Lời nói đầu
Hoạt động kinh doanh tiền tệ là loại hình kinh doanh luôn gắn liền với nhiều rủi ro tiềm ẩn như rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro mất khả năng thanh toán....Vì vậy việc đỗ vỡ và phá sản của các tổ chức tín dụng hoạt động yếu kém là điều tránh khỏi. Đối với nền kinh tế việc xử lý những hậu quả do quá trình kinh doanh không thành công của các tổ chức tín dụng không đơn giản chỉ là tuyên bố phá sản tổ chức này hay đơn vị kia mà trước hết nó làm tổn thương đến niềm tin c
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa dân chúng. Nếu không có những biện pháp thích hợp sẽ còn gây ra những bất ổn khôn lường về kinh tế chính trị, xã hội , gây hoang mang dao động trong dân chúng và tạo ra tâm lý bất lợi cho hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổ định các tổ chức tín dụng nói riêng và bảo đảm cho sự an toàn lành mạnh trong hoạt động của ngành ngân hàng nói chung. Ngày 01/09/1999 Chính phủ đã ban hành nghị định số 89/1999 NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi và ngày 09/11/1999 thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 218/1999/QĐ-TTg về thành lập tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Như vậy đây là một hoạt động bảo hiểm mới được triển khai ở Việt nam, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận và được phối hợp giữa chính phủ và ngân hàng nhà nước Việt nam. Chính vì thế em rất quan tâm và muốn tìm hiểu nghiệp vụ này được triển khai như thế nào ở Việt nam. Do đó em đã chọn đề tài "Bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam" để làm đề án môn học.Với sự hiểu biết của bản thân và sự hưỡng dẫn nhiệt tình của Cô giáo Tô Thị Thiên Hương em đã hoàn thành đề tài này.
Vì đây là lần đầu tiên đi sâu nghiên cứu một nghiệp vụ bảo hiểm nên còn nhiều thiếu sót và còn mang nặng lý thuyết nên kính mong Cô xem xét và góp ý, em xin chân thành cảm ơn.
Chương I tổng quan về bảo hiểm tiền gửi
I. sự cần thiết của bảo hiểm tiền gửi.
Chức năng của tín dụng
Các tổ chức tín dụng được thành lập để hoạt đông kinh doanh tiền tệ , làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác có liên quan .Với bản chất như vậy tín dụng có các chức năng chính sau:
- Huy động và phân phối vốn tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn trả. đây là chức năng chủ yếu của tín dụng phản ánh bản chất của tín dụng. Chức năng này của tín dụng được thể hiện thông qua các nghiệp vụ cơ bản sau:
+ Huy động vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, dân cư thông qua các hình thức góp vốn, huy động tiết kiệm, phát hành trái phiếu.
+ Cho vay đối với các doanh nghiệp, cá nhân nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc bằng hàng hoá.
- Kiểm soát các hoạt động kinh tế: Tín dụng là quan hệ kinh tế được hình thành trên cơ sở rất nhiều các quan hệ kinh tế khác. bản thân quan hệ tín dụng cũng lại bao gồm nhiều mối quan hệ như: Quan hệ vay, quan hệ về dư nợ. Do đó quan hệ tín dụng bao gồm cả khả năng kiểm soát các laọi hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp. để hình thành được quan hệ tín dụng người cho vay phải biết và kiểm soát hoạt động của người đi vay như tình hình vốn liếng, mặt hàng sản xuấyt kinh doanh, khả năng trả nợ nói riềng và tình hình tài chính nói chung, quan hệ với các chủ nợ khác... các trục trặc trong quan hệ tín dụng như vay không trả nợ được hoặc trả không đúng hạn phản ánh những trục trặc trong qua trình sản xuất kinh doanh như không tiêu thụ hàng hoá, không có lãi, bị phá sản...
2. Vai trò của hoạt động của tín dụng
Là một mối quan hệ kinh tế tín dụng có những tác động nhất định đối với các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức và vận dụng quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý kinh tế của con người. Trước hết tín dụng là công cụ tích tụ va tập trung vốn rất quan trọng. Thông qua tín dụng các doanh nghiệp nhận khối lượng vốn bổ sung rất lớn từ đó tăng quy mô sản xuất hoặc tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Tín dụng tập trung các khoản tín dụng nhỏ, lẻ tẻ thành các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn, hiệu quả cao. Tóm lại, thông qua quá trình tích tụ và tập trung vốn tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tín dụng giúp các nhà doanh nghiệp đầu tư vào các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao kích thích khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển hưỡng sản xuất kinh doanh. Tín dụng trở thành công cụ làm cho kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động, mềm dẻo, linh hoạt. bên cạnh đó, tín dụng là công cụ tăng vòng quay của vốn và tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông.d
3. Sự cần thiết của bảo hiểm tiền gửi .
Trong các hoạt động kinh tế , tín dụng là một trong những hoạt động phát triển mạnh mẽ, hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận rất cao nên có rất nhiều rủi ro và chúng có thể xảy ra bất cứ lúc nào gây ra những thiệt hại không lường trước .hoạt đông tín dụng có thể gặp những rủi ro sau:
Rủi ro tín dụng là nguy cơ người cho vay không thực hiện nghĩa vụ tả nợ cho ngân hàng
Rủi ro về tính thanh khoản là nguy cơ không bán được các tài sản nhanh chóng trừ khi chịu chiết khấu lơns.
Rủi ro về giá là nguy cơ bị lỗ do những thay đổi không lường trước được của giá cả , chẳng hạn như những thay đổi về tỷ giá hối đoái hay lãi suất.
Rủi ro hệ thống là nguy cơ một hay một số khách hàng không trả nợ hoặc rút tiền gây nguy hiểm cho toàn hệ thống tài chính.
Rủi ro đạo đức là một khía cạnh quan trọng liên quan mật thiết đến động cơ hành động.
Các rủi ro trên có thể xẩy ra lúc nào gây ra tổn thất cho các tổ chức tín dụng như mất mát về tài sản, thu nhập ... làm cho tổ chức tín dụng bị thua lộ thậm chí bị phá sản. Rủi ro tín dụng xẩy ra có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau:
Do môi trường kinh tế chứa ổn định làm cho một số doanh nghiệp không đứng vững trên thị trường.
Do quản lý nhà nước còn sơ hở, tạo điều kiện cho một số cá nhân, doanh nghiệp có hànhvi lừa đảo.
Do trình độ quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp còn hạn chế.
Cùng vơí những nguyên nhân trên khánh hàng cũng góp phần tạo ra những rủi ro tín dụng, ví dụ như khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, sản xuất kinh doanh thua lỗ; người vay cố tình không trả nợ hoặc tài sản thế chấp, giấy tờ pháp lý của khách hàng không đảm bảo.
Bản thân ngân hàng và các tổ chức tín dụng cũng gây những rủi ro như không chấp hành nghiêm túc các thể lệ tín dụng và vi phạm các quá trình xét duyệt cho vay, không kiểm tra được việc sử dụng vốn của người vay, quá chú trọng về lợi nhuận,đặt lợi nhuận lên trên các nguyên tắc ,điều kiện của tín dụng; việc xác định cho vay không chuẩn xác như cho vay sai mục đích, chẳng hạn vay để đánh quả, hoặc để đầu cơ tích trữ cho giá lên, cho vay không có biện pháp đảm bảo thích hợp. Ngoài ra còn có nguyên nhân khác tác dụng đến sự rủi ro tín dụng như sự thay đổi, điều chỉnh về chính trị quân sự, chế độ, luật pháp của nhà nước, thay đổi địa giới hành chính của các địa phương.
Những rủi ro tín dụng xẩy ra có thể để lại những hậu quả khôn lường, nếu nhẹ thì cũng làm mất ổn định hệ thống ngân hàng, mất niềm tin vào nhân dân. Nếu nhẹ thì gây nên cuộc khủng hoảng tài chính thi trường từ đó nảy sinh nhiều vấn đề khác. Do vậy để đối phó với những rủi ro tổn thất không lường trước do các rủi ro gây ra có nhiều biện pháp khác nhau nhưng biện pháp tốt nhất là bảo hiểm nghĩa là chuyển những rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ chức bảo hiểm. Vì thể bảo hiểm tiền gửi ra đời là một tất yếu khách quan.
II. Bản chất của bảo hiểm tiền gửi.
1. Khái niệm và đặc điểm.
1.1 Khái niệm
Bảo hiểm tiền gửi là bảo hiểm trách nhiệm của tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền gửi.
Đặc điểm
Đây là loại hình bảo hiểm trách nhiệm, tuy nhiên trong thời kỳ đầu triển khai nó thường được thực hiện dưới hình thức tự nguyện, sau đó khi đã đi vào quỹ đạo chung của nền kinh tế thị trường thì luật pháp các nước quy định là hình thức bắt buộc đối vơí các tổ chức tín dụng.
Rủi ro bảo hiểm rất đặc biệt: chịu sự chi phối của tất cả các yếu tố kinh tế - chính trị -văn hoá cho nên rủi ro được bảo hiểm và rủi ro không được bảo hiểm xẩy ra trong cho nên rủi ro được bảo hiểm và rủi ro không được bảo hiểm có thể thay đổi theo thời kỳ.
Mặc dù là bảo hiểm trách nhiệm nhưng trách nhiệm ở đây nhà bảo hiểm có thể biết trước hoặc lường trước(thông qua số dư tiền gửi).
Các công ty bảo hiểm thông thường trên cơ sở những khoản tiền gửi có kỳ hạn.
Đây là loại hình bảo hiểm trách nhiệm đặc biệt: về đối tượng tham gia, đối tượng bảo hiểm, người thứ 3, thời hạn tính phí chẳng hạn như người tham gia là tổ chức tín dụng, họ nộp phí bảo hiểm cho người thứ 3 là người gửi tiền.
2. Vai trò
Cũng như hoạt động tín dụng bảo hiểm tiền gửi cũng đóng vai trò rất lớn:
Đối với nền kinh tế: hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các tổ chức, các doanh nghiệp, người gửi tiền nếu có rủi ro xẩy ra gây thiệt hại lớn hoặc phá sản một vài tổ chức tín dụng sẽ tạo ra tâm lý không an toàn đối với nhân dân, họ đua nhau rút tiền làm phá sản hàng loạt các ngân hàng và tổ chức tín dụng từ đó làm cho nhiều doanh nghiệp mất vốn, nền kinh tế thiếu vốn trầm trọng lãnh đạo nền sản xuất bị đình trệ và ảh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Do đó bảo hiểm tiền gửi ra đời góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng rủi ro tín dụng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của họ do đó khi không may rủi ro tín dụng xẩy ra sẽ làm cho doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận thua lỗ thậm chi mất cả khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. Vì vậy bảo hiểm tiền gửi giúp bình ổn hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện lợi nhuận cho các tổ chức tín dụng hoạt động một cách có hiệu quả. Đối với người gửi tiền: Khi rủi ro tín dụng xẩy ra có thể mất tiền gửi, đa số người gửi tiền là do tiết kiệm được vì thế khi tổ chức tín dụng nơi họ gửi tiền mất khả năng thanh toán họ sẽ mất toàn bộ số tiền bấy lâu nay tiết kiệm được, vì thế những dự tính cũng tiêu tan. Như vậy bảo hiểm tiền gửi còn tạo ra tâm lý an toàn, tin cậy cho người gửi tiền từ đó huy động được một lượng vốn lớn trong dân góp phần tăng nguồn vốn cho nền kinh tế.
Như vậy bảo hiểm tiền gửi đã ra đời nhằm đảm bảo an toàn tiền gửi cho người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, đảm bảo sự an toàn lành mạnh hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách vững chắc.
III. bảo hiểm tiền gửi trên thế giới.
1. Các cơ chế bảo hiểm tiền gửi đang được áp dụng trên thế giới.
Bảo hiểm hoàn toàn.
Với cơ chế này mọi người gửi tiền đều được bảo hiểm hoàn toàn trong trường hơp ngân hàng bị đổ vỡ, hiện có 9 quốc gia đang áp dụng cơ chế này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mêhicô, Thái Lan....Mặc dù cơ chế này ngăn chặn một cách hữu hiệu hiện tượng rút tiền ồ ạt, bởi lẽ người gửi tiền hoàn toàn tin tưởng vào việc bảo hiểm tiền gửi sẽ thực hiện các nghĩa vụ của mình khi các ngân hàng gặp khó khăn .nhưng thông qua đó, nó đã làm mất nguyên tắc của thị trường khi xét đến hiện tượng gia tăng tâm lý bất cẩn (vấn đề rủi ro đạo đức) từ phía các ngân hàng, khi chấp nhận các rủi ro lớn hơn trong kinh doanh và từ phía người gửi tiền khi không lựa chọn thận trọng các ngân hàng mà chỉ quan tâm đến mức lãi suất cao nhất trả cho tiền gửi của họ . cơ chế này có khả năng sử dụng nhiều phương thức khác nhau để xử lý các ngân hàng bị đổ vỡ như trợ giúp tài chính cho việc sáp nhập và phục hồi ,mua tài sản và nhận tài sản nợ bổ sung cho việc thanh toán bảo hiểm hoặc thực hiện việc chuyển tiền gửi trong trường hợp ngân hàng bị đóng cửa sang tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khác . cơ chế này thường áp dụng trong trường hợp nền kinh tế có khủng hoảng.
1.2 Bảo hiểm theo phạm vi hạn chế .
Các khoản tiền gửi đươc bảo hiểm đến một giới hạn tối đa . Hiện nay có 67 quốc gia đang áp dung cơ chế này như Hồng Kông, Aó , Đan Mạch , Brazin ... và thường tập trung vào những người gửi tiền nhỏ. Cơ chế này bảo vệ hệ thống ngân hàng ngăn chặn việc lây lan hiện tượng rút tiền ồ ạt ra khỏi nhưng vẫn duy trì nguyên tắc của thị trường ở mức độ đáng kể ,và nó giúp ngân hàng tránh phải chịu rủi ro quá mức. Đối với cơ chế bảo hiểm này các quốc gia quy định nhà bảo hiểm tiền gửi không được quyền cung cấp , trợ giúp cho việc sáp nhập hoặc khôi phục lại những nh bị suy yếu , vì điều này có thể làm tăng việc bảo vệ thực tế cho những người gửi tiền không được bh hoàn toàn. Cơ chế này thường được áp dụng trong thời kỳ hệ thống tài chính ổn định.
Bảo hiểm theo phạm vi tuỳ chọn.
Cơ chế này nằm giữa cơ chế bảo hiểm hoàn toàn và cơ chế bảo hiểm có giới hạn. Thông thường trong thời kỳ hệ thống tài chính ổn định thì các quôc gia áp dụng theo phạm vi hạn chế còn khi có khủng hoảng tài chính thì chuyển sang cơ chế bảo hiểm toàn phần. Theo đó tất cả những khoản tiền gửi được bh đến một giới hạn tối đa và thường là theo mức tiết kiệm của những người gửi tền nhỏ. Tuy nhiên, trong những điều kiện đặc biệt ,để bảo vệ hệ thống ngân hàng nhà bảo hiểm tiền gửi có thể mở rộng phạm cho cả những người gửi tiền không được bảo hiểm hoàn toàn , khi các cơ quan chức năng của chính phủ và nhà bảo hiểm xác định rằng thiệt hại của những người gửi tiền không được bảo hiểm hoàn toàn sẽ tác động đến lòng tin của công chúng từ đó có thể gây ra hiện tượng rút tiền ồ ạt lan rộng . Do đó phạm vi bảo hiểm tuỳ chọn có thể đưa ra sự bảo vệ hoàn toàn cho những người gửi tiền nhỏ và có thể bảo vệ hệ thống ngân hàng khỏi nguy cơ rút tiền ồ ạt thành hệ thống, nhờ đó bảo vệ tất cả những người gửi tiền. Cơ chế bảo hiểm tiền gửi này tương tự cơ chế bảo hiểm công khai có giới hạn khi hệ thống ngân hàng không bị đe doạ , nhưng nó có thể chuyển thành cơ chế bảo vệ hoàn toàn thực tế nếu chính phủ nhận thấy cần thiết và cho phép.
Cơ chế bảo hiểm đồng bảo hiểm .
Cơ chế này nhằm giảm thiểu các hành vi bất cẩn của người gửi tiền bằng cách đưa ra hình thức đồng bảo hiểm , người gửi tiền chịu mộtphần các khoản lỗ và nhà bảo hiểm tiền gửi bảo vệ phần còn lại. Đồng bảo hiểm có thể thực hiện dưới hình thức cắt giảm một tỷ lệ nhất định trong số tiền gửi được bảo hiểm. Hiện nay có hơn 20 quốc gia đang áp dụng cơchế này như Anh, Phần Lan, Bồ Đào Nha, ý....
2. Các mô hình bảo hiểm .
Giống như các loại bảo hiểm khác , hiện nay trên thế giới bảo hiểm tiền gửi cũng tồn tại dưới hai hình thức tự nguyện và bắt buộc. Bảo hiểm bắt buộc đang được áp dụng ở Mỹ , Nhật , Anh , Canada, Hà Lan.... Trong trường hợp này , tất cả đều được luật hoá, từ các điều kiện tiến hành bảo hiểm , chủ thể , và khách thể cho đến cơ chế xác định mức phí và mức tiền bồi thường bảo hiểm . Bảo hiểm tự nguyện đang được áp dụng ở Pháp, Đức, ý ... ở các nước này, ngân hàng được quyền quyết định việc tham gia hay không tham gia bảo hiểm tiền gửi Về mặt pháp lý thì như vậy ,nhưng ở đây các ngân hàng đều bị ràng buộc bởi các luật vô hình. Đó là muốn được tham gia thì phải là thành viên của hiệp hội ngân hàng , muốn được cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ ngân hàng thì cần có sự đảm bảo tiền gửi cho khách hàng, hơn nữa nếu không tham gia bảo hiểm tiền gửi của khách hàng thì ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn trong việc cạnh tranh, thu hút khách hàng vì khách hàng sợ vốn gửi vào đây sẽ thiếu an toàn. Do vậy các ngân hàng hầu như buộc phải tự nguỵên tham gia bảo hiểm tiền gửi. Hiện nay bên bảo hiểm tiền gửi ngân hàng ở các nước có thể là nhà nước, là hiệp hội ngân hàng, hay liên doanh giữa nhà nước với ngân hàng . Nhà nước nhận bảo hiểm tiền gửi ngân hàng, thông thường trong trường hợp băt buộc . ở đây nhà nước thành lập cơ quan bảo hiểm chuyên trách và hoạt động trên cơ sở không vì lợi nhuận. Vốn hoạt động của cơ quan này gồm tiền đóng góp của các ngân hàng và kinh phí từ ngân sách nhà nước.Tổ chức bảo hiểm tiền gửi do các ngân hàng tập nên thường gọi là quỹ bảo toàn tiền gửi của hiệp hội ngân hàng , do đó nhà nước không can thiệp trực tiếp, chỉ tạo điều kiện pháp lý cho thành lập và hoạt động . Quỹ ra đời nhằm mục đích tương hỗ vì lợi ích chung của hội viên, không vì mục đích kinh doanh chia lời. Vốn hoạt động của quỹ không phải từ ngân sách nhà nước mà từ tiền đóng góp của các ngân hàng thành viên. Hình thức thứ ba là liên doanh giữa nhà nước với ngân hàng, là sự kết hợp giữa chính phủ và ngân hàng nhà nước thành lập nên tổ chức bảo hiểm tiền gửi , trong đó nhà nước cấp vốn ban đầu và thực hiện giám sát, thanh tra qua hệ thống văn bản pháp quy, quy chế đã ban hành, còn phía ngân hàng đứng ra tổ chức thực hiện và quản lý điều hành các hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi .
Mỗi mô hình có những ưu điểm nhược điểm riêng do đó trong quá trình nghiên cứu triển khai phải tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, từng thời kỳ giai đoạn mà áp dụng mô hình hợp lý cho nước mình tạo điều kiện ổn định và trợ giúp hoạt động tín dụng góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế.
3. Giới thiệu một số mô hình bảo hiểm tiền gửi .
3.1 Bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ.
Đây chính là nơi khai sinh ra hoạt dộng bảo hiểm tiền gửi, vào năm 1929 sau vụ đại suy thoái kinh tế nhiều ngân hàng bị phá sản đã gây tổn thất lớn cho những người gửi tiền tiết kiệm ở ngân hàng. Năm 1934 Mỹ đã chấn chỉnh lại hệ thống bảo hiểm tiền gửi ngân hàng, thành lập công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang gọi tắt FDIC là một tổ chức liên bang độc lập. FDIC bảo hiểm các khoản tiền gửi trong ngân hàng với khoản tiền được bảo hiểm tối đa là 2.400$ theo quy định đầu tiên. Theo thời gian giới hạn bồi thường cho mỗi khoản tiền gửi tối đa là100.000$.Tất cả các ngân hàng thương mại và ngân hàng tiết kiệm là thành viên của hệ thống dự trữ liên bang đều phải mua bảo hiểm tại FDIC. Đây chính là hình thức tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc và thực chất là bảo hiểm tiền gửi được tổ chức theo mô hình nhà nước. FDIC sử dụng hệ thống mức phí phân biệt , mức phí được xác định riêng cho từng ngân hàng, tuỳ thuộc vào khả năng thanh toán, khả năng cạnh tranh và mức độ ổn định tài chính của mỗi ngân hàng. Phí nộp hàng năm được tính như sau:
Đối với những ngân hàng tài chính không ổn định về kinh doanh thì tỷ lệ phí là 0,31%/năm.
Đối với những ngân hàng tài chính kinh doanh kém thì tỷ lệ phí là 0,35%/năm.
Đối với những ngân hàng có rủi ro tín dụng theo chiều hướng gia tăng thì tỷ lệ phí là 0,5%/ năm
Tuy nhiên ,tất cả các điều kiện nói trên đều được xem xét lại theo định kỳ và mức phí phải nộp sẽ còn phụ thuộc vào số phí còn tồn quỹ bảo hiểm của mỗi ngân hàng FDIC được quyền kiểm tra các ngân hàng tham gia bảo hiểm, xem xét việc thi hành các luật lệ và quy định khác từ đó có quyền phạt tiền dân sự được lệnh đình chỉ, cách chức và phạt treo các thành viên nội bộ thuộc tổ chức mình và có quyền chấp nhận các chi nhánh nước ngoài của ngân hàng nhà nước không thuộc thành viên. Sau khi FDIC thành lập việc đổ xô đến ngân hàng rút tiền đã giảm hẳn từ đó số lượng ngân hàng bị phá sản đã giảm trong suốt thời kỳ thành lập cho đến những năm đầu 1980. Vì để ngăn ngừa khả năng phải bảo hiểm FDIC đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa đối với những ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ như sau:
Mua một phần tài sản hay cho ngân hàng này vay tiền để khỏi bị phá sản
Cải tổ ngân hàng bằng cách sát nhập ngân hàng có nguy cơ bị vỡ nợ vào ngân hàng khác mạnh hơn.
Khuyến khích các ngân hàng mạnh mua ngân hàng yếu
Nếu phát hiện thấy những ngân hàng vi phạm những quy định về an toàn vốn hoặc thực hiện các nghĩa vụ bị nhiều rủi ro thì FDIC có thể loại ngân hàng này ra khỏi chế độ bảo hiểm tiền gửi. Trong trường hợp này, những khoản tiền gửi từ lúc bị loại ra như vậy sẽ không được chấp nhận bảo hiểm, còn những khoản tiền trước đó thì cũng chỉ được tiếp tục bảo hiểm thêm hai năm nữa. Luật pháp Mỹ còn cho phép nếu FDIC không đủ vốn dự trữ bồi thường các vụ tổn thất lớn thì có thể được vay vốn ở kho bạc nhà nước vơí mức vay tối đa là 3 tỷ USD.
3.2 Bảo hiểm tiền gửi ở Đức.
ở CHLB Đức có 3 hệ thống đảm bảo an toàn tiền gửi được thiết lập .
3.2.1 Hệ thống bảo hiểm tiền gửi thuộc hiệp hội ngân hàng thương mại Đức .
Mục tiêu hoạt động của quỹ , quỹ ra đời nhằmbảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại các ngân hàng thương mại , giữ cho hoạt động của ngân hàng thương mại luôn ổn định . Quỹ còn bảo vệ uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, bảo đảm độ tin cậy của ngưòi gửi tiền vào các ngân hàng thương mại.
Các thành viên tham gia bao gồm : Các ngân hàng thương mại là hội viên của hiệp hội ngân hàng thương mại Đức, các ngân hàng không phải là hội viên nhưng tự nguyện cũng được tham gia.
Phạm vi bảo hiểm gồm các loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn , không kỳ hạn của các cá nhân và doanh nghiệp . Bên cạnh đó quỹ còn nhận bảo hiểm cho các kỳ phiếu ngân hàng và các chứng chỉ tiền gửi đích danh. Loại trừ các loại kỳ phiếu những chứng phiếu tiền gửi vô danh, tiền gửi liên ngân hàng, và các tổ chức phi chính phủ, đoàn thể, tiền gửi của hội đồng quản trị và ban giám đốc, các cổ đông ngân hàng có cổ phần trên 5%, tiền gửi mang danh bằng kỳ hiện mặt hay bảo lãnh.
Vốn hoạt động của quỹ do các ngân hàng thanh viên đóng góp với mức phí 0.03%/số dư tiền gửi được bảo hiểm. Nếu như năm nào ngân hàng thành viên gặp khó khăn trong kinh doanh thì không phải nộp phí nhưng tiền gửi vẫn được bảo hiểm.
Hệ thống bảo hiểm tiền gửi thuộc hiệp hội ngân hàng Hợp tác xã Raiffcisen và quỹ tiết kiệm
Hệ thống này ra đời từ năm 1930, mục tiêu ở đây dược xác định là bảo vệ bản thân các tổ chức tín dụng luôn hoạt động trong trạng thái ổn định. Các tổ chức tín dụng trong hệ thống này rất bé nhỏ và yếu vì thế họ cần đượ bảo vệ .Tất nhiên, bảo vệ được tổ chức tín dụng chính là đảm bảo khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng đó.
3.2.3. Công ty bảo hiểm tiền gửi của nhà nước.
Được thành lập từ năm 1998 hoạt động theo luật công. Nhà nước đứng ra thành lập nhưng uỷ quyền cho hiệp hội các ngân hàng quản lý. Tham gia vào công ty này chủ yếu là các quỹ tín dụng. Công ty này chỉ đền bù cho khách hàng gửi tiền khi có rủi ro xảy ra nhưng tối đa chỉ 20.000 EURO hay 40.000DM. Mặc dù công ty bảo hiểm tiền gửi của nhà nước giao cho hiệp hội ngân hàng quản lý nhưng nó độc lập với quỹ bảo toàn tiền gửi của hiệp hội ngân hàng .
3.3. Bảo hiểm tiền gửi ở Nhật Bản.
Được thành lập từ năm 1971 với hình thức liên doanh giữa nhà nước và tư nhân, đó là 5 liên doanh bảo hiểm được thành lập và bắt tay vào hoạt động lấy tên là công ty bảo hiểm tiền gửi. Vốn điều lệ của công ty này gồm ba phần: Của Chính phủ, của ngân hàng Nhật ,và các ngân hàng tư doanh. Quản lý công ty là một uỷ ban gồm đại diện 3 thành phần trên. tổ chức này chỉ bảo hiểm cho các ngân hàng trong nước,không bảo hiểm cho các khoản tiền gửi ở các chi nhánh ngân hàng địa phương nước ngoài và áp dụng hình thức bảo hiểm bắt buộc. Bảo hiểm tiền gửi ở Nhật sử dụng hệ thống mức phí thống nhất, được quy định theo một tỷ lệ % thống nhất cho mọi ngân hàng,và tỷ lệ này bằng 0,008% trên tổng số tiền gửi ngân hàng được bảo hiểm. ở Nhật cũng áp dụng giới hạn bồi thường cho mỗi khoản tiền gửi ,tối đa cho mỗi khách hàng là 10 triệu yên Nhật.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 97 đã làm nhiều ngân hàng Nhật bị phá sản ,công ty bảo hiểm đã thực hiện chi trả cho người gửi tiền ở các ngân hàng bị phá sản theo đúng quy định đã góp phần ổn định nền tài chính ở nhật bản.
Chương II . bảo hiểm tiền gửi ở việt nam.
I. Sự ra đời và phát triển.
1. Vì sao bảo hiểm tiền gửi ra đời ở Việt Nam.
Bất cứ nền kinh tế nào muốn hoạt động,tăng trưởng và phát triển thì cũng cần phải có một hệ thống tài chính tín dụngổn định và vững mạnh sự tồn tại và hoạt động của một tổ chức tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến một tổ chức khác , do đó nó có thể ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống. điều này đúng với thực tế Việt Nam chúng ta hiện nay. Cũng như các doanh nghiệp , tổ chức khác thì bảng cân đối của tổ chức tín dụng cũng có hai phần là tài sản có và tài sản nợ,trong đó tài sản nợ là tài sản ngân hàng nợ thị trường và chủ yếu là các khoản tiền gửi. Như vậy,tiền gửi là bộ phận quan trọng của tổ chức tín dụng cũng như cả hệ thống ngân hàng. Sự ổn định của tiền gửi dược biểu hiện ở tốc độ tăng tiền gửi, biến động của cơ cấu tiền gửi. Nhân tố quyết định đến tỷ lệ tiết kiệm là niềm tin của người gửi,tốc độ tăng tiền gửi cũng bị chi phối bởi khả năng lựa chọn của người gửi tiền và tập quán tiết kiệm của dân cư.ở các nước đang phát triển do thị trường tài chính kém phát triển các công cụ tài chính còn thô sơ ,độ rủi ro cao,thêm vào đó là tâm lý tiết kiệm chi tiêu trong điều kiện thu nhập thấp đặc biệt là các nước châu ávà Việt Nam. Chính vì vậy tiền gửi ở các tổ chức tín dụng thường ở mức độ cao. Do đó nếu người gửi tiền vì một lý do nào đó nghi ngờ rằng tổ chức tín dụng mà mình gửi tiền đang gặp khó khăn có thể mất khả năng thanh toán, họ sẽ lập tức rút tiền khỏi các tổ chức này. vì thế các tổ chức tín dụng này sẽ mất đi một khoản dự trữ, nếu nghi ngờ ban đầu của môt hoặc vài người bị lây lan thì sẽ tạo ra một tâm lý bất an cho những người gửi tiền khác và có thể họ cũng sẽ rút tiền của mình để chuyển đến một địa điểm khác an toàn hơn. càng có nhiều người rút tiền dự trữ của các tổ chức tín dụng ngày càng cạn kiệt và khả năng thanh toán ngày càng giảm xuống. Không chỉ dừng lại đó nếu nhà nước không có những biện pháp kịp thời chấn an tinh thần và khôi phục niềm tin của dân chúng thì sẽ gây ra phản ứng vỡ nợ dây chuyền. Từ đo dẫn tới một cuộc khủng hoảng ngân hàng toàn diện với sự phá sản đồng thời nhiều ngân hàng. Thực tế đã chứng minh, ở Việt Nam vào những năm 89-90 và cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước châu A vào năm 1997 đã cho thấy hậu quả không chỉ làm cho nền kinh tế tụt dốc một cách nghiêm trọng mà còn ảnh hưởng tới hệ thống chính trị của một số quốc gia. để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia có thể nhiều yếu tố khác nhưng hệ thống ngân hàng phải được giữ vững ổn định không xảy ra những biến động lớn. Muốn vậy ngoài các chính sách tiền tệ , phải làm sao giữ vững niềm tin của dân cư vào các tổ chức tín dụng. Mặt khác , hoạt động kinh doanh tiền tệ là loại hình kinh doanh luôn gắn liền với ngân hàngững rủi ro tiềm ẩn. Vì vậy việc đổ vỡ một số tổ chức tín dụng hoạt động yếu kém là điều không tránh khỏi. Đối với một nền kinh tế nói chung ,việc xử lý hậu quả quá trình kinh doanh không thành công của các tổ chức tín dụng không chỉ là việc tuyên bố phá sản hay giải thể của một tổ chức này hay đơn vị kia mà trước hết nó ảnh hưởng trức tiếp đến tâm lý và đời sống của những người gửi tiền. Việc để xẩy ra một ngân hàng bị phá sản với chuyện người gửi tiền không đòi lại đủ số tiền của mình thậm chí còn bị mất trắng. Mà theo như số liệu của ngân hàng nhà nước hơn 80% dân cư gửi tiền với số lượng rất nhỏ. điều này nói lên cơ cấu thực tế của tầng lớp này chủ yếu là nông dân, các cá nhân không có khả năng sử dụng đồng tiết kiệm của mình vào một mục đích kinh doanh nào khác. do vậy nhóm người này sẽ có nguy cơ gặp rủi ro cao nhất và gánh chịu những hậu quả nặng tác động đến đời sống, tinh thần của gia đình. Bên cạnh đố đối với nước đang phát triển như nước ta nhu cầu về vốn là rất lớn việc đa dạng hoá các kênh huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn là rất quan trọng. Trong một vài năm gần đây tốc độ huy động vốn của hệ thống các ngân hàng tăng rất nhanh và cung cấp một lượng vốn rất lớn, trong đó tiền gửi đóng vai trò chủ yếu. Cần phải có các chinh sách biện pháp nhằm thúc đẩy việc huy động vốn của hệ thống ngân hàng nhằm cung cấp đủ vôn cho nền kinh tế.
Qua đó cho ta thấy, việc ra đời của bảo hiệm tiền gửi ở Việt Nam là một nhu cầu tất yếu nó góp phần giữ vững an ninh tài chính tạo ra tâm lý an toàn cho người gửi tiền từ đó giúp việc huy động vốn cho nền kinh tế có hiệu quả nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển.
2. Các giai đoạn phát triển của bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam.
2.1 Trước năm 1999.
Do nhận thức được tính chất phức tạp, đặc điểm về hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân và những bài học kinh nghiệp của sự đổ vỡ hợp tác xã tín dụng trước đây đặc biệt là lấy lại niềm tin cảu quần chúng nhân dân, đề án thí điểm thành lập quỹ tín dụng nhân dân theo quyết định số 390/TTg ngày 27/7/1993 của Thu tướng chính phủ, Bộ tài chính thành viên của ban chỉ đạo trung ương về thí điểm đã ban hành “Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của quỹ tín dụng nhân dân đối với tiền gửi của dân có kỳ hạn”. Theo quyết định 101/TC-QĐ-BH ngày 1/2/1994, bằng quyết định này các quỹ tín dụng nhân dân tham gia bảo hiểm tiền gửi của Bảo Việt có tác dụng khôi phục lòng tin và thu hút được tiền gửi trong các tầng lớp dân cư trong khi các tổ chức tín dụng khác chưa thực hiện.
Tuy nhiên do quyết định ban hành trong bối cảnh chưa có nhiều kinh nghiệp nên còn nhiều hạn chế nhất định :
Thứ nhất, phí đóng góp bảo hiểm tiền gửi cho bảo việt chỉ có tác dụng trả tiền gửi cho người gửi khi bị giải thể hoặc phá sản, nhưng khi quỹ tín dụng gặp nguy cơ mất mát khả năng chi trả, khả năng thanh toán khó được trợ giúp do không có tổ chức để quản lý, giám sát rủi ro.
Thứ hai, phí đóng góp trở thành nguồn tài chính cho Bảo Việt nó không còn là tài sản chung của quỹ tín dụng nhân dân, theo cơ chế này nguồn phí đóng góp hàng tỷ đồng để mua bảo hiểm hàng năm “ra đi và mất hút” khi nào quỹ tín dụng nhân dân bị “xóa sổ” người gửi tiền mới được đền bù.
Cũng về vấn đề phí đó là tỷ lệ phí 0,165%, số dư tiền gửi có kỳ hạn mỗi quý là quá cao, trong khi đó chỉ bảo hiểm cho loại tiền gửi có kỳ hạn tính bằng VNĐ. Vì thế các quỹ tín dụng nhân dân nhận thấy mô hình bảo hiểm này tỏ ra không thích hợp nên đã không hào hứng tham gia.
2.2 Sau 1999 đến nay.
Sau một thời gian hoạt động thí điểm do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan, mô hình bảo hiểm tiền gửi của Tổng công ty Bảo Việt đã bộc lộ sự yếu kém bên cạnh đó luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành thì Chinh phủ đã ban hành nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi. Theo đó các tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của luật các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc. Đây là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Vì vậy bảo hiểm tiền gửi ra đời là đòi hỏi đáp ứng cần thiết về việc đảm bảo hoạt động an toàn cho nghành ngân hàng. Do đó ngày 9/11/1999 TT - CP ra quyết định số 218/ 1999/QĐ-TTg về việc thành lập đồng thời quy định rõ mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chính thức khai trương hoạt động và có trụ sở tại Hà nội.
II. Mô hìn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV046.doc