuê xe
- Quyền bán hoặc nhượng xe
Như vậy, lái xe không phải là chủ xe. Trước pháp luật Nhà nước, lái xe không đủ tư cách pháp nhân là người tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự trước Nhà nước về sự hoạt động xe của mình. Lái xe chỉ là người được chủ xe uỷ quyền điều khiển xe hoặc là người làm công ăn lương cho chủ xe. Do đó lái xe cũng phải là người được bảo vệ trực tiếp mà chính chủ xe mới là người được bảo hiểm về mặt trách nhiệm dân sự.
Khái niệm bên thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe là phía nạn nhân trong vụ tai nạn. Bên thứ ba có thể là người trực tiếp bị tai nạn, hoặc những người có tài sản, hành lý bị tai nạn, hoặc những người có tài sản, hành lý bị thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn gây ra. Hoặc không phải bất kỳ người nào là nạn nhân trong vụ tai nạn cũng thuộc bên thứ ba. Trong lúc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe có quy định loại trừ những người không thuộc người thứ ba, đó là:
- Thân nhân của chủ xe
- Thân nhân của người lái xe
- Người làm công cho chủ xe hoặc những người ở trên xe
- Của cải và tài sản của các đối tượng trên thị trường bị thiệt hại cũng như những tài sản của những người khác đang được giam giữ tại chủ xe.
Tất cả các đối tượng trên đây khi bị tai nạn gây thiệt hại không thuộc về bên thứ ba.
Bên thứ ba trong tai nạn giao thông không giới hạn số người. Tuỳ theo từng vụ thực tế bên thứ ba có thể là một hoặc nhiều người.
Bên thứ ba trong vụ tai nạn không phải là người được hưởng bồi thường của bảo hiểm. Vì họ không có mối quan hệ ràng buộc gì trong hợp đồng bảo hiểm. Việc giải quyết bồi thường cho nạn nhân chỉ là việc giải quyết linh hoạt nhằm đơn giản về mặt thủ tục thanh toán tiền bồi thường và tăng cường công tác tuyên truyền tác dụng của bảo hiểm sâu rộng. Bên cạnh đó giải quyết bồi thường cho nạn nhân còn phát huy được tính kịp thời, giúp người bị nạn có điều kiện nhanh chóng khắc phục hậu quả tai nạn.
3- Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Quan hệ ràng buộc của chủ xe với bảo hiểm là nghị định 30/HĐBT và quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe do Bộ Tài chính ban hành, quy định quyền lợi và trách dân sự của chủ xe, đảm bảo lợi ích cho chủ xe đồng thời có tác dụng đảm bảo an toàn chung cho xã hội.
Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự được thiết lập dựa trên nguyên tắc bảo hiểm toàn diện. Tất cả mọi yêu cầu, mọi rủi ro cơ bản đều được bảo hiểm.
Đảm bảo yêu cầu, trong những năm qua hạn mức trách nhiệm của bảo hiểm cho mỗi vụ tai nạn luôn luôn được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Hơn thế nữa đã tiến tới bảo hiểm toàn bộ theo thiệt hại thực tế, để đáp ứng tốt nhất yêu cầu đó.
Quy định mức miễn bồi thường hay các biện pháp chế tài chủ yếu nhằm tác dụng giáo dục chủ xe và lái xe có ý thức trách nhiệm hơn trong đề phòng và hạn chế tai nạn. Do đó các quy định mức miễn thường được xem xét điều chỉnh cho phù hợp với sự biến động của giá cả.
Quy tắt bảo hiểm thiết lập biêt gắn trách nhiệm đề phòng ngăn ngừa tai nạn với nguyền lợi được hưởng bồi thường. Cơ quan bảo hiểm tiến hành bồi thường có lưu ý đến công tác đề phòng, ngăn ngừa tai nạn cho chủ xe. Chủ xe nào thực hiện tốt trách nhiệm khi xảy ra tai nạn sẽ được bồi thường. Chủ xe nào vi phạm trách đề phòng thì tuỳ theo mức độ sẽ áp dụng các mức miễn thường khác nhau.
Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới quy định những điều khoản chủ yếu sau đây:
- Điều khoản về rủi ro được bảo hiểm
- Điều khoản về phạm vi và trách nhiệm của bảo hiểm
- Điều khoản về phí bảo hiểm (mức phí và thời gian nộp).
- Điều khoản quy định sự thay đổi làm tăng giảm tính chất rủi ro của từng loại xe.
- Điều khoản đề phòng, ngăn ngừa và hạn chế tai nạn
- Điều khoản về thời gian hiệu lực bảo hiểm
- Điều khoản quy định quyền khiếu nại đòi bồi thường.
Ngoài những điều khoản chủ yếu trên, quy tắc còn có một số điều khoản phụ.
4. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
4.1. Số tiền bảo hiểm:
Là giới hạn trách nhiệm bồi thường tối đa của bảo hiểm đối với các trường hợp trách nhiệm dân sự phát sinh.
Bộ Tài chính quy định hạn mức trách nhiệm tối thiểu bắt buộc cho mọi chủ xe. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể đưa ra các mức trách nhiệm tự nguyện cao hơn mức bắt buộc đó để các chủ xe lựa chọn. Việc quy định trách nhiệm cao hay thấp phụ thuộc vào các yếu tố như: nhu cầu bảo hiểm và khả năng tài chính của các chủ xe, tình hình thực tế tai nạn, loại phương tiện và thậm chí cả khả năng đảm bảo của nhà bảo hiểm. Nhà bảo hiểm có thể quy định mức một số tiền bảo hiểm để thuận tiện cho việc bán sản phẩm của mình, nhưng cũng có thể chia sản phẩm của mình thành nhiều mức khác nhau. Việc tổ chức bán sản phẩm bảo hiểm theo nhiều mức có ý nghĩa đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của các chủ xe theo cách đánh giá, phân đoạn thị trường của nhà bảo hiểm. Điều cần chú ý ở đây là hạn mức trách nhiệm trong hợp đồng hoặc trong giấy chứng nhận bảo hiểm mà chủ xe được cấp có ý nghía áp dụng cho từng vụ tổ thất. Thông thường thời hạn bảo hiểm của loại bảo hiểm này là 1 năm. Trong 1 năm được bảo hiểm, phương tiện được bảo hiểm có thể gây ra nhiều hơn một vụ tai nạn. Trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm cho người được bảo hiểm được tính theo từng vụ tai nạn theo hạn mức trách nhiệm đã thoả thuận. Việc tính toán bồi thường của nhà bảo hiểm theo từng vụ là độc lập nhau. Và trong mọi trường hợp, số tiền bồi thường tối đa mà người được bảo hiểm có thể nhận được trong từng vụ là bằng với hạn mức trách nhiệm. Với những vụ tổn thất lớn, trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm cho người thứ ba có thể quá hạn mức trách nhiệm mà họ đã thoả thuận với người bảo hiểm. Trong trường hợp như vậy, dĩ nhiên người được bảo hiểm phải tự gánh chịu phần vượt quá hạn mức trách nhiệm này. Trong cùng một điều kiện như nhau mức trách nhiệm bảo hiểm có ảnh hưởng quyết định đến mức phí mà người được bảo hiểm phải đóng góp. Người được bảo hiểm sẽ phải đóng mức phí cao hơn nếu họ được cung cấp một bảo hiểm có hạn mức trách nhiệm lớn hơn.
4.2. Phí bảo hiểm
Theo hình thức bắt buộc chủ xe (lái xe) tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự đều phải đóng một khoản phí nhất định. Phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe được thu theo mỗi đầu phương tiện hoạt động. Các phương tiện khác nhau có khả năng gây tai nạn khác nhau.
Do đó phí bảo hiểm cũng tính riêng cho từng loại phương tiện. Tuy nhiên đối với mỗi loại xe phí bảo hiểm chủ xe phải đóng cho mỗi hoạt động đầu xe gồm 2 phần:
- Phần thực phí (phí thuần) là phần chủ yếu trong số phí thu dùng cho việc bồi thường thiệt hại xẩy ra.
- Phần phụ phí được xác định bằng một tỷ lệ % nhất định trên toàn bộ chi phí thu, dùng để chi cho quản lý kinh doanh và các khoản chi khác (hoa hồng, giám định…)
Phí thuần được xác định dựa trên xác suất xẩy ra rủi ro và thiệt hại bình quân trên số xe hoạt động đã được thống kê trong khoảng thời gia trước đó.
F = ¦ + d
Trong đó: F - Số phí thu một đầu xe
¦ - Thực phí
d - Phụ phí
Tuỳ theo mỗi nghiệp vụ bảo hiểm ở các thời kỳ khác nhau quá trình khai thác và quản lý nghiệp vụ khác nhau, phụ phí (d) chiếm tỷ lệ khác nhau. Nhưng thông thường chiếm từ 20 - 30%
Thực phí được xác định theo công thức:
f=
Trong đó:
Si: số vụ tai nạn xẩy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe trong năm thứ i
Ti: Thiệt hại bình quân đối với mõi vụ tai nạn cùng năm
Ci: Số xe hoạt động thực tế mỗi năm
i: Thứ tự năm lấy số liệu thống kê tính (thường dồn 5 năm )
Phương pháp tính phí trên được áp dụng để tính phí cho các loại xe hoạt động thông dụng. Còn đối với các loại xe không thông dụng có mức rủi ro lớn hơn như: Xe kéo rơ móoc, xe chở hàng nặng. v.v.v Tuỳ theo mức độ rủi ro sẽ tính thêm tỷ lệ phụ phí trên mức phí cơ bản.
Mức phí cơ bản được xác nhận theo công thức trên áp dụng cho mỗi năm sẽ được nhân thêm với tỷ lệ trượt giá do uỷ ban vật giá Nhà nước thông báo.
Đối với xe hoạt động ngắn hạn, kể cả xe của người nước ngoài mức phí đóng góp đã được xác định.
M =
= Số phí hoàn lại
Trong đó :
Sc : Là số tháng xe hoạt động
Sk : Là số tháng xe không hoạt động
Trên thực tế từ năm 2000 trở đi, PTI có các mức trách nhiệm khác nhau nên chủ xe tham gia bảo hiểm mức trách nhiệm nào thì phí bảo hiểm được tính theo mức trách nhiệm đó.
Ví dụ: Đối với bảo hiểm xe con (xe du lịch từ 5 chỗ ngồi chở xuống )
* Mức trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba
Về người : 7 triệu đồng/ người/ vụ.
Về tài sản : 40 triệu đồng / vụ
Phí đóng là: 65.000 đồng
Ngoài ra Công ty bảo hiểm còn mở thêm các hạn mức trách nhiệm cao hơn, tương ứng với các vức phí cao hơn.
Chẳng hạn cũng ví dụ trên chủ xe còn có thể tham gia hai hạn mức trách nhiệm sau:
* Mức chọn 1:
Về người: 10 triệu đồng/người/ vụ
Về tài sản : 60 triệu đồng/ vụ
Phí đống: 80.000 đồng
* Mức chọn 2:
Về người: 15 triệu đồng / người / vụ
Về tài sản: 69 triệu đồng / vụ
Phí đóng : 85.000 đồng
* Mức chọn 2:
Về người: 15 triệu đồng/ người/vụ
Về tài sản: 60 triệu đồng/vụ
Phí đóng: 85.000đ
Trên cơ sở mức trách nhiệm bảo hiểm và mức phí bảo hiểm mà Công ty đề ra chủ xe phải có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm đầy đủ và đúng kỳ hạn.
4.3. Trách nhiệm đóng phí và thời gian thu nộp phí
Nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm là trách nhiệm của những người đứng tên chủ xe trong giấy phép lưu hành xe. Những xe không được cấp giấy phép lưu hành, nghĩa vụ nộp phí thuộc về trách nhiệm của người quản lý chiếc xe đó. Đối với những xe lần đầu tiên đưa ra sử dụng, nghĩa vụ nộp phí thuộc người đứng tên cho chủ xe không có biển đăng lý, nghĩa vụ nộp phí thuộc về người đã mua xe.
a. Chủ xe là người nội địa
Nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm bắt đầu từ khi xe được cấp biển đăng ký mà kéo dài trong suốt thời gian mang biển đăng ký. Xe không có biển đăng lý nghĩa vụ nộp phí được bắt đầu từ khi xe đưa ra sử dụng và kéo dài đến khi xe hết khả năng hoạt động.
Trường hợp chủ xe đã đóp phí bảo hiểm trong năm những vào một thứng nào đó của xe bị hỏng, hết khả năng hoạt động thì chủ xe sẽ được hoàn số phí còn lại của những tháng xe ngừng hoạt động. Nếu xe bị hỏng gây ra tai nạn phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe thì không được hoàn phí.
Thời hạn nộp phí được quy định tối đa là một năm. Trong thời gian từ ngày 1 tháng 1 đến hết ngày 31 tháng 3 hàng năm chủ xe có thể tham gia bảo hiẻem thưo thời hạn nhưng thời gian bao rhiểm ghi trong giấy chứng nhận đối với những xe này chỉ đến ngày 31 tháng 3 năm sau.
Những xe có giấy phép hoạt động trước ngày 1 tháng 4, những từ ngaỳ 1 tháng 4 năm sau mới tham gia bảo hiểm thì ngoài phí bao rhiểm gốc còn phải chịu phạt nộp chậm phí bảo hiểm cho những ngày nộp chậm theo tỷ lệ 2 bên đã thoả thuận. Thời gian nộp chậm nhất là 15 ngày sau khi nhận được thông báo. Cụ thể theo quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ban hành ngày 30 tháng 3 năm 1998.
- Chậm từ 1 đến 2 tháng nộp thêm 100% mức phí cơ bản
- Chậm từ 2 đến 4 tháng nộp thêm 200%
- Chậm từ 4 tháng trở lên nộp thêm 300%
b- Chủ xe là người nước ngoài.
Đối với xe của người nước ngoài, nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm phát sinh khi phương tiện bắt đầu hoạt động và kéo dài trong suốt thời gian hoạt động trên lãnh t._.hổ nước ta.
Nghĩa vụ xe của người nước ngoài, nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm phát sinh khi phương tiện bắt đầu hoạt động và kéo dài trong suốt thời gian hoạt động trên lãnh thổ nước ta.
Nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm quy định áp dụng đối với tất cả những người nước ngoài khi vào Việt Nam tham quan hay công tác có mang theo. Thời gian xe hoạt động trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam dài hơn so với thời gian đã nộp phí thì chủ xe phải nộp thêm phí bảo hiểm cho những ngày kéo dài đó.
Trường hợp chủ xe nước ngoài khi vào lãnh thổ nước ta có thể chứng minh được cơ quan bảo hiểm nước họ đã nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với những thiệt hại do hoạt động xe của họ gây ra, đồng thời uỷ quyền cho Công ty bồi thường thiệt hại do sự lưu hành xe đó gây ra trong thời gianm hoạt động của xe nước ngoài vượt quá thời hạn uỷ nhiệm, chủ xe phải có trách nhiệm nộp phí cho những ngày kéo dài vào ngày dầu tiêu của thời gian đó.
Phí bảo hiểm thu trên cơ sở biểu phí của Bộ tài chính ban hành, nguyên tắc thay bằng USD hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi trường hợp chủ xe thật sự khó khăn ngoại tệ thì Công ty có thể thu bằng đồng Việt Nam chuyển đổi trên cơ sở biểu phí ngoại tệ do Bộ Tài chính ban hành, theo tỷ giá ngân hàng công bố tại thời điểm thu phí.
4.4. Mức tăng, giảm phí:
Để động viên các chủ xe tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tai nạn. Bộ tài chính cho phép tăng giảm phí tuỳ theo mức độ tổn thất của từng xe chủ xe. Công ty phải thống kê, theo dõi số xe số phí bảo hiểm, tình hình tai nạn, bồi thường của từng chủ xe xét theo từng năm thì mới có điều kiện để thực hiện tăng giảm phí.
Đối với xe trong nước chỉ áp dụng tăng giảm phí với những chủ xe có ít nhát từ 10 xe trở lên.
Chủ xe là người nước ngoài, áp dụng tăng giảm phí đối với từng chủ không kể đến số lượng tham gia bảo hiểm nhiều hay ít.
Tỷ lệ tổn thất được xác định trên cơ sở số tiền bồi thường và số phí thu của chủ xe trong năm trước của năm bảo hiểm nhiều hay ít.
Tỷ lệ tổn thất được xác định trên cơ sở số tiền bồi thường và số phí thu của chủ xe trong năm trước của năm bảo hiểm. Khi tính toán số tiền bồi thường chú ý bao gồm cả số tiền bồi thường thiệt hại xe gây ra tai nạn ở các tỉnh khác gây ra vào đầu tháng 12 để các Công ty Bảo hiểm có điều kiện tính phí cho cả năm bảo hiểm tiếp theo. Sau hi chủ xe đã nộp phí bảo hiểm đầy đủ. Cơ quan bảo hiểm phải cấp giấy chứng nhận và phí bảo hiểm cho chủ xe.
- Giấy chứng nhận bảo hiểm là một bằng chứng chứng nhận hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết. Trên giấy chứng nhận bảo hiểm một số mục như: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ 3 và người ngồi trên xe. Bảo hiểm vật chất xe, thời gian tham gia bảo hiểm, ngày cáp chứng nhận.v.v… Ghi chính xác những thông tin này để khi xẩy ra tai nạn bất ngờ có thể giải quyết chính xác và thoả đáng.
- Phù điêu bảo hiểm dùng để dán lên kính xe, giúp cho việc kiểm tra của cảch sát giao thông và bảo hiểm phát hiện xe chưa tham gia bảo hiểm lưu hành trên đường.
5. Trách nhiệm của các bên có liên quan;
5.1 Đối với chủ xe:
Mặc dù đã tham gia bảo hiểm những chủ xe vẫn là người có trách nhiệm chính trong việc đề phòng hạn chế tai nạn và khi có tổn thất xẩy ra. Đề làm tốt trách nhiệm của mình, chủ xe phải chủ động phối hợp với các ngành thực hiện các biện pháp chủ yếu sau:
- Định kỳ hàng năm tiến hành tổ chức các lớp tập huấn cho lái xe, phụ xe nhằm đề cao trách nhiệm của lái xe, phụ xe trong việc đảm bảo an toàn giao thông.
- Bảo quản tốt các phương tiện vận tải, bảo đảm đủ điều kiện tiêu chuẩn kỹ thuật để hoạt động xe tốt.
- Đề xuất kiến nghị với ngành GTVT, công an, CSGT thường xuyên quan tâm chỉ đạo việc sửa sang lại hệ thống đường xá, xây dựng biển báo, Panô, áp phích tại các đầu nối giao thông quan trọng, đoạn đường nguy hiểm.
- Tổng kết đánh giá công tác ATGT trong mỗi đơn vị vận tải.
Tìm ra nguyên nhân thường xuyên gây ra tai nạn, từ đó đưa ra biện pháp hạn chế, ngăn ngừa.
Bên cạnh đó để giúp cho việc tính toán và giải quyết bồi thường của bảo hiểm thực hiện được kịp thời, giúp chủ xe và người bị nạn có điều kiện nhanh chóng khắc phục hậu quả tai nạn, yêu cầu chủ xe báo ngay cho cơ quan bảo hiểm gần nhất biết:
+ Ngày, giờ, địa điểm xẩy ra tai nạn
+ Số đăng ký xe gây tai nạn
+ Họ tên người lái xe.
+ Tên nạn nhân và địa chỉ .
+ Mức độ nghiêm trọng của vụ tai nạn
+ Nguyên nhân xẩy ra tai nạn và mức độ xử lý ban đầu của người chủ xe (lái xe) .
Mặt khác chủ xe có nghĩa vụ hoàn lại tiền cho cơ quan boả hiển khi cơ quan bảo hiểm đã gỉai quyết trong một số trường hợp chủ xe hoặ lái xe vi phạm luật lệ giao thông cũng như những quy định khác của bảo hiểm.
Ngoài trách nhiệm của những người tham gia bảo hiểm, chủ xe có những quyền lợi trong hợp đồng như:
+ Quyền tham gia phân phối quỹ bảo hiểm, tức là quyền hưởng bồi thường khi có tai nạn rủi ro được bảo hiểm xảy ra.
+ Quyền yêu cầu của cơ quan bảo hiểm bổ xung, sửa đổi hợp đồng và mở rộng phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm.
+ Quyền bổ xung và khiếu nại đòi bồi thường trong thời hạn 2 năm kể từ khi có tai nạn xẩy ra. Quá thời hạn, nếu chủ xe không có yêu cầu gì thì trách nhiệm bảo hiểm mới kết thúc.
IV. Quy trình khai thác BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thư ba;
1. Khâu khai thác :
Quá trình khai thác có hệ thống có thể nói đó là khâu đầu tiên và là khâu quan trọng nhất của một chu kỳ kinh doanh bảo hiểm. Đặc biệt nó lại càng có ý nghĩa đối với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới. Thực chất của quá trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm này là bằng mọi biện pháp để khuyến khích đoọng viên các chủ xe tham gia bảo hiểm một cách tối ưu. Quá trình khai thác có vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định chủ yếu tới nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm, bởi vì có tổ chức khai thác tốt thì mới thu được nhiều pphí bảo hiểm của các chủ xe để hình thành nên các quỹ bảo hiểm, từ đó dùng để chi trả bồi thường, bù đắp các chi phí, trích lập các quỹ thực nghiệm của công ty.
Bên cạnh đó do đặc điểm của hoạt động kinh doanh kinh doanh bảo hiểm thì các khoản thu từ phí bảo hiểm gốc lại là phần chủ yếu trong thu nhập của nghiệp vụ bảo hiểm này.
Nhận biết được đây là khâu then chốt trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Phòng số 2 đã mở rộng địa bàn hoạt động nhằm khai thác một cách triệt để các khách hàng. Trưởng phòng cùng với cán bộ công nhân viên trong phòng lập một kế hoạch khai thác cụ thể rõ ràng. Những cán bộ phụ trách kế toán, thủ quỹ, thống kê thường xuyên ở tại phòng phục vụ bán bảo hiểm cho các chủ xe trực tiếp đến tham gia tại các văn phòng còn những cán bộ khai thác khác được phân công cụ thể đến từng địa bàn thành phố cũng như các doanh nghiệp, xí nghiệp lắp ráp phụ tùng ô tô - xe máy, bến xe... để liên hệ, chỉ rõ cho các chủ xe thấy được quyền lợi khi tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ phương tiện. Tích cực tuyên truyền về nội dung, ý nghĩa mục đích của chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba để chủ xe hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của họ khi tham gia bảo hiểm. Hơn thế nữa, phòng còn tổ chức thực hiện việc thu phí và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm nhanh, gọn, tạo điều kiện cho các chủ xe tham gia bảo hiểm được thuận lợi và dễ dàng. Đồng thời phòng còn có mối quan hệ tốt, tranh thủ được sự ủng hộ của huyện uỷ, UBND, các cấp, các ngành trong địa bàn Thành phố để phục vụ một cách tốt nhất được đến " tận tay" các đối tượng bảo hiểm.
Nói tóm lại, trong những năm gần đây, về khâu khai thác ở PTI đã đạt được kết quả khả quan. Phần lớn là khai thác lượng xe ô tô lưu hành trên địa bàn. Số lượng xe máy khai thác được qua các năm tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, trong thời gian tới, công ty vẫn phải có những biện pháp để có thể khai thác triệt để lưu lượng xe trên địa bàn, nhất là xe máy.
2. Công tác giám định:
Để đảm bảo tính trung thực, khách quan cho cả 3 bên : Người bị nạn, chủ xe, (lái xe) và bảo hiểm , cơ quan bảo hiểm đã xúc tiến việc giám định nguyên nhân và hậu quả vụ tai nạn. Qua đó xác định phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm nấu xét thấy tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm, cơ quan bảo tiếp tục xúc tiến các công việc sau:
- Phối hợp với cảnh sát giao thông tiến hành giám định hiện trường sau khi xẩy ra tai nạn, mức độ nỗi của các bên có liên quan trong vụ tai nạn.
- Tranh thủ ý kiến của chủ xe và lời khai của nhân chứng qua tờ khai tai nạn với thực tế hiện trường để đi đến kết luận cuối cùng về nguyên nhân vụ tai nạn.
- Tranh thủ ý kiến của chủ xe và lời khai của nhân chứng qua tờ khai tai nạn với thực tế hiện trường để đi dến kết luận cuối cùng về nguyên nhân vụ tai nạn.
- Kiểm tra tính chính xác của vụ tai nạn qua việc đề nghị cơ quan CSGT, CSĐT cung cấp bản sao biên bản giám định, bao gồm.
+ Biên bản kiểm nghiệm hiện trường hiện tại.
+ Biên bản kiểm nghiệm xe có liên quan trong vụ tai nạn.
+ Biên bản kết luận điều tra
+ Các chứng cứ khác có liện quan đến vụ tai nạn .
- Đối chiếu thực tế vụ tai nạn đã được xác minh với quy tắc và điều khoản bảo hiểm hiện hành, có kết luận sơ bộ đi đến giải quyết bồi thường.
- Trước khi xác định thiệt hại thực tế của bên thứ ba cần chú ý đến khái niệm bên thứ 3 trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe. Tai nạn xẩy ra không thuộc diện bên thứ ba thì không cần xác minh bên thiệt hại.
Như vậy căn cứ vào biên bản xác minh và giám định mà cơ quan bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ xe. Bởi vì số tiền bồi thường này căn cứ vào:
+ Thiệt hại thực tế của bên thứ ba.
+ Mức độ lỗi của chủ xe
+ Mức trách nhiệm bảo hiểm mà chủ xe tham gia.
Xác định đúng đắn thiệt hại thực tế của ban thứ ba do hậu quả của vụ tai nạn gây ra là cơ sử đi đến kết luận số tiền bồi thường của bảo hiểm đúng đắn. Tuỳ theo thiệt hại thực tế của bên thứ ba là thiệt hại tài sản hay thiệt hại về con người việc tính bồi thường dựa vào các căn cứ khác nhau.
3. Công tác bồi thường
* Nguyên tắc bồi thường thiệt hại:
+ Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Mức bồi thường và hình thức bồi thường do hai bên thoả thuận với nhau trong biên bản hoà giải hoặc do toàn án phán quyết.
+ Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây ra thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
Khi quá mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì hai bên có quyền yêu cầu toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
* Tính toán mức bồi thường của người gây thiệt hại:
+ Mức bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào mức độ lỗi của người gây thiệt hại và thiệt hại của nạn nhân. Trường hợp tai nạn xảy ra hoàn toàn do lỗi của người gây thiệt hại thì họ có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại cho nạn nhân.
+ Trường hợp cả bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại cùng có lỗ thì bên gây thiệt hại vẫn phải bồi thường phù hợp với mức độ lỗi của họ. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của một người nào khác thì người này phải bồi thường. Nếu lỗi của người này và lỗi của phía xe cơ giới đều là nguyên nhân gây tai nạn thì hai bên đều phải liên đới bồi thường cho nạn nhân theo mức độ lỗi của mình.
Trách nhiệm bồi thường của mỗi bên bằng thiệt hại của nạn nhân và mức độ lỗi của từng bên.
* Quy trình và hoàn chỉnh hồ sơ:
Khi xẩy ra tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm, người bảo hiểm phải hướng dẫn và giúp chủ xe hoàn chỉnh hôg sơ bồi thường. Thông thường trong một bộ hồ sơ chủ xe phải cung cấp cho nhà bảo hiểm những giấy tờ tài liệu sau:
+ Tờ khai tai nạn của chủ xe
+ Bản sao giấy chứng nhận bảo hiểm
+ Biên bản khám nghiệm hiện trường
+ Biên bản khám nghiệm xe
+ Bản kết luận điều tra tai nạn (nếu có)
+ Biên bản hoà giải hoặc quyết định của toà án
+ Các chứng từ liên quan đến tổn thất, những khiến nại của nạn nhân như các hoá đớn chứng từ về viện phí, các chi phí y tế, tiền tàu xe, mai táng phí, hoá đơn sửa chữa mua mới tài sản .v.v…
- Xác định số tiền bồi thường của nhà bảo hiểm:
Căn cứ vào hồ sơ tai nạn, căn cứ vào việc tính toán trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm, căn cứ vào han mức trách nhiệm đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm, nhà bảo hiểm có thể tính toán số tiền bồi thường. Nhà bảo hiểm có thể bồi thường cho chủ xe hoặc có thể yêu cầu họ bồi thường trực tiếp cho nạn nhân.
Trường hợp tai nạn xảy ra do lỗi của một người nào đó, sau khi bồi thường, nhà bảo hiểm sẽ thay chủ xe khiếu nại người có lỗi này. Trường hợp hai xe cùng chủ đâm vào nhau, thiệt hại của hai xe không phát sinh trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm, tuy nhiên nhà bảo hiểm sẽ phải bồi thường nếu vụ tai nạn này làm thiệt hại cho một người thứ ba nào khác.
Nhà bảo hiểm sẽ từ chối bồi thường trong trường hợp người được bảo hiểm vì áp lực, vì dễ dãi đã thoả hiệp với nạn nhân dù khồn có cơ sở. Nhà bảo hiểm cũng sẽ từ chối bồi thường nếu có bằng chứng chứng minh được sự thông đồng gian lận giữa nạn nhân và người được bảo hiểm.
Việc bồi thường của nhà bảo hiểm được tiến hành trong một lần, tuy nhiên có những trường hợp để giảm bớt những khó khăn về tài chính cho chủ xe, nhà bảo hiểm có thể cho chủ xe ứng trước một số tiền bồi thường. Sau khi đã hoàn chỉnh hồ sơ, tính toán số tiền bồi thường cụ thể, nhà bảo hiểm sẽ trừ đi số tiền mà chủ xe đã ứng trước này.
Trường hợp có bảo hiểm trùng, người được bảo hiểm có thể được những quyền lợi từ các hợp đồng đã ký song tổng số tiền bồi thường của các nhà bảo hiểm cũng không vượt quá trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm đối với người thứ ba.
* Toàn bộ thiệt hại thực tế của bên thứ ba được tính như sau:
Thiệt hại thực tế của bên thứ ba bằng thiệt hại về tài sản công thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ bằng thiệt hại về tài sản cộng chi phí về nạn nhân cộng thu nhập của giảm sút hoặc bị mất.
Khi có tai nạn xảy ra phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm, số tiền bảo hiểm bồi thường được tính toán dự trên 2 cơ sở yếu tố:
+ Thiệt hại thực tế của bên thứ ba
+ Mức độ lỗi của chủ xe trong vụ tai nạn
Trên cơ sở đó số tiền bồi thường được tính toán theo công thức sau:
Số tiền bồi thường = lỗi của chủ xe x thiệt hại bên thứ ba + bồi thường nhân đạo
Bồi thường nhân đạo: Được áp dụng trong các trường hợp thiệt hại không thuộc phạm vi bồi thường của công ty, mặc dù xe gây tai nạn có tham gia bảo hiểm. Mức bồi thường cho những thiệt hại đó tối đa là 2 triệu đồng/người/vụ. Được áp dụng cho các trường hợp sau:
+) Nạn nhân có thu nhập bị mất, giảm nhưng không đòi bồi thường về mất giảm thu nhập.
+) Nạn nhân có thu nhập thấp thuộc các đối tương chính sách Nhà nước (người hưởng lương hưu, trợ cấp xã hội) mặc dù thu nhập không bị mất, giảm.
+) Nạn nhân không có thu nhập như: trẻ em chưa đến tuổi lao động, ngưòi già không còn sức lao động, người tàn tật.
+) Nạn nhân bị chết nhưng gia đình nạn nhân không được hưởng về bồi thường mất, giảm thu nhập, vì khi còn sống nạn nhân không phải nuôi dưỡng hay trợ cấp cho gia đình.
+) Nạn nhân bị tai nạn ô to nhưng ô tô gây tai nạn bỏ chạy hoặc chủ xe chưa tham gia bảo hiểm hoặc bảo hiểm đã hết hiệu lực.
Nạn nhân thuộc các đối tượng nói trên bị thương tật từ 61% trở lên hoặc bị chết được hưởng mức trợ cấp cao nhất 2 triệu đồng/ người. Nạn nhân bị thương với tỷ lệ thương tật dưới 61% được hưởng trợ cấp theo tỷ lệ thương tật là 2 triệu x tỷ lệ thương tật.
3.1. Bồi thường thiệt hại về tài sản:
Trường hợp tài sản bị thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm. Công ty sẽ bồi thường toàn bộ những chi phí cần thiết, hợp lý phần sửa chữa khôi phục lại trạng thái ban đầu của tài sản. Tất cả bộ phận mới hay cũ đều phải trừ khấu hao theo dõi thời gian sử dụng.
Nếu giá trị thiệt hại tài sản thuộc phạm vi bảo hiểm ước từ 500.000đ trở lên thì Công ty phải trực tiếp giám định, phải được minh hoạ bằng ảnh chụp.
Đối với những tài sản bị thiệt hại đã được Công ty bồi thường toàn bộ giá trị phải thu hồi lại tài sản đó. Việc sử lý tài sản thu hồi phải thực hiện theo thông tư 04 ngày 7 tháng 5 năm 1996 của Bộ Tài chính. Giá trị tài sản thu hồi phải được ghi giảm số tiền đã bồi thường.
3.2. Bồi thường về tính mạng, sức khoẻ:
Trên thực tế, thiệt hại về tính mạng là những khoản thiệt hại không thể tính được, bổi vì sức khoẻ của con người là vô giá. Tiền bồi thường thực chất là khoản đền bù một phần thiệt hại do tai nạn gây ra giúp gia đình nạn nhân khắc phục những khó khăn về tài chính cho gia đình bản thân họ.
Chi phí thực tế cho nạn nhân là khoản chi phí về gia đình nạn nhân hoặc cơ quan đoàn thể bỏ ra do có sự thiệt hại về tính mạng hoặc sức khoẻ của nạn nhân. Bao gồm:
a. Chi phí mai táng: Là khoản chi cho việc đưa tang, chôn cất tìm kiếm xác (nếu có). Các khoản này giải quyết theo chi phí thực tế, nhưng tối đa không vượt quá 25% mức trách nhiệm.
b. Chi phí cứu chữa nạn nhân:
- Chi phí cấp cứu: Bao gồm chi phí cấp cứu ban đầu, chi phí di chuyển bệnh viện, chi phí đi lại khám chữa thương tích, chi phí đi lại của người chăm sóc nạn nhân (nếu có).
- Tiền hao phí vật chất và các chi phí y tế khác liên quan đến việc điều trị tai nạn như: tiền thuốc, máu, dịch tuyến, chụp phim, chi phí phẫu thuật, làm chân tay giả, viện phí.v.v…
- Tiền bồi dưỡng nạn nhân: bằng 0,1% mức trách nhiệm bảo hiểm trên ngày tính từ ngày bị nạn cho đến khi vết thương được điều trị ổn định, tối đa không quá 180 ngày.
- Tiền công chăm sóc nạn nhân (nếu nạn nhân không tự phục vụ được). Mức giải quyết 0,1% mức trách nhiệm bảo hiểm /ngày kể từ ngày nạn nhân bị tai nạn đến khi vết thương được điều trị ổn định, tối đa không quá 180 ngày.
3.3. Thiệt haị thu nhập
Khoản thu nhập giảm sút hoặc bị mất gồm những khoản thu nhập do nạn nhân phải nằm điều trị. Thu nhập dùng làm cơ sở tính mức mất hoặc giảm thu nhập thực tế, ổn định ít nhất 6 tháng. Tiền của bản thân nạn nhân trước khi xẩy ra tai nạn.
Thiệt hại nhập gồm:
- Thu nhập trong và sau khi điều trị
- Trường hợp bị thương:
+ Sau khi xẩy ra tai nạn, nếu nạn nhân không còn thu nhập nữa thì thu nhập bị mất là thu nhập trước khi xảy ra tai nạn.
+ Trong thời gian điều trị thương tích, nạn nhân phải ngừng lao động thì thu nhập bị mất là thu nhập của nạn nhân trước khi xảy ra tai nạn tương ứng với số ngày phải ngừng lao động. Nếu nạn nhân vẫn còn thu nhập về tiền lương thì thu nhập bị giảm là thu nhập trước khi xẩy ra tai nạn từ đi phần tiền lương đó.
- Trường hợp chết:
- Thu nhập bị mất đối với gia đình nạn nhân là thu nhập của nạn nhân trừ phàn chi tiêu của bản thân khi còn sống tạm thời quy định chi tieue cho bản thân nạn nhân là 60% thu nhập dành chi tiêu cho gia đình.
+ Trường hợp khi còn sống, nạn nhân không có trách nhiệm phải nuồi dưỡng hay trợ cấp cho người khác thì không phải bồi thường nốt thu nhập cho gia đình nạn nhân.
- Thời gian tính bồi thường mất giảm thu nhập:
+ Thời gian tính mất giảm thu nhập thông thường là 3 năm, trường hợp gia đình có khó khăn thực sự thì thời gian có thể được tính đến 5 năm
+ Thu nhập của nạn nhân được tính cả phần thu nhập chính và thu nhập phụ thường xuyên. Không tính đến các khoản thu nhập do làm ăn trái phép. Đối với nạn nhân làm nghề tự do, thu nhập bi giảm, mất được tính bằng cán bộ công nhân viên chức Nhà nước có cùng nghề và trình độ thành thạo.
+ Ngoài ra khi tính toán thiệt hại thực tế của bên thứ ba, còn tính đến thiệt hại về kinh doanh do hậu quả vụ tai nạn gây ra như: xe hỏng trong thời gian sửa chữa phải ngừng hoạt động làm thiệt hại kinh doanh đến chủ xe trong những ngày sửa chữa.v.v…
Về nguyên tắc, khi yêu cầu công ty, chủ xe phải thu thập đầy đủ hồ sơ như đã quy định trong quy tắc cung cấp cho công ty. Nếu có những văn bản chứng từ chủ xe không thu thập được thì công ty có thể phối hợp cùng chủ xe thu thập nhưng chủ xe phải thanh toán các chi phí sao chụp mà công ty đã chi cho CSGT.
Việc tính toán và bồi thường dựa vào thông tư 03 và 173 của TAND tối cao và công văn số 1180/BH của Tổng Công ty Bảo Hiểm Việt Nam mà công ty áp dụng tức là việc bồi thường vẫn được tính toán theo thiệt hại thực tế. Thiệt hại bao nhiêu tính toán bấy nhiều cộng với chi phí hợp lý liên quan số tiền bồi thường tối đa không quá số tièn bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng nhận, và đã đề ra 4 hạn mức trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3:
Mức tối thiểu:
Về người: 12 triệu đồng/người /vụ
Về tài sản: 30 triệu đồng/vụ
Mức thứ hai:
Về người: 15 triệu đồng/người vụ
Về tài sản: 40 triệu đồng/ vụ
Mức thứ ba :
Về người : 20 triệu đồng/ người/ vụ
Về tài sản : 80 triệu đồng / vụ
Mức thứ tư :
Về người: 30 triệu đồng / người/ vụ
Về tài sản: 80 triệu đồng / vụ
Ngoài ra chủ xe còn có thể tham gia với hạn mức trách nhiệm bảo hiểm cao hơn tuỳ theo khả năng tài chính của mình.
Trong khi tính toán số tiền bồi thường của bảo hiểm cần lưu ý:
- Hai xe cùng thuộc một chủ đâm vào nhau ngoài thiệt hại của chủ xe còn gây thiệt hại cho người đi đường. Khi đó phần thiệt hại của bản thân hai xe không phát sinh trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm vì không thuộc TNDS của chủ xe. Nhưng phần thiệt hại của người đi đường lại phát sinh trách nhiệm dân sự và bảo hiểm sẽ bồi thường toàn bộ số tiền thiệt hại của người đi đường.
- Hai xe đâm va vào nhau, mức độ lỗi ngang nhau bảo hiểm vẫn bồi thường cho các chủ xe theo số tiền dược định bằng 50% thiệt hại của bên kia.
- Hai xe thuộc hai chủ khác nhau, tham gia bảo hiểm cùng một đại diện bảo hiểm địa phương. Việc tính toán số tiền bồi thường vẫn được tính toán bình thường.
Ví dụ: Về việc tính toán số tiền bồi thường
Trên đường xe A là 30 triệu, xe B là 20 triệu, xe B hỏng phải sửa chữa trong 4 ngày, mỗi ngày chủ xe thất thu 200.000đ. Cả hai bên đều không có thiệt hại về người, lỗi mỗi bên là 50%.
Yêu cầu: Xác định vụ tai nạn nói trên, biết rằng:
+ Xe A tham gia bảo hiểm với mức trách nhiệm dân sự của chủ xe là:
Về người: 4 triệu đồng/ người/ vụ
Về tài sản: 10 triệu đồng/ vụ
+ Xe B tham gia với mức trách nhiệm dân sự của chủ xe là:
Về người: 15 triệu đồng / người/ vụ
Về tài sản: 80 triệu đồng / vụ
+ Hai xe thuộc hai chủ khác nhau
Lời giải:
Bước 1: Xác định thiệt hại mỗi bên
Thiệt hại thực tế của xe A: 30 triệu
Thực hiện thực tế của xe B: 20 triệu
Thiệt hại thực tế của xe B về kinh doanh là 4 x 200.000 = 800.000đ
Tổng thiệt hại xe B là : 20.000.000 + 800.000 = 20.800.000đ
Bước 2: Xác định bồi thường của chủ xe A đối với xe B:
50% x 30.000.000 = 15.000.000đ
Số tiền bảo hiểm thay mặt A bồi thường cho Blà 10 triệu đồng
Số tiền bảo hiểm thay mặt B bồi thường cho A tham gia mức trách nhiệm về tài sản là 10 triệu đồng / vụ .
Mặt khác bảo hiểm thực hiện theo nguyên tắc bồi thường theo thiệt hại thực tế. Nên dù mức trách nhiệm về tài sản chủ xe B tham gia là 80 triệu dồng/ vụ nhưng vẫn chỉ được bồi thường 15triệu/ vụ.
Tuy nhiên để giải quyết một cách linh hoạt, đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra và nhằm nâng cao uy tín của Công ty, thu hút đông đảo khách hàng trên thực tế số tiền bồi thường của bảo hiểm được tiến hành chi trả trực tiếp cho nạn nhân để dảm bảo khắc phục hậu quả tai nạn một cách nhanh chóng .
4. Công tác đề phòng, hạn chế tổn thất
Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất không những chỉ mang lại cho công ty về hậu quả kinh doanh mà nó còn thực hiện mục tiêu cao cả và mang lại sự an toàn cho xã hội, tạo điều kiện cho con người luôn được yên tâm trong sản xuất kinh doanh. Nắm bắt được ý nghĩa đó, Bảo Hiểm Bưu Điện thường cử cán bộ, nhân viên xuống các đơn vị tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba để công tác này ngày càng đóng vai trò hết sức quan trọng.
Nhận rõ được tầm quan trọng của công tác đề phòng và hạn chế tổn thất trong mấy năm qua công ty đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm giảm tối đa số vụ tai nạn có thể xảy ra cũng như thiệt hại của nó: Đặt các panô, áp phích, biển báo tại các đầu mối giao thông hay tại một số đoạn đường nguy hiểm thường xảy ra tai nạn. Phối hợp cùng các ngành chức năng tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân về luật lệ giao thông nhằm nâng cao ý thức chấp hành luật lệ an toàn giao thông của người dân. Ngoài ra, phòng bảo hiểm số 2 còn áp dụng các biện pháp thưởng, phạt đối với những xe chấp hành tốt hoặc không đúng luật lệ giao thông. Hơn thế nữa, thỉnh thoảng phòng còn tổ chức các hội nghị khách hàng với mục đích nhằm khuyến khích và giáo dục các chủ xe luôn có ý thức trách nhiệm khi hoạt động xe của mình. Trong phạm vi kinh phí được duyệt, công ty luôn cố gắng làm hết sức mình để người tham gia bảo hiểm có ý thức, trách nhiệm tốt hơn trong công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
IV. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba:
1. Ý nghĩa các chỉ tiêu:
Đánh giá kết quả và hiệu quả là để phân tích hoạt động kinh doanh của cả doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và của từng nghiệp vụ bảo nói riêng. Vì các chỉ tiêu này là cơ sở chính xác, thực tế để xem xetsquas trinh kinh doanh. Dựa trên kết quả phân tích, chung ta đánh giá được tình hình thực hiện kế hoạch, phương hướng và mục tiêu mà doanh nghiệp bảo hiểm đặt ra đối với mỗi nghiệp vụ bảo hiểm. Qua đó giúp doanh nghiệp lập được kế hoạch và chỉ tiêu và tìm ra các giảI pháp thích hợp hơn.
Phân tích hoạt động kinh doanh qua phân tích các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả nghiệp vụ còn giúp công ty kiểm tra vvaf hoàn thiện biểu phí và cách tính phí của từng nghiệp vụ. Đồng thời các báo cáo phân tích cũng là cơ sở để kiêm tra nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Ta biết rằng, kết quả kinh doanh là các chỉ tiêu tàI chính tổng hợp phản ánh quá trình thực hiện nghiệp vụ qua các khâu từ khai thác đến bồi thường. Từ đó giúp công ty đánh giá việc triển khai cũng như khã năng mở rộng hay duy trì sự ổn định của nghiệp vụ. Khi kết quả kinh doanh có lãi thì việc xác định hiệu quả kinh doanh mới có ý nghĩa.
Còn hệ thông chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ lại dùng để tổng kết hoạt động kinh doanh của từng nghiệp vụ và của cả công ty. Hiệu quả kinh doanh bảo hiểm là mức độ đáp ứng các yêu cầu kinh tế mà công ty đã đề ra, được do bằng sự phát triển của tất cả các nghiệp vụ riêng lẻ nó phản ánh trình độ sử dụng chí phí để tạo ra những kết quả kinh doanh nhất định theo các chỉ tiêu.
2. Nội dung các chi tiêu:
Kết quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm thể hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu là: doanh thu và lợi nhuận.
Doanh thu thể hiện tổng hợp kết quả kinh doanh trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm ). Nó là cơ sở để tính các chỉ tiêu khác có liên quan phục vụ việc phân tích kinh doanh. Cũng giống như doanh thu toàn công ty thì doanh thu của từng nghiệp vụ bảo hiểm là tổng doanh thu các mặt: hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, nhận tái, nhưỡng tái, đàu tư và các khoản thu khác.
Lợi nhuận của nghiệp vụ là phần còn lại của doanh thu sau khi trừ đi tổng chi phí trong năm. Trong đó tổng chi của nghiệp vụ gồm rất nhiều khoản như: chi bồi thường, chi quản lý, dự phòng chi hoa hồng thuế …
NgoàI doanh thu và lợi nhuận, ta có thể tính thêm được tốc độ tăng trưởng doanh thu, tốc độ tăng trượng lợi nhuận…. để đánh giá kết quả kinh doanh nghiệp vụ.
Hiệu quả kinh doanh của từng nghiệp vụ bảo hiểm cũng gồm hai loại: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội:
Hiệu quả kinh tế được tính bằng hiệu quả tính theo doanh thu hay lợi nhuận :
+ Hiệu quả tính theo doanh thu: chỉ tiêu này được giữa trên số chi phí bọ ra của công ty và doanh thu tương ứng là bao nhiêu trong một kỳ hoạt động (thường là một năm ).
+ Hiệu quả tinhtheo lợi nhuận: chỉ tiêu này giữa trên chi phí bỏ ra và thu được bao nhiê lợi nhuận trong một kỳ
Hiệu quả về mặ xã hội: chỉ tiêu này phản ánh số khách hàng tham gia bảo hiểm, số khách hàng được bồi thường và chi phí trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh chí phí bọ ra trong kỳ thu hút được bao nhiêu khchs hàng tham gia bảo hiểm và giảI quyết được bao nhiêu khach hàng gặp rủi ro.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA Ở CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM HƯU ĐIỆN (PTI)
I. Một số nét khái quát về công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI)
1.Sự ra đời và hoạt động của PTI:
Thực hiện chủ trương của Chính Phủ về định hướng phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân, hoà nhập với thị trường trong nước và quốc tế. Thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có những biến đổi sâu sắc trên nhiều lĩnh vực và thực sự có những tác động không nhỏ đến sản xuất, đời sống kinh tế- xã hội của các tổ chức và các tâng lớp dân cư trong nước, mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh với thị trường bảo hiểm thế giới.
Một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển nhanh chóng là việc Chính Phủ cho phép thiết lập hệ thống doanh nghiệp bảo hiểm thuộc nhiều thành phần kinh tế nhằm tận dụng và phát huy hết khả năng và khai thác triệt để các tiềm năng sẵn có của các ngành kinh tế trong phạm vi cả nước. Nhận thức được định hướng trên của Chính phủ và tiềm năng phát triển của các đơn vị kinh tế lớn trong nước, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam với tư cách là cổ đông sáng lập đã chủ trì cùng sáu cổ đông khác xây dựng đề án, xin phép Bộ Tài chính và Uỷ Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội thành lập công ty Cổ Phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI). Đề án trên đã được Bộ Tài Chính, Uỷ Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội chấp thuận.
Được sự đồng ý của Bộ Tài Chính, ngày 01/8/1998 Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành quyết định số 3633/GP-UB thành lập Công ty Cổ Phần Bảo hiểm Bưu điện, Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội cấp giấy phép kinh doanh số 055051 ngày 12/8/1998. Công ty đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/9/1998 với chức năng nhiệm vụ sau:
Kinh doanh trực tiếp các dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ trong phạm vi trong nước và quốc tế.
Kinh doanh nhận và nhượng Tái bảo hiểm liên quan đến các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ.
Tham mưu tư vấn cho các tổ chức kinh tế xã hội trong việc đánh giá và quản lý rủi ro.
Thực hiện các dịch vụ liên quan như: Giám định, điều tra, tính toán, phân bổ tổn thất, đại lý giám định, xét bồi thường và đòi người thứ ba.
Hoạt động đầu tư tài chính theo quy định của pháp luật.
Giúp các tổ chức, khách hàng bảo hiểm đào tạo cán bộ chuyên ngành bảo hiểm .
Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện có trụ sở chính tại 134 Thái Hà, Quận Đống Đa, Hà Nội.
Tổng số vốn điều lệ của công ty là 70 tỷ VND, công ty có các cổ đông sáng lập ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31964.doc