Lời nói đầu
Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiêm khá gần gũi đối với người dân ở các nước trên thế giới. Nó tồn tại và phổ biến trong cuộc sống hàng ngày của họ giống như hoạt động đầu tư tài chính, gửi tiết kiệm lây lãi, hay thuê vệ sĩ bảo vệ... Nói chung việc tham gia bảo hiểm nhân thọ ở các nước đang trở thành phổ biến như việc chăm lo cho sức khoẻ, đời sống vật chất tinh thần hàng ngày của mỗi người dân với lịch sử tồn tại và phát triển hơn 400 năm (hợp đồng bảo hiểm đầu tiên là ở Anh nă
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1801 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bảo hiểm nhân thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m 1583 được ký giữa một công ty bảo hiểm với ông Wiliam gybbon số tiền bảo hiểm là 400 bảng) loại hình bảo hiểm này không ngừng phát triển đa dạng về hình thức, mở rộng về qui mô hoạt động. Tạo ra một nguồn quĩ đủ lớn chi trả cho người tham gia khi gặp rủi ro chết người, thương tật vĩnh viễn hoặc khi họ nghỉ hưu giúp người tham gia và gia đình họ khắc phục những khó khăn ổn định cuộc sống trước mắt và lâu dài.
Tuy nhiên ở Việt Nam bảo hiểm nhân thọ còn là lĩnh vực khá mới mẻ, mặc dù trước đây ở miền nam Việt Nam đã có công ty bảo hiểm Hưng Việt triển khai một số loại hình bảo hiểm nhân thọ chính như: bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, bảo hiểm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm trẻ em.
Phương châm đề ra của bộ tài chính là chúng ta vừa làm vừa đổi mới rút kinh nghiệm. Một mặt áp dụng cách làm của các nước tiên tiến, mặt khác khai thác và phát huy tính tự chủ năng động sáng tạo của đội ngũ cán bộ chuyên môn trong nước. Xét trên cơ sở điều kiện thực tế đất nước đây là một chủ trương phù hợp hứa hẹn nhiều triển vọng. Kết quả sau hơn hai năm triển khai nghiệp vụ này đã cho thấy tình hình hết sức khả quan, đó là sự tăng trưởng cao trong doanh thu và một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh khác. Mặc dù vẫn còn tồn tại nhưng về cơ bản đã dần dần được tháo gỡ giải quyết, tiếp tục tạo đà thuận lợi cho sự phát triển bảo hiểm nhân thọ ở trong tương lai.
Là một sinh viên chuyên nghành bảo hiểm có quan tâm nghiên cứu nghiêp vụ bảo này, trong giới hạn trình độ kiến thức và phạm vi của một đề án môn học em xin trình bày một số hiểu biết cơ bản và ý kiến của em về vấn đề: phát triển bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam thực trạng và triển vọng.
NộI DUNG
CHƯƠNG 1: những yêu cầu khách quan và sự ra đời của bảo hiểm nhân thọ
i. Những yêu cầu khách quan
Lịch sử phát triển của con người là quá trình đấu tranh lâu dài với thiên nhiên cải tạo, chiến đấu và chiến thắng thiên nhiên, để làm được viêc đó con người luôn luôn phải gắn bó với cộng đồng.
Từ xa xưa đã có một câu chuyện kể về thánh Joseph và quốc vương Ai cập chuyện kể rằng nhà vua có một giấc mơ thấy 7 con bò béo bị bảy con bò gầy ăn thịt. Hôm sau nhà vua yêu cầu thánh Joseph giải thích về giấc mơ đó. Joseph nói rằng nhà vua được báo mộng rằng 7 năm tới sẽ được mùa vì vậy nhà vua phải tích luỹ một kho thóc khổng lồ để ăn đủ cho 7 năm mất mùa sau đó. Lương thực dự trữ là hình thức bảo hiểm cho con người chống lại nạn đói khi mất mùa.
Khoảng 900 năm trước Công nguyên luật biển của ấn độ yêu cầu tất cả các đoàn tàu phải đóng một khoản tiền nhỏ vào quỹ chung để giúp đỡ những người không may bị mất tàu và hàng hoá khôi phục lại kinh doanh, hoặc nếu họ chết thì giúp đỡ một phần cho gia đình họ, khoảng năm 533 sau Công nguyên nó đã trở thành một bộ phận trong luật Roman.
Cũng dưới thời đó những người lính Roman còn có một hình thức bảo hiểm khác. Nếu họ thắng trận thì họ được một khoản tiền, nhưng chính phủ thu một phần số tiền đó để khi họ rời quân ngũ thì họ có một khoản tiền để bắt đầu cuộc sống mới còn nếu họ bị tử trận thì gia đình họ có một khoản tiền để sống.
Trong các nhà tù ở Roman cũng có quy định, mỗi người phải đóng một số tiền để chi phí mai táng cho những người bị chết, theo cứ liệu khảo cổ học thì mỗi người trong nhóm phải đóng 3, 5 $.
Ngày nay trong xã hội hiện đại nhịp độ cuộc sống ngày một khẩn trương thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ được áp dụng vào mọi lĩnh vực của cuộc sống, quy mô sản xuất kinh doanh tăng cao, các công trình xây dựng phương tiện, thiết bị ngày càng hiện đại và có giá trị lớn. Những rủi ro do nhiều nguyên nhân: hảo hoạn bão lũ, sóng thần, sự cố kỹ thuật hay do chính con người gây ra vẫn luôn luôn rình rập đe doạ tài sản vật chất cũng như sức khoẻ và tính mạng con người đòi hỏi phải đượchạn chế tổn thất bằng biện pháp bảo hiểm. Trong các đối tượng được bảo hiểm con người vẫn là nhân tố hàng đầu, các loại hình bảo hiểm con người phát triển rất mạnh với quy mô lớn trong đó bảo hiểm nhân thọ rất được coi trọng và luôn được đỏi mới phát triển cả về số lượng lẫn trình độ phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội loài người.
Để khắc phục những thệt hại do tai nạn rủi ro gây ra một biện pháp tôi ưu là tham gia các phường hôị bảo hiểm nhân thọ hay bảo hiểm tại các công ty để cùng nhau san sẻ rủi ro ổn định cuộc sống cho tương lai.
II. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ
1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ trên thế giới
Từ chỗ xây dựng những nhóm hội bảo hiểm sơ khai một cách tự phát dưới thời trung cổ, bảo hiểm nhân thọ đã trở thành tổ chức chuyên nghiệp lớn mạnh cả về quy mô lẫn trình độ quản lý.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên được ra đời từ năm 1583 do một công dân người Luân đôn thực hiên đó là ông William gybbon (người được bảo hiểm). Ông chỉ phải đóng 32 bảng phí và khi ông chết (trong năm đó) người thừa kế của ông được hưởng số tiền 400 bảng hợp đồng dả kết thúc với lời cầu nguyện “Chúa hãy ban cho ông sức khoẻ và cuộc sống lâu dài”.
Lúc đầu trình độ quản lý còn non yếu việc tính phí còn chưa có cơ sở khoa học các công ty sẽ thu một mức phí nhất định đều nhau của những đối tượng dưới 45 tuổi sau đó cân đối lại số dư của quỹ rồi sẽ chia cho những người thừa kế của những người đã chết trong năm đó. Vào thế kỷ 18 thì các công ty bảo hiểm tương hỗ ở Anh đã bắt đầu nghiên cứu tỷ lệ chết thực tế cho từng lứa tuổi khác nhau để biết rủi ro của từng lứa tuổi, làm căn cứ tính phí có cơ sở khoa học hơn. Từ đó đến nay việc tính phí bảo hiểm đã được hoàn thiện hoá chi tiết hoá với sự trợ giúp của toán học và các thiết bị sử lý tự động.
Công ty bảo hiểm tương hỗ đầu tiên là hội bảo hiểm nhân thọ và hưu trí hội này do các nhà buôn bán vải lụa thành lập ngày 4 tháng 10 năm 1699 nhưng chỉ ít năm sau đó bị thất bại do vỡ nợ, 70 năm sau công ty bảo hiểm nhân thọ suốt cuộc đời đã hình thành. Nó chỉ giới hạn 200 thành viên và quyền lợi bảo hiểm theo một mức duy nhất và không định trước, phụ thuộc vào số người chết trong năm. Trên cơ sở số tiền để dành được họ chia đều cho những người thừa kế của những người đã chết trong năm đó.
Năm 1720 hai công ty bảo hiểm của Anh là công ty hối đoái hoàng gia và công ty góp vốn cổ phần chính ở Luân đôn cố gắng giành đọc quyền thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ cổ phần nhưng bị hiến trương của nhà vua huỷ bỏ.
ở Mỹ với tiền thân là hội giúp đỡ người nghèo các mục sư trưởng lão bị khốn cùng, những người goá chồng trẻ con của mục sư... (1759) các công ty bảo hiểm tương hỗ liên tiếp ra đời vào đầu thế kỷ 19, làm cho các cơ quan luật pháp phải ra quy định bắt các công ty phải nộp 100. 000 $ trước khi thành lập nhằm mục đích hạn chế bớt các công ty ra đời, nhất là các công ty có khả năng tài chính yếu
ở châu Âu cách mạng công nghiệp cộng với sự phát triển của toán học tạo điều kiện cho bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển. Năm 1787 công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ở Pháp ra đời, nhưng đến năm 1792 bị thất bại, mãi đến tháng 2/1819 công ty bảo hiểm nhân thọ khác của Pháp mới thành lập thay thế trên thị trường.
ở Đức năm 1828 công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời và phát hành bảo hiểm tồn tích (tích luỹ) cho đông đảo người dân.
ở Anh công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential được thành lập năm 1853 là công ty đi đầu trong công nghịêp bảo hiểm và bắt đầu khuếch trương sản phẩm của mình ra thị trường
ở Châu á công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên hoạt đọng dưới hình thức kinh doanh là công ty Mei ji, sau 7 năm độc quyền đến 1888-1889 hai công ty bảo hiểm lớn ra đời đó là công ty bảo hiểm nhân thọ Teikoku và công ty Nippon đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của bảo hiểm nhân thọ ở Nhật bản.
ở Triều tiên hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cũng được triển khai sớm và rộng khắp trước kia là do các công ty của Anh tiến hành sau năm 1905 là do các công ty bảo hiểm nhân thọ của Nhật độc quyền kinh doanh dến sau chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Đánh giá kết quả triển khai bảo hiểm nhân thọ các số liệu thống kê cho thấy Hàn quốc là nước có tỷ lệ phí bảo hiểm tính trên GDP là cao nhất Mỹ là nước có doanh thu phí bảo hiểm cao nhất.
Tên nước
Tổng số phí (triệu $)
Tỷ lệ doanh thu phí bảo hiểm /GDP (%)
Tỷ lệ doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ /Tổng doanh thu phí bảo hiểm
Hàn quốc
8, 68
79, 0
Mỹ
522
3, 40
41, 4
Nhật bản
320
5, 60
73, 0
Anh
192
7, 10
64, 5
Các nước Nam Phi, Ai len, Canada, Niu di lân, cũng là những nước có bảo hiểm nhân thọ rất phát triển đứng hàng đầu thế giới.
2. Sự ra đời của bảo hiểm nhân thọ của Việt Nam.
ở Việt Nam sau những năm đổi mới đất nước đang trên đà phát triển thoát ra khỏi khủng hoảng, hoà nhịp với quá trình phát triển của các nước trên thế giới, công cụ pháp lý của Nhà nước đang trong quá trình hoàn thiện, công cụ tài khoá đã và sẽ được sử dụng kết hợp để điều tiết nền kinh tế thị trường theo định hướng của Đảng và nhà nước đề ra nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, dẹp bỏ những rào cản của cơ chế cũ, phương thức quản lý cũ, khơi gợi sức người, sức của cho sản xuất kinh doanh. Điều đó đã tạo những điều kiện kinh tế xã hội pháp lý, tâm lý cho sự phát triển của bảo hiểm trong đó có bảo hiểm nhân thọ.
Mở đầu là Nghị định 100 CP của Chính phủ quy định sự phát triển bảo hiểm thương mại của Việt nam đã tạo ra một thị trường quen dần với sản phẩm bảo hiểm. Tiếp theo đó ngày 22/3/96 Nghị định 281 TC/TCNHg đã thực sự cho ra đời Công ty bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam trực thuộc Bảo Việt. Đó mới chỉ là bước đầu tìm hiểu, làm quen với thị trường sản phẩm bảo hiểm nhân thọ (Bảo hiểm sinh mạng 5 năm, 10 năm và bảo hiểm an sinh giáo dục) và dọn đường cho sự phát triển và cạnh tranh quyết liệt trên thị trường sau khi có luật bảo hiểm Việt Nam ra đời. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là bảo hiểm nhân thọ mới ra đời ở Việt Nam năm 1996 mà ngay từ trước giải phóng ở miền Nam Việt Nam người dân cũng đã bước đầu được làm quen với các sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ do Công ty bảo hiểm nhân thọ Hưng Việt chuyển sang. Nếu không phải do nguyên nhân chiến tranh, môi trường chính trị xã hội, chắc chắn nó sẽ phát triển lớn mạnh.
Chương II: NHữNG NộI DUNG CƠ BảN CủA bảo hiểm NHÂN THọ
I. Bảo hiểm nhân thọ tử kỳ (bảo hiểm sinh mạng có thời hạn)
Loại hoạt động bảo hiểm này được ký kết bảo hiểm cho rủi ro chết xảy ra, như đã qui định trong hợp đồng, nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì việc thanh toán không được thực hiện và người tham gia không được hưởng bất kỳ một khoản hoàn phí nào từ phí bảo hiểm đã đóng.
Như vậy đặc trưng của loại hình bảo hiểm này là:
-Số tiền bảo hiểm được trả một lần khi người được bảo hiểm chết trong thời hạn hợp đồng
-Phí bảo hiểm không thay đổi trong suốt thời gian bảo hiểm
-Thời hạn hợp đồng được xác định theo thoả thuận giữa hai bên
-Phí bảo hiểm đóng định kỳ theo tháng, quý, năm tuỳ theo yêu cầu của người tham gia
Ưu điểm chính của loại hình bảo hiểm này là mức phí có thể giữ được ở mức thấp nhất do không phảI hoàn phí khi hết hợp đồng mà rủi ro không xảy ra.
Có nhiều loại biến thể của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tử kỳ:
-Bảo hiểm tử kỳ cố định
-Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục
-Bảo hiểm tử kỳ giảm dần
-Bảo hiểm tử kỳ tăng dần
-Các loại hợp đồng bảo hiểm thu nhập gia đình
-Các loại hợp đồng bảo hiểm thu nhập gia tăng
II. Bảo hiểm nhân thọ trường sinh (bảo hiểm nhân thọ trọn đời)
Đặc điểm của loại hình bảo hiểm nhân thọ trường sinh là:
-Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm chết
-Thời hạn không xác định
-Phí bảo hiểm đóng định kỳ theo tháng, quý, năm
-Phí bảo hiểm không thay đổi suốt thời hạn hợp đồng
-Phí bảo hiểm nhân thọ trường sinh cao hơn phí bảo hiểm nhân thọ tử kỳ vì khiếu nại chắc chắn xảy ra
Có các loại bảo hiểm nhân thọ trường sinh như sau:
-Bảo hiểm nhân thọ trường sinh phi lơI nhuận: ở loạI hình bảo hiểm này người tham gia không được trả một khoản lợi nhuận nào.
-Bảo hiểm nhân thọ trường sinh có lợi nhuận: người tham gia được trả một khoản lợi nhuận đầu tư của công ty bảo hiểm cùng số tiền bồi thường khi chết.
-Hợp đồng bảo hiểm trường sinh chi phí thấp: số phí đóng tăng dần và kết thúc trước hạn.
III. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn
Đây là loại hình bảo hiểm kết hợp cả hai loại trên theo đó người được bảo hiểm sẽ được bồi thường một khoản tiền sau khi có sự kiện như thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm xảy ra: người được bảo hiểm chết hoặc hết hạn hợp đồng. Với loại hình bảo hiểm này người tham gia bảo hiểm có thể yên tâm về một khoản tiền sẽ nhận được trong tương lai để chi dùng cho các việc lớn: mua nhà, con cái lập nghiệp, cưới xin...
Đặc đIểm của loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn là:
-Số tiền bảo hiểm được trả một lần khi người được bảo hiểm chết hoặc hết hạn hợp đồng
-Phí bảo hiểm không đổi và đóng định kỳ suốt thời hạn hợp đồng.
-Mức phí có cao hơn các loại hình ở trên tuy nhiên người tham gia có thể nhận được một khoản lãi đầu tư do kinh doanh đem lại.
-Mức phí cao hay thấp phụ thuộc vào số tiền bảo hiểm, thời gian tham gia bảo hiểm, tuổi của người tham gia.
Ngoài các loại hợp đồng như trên các công ty có thể mở rộng áp dụng cho các loạI hợp đồng bảo hiểm khác.
IV. Hợp đồng bảo hiểm tuỳ thuộc
Có nghĩa là hợp đồng có hiệu lực nếu người được bảo hiểm chết và một điều kiện tuỳ thuộc nào đó cũng phảI đồng thời xảy ra. Ví dụ: người chồng chết nhưng người vợ phải còn sống
Tuỳ theo yêu cầu của người được bảo hiểm điều kiện bảo hiểm tuỳ thuộc sẽ được thoả thuận và nhân viên công ty bảo hiểm sẽ căn cứ vào đó để tính phí một cách hợp lý. Nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ vì uy tín với khách hàng có thể đưa ra một loạt các lựa chọn bổ sung thêm vào các hợp đồng tiêu chuẩn của họ. Nhưng thường chỉ với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trường sinh và bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp mà thôi, thêm nữa người tham gia cũng phải chấp nhận mức phí cao hơn đôi chút.
Các khả năng lựa chọn chủ yếu là:
-Không phải nộp phí bảo hiểm: có thể không phảI nộp phí bảo hiểm nữa nếu người được bảo hiểm không thể tiếp tục công việc bình thường do thương tật hoặc ốm yếu.
-Trợ cấp mất khả năng làm việc: số tiền bảo hiểm được thanh toán trong trường hợp không có khả năng làm việc thường xuyên cũng như trường hợp tử vong
-Trợ cấp tai nạn trùng: một khoản thanh toán trả thêm bằng số tiền bảo hiểm, trả trong trường hợp chết nếu người được bảo hiểm bị tử vong do tai nạn
-Lựa chọn bảo hiểm gia tăng cho phép người có hợp đồng bảo hiểm tăng số tiền bảo hiểm trong hợp đồng tạI những thời đIểm nhất định với những số tiền nhất định
-Bảo hiểm bệnh tật hiểm nghèo: hợp đồng thanh toán số tiền bảo hiểm trong trường hợp có sự chuẩn đoán một vàI bệnh hoặc tình trạng sức khoẻ cụ thể.
V. Bảo hiểm hưu trí:
Đây là loại hình bảo hiểm bổ trợ cho bảo hiểm hưu trí thuộc bảo hiểm xã hội, nó đáp ứng nguyện vọng của những người làm việc ngoài khối cơ quan nhà nước muốn có được trợ cấp hưu trí lúc tuổi già.
Đặc điểm của loại hình bảo hiểm này là:
-Tiền trợ cấp định kỳ trả cho người được bảo hiểm từ khi người đó về hưu.
-Thời hạn hợp đồng không xác định
-Khi người tham gia bảo hiểm bị chết hợp đồng bảo hiểm tiền trợ cấp hưu trí đương nhiên kết thúc
-Phí bảo hiểm đóng một lần
Đây là nghiệp vụ có tiềm năng nhưng do điều kiện về pháp lý, tâm lý, kinh tế xã hội chưa hoàn chỉnh nên vẫn chưa được triển khai ở nước ta.
VI. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là một bản hợp đồng giữa các bên trong đó công ty bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia một khoản tiền khi có những sự kiện định trước xảy ra. Còn người tham gia có nghĩa vụ thực hiện các đIều khoản trong hợp đồng và đóng phí đầy đủ.
Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường có ba bên:
1. Người được bảo hiểm: là người mà sức khoẻ và tính mạng của họ được bảo hiểm hay nói cách khác là sức khoẻ và tính mạng của họ là điều kiện để xét bồi thường theo hợp đồng (là người có tên trong giấy yêu cầu được bảo hiểm)
2. Người tham gia bảo hiểm: là người đứng ra ký kết hợp đồng và nộp phí bảo hiểm cho công ty bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm thường là cha mẹ, con cái, người thân của người được bảo hiểm hoặc có thể chính là người được bảo hiểm. Người được bảo hiểm và người tham gia chỉ khác nhau khi người được bảo hiểm chưa đến tuổi vị thành niên.
3. Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm: là người được hưởng quyền lợi hợp pháp phát sinh theo các điều khoản bồi thường trong hợp đồng người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là những người thân, người thừa kế hoặc những người ăn theo của người được bảo hiểm.
Đối tượng tham gia của bảo hiểm nhân thọ là những người từ 1 đến 60 tuổi (độ tuổi này không cố định có thể có giao động tuỳ theo quy định của các công ty tuy nhiên nó liên quan đến mức phí bảo hiểm (nếu có nguyện vọng tham gia bảo hiểm thì viết giấy yêu cầu bảo hiểm (theo mẫu có sẵn) kê khai đầy đủ nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác, tình trạng sức khoẻ. Công ty bảo hiểm xem xét giấy yêu cầu, kiểm tra tính trung thực sau đó quyết định có nhận bảo hiểm hay không.
Quyền lợi và trách nhiệm của các bên
a. Người tham gia có quyền:
-Lựa chọn số tiền bảo hiểm và phương thức thanh toán
-Khiếu nại đòi bồi thường khi có tai nạn rủi ro gây thương tật xảy ra hoặc chuyển quyền khiếu nại, đòi bồi thường cho người thừa kế
-Có quyền yêu cầu công ty huỷ bỏ hợp đồng hoặc tham gia ở số tiền bảo hiểm thấp hơn do thiếu khả năng tài chính
b. Người tham gia có nghĩa vụ:
-Có thái độ trung thực chấp hành các quy định đã thoả thuận với công ty bảo hiểm.
-Duy trì mối quan hệ ràng buộc trên cơ sở luật pháp với các công ty bảo hiểm trong thời hạn hợp đồng.
-Nộp phí bảo hiểm đầy đủ theo định kỳ, tháng, quý, năm hoặc một lần với bảo hiểm hưu trí. Nếu sau một thời gian quá hạn được công ty bảo hiểm thông báo mà người tham gia vẫn không nộp phí, công ty bảo hiểm sẽ tự động tính giảm số tiền bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm có quyền:
-Từ chối bồi thường những trường hợp không thuộc phạm vi bảo hiểm
+Tai nạn do cố ý của người tham gia hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm
+Ngộ độc thức ăn
+Cảm gió
+Viêm nhiễm
+ảnh hưởng của rượu bia ma tuý
+Hành vi phạm tội
+Chiến tranh, nội chiến, bạo động
-Tính giảm số tiền bảo hiểm trong các trường hợp
+Tuổi kê khai có sự sai lệch nhất định, nếu tuổi kê khai cao hơn tuổi khai sinh thì phải giảm số tiền bảo hiểm hoặc tăng phí bảo hiểm
+Không đủ khả năng tài chính duy trì mức phí như cũ hoặc không có khả năng nộp sau một thời gian nhất định
Hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực kể từ ngày nộp phí đầu tiên cũng có thể là ngày yêu cầu bảo hiểm được chấp nhận (nếu công ty bảo hiểm có quy định)
VII. Phí bảo hiểm nhân thọ
Phí bảo hiểm nhân thọ: là những khoản đóng góp của người tham gia bảo hiểm tạo lập quĩ cần thiết để thanh toán khi khiếu nạI xảy ra. Ngoài ra quĩ còn phải trích lập một khoản quĩ dự phòng, chi phí quản lý và lợi nhuận công ty. Phí bảo hiểm nhân thọ được tính toán dựa trên cơ sở khoa học căn cứ vào số liệu thống kê tỷ lệ chết ở các độ tuổi, tình hình đầu tư tài chính, các khoản chi phí cần thiết mà quỹ bảo hiểm sẽ phải thanh toán. Có rất nhiều loại hợp đồng khác nhau tuỳ theo số tiền bảo hiểm, độ tuổi của người tham gia và thời hạn hợp đồng mà các chuyên viên bảo hiểm đưa ra công thức để đạt được hiệu quả trong việc tính toán các mức phí phù hợp đối với từng loại hợp đồng sao cho cả ngươì tham gia và công ty bảo hiểm đều dễ dàng chấp nhận được.
Mỗi loại hợp đồng có một loại đặc thù riêng gây khó khăn cho việc tính toán ví như một hợp đồng bảo hiểm hỗn hợp 10 năm việc tính phí đòi hỏi nghiên cứu bảng tỷ lệ tử vong trong một số năm, đánh giá tỷ lệ trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực, tỷ lệ hoàn phí bảo hiểm cho những người hết hạn hợp đồng, những khoản thu từ đầu tư ngắn hạn và trung hạn, những khoản chi bồi thường, quản lý, chi khác..
Bảng tỷ lệ tử vong
Tuổi đạt được
Tỷ lệ những người đã chết
trong năm trước
25
0, 00235
30
0, 00241
35
0, 00286
40
0, 00388
45
0, 00527
50
0, 00764
55
0, 00190
Sử dụng bản trên chúng ta có thể tính phí bảo hiểm cho một người trong độ tuổi từ 25 đến 55 muốn tham gia bảo hiểm nhân thọ với thời gian và số tiền bảo hiểm lựa chọn. Tuy nhiên về nguyên tắc số tiền bảo hiểm được công ty quy định và không ở mức quá cao để đảm dẩm nguyên tắc lấy số đông bù số ít.
Giả sử một người ở độ tuổi 50 muốn mua bảo hiểm sinh mạng có thời hạn (bảo hiểm tử kỳ) thời gian một năm với số tiền bảo hiểm 10. 000 $ thì phí bảo hiểm gốc sẽ được tính F = 10000 x 0, 00764 =76, 4 $
Nhưng nếu một người ở độ tuổi 45 muốn mua bảo hiểm tử kỳ 10 năm thì ta lạI phảI tính tỷ lệ người chết trong độ tuổi 45- 55
(0, 00527 +0, 00764 +0, 01190)
Tỷ lệ chết(45-55)= 2 2
2
Hoặc bằng số liệu thống kê ban đầu
Tỷ lệ chết (45-55) = Số người chết trong độ tuổi 45-55 những năm trước
Tổng số người trong độ tuổi 45-55
Sau đó phí tiếp tục được tính như trên = (số tiền bảo hiểm) x ( Xác suất rủi ro).
Một cách khác nữa để tính phí bảo hiểm là việc tính phí bảo hiểm riêng cho từng năm ứng với mỗi mức tuổi, phí năm sau sẽ cao hơn năm trước chút ít.
F1<F2<F3<... <Fn (n thường bằng 10, 15 hoặc 20). Nhưng để đơn giản cho việc đóng phí bảo hiểm các công ty bảo hiểm thường quy định mức phí (F) không thay đổi trong cả thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực.
F1<F<Fn
Điều này không có nghĩa là người mua bảo hiểm bị thiệt mà nó chỉ đơn thuần là việc tính theo giá trị thơì gian của những khoản tiền phải nộp đều đặn này tương đương với tổng các mức phí thay đổi của các năm
nF = F1+F2+..+Fn
Để đảm bảo tính chính xác sát thực trong việc tính phí bảo hiểm thì số liệu thống kê phảI đảm bảo nguyên tắc số lớn. Tức là việc tính toán phải được thực hiện dựa trên càng nhiều người có cùng độ tuổi giống nhau càng tốt. Ví dụ: nếu chúng ta sử dụng các con số thống kê lấy từ báo cáo tuổi của 2 triệu người thì con số này sẽ chính xác hơn, những con số thống kê dựa trên độ tuổi của 200000 người bởi vì nó đã loại bớt tính ngẫu nhiên trong thống kê.
Phí bảo hiểm như đã tính ở trên mới chỉ là cách tính đơn giản cho quỹ bồi thường thiệt hạI công việc còn lại cuả người tính phí bảo hiểm là phải tính toán chi phí quản lý, chi quỹ dự phòng, hạn chế tổn thất, chi khác và các khoản thu do đầu tư mang lại. Những khoản thu chi này khó xác định chính xác, có khi với mức phí thấp không đủ bù đắp cho chi phí bồi thường, quản lý, dự phòng nhưng do số hợp đồng ký kết được lớn nên thu đầu tư lớn thừa khả năng bù đắp chi phí, do đó đòi hỏi các chuyên gia tính phí phảI rất linh động nhạy cảm, đIều chỉnh mức phí trong từng trường hợp để đảm tính cạnh tranh trong kinh doanh. Tất nhiên không phảI là để cạnh tranh bằng mọi giá bất chấp rủi ro.
Phương thức nộp phí cũng có ảnh hưởng tới mức phí phải nộp. Công ty bảo hiểm thường ưu tiên giảm phí cho những người nộp phí theo năm, quý, nộp phí một lần bằng cách lấy số phí phải nộp nhân với một hệ số h<1.
Fnăm = Fth x 12 x 0, 94
F6 th = Fth x 6 x 0, 96
F quý = Fth x 3 x 0, 98
Bởi vì nộp theo quý, năm, nộp một lần công ty bảo hiểm được lợi là số tiền phí được nộp trước có thể dưa vào đầu tư lấy lãi.
VIII. Thủ tục giải quyết bồi thường
Khi có những sự kiện đã định trước trong nội dung hợp đồng bảo hiểm (người được bảo hiểm bị chết hoặc thương tật, hết hạn hợp đồng) người được hưởng quyền lợi bảo hiểm phải thông báo cho công ty bảo hiểm về tình trạng nạn nhân và địa chỉ của họ để công ty bảo hiểm xem xét giải quyết bồi thường.
-Khi người tham gia bảo hiểm (hay người được bảo hiểm) bị chết phải có giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm, giấy này có thể do người thân hoặc luật sư của người được bảo hiểm lập, giấy chứng tử và hợp đồng bảo hiểm gốc. Có một số trường hợp nảy sinh nghi ngờ:
+Hợp đồng mới được cấp
+Người được bảo hiểm bị mất tích
+Nghi ngờ người được bảo hiểm và người chết không phải là một
+Người được bảo hiểm chết ở nước ngoài
+Người được bảo hiểm chết không phải do nguyên nhân tai nạn
+Tuổi của người chết
Do đó công ty bảo hiểm sẽ đòi hỏi một số giấy tờ chứng nhận có liên quan, hoặc tự đi xác minh tính chân thực của các thông tin rồi ra quyết định bồi thường hoặc không bồi thường tuy nhiên việc chọn thời điểm và biện pháp phải thích hợp và tế nhị.
- Trường hợp người tham gia bảo hiểm hai người được bảo hiểm bị tai nạn gây thương tật toàn bộ vĩnh viễn thì luật sư hoặc người thân của bảo hiểm phải hoàn tất hồ sơ, gửi cho công ty bảo hiểm với các giấy tờ sau:
+ Giấy yêu cầu giải quyết
+ Hợp đồng bảo hiểm gốc
+ Biên bản xác nhận của công an hoặc chính quyền địa phương nơi xảy ra tai nạn
+ Giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về tình trạng sức khoẻ thương tật.
Với những quyết định trên cả hai bên, người được bảo hiểm và công ty bảo hiểm luôn phải hiểu như nhau về cá khái niệm.
- Tai nạn: là bất kỳ thiệt hại thân thân thể nào do hậu quả duy nhất và trực tiếp của một lực mạnh bất ngờ tù bên ngoài tác động lên thân thể của người được bảo hiểm, loại trừ ốm đau hoặc bệnh tật hoặc bất kỳ vấn đề gì có liên quan đến quá trình thoái hoá tự nhiên.
-Thương tật toàn bộ vĩnh viễn: là khi người được bảo hiểm bị mất hoàn toàn và không phục hồi được chức năng của:
+Hai tay
+Hai chân
+Hai mắt
+Một tay một mắt
+Một chân một mắt
- Trường hợp người tham gia yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng phải có các giấy tờ sau
+Giấy yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng
+Hợp đồng bảo hiểm gốc
- Trường hợp người tham gia bảo hiểm yêu cầu ngừng đóng phí bảo hiểm trong một thời gian xác định bảo hiểm vẫn cho phép nhưng người tham gia phải có các giấy yêu cầu ngừng đóng phí trong một thời gian nhất định bằng văn bản gửi cho đạI lí hoặc văn phòng công ty.
- Trường hợp đơn giản nhất đối với cả công ty và người được bảo hiểm là hết hạn hợp đồng không có tai nạn rủi ro xảy ra, người được bảo hiểm còn sống thì người tham gia chỉ cần nộp hợp đồng bảo hiểm gốc cho công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ thah toán toàn bộ số tiền bảo hiểm cho người tham gia.
chương III: Tình hình triển khai bảo hiểm nhân thọ ở nước ta
I. Tình hình kinh tế xã hội những thuận lợi và khó khăn
ở nước ta trong những năm vừa qua việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế đã đem lại những thay đổi cơ bản trong mức sống dân cư, thói quen tiêu dùng của dân cư thậm chí cả những yếu tố tâm lí xã hội khác. Điều này đã tạo ra những thuận lợi và khó khăn nhất định cho việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Cơ bản trên một số khía cạnh sau: kinh tế xã hội, dân số, tâm lý dân cư.
a. Điều kiện kinh tế
Sau hơn mười năm đổi mới bộ mặt nền kinh tế có nhiều thay đổi lớn. Kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước đã thay thế nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp cũ, mọi người thuộc các thành phần kinh tế tự do tham gia thị trường sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ với mục tiêu lợi nhuận chịu sự chi phối của các qui luật thị trường và sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Vì thế sức sản xuất được giải phóng, hàng hoá và các nguồn lực được lưu thông tự do trên thị trường theo qui luật giá trị, cung cầu và giá cả. Năng lực sản xuất của quốc gia tăng lên rõ rệt biểu hiện ở mức tăng trưỏng GDP cao trong nhièu năm liền kéo theo GDP tính trên đầu người cũng tăng đáng kể.
Năm
1994
1995
1996
1997
Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
8, 8
9, 5
9, 3
9, 0
Công cụ tài chính tiền tệ thực sự có hiệu lực trong điều tiết nền kinh tế. Tạo ra sự ổn định trong nền kinh tế, lạm phát được kiểm soát ở mức độ vừa phải đảm bảo chức năng thước đo giá trị của đồng tiền, tình trạng trượt giá nhanh của đồng tiền phân phối lại thu nhập đựơc hạn chế đáng kể. Thu nhập của đại bộ phận dân cư tăng lên đủ đảm bảo cho chi dùng hàng ngày người dân bắt đầu nghĩ đến tương lai của họ và con cái. Điều này càng trở lên cần thiết bởi vì trong nền kinh tế trường luôn tồn tại một số rủi do ảnh hưởng đến thu nhập và sức khoẻ của người lao động do đó cũng ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động và cả gia đình họ, ví dụ như: mất viêc làm, tai nạn gây thương tật làm mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn. Người chủ gia đình, chủ doanh nghịêp bị chết bất ngờ làm mất đi khoản thu nhập chính cho gia đình họ, thiệt hại kinh tế lớn cho cơ quan họ như vậy cuộc sống người lao động có vẻ rất bấp bênh phát sinh nhu cầu bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ. Hoạt động can thiệp có hiệu quả của nhà nước vào viêc kiềm chế lạm phát ổn định tỉ giá hối đoái đã tạo tam lí tin tưởng khi đàu tư tiền của vào sản xuất kinh doanh, gửi tiết kiệm hoặc mua bảo hiểm (hình thức bảo hiểm có thời hạn được huởng lợi nhuận từ hoạt động đầu tư). Đó là thuận lợi rất lớn góp phần vào việc nâng cao khả năng triển khai và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
Một thuân lợi lớn nữa phải kể đến đó là vị trí đia lí của nước ta, nước ta là nước nằm trong khu vực kinh tế năng động có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Theo số liệu của ngân hàng thế giới thì năm 1995 tốc độ tăng trưởng của một số nước như sau:
Tên nước Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
Việt Nam 9, 5
Trung Quốc 9, 0
Thái Lan 8, 8
Singapo 8, 5
Malayxia 8, 3
Hàn Quốc 7, 3
Inđônêxia 7, 0
ĐàI loan 6, 5
Philippin 5, 4
Hồngkông 5, 0
Austraylia 3, 9
Nhật Bản 1, 1
Kể từ cuối năm 97 sang năm 98 nền kinh tế các nước trong khu vực Đông Nam á gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ. Tình trạng lạm phát cao, giảm tỷ lệ đầu tư, sức sản xuất giảm cũng như tiêu dùng chững lại, các công tư tài chính ngân hàng đổ bể hàng loạt đưa nền kinh tế các nước đến bên bờ vực thẳm của sự suy thoái khó có thể gượng dậy đươc.
Do công cụ tiền tệ của ta chưa nhạy bén, khả năng chuyển đổi của đồng tiền chưa cầu tư tài chính của nước ngoài vào Việt Nam còn ít, chủ yếu là đầu tư trực tiếp cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà hàng khách sạn. Nền kinh tế nước ta cũng bị một số ảnh hưởng mặc dù không nhiều. Cụ thể ở mức đầu tư giảm, lạm phát có xu hướng tăng cao, đồng tiền Việt Nam mất giá ở mức kỷ lục, mức tăng trưởng sản phẩm quốc nội không đạt mục tiêu đề ra từ 9 % đến 10% chúng ta đang hy vọng đạt được ở mức điều chỉnh 6 %- 7%. Thu nhập dân cư có xu hướng giảm trong khi giá lương thực và các mặt hàng tiêu dùng khác có xu hướng tăng, đây là những dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự suy giảm khả năng tiêu dùn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0133.doc