Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không Tại Bảo Việ

đề tài "bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt " Chương I : Khái quát về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không I. Khái niệm và các nguyên tắc về bảo hiểm 1. Sự ra đời, khái niệm và bản chất của bảo hiểm 1.1. Khái niệm rủi ro và sự ra đời của bảo hiểm Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày, dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng, nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro b

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1587 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không Tại Bảo Việ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân như: do môi trường thiên nhiên, các sự cố xảy ra do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và cả từ phía môi trường xã hội. Vậy : thế nào là rủi ro? "Rủi ro là những đe doạ nguy hiểm, không lường trước được, và là khả năng xảy ra tổn thất". Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con nguời những khó khăn trong cuộc sống. Chính vì vậy, đã có rất nhiều phương pháp đối phó với những rủi ro được con người áp dụng mà phương pháp có thể coi là ưu việt nhất là san sẻ rủi ro. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người có thể chế ngự và hạn chế được phần nào những hậu quả mà thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra. Tuy nhiên, những tổn thất về người và của hàng năm con người phải gánh chịu vẫn còn rất lớn. Do vậy, để đủ sức đương đầu với thiên nhiên, khắc phục nhanh chóng hậu quả - tổn thất thì con người phải đoàn kết - hợp sức nhau lại. Một trong những cách hợp sức như vậy là tiến hành bảo hiểm, nghĩa là nhiều người cùng nhau góp tiền lập ra một quỹ chung để khi có rủi ro bất ngờ xảy ra thì trích từ quỹ chung đó bù đắp cho người bị nạn. Chỉ có như vậy, người bị nạn mới có thể nhanh chóng khắc phục được hậu quả nặng nề do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra. ý tưởng về việc hình thành một quỹ chung là tiền để đưa bảo hiểm trở thành một lĩnh vực kinh tế mới : "kinh tế bảo hiểm". Không giống như hình thức bảo hiểm sơ khai khi nhiều người cùng liên doanh khi có lợi nhuận thì chia nhau, có tổn thất thì cùng nhau san sẻ. Ngày nay, có các tổ chức bảo hiểm chuyên môn chịu trách nhiệm về các rủi ro trên cơ sở người chuyển nhượng rủi ro nộp một khoản phí bảo hiểm. Và như thế bảo hiểm đã ra đời cùng với sự xuất hiện của khái niệm rủi ro. Bảo hiểm ra đời là do đòi hỏi khách quan của cuộc sống và của hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đòi hỏi về sự tự chủ và sự an toàn về tính chất cũng như các nhu cầu của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Xã hội ngày nay, sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia ngày càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng. 1.2. Khái niệm và bản chất của bảo hiểm Cho đến nay đã có rất nhiều khái niệm về bảo hiểm được đưa ra, như : - Bảo hiểm là một hệ thống các biện pháp kinh tế nhằm tổ chức các quỹ bảo hiểm huy động từ các đơn vị và cá nhân tham gia bảo hiểm để bồi thường những tổn thất, thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra. - Hay có thể định nghĩa : bảo hiểm là phương thức xử lý rủi ro, nhờ đó, việc chuyển giao, phân tán rủi ro trong từng nhóm người được thực hiện thông qua các công ty bảo hiểm. - Bảo hiểm là chế độ cam kết bồi thường về mặt kinh tế, trong đó người được bảo hiểm phải đóng góp một khoản tiền được gọi là phí bảo hiểm cho đối tượng được bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm đã được quy định, còn người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường những tổn thất của đối tượng bảo hiểm do các rủi ro đã bảo hiểm gây nên. Điều này có nghĩa là : người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Đây là một khái niệm mang tính chung nhất của bảo hiểm. Từ một số khái niệm trên, ta có thể thấy bảo hiểm chính là một ngành kinh doanh rủi ro mà đối tượng của nó chính là những rủi ro, sản phẩm là sự bồi thường và giá cả của ngành kinh doanh này chính là phí bảo hiểm. Một vấn đề đặt ra là : các công ty bảo hiểm làm sao để có nguồn vốn đủ lớn để chi trả, bồi thường thiệt hại khi các rủi ro xảy ra? ở đây, quy luật ‘‘số lớn’’ đã được vận dụng. Nghĩa là, với sự đóng góp tuy ít của nhiều người đã đem lại lượng vốn đủ lớn để trang trải cho một số ít người bị rủi ro. Như vậy bản chất cuối cùng của bảo hiểm là sự phân tán rủi ro, chia nhỏ tổn thất của một hoặc một số ít người ra cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Hay nói cách khác, đó chính là quá trình phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngời xảy ra gây tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm. Rõ ràng là không phải tất cả những người mua bảo hiểm đều gặp rủi ro mà chỉ một số ít người. Những người không bị tổn thất hiển nhiên bị mất không số phí bảo hiểm đã đóng góp. Vậy : lý do gì khiến người ta mua bảo hiểm? Đó chính là do sự cần thiết của bảo hiểm. 2. Sự cần thiết của bảo hiểm Trong đời sống xã hội, con người phải thường xuyên có mối quan hệ tác động qua lại với tự nhiên để tồn tại và phát triển. Trong mối quan hệ đó, con người luôn phải chịu sự tác động của các quy luật khách quan của tự nhiên và của các điều kiện kinh tế - xã hội. Những tác động này có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Đối với những tác động tiêu cực, có những điều con người có thể khống chế và điều chỉnh được song cũng tồn tại những điều nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Rủi ro thuộc loại thứ hai. Vì vậy con người đã dùng nhiều biện pháp để đối phó với những rủi ro ấy : a) Tránh rủi ro : tức là không làm một việc gì đó quá mạo hiểm, không chắc chắn. Dùng biện pháp này để đối phó với rủi ro là rất tiêu cực. Vì nếu muốn tránh rủi ro con người sẽ không dám làm bất cứ một việc gì và như vậy họ cũng sẽ chẳng thu được gì. Hơn nữa, tránh rủi ro chỉ với những rủi ro có thể né tránh được mà trong cuộc sồng lại luôn có rất nhiều rủi ro bất ngờ không thể né tránh được. b) Ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, tổn thất: bằng những biện pháp đề phòng và hạn chế những hậu quả của nó. Biện pháp này có thể hạn chế được phần nào những hậu quả của rủi ro nhưng cũng vẫn không giải quyết hết được những thiệt hại. c) Tự khắc phục rủi ro : là việc các công ty hay cá nhân dự trữ một khoản tiền nhất định để khi có rủi ro xảy ra thì dùng khoản tiền đó để bù đắp, khắc phục hậu quả. Biện pháp này còn được gọi là tự bảo hiểm. Tuy nhiên, việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng một cách tối ưu hay nếu có đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất. d) Chuyển nhượng rủi ro - bảo hiểm : là việc một cá nhân hay công ty khi tự mình không thể đương đầu với một hoặc một số rủi ro lớn, có tính chất thảm hoạ thì san sẻ bớt cho những công ty chuyên nghiệp bằng cách thuê các công ty chuyên nghiệp đó chịu trách nhiệm về các rủi ro thay mình. Khi người nhận trách nhiệm về các rủi ro là các công ty bảo hiểm thì biện pháp này gọi là bảo hiểm. Khi nhận trách nhiệm về các rủi ro, các công ty bảo hiểm phải bồi thường những thiệt hại do những rủi ro đã thoả thuận gây ra còn người chuyển nhượng rủi ro phải trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Biện pháp này không những khắc phục được những hạn chế của những biện pháp trên mà trong thực tế, nó đã mang lại lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơn vị tham gia. 3. Vị trí, tác dụng của bảo hiểm đối với nền kinh tế quốc dân. Với xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá như hiện nay, hoạt động bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Nó có một ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với nền kinh tế quốc dân mà còn đối với các doanh nghiệp và đời sống xã hội. Cùng với sự phát triển của sản xuất và đời sống, nhu cầu bảo hiểm càng lớn và đa dạng thì bảo hiểm càng phát huy rộng rãi những tác dụng của mình. Tuy nhiên, xét về tổng thể, bảo hiểm có những tác dụng cơ bản sau : 3.1. Bảo hiểm là một phương thức giúp tập trung được một nguồn vốn lớn, nguồn vốn này đầu tư lại vào nền kinh tế và giúp cho quá trình tái sản xuất xã hội phát triển Quá trình tập trung vốn diễn ra dưới hình thức huy động sự đóng góp của các tổ chức, các cá nhân người tham gia bảo hiểm hình thành nên quỹ bảo hiểm tập trung. ở các nước có thị trường bảo hiểm phát triển cao thì các quỹ bảo hiểm có nguồn vốn lớn, là một trong những nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế, là một phần quan trọng của thị trường tài chính. ở Việt Nam, trong những năm gần đây hoạt động của bảo hiểm ngày càng phát triển, chỉ tính riêng năm 1987 - là năm đầu nước ta bắt đầu thực hiện chính sách mới về kinh tế - toàn ngành bảo hiểm đã thu được xấp xỉ 1 tỷ đồng, gần bằng doanh thu suốt cả 20 năm hoạt động trước đó. Tiếp tục đà phát triển đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và nhiều loại hình bảo hiểm phong phú, tổng doanh thu bảo hiểm năm 1999 trên 2000 tỷ đồng với mức đầu tư trở lại nền kinh tế chiếm 0,5% GDP (khoảng 1648 tỷ đồng). Toàn bộ số vốn bảo hiểm tập trung được gửi vào tài khoản ngân hàng và ngân hàng sử dụng để đầu tư cho các ngành sản xuất. Để minh họa cho điều này, ta có bảng số liệu sau : Bảng 1: Tình hình hoạt động kinh doanh bảo hiểm giai đoạn 1995 - 1999 (Đơn vị : tỷ đồng) Năm 1995 1996 1997 1998 1999 1. Tổng doanh thu - % GDP 1027 0,46 1253 0,47 1401 0,48 1811 0,56 2000 0,58 2. Bồi thường - Tỷ lệ bồi thường (%) 604 58,8 663 52,9 630 45 632 34,9 650 32,5 3. Đầu tư trở lại nền kinh tế - Chiếm tỷ lệ GDP (%) 75 0,03 157 0,06 962 0,3 1399 0,43 1648 0,48 4. Nộp ngân sách 84 100 105 110 120 (Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam, số 2/2000) 3.2. Thông qua việc giải quyết bồi thường thiệt hại, bảo hiểm có tác dụng góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống Thông thường, người tham gia bảo hiểm chỉ thấy được vai trò này của bảo hiểm khi phát sinh trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm. Khi đối tượng bảo hiểm bị tổn thất thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường toàn bộ hay một phần số tiền thiệt hạI, lúc đó lợi ích của việc tham gia bảo hiểm mới rõ ràng. Ngược lại, khi chưa có tổn thất xảy ra với đối tượng bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm chưa thấy được sự cần thiết tất yếu của việc đóng góp hình thành nên quỹ bảo hiểm. Do thực hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít nên hoạt động bảo hiểm tập trung được một lượng tiền khá lớn dùng để bù đắp những thiệt hại, mất mát về người và tài sản do các rủi ro, tai nạn bất ngờ xảy ra. Do đó, doanh nghiệp hay cá nhân người bị thiệt hại có thể phục hồi lại năng lực tài chính của mình, ổn định tình hình sản xuất kinh doanh và đời sống. Việc thực hiện tốt giải quyết bồi thường sẽ khiến cho nhiều người thấy được vai trò của bảo hiểm trong cuộc sống của mình, và từ đó lôi cuốn được nhiều người hơn tham gia bảo hiểm. Nhờ đó, quỹ bảo hiểm ngày càng lớn và việc bồi thường lại càng được thực hiện tốt hơn. 3.3. Bảo hiểm còn góp phần tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người Do đặc thù kinh doanh của mình, các công ty bảo hiểm thông qua việc thống kê thường xuyên các vụ tai nạn và tổn thất trong các lĩnh vực của đời sống, phát hiện nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến thiệt hại. Trên cơ sở đó đề xuất biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất nhằm giảm đến mức thấp nhất những tổn thất có thể xảy ra. Mặt khác, với chức năng của mình, các tổ chức bảo hiểm tích cực đôn đốc người tham gia bảo hiểm tăng cường các biện pháp bảo vệ tài sản của mình nhằm hạn chế số vụ rủi ro và mức độ thiệt hại. Về phía người tham gia bảo hiểm muốn được hưởng quyền lợi bồi thường khi có tổn thất xảy ra, bên cạnh trách nhiệm đóng phí, họ còn phải thực hiện trách nhiệm đề phòng và hạn chế tổn thất. Nếu người tham gia bảo hiểm thực hiện không tốt công tác bảo vệ và phòng tránh tổn thất do đối tượng bảo hiểm thì khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm có thể không bồi thường cho tổn thất hoặc giảm mức bồi thường. Điều này phù hợp với nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm : bảo hiểm không có nghĩa là trút hết trách nhiệm cho người bảo hiểm. Với vai trò này, bảo hiểm cùng với người tham gia bảo hiểm thực hiện các biện pháp để phòng ngừa tai nạn xảy ra nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả, thiệt hại. 3.4. Bảo hiểm làm tăng tích luỹ và tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước, góp phần tăng thu và giảm chi ngoại tệ cho cán cân thanh toán Với tính chất hoạt động kinh doanh dịch vụ, bảo hiểm phải tính đến hiệu quả và lợi nhuận thể hiện ở chênh lệch thu chi sau khi đã tổng hợp các khâu trong hoạt động bảo hiểm. Ngoài ra, phần chính của lợi nhuận lại là ở sự quay vòng vốn sinh lời trong phần nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm. Lợi nhuận thu được từ việc đầu tư kinh doanh của các công ty bảo hiểm đem lại cho các công ty này một nguồn thu đáng kể. Theo báo "Thời báo kinh tế Việt Nam - ngày 12/8/2002" : hết 6 tháng đầu năm nay, doanh thu từ hoạt động đầu tư tài chính của Bảo Việt đạt 137 tỷ đồng, tăng 68% so với cùng kỳ năm 2001. Tổng nguồn vốn đầu tư tăng bình quân 50% so với cùng kỳ năm 2001, đến nay đạt gần 4.000 tỷ đồng. Bảo Việt còn đầu tư vào các lĩnh vực khác như : trái phiếu Chính phủ, cho vay theo dự án. Qua hoạt động đầu tư sinh lời, bảo hiểm nộp một phần vào ngân sách Nhà nước theo luật định góp phần tăng tích luỹ cho ngân sách, do đó chi tiêu cho phúc lợi tăng, đời sống nhân dân được cải thiện. Phần còn lại để phát triển, mở rộng hoạt động bảo hiểm phục vụ cho lợi ích chung của nền kinh tế. Mặt khác, để nâng cao hiệu quả hoạt động, các tổ chức kinh doanh bảo hiểm đều tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Từ đó, Nhà nước giảm bớt được gánh nặng về y tế, làm lại các công trình công cộng … Ngân sách Nhà nước sẽ tiết kiệm được một khoản lớn để đầu tư vào những ngành sản xuất chính, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động cũng như thúc đẩy sản xuất phát triển. Đối với Bảo Việt, một doanh nghiệp Nhà nước lớn trong lĩnh vực bảo hiểm, tổng nộp ngân sách trong 5 năm gần đây được thể hiện qua đồ thị sau : Bảng 2 : Tổng nộp ngân sách Nhà nước của Bảo Việt từ 1997 - 2001 (Nguồn : report) Thêm vào đó, khi mở rộng và phát triển các loại hình bảo hiểm trong nước, các công ty, doanh nghiệp trong nước sẽ không phải mua bảo hiểm của nước ngoài, các công ty nước ngoài tại Việt Nam cũng có thể mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm Việt Nam. Do đó làm tăng thu và giảm chi ngoại tệ cho Nhà nước. 3.5. Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế với nước ngoài, nhất là thông qua hoạt động tái bảo hiểm Xu thế đổi mới của hoạt động sản xuất và giao lưu hàng hoá với nước ngoài ở nước ta ngày càng phát triển, đòi hỏi nhu cầu bảo hiểm càng lớn nhằm làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển ổn định, đảm bảo đủ khả năng trang trải khi thiệt hại rủi ro xảy ra. Tuy nhiên, trong hoạt động bảo hiểm có trường hợp giá trị của đối tượng bảo hiểm vượt quá khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm, đặc biệt là các công ty bảo hiểm Việt Nam - với khả năng tài chính còn hạn chế, nên các công ty bảo hiểm phải thực hiện hình thức tái bảo hiểm - mà chủ yếu là với các công ty bảo hiểm lớn hơn của nước ngoài. Khi thực hiện tái bảo hiểm thì rủi ro sẽ được san sẻ và cũng làm cho các mối quan hệ hợp tác ngày càng được mở rộng. Từ những phân tích trên, ta có thể thấy rõ vị trí quan trọng của bảo hiểm đối với nền kinh tế quốc dân. Với những tác dụng thiết thực của mình, bảo hiểm đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được của đời sống xã hội. Tuy nhiên, để thực hiện những vai trò này, tất cả các bên tham gia vào hoạt động bảo hiểm đều phải tuân thủ tuyệt đối những nguyên tắc của bảo hiểm. 4. Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm Giống như các ngành kinh doanh khác, bảo hiểm cũng có những nguyên tắc hoạt động riêng. Nguyên tắc đầu tiên và cơ bản nhất của bảo hiểm là lấy số đông bù số ít, san sẻ và phân tán rủi ro. Quỹ bảo hiểm được hình thành từ nguồn phí bảo hiểm do những người tham gia bảo hiểm đóng góp, sau đó nó được phân phối lại cho một số ít người gặp rủi ro. Phí bảo hiểm chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với giá trị bảo hiểm, do vậy, phải tính toán chính xác sao cho vừa đảm bảo kinh doanh bảo hiểm có lãi vừa đảm bảo được khách hàng chấp nhận. Ngoài nguyên tắc trên thì hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn phải tôn trọng các nguyên tắc cơ bản sau : 4.1. Nguyên tắc bảo hiểm rủi ro chứ không bảo hiểm cái chắc chắn Theo nguyên tắc này, người bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm rủi ro tức là bảo hiểm một sự cố tai nạn, tai hoạ xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm cái chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra, có thể lường trước được cũng như chỉ bồi thường những thiệt hại do rủi ro gây ra chứ không bồi thường những thiệt hại chắc chắn hay đương nhiên xảy ra. 4.2. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối Theo nguyên tắc này, bảo hiểm phải tiến hành trên cơ sở trung thực và tin tưởng lẫn nhau giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm thể hiện ở : - Người bảo hiểm phải công khai tuyên bố những điều kiện, nguyên tắc, thể lệ, biểu phí cho người được bảo hiểm biết; không được nhận bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm đã đến nơi an toàn hay đã bị tổn thất. - Người được bảo hiểm phải kê khai chính xác các chi tiết liên quan đến đối tượng bảo hiểm và các rủi ro hay hiểm hoạ có thể gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm; phải thông báo kịp thời những thay đổi về đối tượng bảo hiểm; không được mua bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm đã bị tổn thất. Hợp đồng bảo hiểm còn là hợp đồng của sự tín nhiệm: "contract of goodfaith", do đó, nếu một bên vi phạm thì hợp đồng bảo hiểm trở nên không có hiệu lực. 4.3. Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm Theo nguyên tắc này, chỉ có những người có lợi ích bảo hiểm thực sự thì mới được kí kết hợp đồng bảo hiểm và hợp đồng đó mới hợp pháp. ở đây, lợi ích bảo hiểm là lợi ích của quyền lợi gắn liền với, liên quan đến, hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo hiểm. Như vậy, người có lợi ích bảo hiểm là người bị thiệt hại về tài chính khi đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro. Do đó, chỉ những người có lợi ích bảo hiểm mới được mua bảo hiểm và khi có tổn thất xảy ra, chỉ những người được bảo hiểm đã có lợi ích bảo hiểm mới được bồi thường. 4.4. Nguyên tắc bồi thường Theo nguyên tắc này, bảo hiểm phải bồi thường đầy đủ kịp thời cho người được bảo hiểm trong một thời gian quy định khi xảy ra tổn thất thuộc một rủi ro được bảo hiểm, để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tài chính như trước khi xảy ra tổn thất, không hơn không kém. Cũng có nghĩa là, nếu người được bảo hiểm mua bảo hiểm quá giá trị của đối tượng bảo hiểm thì khi có tổn thất anh ta cũng chỉ được bồi thường đúng bằng giá trị của đối tượng bảo hiểm mà thôi. Nguyên tắc này nhằm tránh sự trục lợi của các bên. 4.5. Nguyên tắc thế quyền Theo nguyên tắc này, người bảo hiểm - sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm - có quyền thay mặt người được bảo hiểm đòi người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho mình. Để thực hiện nguyên tắc này, người được bảo hiểm phải cung cấp đầy đủ các biên bản chứng từ cần thiết cho người bảo hiểm. 4.6. Nguyên tắc đóng góp Theo nguyên tắc này, nếu một người đi mua bảo hiểm của nhiều công ty bảo hiểm thì người được bảo hiểm chỉ được bồi thường tối đa tới số tiền bảo hiểm, hạn mức trách nhiệm hay trị giá bảo hiểm. 4.7. Nguyên tắc quyền lợi và nghĩa vụ phải tương xứng 4.8. Nguyên tắc bảo hiểm không có nghĩa là trút hết trách nhiệm cho nguời bảo hiểm 5. Hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng, qua đó một người (được bảo hiểm) tự cam kết trả một khoản tiền (phí) để mình hay một người thứ ba (người thụ hưởng), trong trường hợp rủi ro xảy ra (sự cố bất ngờ và gây ra thiệt hại) có trợ giúp bởi một người khác (người bảo hiểm). Đó chính là thoả thuận giữa một người bảo hiểm và một người được bảo hiểm để kí hợp đồng : nguời bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm cho rủi ro được yêu cầu và người được bảo hiểm trả phí theo thoả thuận. II. Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không Bảo hiểm là một ngành kinh tế đặc biệt đã được con người biết đến từ hàng nghìn năm nay, trong đó, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm cổ xưa nhất trên thế giới (ra đời cách đây khoảng 600 năm. Người ta biết đến đơn bảo hiểm hàng hoá đầu tiên đã được cấp cho chuyến hàng xếp trên tàu Santa Clara từ Giơnoa đến Marjorca vào năm 1347). Trong thương mại quốc tế ngày nay, có lẽ khó mà tìm được một hoạt động nào mà lại không có bảo hiểm. Có chăng chỉ còn xuất khẩu điện bằng dây cáp hay xuất khẩu nhiên liệu bằng đường ống là chưa được bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu chiểu theo luật của một số nước thì những trường hợp trên cũng phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu đường dây điện hay đường ống đối với những tổn thất bất ngờ có thể xảy ra trên đường vận chuyển, gây thiệt hại co người thứ ba hay đối với môi trường xung quanh. Sự cần thiết phải có bảo hiểm cho các loại hàng hoá, sản phẩm giờ đây đã thực sự là điều không ai có thể nghi ngờ được. Bảo hiểm là phương thức linh hoạt nhất, thuận tiện nhất để bù đắp cho chủ hàng bị tổn thất trong quá trình sản xuất, vận chuyển hay sử dụng trong các trường hợp thiên tai hay tai nạn bất ngờ, là tấm lá chắn hữu hiệu nhất để bảo toàn vốn cho các doanh nghiệp. Là một loại hình của bảo hiểm thương mại, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không cũng có những tác dụng và vị trí quan trọng như đã trình bày ở phần trên. Hơn nữa, do tính chất đặc thù của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá cũng như quá trình chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không, hoạt động bảo hiểm này lại đóng một vai trò không nhỏ đối với hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường và ngành hàng không phát triển mạnh mẽ như ở nước ta hiện nay. 1. Đặc điểm quá trình chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không Do sự phân bố không đồng đều về tài nguyên thiên nhiên và sức lao động nên mỗi quốc gia đều có một lợi thế so sánh. Cùng với sự phát triển của phân công lao động và hợp tác quốc tế, các quốc gia có quan hệ kinh tế với nhau nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh của mình. Sự buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các nước mà cụ thể là xuất nhập khẩu hàng hoá đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, hàng hoá sản xuất ra không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn có thể vươn ra thị trường nước ngoài, đem lại một nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Ngược lại, đối với những loại hàng hoá trong nước chưa sản xuất được hay kém lợi thế so sánh hơn, ta có thể nhập khẩu từ nước ngoài. Nói chung, xuất nhập khẩu hàng hoá không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền thương mại có tổ chức nhằm đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Do đó, xuất nhập khẩu hàng hoá là một hoạt động kinh tế đối ngoại dễ đem lại những hiệu quả cao song cũng có thể gây thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất nhập khẩu không thể khống chế được. Như vậy, hoạt động xuất nhập khẩu thực sự là một hoạt động có tính rủi ro cao. Rủi ro có thể xảy ra trong bất cứ công đoạn nào của hoạt động xuất nhập khẩu, từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau như thiên nhiên, kỹ thuật, môi trường kinh doanh, chính sách của Nhà nước, ... Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu được mở rộng, người ta không chỉ quan hệ buôn bán với những nước láng giềng nữa mà còn với tất cả các nước trên thế giới. Khoảng cách về không gian và thời gian càng rộng tất yếu sẽ kéo theo xác suất về rủi ro tăng lên. Chính vì vậy, việc mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu là một công việc không thể thiếu trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá và hiện nay nó đã trở thành thông lệ quốc tế. Hàng hoá xuất nhập khẩu hiện nay có thể được chuyên chở bằng nhiều phương thức vận tải khác nhau như : máy bay, ô tô, tàu hoả, ... trên nhiều tuyến đường khác nhau như : đường không, đường sắt, đường biển, ... và còn có nhiều phương thức vận tải hiện đại như : vận tải liên hợp, vận tải đa phương thức, ... Trong thực tế, phương thức vận chuyển đường biển được áp dụng nhiều hơn cả, chiếm tới khoảng 90% tổng khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của thế giới do những ưu điểm riêng của phương thức vận tải này như : năng lực vận tải lớn, cước phí thấp, ... Tuy nhiên, phương thức vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không trong buôn bán quốc tế vẫn chiếm một vị trí không thể thiếu. Tuy chỉ chuyên chở khoảng 1% tổng khối lượng hàng hoá trong buôn bán quốc tế nhưng lại chiếm khoảng 20% trị giá hàng hoá trong mua bán quốc tế. Đối với các nước phát triển, chuyên chở hàng hoá bằng đường hàng không chỉ chiếm một lượng nhỏ hơn 1%, nhưng lại chiếm khoảng 30% trị giá. Điều này cho thấy : nếu nói về khối lượng hàng hoá thì rất nhỏ nhưng về giá trị, vận tải hàng không chiếm vị trí tương đối quan trọng; và chứng tỏ rằng : hàng hoá được chuyên chở bằng đường hàng không chủ yếu là hàng hoá có giá trị cao. Bên cạnh đó, do đặc điểm về tốc độ của vận chuyển hàng không là nhanh nhất so với các phương thức khác nên hàng hoá chuyên chở bằng đường hàng không còn có thể là những hàng hoá có sự nhạy cảm với thời gian, hàng hoá bán theo mùa vụ, … 2. Sự cần thiết và tác dụng Từ khi chiếc máy bay đầu tiên ra đời năm 1903 và chuyến bay quốc tế đầu tiên được thực hiện từ London đi Paris năm 1919 thì ngành hàng không trên thế giới đã có những bước phát triển cực kỳ mạnh mẽ. Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật đã cho ra đời những chiếc máy bay hiện đại có thể chở tới hơn 400 hành khách như Boeing 767, kèm theo đó là sự tăng lên không ngừng của giá trị các loại máy bay và khối lượng hàng hoá chuyên chở. Vì vậy, khi có tai nạn xảy ra thì thiệt hại về vật chất là rất lớn, điều này không những ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tài chính của các hãng hàng không mà còn ảnh hưởng đến hành khách đi trên máy bay cũng như là các chủ hàng hoá. Ngành vận tải hàng không là một ngành sử dụng công nghệ cao với đội ngũ nhân viên lành nghề nhằm đạt đuợc tốc độ cao, khả năng bay xa; bên cạnh đó, mỗi chuyến bay cũng đòi hỏi sự an toàn rất cao bởi vì tính mạng con người và giá trị tài sản của máy bay, hàng hoá mà nó mang theo. Các chuyến bay dân dụng cũng còn đòi hỏi một sự an toàn rất cao bởi tính mạng con người, giá trị tài sản của chiếc máy bay và hàng hoá mà nó mang theo, và bởi không thể dừng lại để sửa chữa trên không khi máy bay bị trục trặc. Vì vậy, hoạt động hàng không đòi hỏi sự nghiêm ngặt tuân thủ nội quy, quy định nhằm đảm bảo sự an toàn cao nhất cho mỗi chuyến bay. Tuy nhiên, trên thực tế thì vẫn xảy ra tai nạn dù rất ít, nhưng mức độ tổn thất thì lại rất lớn. Giá trị tổn thất của toàn ngành hàng không nếu xét trên toàn thế giới từ năm 1982 là 520 triệu USD thì nay đã lên tới 3.000 triệu USD. Một phần không nhỏ trong giá trị tổn thất đó là trách nhiệm bồi thường đối với hàng hoá được vận chuyển trên máy bay. Bởi vậy, ngay từ năm 1929 Công ước quốc tế đầu tiên về vận chuyển hàng không đã được ký tại Vac-sa-va quy định trách nhiệm của người vận chuyển hàng không đối với hành khách, hành lý, hàng hoá và các bên thứ ba khác. Về sau, các mức trách nhiệm này lại được nâng lên dần theo sự phát triển của nền kinh tế và ngành hàng không và đến nay có thể lên đến hàng trăm triệu USD một vụ tổn thất. Với đặc điểm riêng có của hình thức vận tải hàng không như : tuyến đường trong vận tải hàng không là không trung và hầu như là đường thẳng không phụ thuộc vào địa hình mặt đất, mặt nước, không phải đầu tư xây dựng; tốc độ vận tải cao, thời gian vận tải ngắn; an toàn nhất trong các phương thức vận tải;... thì dường như chuyên chở hàng hoá bằng đường hàng không đã khắc phục được những hạn chế cố hữu gây ra nhiều tổn thất cho hàng hoá của hình thức vận tải đường biển. Tuy nhiên, do giá trị của mặt hàng trong vận tải hàng không thường rất lớn nên việc lựa chọn tất yếu của các chủ hàng để đảm bảo công việc kinh doanh của mình ổn định, nếu có tổn thất xảy ra, chính là mua bảo hiểm. Hơn nữa, ngày nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, ngành hàng không phát triển với tốc độ rất nhanh và trở nên vô cùng quan trọng không chỉ về mặt vận chuyển hành khách mà còn đáp ứng cả nhu cầu ngày càng cao về vận chuyển hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá xuất nhập khẩu. Đi kèm với nó, dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không cũng ngày một phát triển và thiết yếu hơn bao giờ hết. III. Một số nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không Khi tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá bằng đường hàng không, mỗi một chủ hàng đều có thể mua bảo hiểm cho hàng hoá của mình theo hai cách : mua trực tiếp từ hãng hàng không thông qua cước phí vận chuyển phải trả cho hàng hoá đó, hoặc là mua bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm chuyên ngành. Trong nội dung bài viết này, chỉ đề cập đến cách thứ hai : đó là bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không được mua từ hãng bảo hiểm. 1. Đặc điểm của hàng hoá xuất nhập khẩu và trách nhiệm của các bên liên quan trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu 1.1. Đặc điểm của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Hàng hoá xuất ra và nhập vào đều phải đi qua các cửa khẩu biên giới quốc gia. Vì vậy, nó phải tuân thủ các quy chế của từng quốc gia về số lượng, chủng loại hàng hoá, phải chịu sự kiểm tra, giám sát của hải quan, của cơ quan kiểm dịch. - Xuất nhập khẩu hàng hoá giữa các cá nhân, các tổ chức thương mại giữa các nước đều phải thực hiện theo hợp đồng mua bán ngoại thương. Hợp đồng này đồng thời phải theo đúng thông lệ quốc tế và những quy định của quốc gia của người bán và người mua. Trong hợp đồng phải quy định về quy cách, phẩm chất, số lượng, ký mã hiệu, đóng gói bao bì, giá cả, cước vận chuyển, phí bảo hiểm, đồng tiền thanh toán, ... theo thoả thuận giữa bên mua và bên bán. - Hàng hoá được vận chuyển theo thông lệ quốc tế phải mua bảo hiểm. Việc mua bảo hiểm phải được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm để bảo hiểm cho lô hàng được vận chuyển. Hợp đồng bảo hiểm có thể thực hiện giữa bên bán hoặc bên mua với cơ quan bảo hiểm. Nếu người bán hàng mua bảo hiểm, có thể nhượng lại quyền lợi bảo hiểm bằng cách kí nhận cho người mua hàng._. để khi hàng nhập khẩu, nếu bị tổn thất thì có thể đòi cơ quan bảo hiểm bồi thường. - Hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng các phương tiện khác nhau theo hợp đồng. Người vận chuyển hàng hoá cũng đồng thời là người giao hàng cho người mua. Do đó, người vận chuyển có trách nhiệm rất cao trong việc bảo đảm an toàn cho số hàng hoá được vận chuyển. Để có những chứng cứ về mối ràng buộc trách nhiệm, khi vận chuyển hàng phải có vận đơn (trong đó thể hiện bằng chứng của hợp đồng chuyên chở), bằng chứng về quyền sở hữu hàng hoá và bằng chứng hoàn thành nhiệm vụ chuyên chở và giao hàng theo đúng hợp đồng mua bán. Người vận chuyển chỉ giao hàng cho người sở hữu hàng hoá, tức là người có vận đơn gốc. Như vậy, trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá chủ yếu có 4 bên liên quan là : người bán, người mua, người vận chuyển và người bảo hiểm. 1.2. Trách nhiệm của các bên liên quan trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Người bán hàng (người xuất khẩu hàng) có trách nhiệm : + chuẩn bị hàng hoá theo đúng hợp đồng đã kí kết về số lượng, chất lượng, ... + làm thủ tục hải quan và kiểm dịch + nếu người bán mua bảo hiểm thì khi hàng qua khỏi biên giới, địa phận quốc gia phải chuyển nhượng quyền lợi bảo hiểm sang cho người mua Người mua hàng (người nhập khẩu hàng) có trách nhiệm : + nhận hàng từ người chuyên chở theo số lượng, chất lượng, chủng loại trong vận đơn hay hợp đồng mua bán + kiểm tra các loại giấy tờ có liên quan như biên bản kết toán giao nhận hàng với chủ tàu, bên mua phải tiến hành các thủ tục pháp lý để bên bán xác định thiệt hại (nếu có) + nhận phần chuyển nhượng bảo hiểm từ người bán hay tự mua bảo hiểm và theo dõi cho đến khi hàng về tới kho + nếu hàng hoá có vấn đề tổn thất thì phải kịp thời thông báo cho các bên liên quan để giải quyết Người chuyên chở hàng hoá có trách nhiệm : + chuẩn bị phương tiện và con người để nhận và đảm bảo chuyên chở hàng hoá theo hợp đồng với bên bán và giao hàng cho bên mua + về số lượng hàng hoá trong quá trình chuyên chở + khi có tổn thất xảy ra phải kịp thời ghi chép lại, thông báo cho các bên liên quan biết, là người trực tiếp đứng ra làm chứng trong khâu giám định Người bảo hiểm nhận tiền bảo hiểm từ bên mua hay bên bán, có trách nhiệm : + bảo hiểm cho số hàng hoá được vận chuyển + kiểm tra các chứng từ về hàng hoá, kiểm tra lịch trình và phương tiện, ... + khi nhận được thông báo tổn thất, người bảo hiểm phải kịp thời cử nhân viên hay người đại diện cho mình đi giám định, sau đó xem xét bồi thường cho các chủ hàng theo đúng nguyên tắc : chính xác, khách quan và trung thực theo hợp đồng đã kí kết. Như vậy, từ đặc điểm của quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá và trách nhiệm của các bên liên quan đã phân tích ở trên, chúng ta thấy cần phải nghiên cứu thêm về đối tượng, phạm vi và những điều khoản riêng của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không. Từ đó, có thể với tư cách người bảo hiểm hay người được bảo hiểm kí hợp đồng với những điều kiện hợp lý, có những biện pháp hạn chế tổn thất hữu hiệu đối với nghiệp vụ này. 2. Đối tượng bảo hiểm Đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không là những loại hàng hoá được chuyên chở bằng máy bay; trừ thư, bưu kiện bưu phẩm, và hàng chuyển phát nhanh. Trong vận tải hàng không quốc tế, hàng hoá thông thường được chuyên chở bằng máy bay chiếm khoảng 80%, còn lại 16% là hàng chuyển phát nhanh, 4% là bưu phẩm bưu kiện. Hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thường gồm những loại chính sau đây : Hàng có giá trị cao (high value commodity) : là những loại hàng : + hàng giá trị cao (có giá trị vận chuyển từ 1.000 USD/kg trở lên) + vàng, bạch kim, đá quý hay các sản phẩm bằng vàng, bạch kim + tiền, séc du lịch, thẻ tín dụng, các loại chứng từ có giá + kim cương và các đồ đá quí, đồ trang sức, ... Hàng dễ hư hỏng do thời gian (perisable) : bao gồm hoa quả tươi, thực phẩm đông lạnh, ... Hàng nhạy cảm với thị trường (market sensitive air freight) : như các loại hàng bán theo mùa, hàng mốt, hàng thời trang (fashion goods) Động vật sống (alive animals) : loại này gồm động vật nuôi trong nhà, động vật ở các vườn thú. Động vật sống cần có yêu cầu về kiểm dịch, chăm sóc đặc biệt, đòi hỏi vận chuyển nhanh để không ảnh hưởng tới sức khoẻ. 3. Các điều khoản bảo hiểm hàng hoá chuyên chở bằng đường hàng không Điều kiện, điều khoản bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là những quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với tổn thất của hàng hoá. Hàng hoá mua bảo hiểm theo điều kiện, điều khoản nào thì chỉ những rủi ro xảy ra trong điều kiện, điều khoản đó mới được bồi thường. Khác với các loại hình bảo hiểm hàng không khác như : bảo hiểm thân máy bay; bảo hiểm trách nhiệm đối với hành khách, hành lý và hàng hoá; bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm; … do hãng hàng không mua từ các công ty bảo hiểm, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không có thể do các chủ hàng mua từ các công ty bảo hiểm chuyên ngành, nó tương tự như hình thức xuất nhập khẩu hàng hoá bằng đường biển. Do vậy, điều khoản bảo hiểm này không nằm trong các Công ước hay các Nghị định thư của vận tải hàng không mà được ban hành trong điều khoản bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của ICC. Trên thế giới đã có 2 lần ban hành và sửa đổi điều kiện bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vào năm 1963 và 1982. Lần thứ nhất: ở Anh, ngày 1-1-1963 ban hành 3 điều kiện cơ bản là bảo hiểm miễn tổn thất riêng (FPA), bảo hiểm tổn thất riêng (WA), điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro (AR), được áp dụng rộng rãi. Nhưng do giao lưu thương mại quốc tế ngày một thay đổi và phát triển, ngày1-1-1982, Viện những người bảo hiểm Luân Đôn (ILU) lại ban hành những điều kiện bảo hiểm mới thay thế điều kiện bảo hiểm cũ. Trong đó các điều kiện bảo hiểm hàng hoá bao gồm: điều kiện bảo hiểm C, B, A và điều kiện bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình công. Đối với bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì điều khoản bảo hiểm của ICC 1982 (do Viện những người bảo hiểm Luân đôn ban hành ngày 1/1/1982) hiện là phổ biến nhất và trở thành điều kiện áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới (với hơn 200 nước tham gia trong đó có Việt Nam). ở Việt Nam hiện nay, ngoài điều kiện áp dụng cho bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu theo những quy tắc của ICC còn có những quy tắc riêng của Bảo Việt (Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam). Tuy nhiên, trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì hiện Bảo Việt vẫn chưa có quy tắc riêng mà việc áp dụng chủ yếu theo “điều khoản bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đường không” của ICC 1982. 3.1. Những rủi ro được bảo hiểm (điều khoản rủi ro) Theo ICC 1/2/1982 : người bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường hàng không chịu trách nhiệm bảo hiểm mọi rủi ro, tổn thất với đối tượng bảo hiểm, trừ các trường hợp quy định cụ thể sau đây : 3.2. Loại trừ bảo hiểm (điều khoản loại trừ chung, điều khoản loại trừ chiến tranh, điều khoản loại trừ đình công) Tổn thất hay chi phí do lỗi của người được bảo hiểm Rò chảy thông thường, mất mát thông thường về trọng lượng, thể tích (ordinary loss in weight or volume), khối lượng hay hao mòn và rách thông thường của đối tượng bảo hiểm Mất mát, hư hại hay chi phí do bao bì không đầy đủ hay không phù hợp của đối tượng bảo hiểm Tổn thất hay chi phí do nội tỳ hay bản chất của đối tượng bảo hiểm Tổn thất hay chi phí phát sinh từ sự không phù hợp của máy bay, phương tiện vận chuyển, container hay băng chuyền (unfitness aircraft conveyor container or liftman), đối với việc vận chuyển an toàn đối tượng bảo hiểm, khi người được bảo hiểm hay người làm công của họ đã biết trước sự không phù hợp như vậy vào lúc xếp hàng Mất mát, hư hại hay chi phí do chậm trễ, dù chậm trễ gây ra bởi một rủi ro được bảo hiểm Mất mát, hư hỏng hoặc phát sinh chi phí do tình trạng thua lỗ tài chính mất khả năng chi trả (loss damage or expensive arising from insolvency financial default) của những người chủ, người quản lý, người thuê hay người khai thác máy bay (owners, managers, chatterers or operators) Mất mát, hư hại do việc sử dụng vũ khí chiến tranh, hạt nhân nguyên tử Chiến tranh, nội chiến, cách mạng Bị bắt, tịch thu, câu thúc, câu lưu Bom, mìn và các vũ khí chiến tranh Tổn thất do những người đình công, cấm xưởng, bạo động nổi loạn dân sự Tổn thất do những người khủng bố (terrorist), hay bất cứ người nào hành động vì mục đích chính trị. Như vậy, nếu như bảo hiểm hàng hoá bằng đường biển có các đIều kiện A, B, C tuỳ theo mức độ rủi ro thì bảo hiểm hàng hoá bằng đường không chỉ có đIều khoản về những rủi ro được bảo hiểm và loại trừ. Các rủi ro loại trừ bao quát hơn nên người ta thường gọi đIều khoản bảo hiểm hàng hoá bằng đường không là “covering institute cargo clause” 3.3. Thời hạn bảo hiểm (điều khoản vận chuyển, điều khoản kết thúc hợp đồng vận chuyển, điều khoản thay đổi hành trình) a) Không gian bảo hiểm - Bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực kể từ khi đối tượng bảo hiểm rời khỏi kho, nơi chứa hàng hay nơi lưu giữ có tên ghi trong hợp đồng bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển, tiếp tục có hiệu lực trong quá trình vận chuyển bình thường và hết hiệu lực tại một trong các thời điểm sau đây, tuỳ theo trường hợp nào xảy ra trước : - Khi giao hàng vào kho người nhận hàng hay kho hoặc nơi chứa hàng cuối cùng khác hay lưu kho ở nơi đến có ghi trong hợp đồng bảo hiểm - Khi giao hàng vào bất kỳ một kho hay nơi chứa hàng nào khác hay nơi lưu kho, cho dù trước khi đến hay tại nơi đến có ghi trong hợp đồng bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn dùng hoặc : + để lưu kho ngoài quá trình vận chuyển bình thường hoặc + để phân phối hay cung cấp hàng hoá. b) Thời hạn bảo hiểm Thời hạn bảo hiểm là 30 ngày sau khi dỡ hàng hoá ra khỏi máy bay tại nơi dỡ hàng cuối cùng. Nếu một trong hai điều trên xảy ra thì điều còn lại không có giá trị. Nghĩa là : nếu hàng hoá được vận chuyển về kho an toàn ngay sau khi dỡ ra khỏi máy bay thì bảo hiểm sẽ hết hiệu lực, không cần chờ 30 ngày. Ngược lại, sau 30 ngày kể từ ngày dỡ xong hàng mà không đưa được hàng về kho thì bảo hiểm cũng hết hiệu lực, không cần chờ mang vào kho. c) Kết thúc hợp đồng vận chuyển Ngoài ra, về thời hạn bảo hiểm ICC còn quy định về việc kết thúc hợp đồng vận chuyển: nếu do những tình huống ngoài khả năng kiểm soát của người được bảo hiểm mà hợp đồng vận chuyển kết thúc tại một nơi khác nơi đến có tên ghi trong hợp đồng bảo hiểm hoặc việc vận chuyển được kết thúc theo cách khác trước khi giao hàng thì bảo hiểm này cũng sẽ kết thúc trừ khi có giấy báo gửi ngay cho người bảo hiểm yêu cầu tiếp tục bảo hiểm trong khi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực với điều kiện phải nộp thêm phí bảo hiểm nếu người bảo hiểm yêu cầu, hoặc cho tới khi hàng được đem bán và giao ngay tại địa điểm đó, hoặc trừ khi có thoả thuận riêng khác, cho tới khi hết thời hạn 30 ngày sau khi hàng hoá được bảo hiểm đến địa điểm đó, tuỳ theo trường hợp nào xảy ra trước, hoặc nếu hàng hoá được gửi đi trong thời hạn 30 ngày nói trên (hoặc bất kỳ thời hạn mở rộng nào đã thoả thuận) tới nơi đến có tên ghi trong hợp đồng bảo hiểm hay tới bất kỳ nơi đến nào khác cho tới khi kết thúc bảo hiểm theo những quy định trên. d) Thay đổi hành trình Sau khi bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực nếu người được bảo hiểm thay đổi nơi đến thì bảo hiểm này vẫn giữ nguyên hiệu lực với điều kiện người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho người bảo hiểm biết với phí bảo hiểm và những điều kiện được thoả thuận. 3.4. Khiếu nại (điều khoản quyền lợi bảo hiểm, điều khoản chi phí gửi hàng, điều khoản tổn thất toàn bộ ước tính, điều khoản giá trị tăng thêm) a) Quyền lợi bảo hiểm Theo điều khoản này, người được bảo hiểm cần phải có quyền lợi bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm vào thời gian xảy ra tổn thất và sẽ có quyền đòi bồi thường cho những tổn thất được bảo hiểm đó trong thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực. Điều khoản này cũng phù hợp với nguyên tắc lợi ích bảo hiểm thực sự. b) Chi phí gửi hàng Theo điều khoản này, nếu có tổn thất do hậu quả của rủi ro đã được bảo hiểm gây ra làm cho hành trình phải kết thúc tại một nơi khác nơi đến ghi trong hợp đồng bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ hoàn trả cho người được bảo hiểm mọi khoản chi phí phát sinh thêm một cách hợp lý và thoả đáng để dỡ hàng, lưu kho và gửi hàng tới nơi đến được bảo hiểm theo hợp đồng. c) Tổn thất toàn bộ ước tính Theo điều khoản này, bảo hiểm sẽ không bồi thường cho các khiếu nại về tổn thất toàn bộ ước tính trừ khi đối tượng được bảo hiểm bị từ bỏ một cách hợp lý hoặc nếu xét thấy không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế hay do chi phí phục hồi, tu bổ lại và gửi hàng tới nơi đến thuộc phạm vi bảo hiểm sẽ vượt quá giá trị hàng tại nơi đến. d) Về giá trị tăng thêm Ngoài ra, về phần khiếu nại còn có điều khoản về giá trị tăng thêm. Tức là, khi người được bảo hiểm kí kết bất kỳ hợp đồng về giá trị tăng thêm cho hàng hoá được bảo hiểm thì giá trị thoả thuận của hàng hoá sẽ được xem như ngang bằng với tổng số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm gốc và của tất cả các hợp đồng bảo hiểm giá trị tăng thêm cùng bảo hiểm tổn thất đó và trách nhiệm thuộc phạm vi bảo hiểm này sẽ được tính theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm này và tổng số tiền bảo hiểm đã nói tới. Trong trường hợp có khiếu nại, người được bảo hiểm phải cung cấp cho người bảo hiểm bằng chứng về những số tiền bảo hiểm thuộc tất cả các bảo hiểm khác. 3.5. Quyền lợi bảo hiểm (điều khoản không áp dụng) Hợp đồng bảo hiểm này sẽ không áp dụng đối với quyền lợi của người chuyên chở hay người nhận ký gửi hàng hoá nào khác. 3.6. Giảm nhẹ tổn thất (điều khoản nghĩa vụ của người được bảo hiểm và điều khoản từ bỏ) a) Nghĩa vụ của người được bảo hiểm Theo điều khoản này, người được bảo hiểm, những người làm công và đại lý của họ là: phải thực hiện mọi biện pháp được coi là hợp lý nhằm mục đích ngăn ngừa hoặc giảm nhẹ tổn thất đó và phải bảo lưu và thực hiện các quyền khiếu nại đối với người chuyên chở, người nhận ký gửi hàng hoá hay người thứ ba khác và người bảo hiểm ngoài trách nhiệm đối với tổn thất thuộc phạm vi bồi thường sẽ hoàn cho người được bảo hiểm bất kỳ chi phí nào đã chi ra một cách hợp lý và thoả đáng để thực hiện nghĩa vụ này. b) Điều khoản từ bỏ Mọi biện pháp do người được bảo hiểm hoặc người bảo hiểm thực hiện nhằm mục đích cứu vớt, bảo vệ hoặc khôi phục lại đối tượng được bảo hiểm sẽ không được coi như sự từ chối hoặc chấp nhận từ bỏ hoặc về mặt khác làm tổn hại các quyền lợi của mỗi bên. Ngoài 6 mục điều khoản trên, điều kiện bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không còn có điều khoản tránh chậm trễ (khẩn trương hợp lý) và luật pháp tập quán (điều khoản luật pháp và tập quán Anh). Bên cạnh điều kiện bảo hiểm trên đang được áp dụng rộng rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới hiện nay, còn có thêm điều kiện bảo hiểm chiến tranh và điều kiện bảo hiểm đình công. Trước đây hai điều kiện này ít được người tham gia bảo hiểm mua, một phần vì phí cao, một phần vì khả năng xác suất xảy ra rủi ro thấp hơn điều kiện bảo hiểm trên. Tuy nhiên, thảm họa ngày 11/9/2001 tại Mỹ đã tác động bất lợi đến nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là ngành hàng không và bảo hiểm. Một số hãng hàng không và công ty bảo hiểm lớn trên thế giới đã lâm vào tình trạng khủng hoảng hoặc phá sản. Ngành bảo hiểm đã bị tổn thất khoảng 50 tỷ USD, nên buộc phải xem xét lại các điều, khoản bảo hiểm liên quan tới rủi ro chiến tranh và khủng bố.(Theo tạp chí Thông tin hàng không, số 20/2002). Điều kiện bảo hiểm chiến tranh Rủi ro được bảo hiểm : bảo hiểm mất mát, hư hỏng cho đối tượng được bảo hiểm do nguyên nhân : + Chiến tranh, nội chiến, cách mạng … hoặc bất kỳ hành động thù địch nào gây ra hoặc chống lại một bên tham chiến + Chiếm, bắt giữ, kiềm chế hay cầm giữ phát sinh từ những rủi ro được bảo hiểm + Bom, mìn hoặc bất kỳ vũ khí chiến tranh hoang phế khác Điều kiện bảo hiểm đình công Rủi ro được bảo hiểm : bảo hiểm mất mát hoặc hư hỏng cho đối tượng được bảo hiểm gây ra bởi : + những người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gai gây rối lao động, náo loạn hoặc bạo động dân sự + bất kỳ kẻ khủng bố hoặc bất kỳ người nào hành động vì động cơ chính trị Trong ba điều kiện kể trên đều có một điều khoản là “Điều khoản luật pháp và tập quán Anh”, tức là điều kiện bảo hiểm này tuân theo luật pháp và tập quán Anh. Chính vì vậy, điều khoản bảo hiểm hàng hoá bằng đường không là điều khoản bảo hiểm dùng cho nước Anh. Trên thực tế, nó là điều khoản phổ biến nhất trên thế giới và được rất nhiều nước công nhận, nhưng việc áp dụng các điều khoản này cũng có sự thay đổi tuỳ vào từng nước. ở Việt Nam, thực tế việc áp dụng thường dẫn chiếu theo điều kiện của ICC 1982, kèm theo đó thường là điều khoản chuyển đổi tiền tệ một cách tự động “automatic currency conversion clause”. 4. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là một khoản tiền do người tham gia bảo hiểm nộp cho người bảo hiểm để hàng hoá được bảo hiểm. Phí này được xác định trên cơ sở giá trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm thường được xác định theo công thức : P = CIF x R (nếu không bảo hiểm lãi dự tính a) hoặc P = CIF x (1 + a) x R (nếu bảo hiểm lãi dự tính a) Trong đó : P : phí bảo hiểm C : số tiền bảo hiểm R : tỷ lệ phí bảo hiểm Như vậy thực chất phí bảo hiểm gồm 2 phần : phí gốc và phí phụ. Còn tỷ lệ phí bảo hiểm (R) thì lại phụ thuộc vào các yếu tố sau : chủng loại hàng hoá, bao bì đóng gói, phương tiện vận chuyển, hành trình vận chuyển và điều kiện bảo hiểm. Việc xác định được mức phí bảo hiểm cụ thể là bao nhiêu, nếu càng thấp sẽ càng nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp bảo hiểm đó lên. Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì việc mua bảo hiểm có thể được thực hiện theo hai cách : mua trực tiếp từ hãng hàng không thông qua cước phí và mua từ công ty bảo hiểm. Hiện nay, phí bảo hiểm của nghiệp vụ này tại Bảo Việt dao động từ 0,3% đến 0,5% tuỳ theo loại hàng hoá, thời gian chuyên chở, hành trình, … Hàng thông thường : 0,3% á 0,42% Hàng dễ tổn thất (dễ vỡ, nhạy cảm với thời gian, …) : 0,35% á 0,5% Hàng nguy hiểm : tuỳ thoả thuận với chủ hàng khi có yêu cầu Bảo hiểm hàng hoá bằng đường hàng không nếu mua theo cách thứ hai là mua trực tiếp từ các hãng hàng không thì phí bảo hiểm chiếm một tỷ lệ trong cước phí vận chuyển hàng hoá (thông thường là 0,4%). 5. Giám định tổn thất và bồi thường 5.1. Giám định tổn thất Giám định tổn thất là việc làm của người bảo hiểm hoặc người được uỷ thác nhằm đánh giá, xác định nguyên nhân, mức độ và trách nhiệm đối với tổn thất của đối tượng được bảo hiểm để làm cơ sở cho việc tính toán tiền bồi thường. Khi hàng hoá được bảo hiểm bị tổn thất (hư hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt,…), yêu cầu giám định trong thời gian quy định. Sau khi giám định xong, cán bộ giám định sẽ cung cấp chứng từ giám định trong đó có xác định mức độ tổn thất hoặc mức giảm giá trị thương mại của hàng hoá làm cơ sở cho việc bồi thường. Mọi tổn thất được khách hàng thông báo đều phải được giám định một cách nhanh chóng để các tang vật và nhân chứng không bị phân tán. Trong quá trình giám định tổn thất phải tạo bầu không khí tin cậy và hợp tác giữa người được bảo hiểm và giám định viên nhưng tuyệt đối không đưa ra bất kỳ một cam kết nào về số tiền bồi thường hay nói cho khách hàng cách tính toán số tiền thu được để tránh các trường hợp lạm dụng bảo hiểm. 5.2. Nguyên tắc và cách tính toán bồi thường Bồi thường thực chất là kết quả hữu hình của bảo hiểm với mục đích giúp cho người được bảo hiểm có thể khôi phục tình hình tài chính như trước khi xảy ra tổn thất. Việc bồi thường tổn thất phải tuân thủ các nguyên tắc sau: + Nguyên tắc thứ nhất : chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, các khoản tiền sau cũng được bồi thường: các chi phí đã chi ra để cứu vớt hàng hoá, chi phí cứu nạn, phí giám định, chi phí bán đấu giá hàng bị hư hỏng, tiền đóng góp tổn thất chung dù tổng số tiền bồi thường vượt quá số tiền bảo hiểm. + Nguyên tắc thứ hai : bồi thường bằng tiền, không bồi thường bằng hiện vật. Thông thường nộp phí bảo hiểm bằng loại tiền tệ nào thì sẽ được bồi thường bằng loại tiền tệ đó. + Nguyên tắc thứ ba : người bảo hiểm có quyền khấu trừ những khoản thu nhập của người được bảo hiểm trong việc bán hàng và đòi người thứ ba có lỗi. Để tính toán tiền bồi thường, hiện nay người ta sử dụng nhiều cách khác nhau, tuy nhiên số tiền bồi thường (STBT) thường được tính theo công thức sau: STBT = STBH x Tỷ lệ tổn thất Trong đó : ồ giá trị khi hàng còn nguyên - ồ giá trị hàng hoá còn lại Tỷ lệ tổn thất = ồ giá trị khi hàng còn nguyên STBH : số tiền bảo hiểm 5.3. Miễn thường Mức miễn thường là một tỷ lệ miễn giảm trách nhiệm bồi thường của người bảo hiểm khi tổn thất xảy ra đối với hàng hoá được bảo hiểm. Có hai loại miễn thường : miễn thường có khấu trừ và miễn thường không có khấu trừ. Theo hợp đồng bảo hiểm có áp dụng miễn thường có khấu trừ x% nếu tổn thất xảy ra vượt quá x% số tiền bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ bồi thường phần tổn thất vượt quá đó. Theo hợp đồng bảo hiểm có áp dụng miễn thường không khấu trừ và miễn thường không có khấu trừ, nếu tỷ lệ tổn thất không vượt quá tỷ lệ miễn thường thì công ty bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường tổn thất. Trong xuất nhập khẩu hàng hoá thường có 3 hợp đồng : hợp đồng mua bán, hợp đồng vận chuyển và hợp đồng bảo hiểm. Về thực chất thì hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cũng là một hợp đồng kinh tế, ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi giữa các bên với nhau. Hợp đồng bảo hiểm này là nội dung cơ bản, chủ yếu nhất của quá trình thực hiện bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường hàng không. 6. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không 6.1. Khái niệm Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thực chất là các đơn bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Đó là một văn bản thoả thuận giữa hai bên, trong đó người bảo hiểm (công ty bảo hiểm) cam kết sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm (chủ hàng hay người đại diện) các tổn thất của hàng hoá theo các điều kiện bảo hiểm đã kí kết, còn người được bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm. 6.2. Các loại hợp đồng bảo hiểm Trên thế giới hiện nay người ta sử dụng 2 loại hợp đồng bảo hiểm là : hợp đồng bảo hiểm chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao. a) Hợp đồng bảo hiểm chuyến Là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng được vận chuyển từ địa điểm này đến địa điểm khác ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi một chuyến. Hợp đồng bảo hiểm chuyến thường được trình bày dưới hình thức đơn bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo hiểm do người bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm chính là một hợp đồng bảo hiểm chuyến đầy đủ. Nội dung gồm 2 phần : mặt trước và mặt sau của đơn bảo hiểm. Mặt trước thường ghi các chi tiết về hàng, máy bay, hành trình. Mặt sau thường ghi các điều lệ hay quy tắc bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Nội dung hợp đồng bảo hiểm chủ yếu bao gồm: Ngày cấp đơn bảo hiểm Nơi kí kết hợp đồng bảo hiểm Tên và địa chỉ của người mua bảo hiểm Tên hàng hoá được bảo hiểm Số vận đơn Tên máy bay (hay số chuyến bay) vận chuyển hàng Sân bay đi, sân bay chuyển tải và sân bay đến Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm Tỷ lệ phí bảo hiểm và phí bảo hiểm Ngày máy bay đi, đến ... b) Hợp đồng bảo hiểm bao Là hợp đồng bảo hiểm trong đó người bảo hiểm nhận bảo hiểm một khối lượng hàng vận chuyển trong nhiều chuyến kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm) hoặc nhận bảo hiểm cho một lượng hàng vận chuyển nhất định (không kể đến thời gian). Nội dung của hợp đồng bảo hiểm bao gồm các vấn đề chung nhất, có tính nguyên tắc như : nguyên tắc chung, phạm vi trách nhiệm, việc đóng gói hàng, loại máy bay vận chuyển, giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm và thanh toán phí bảo hiểm, giám định, khiếu nại đòi bồi thường, hiệu lực của hợp đồng, ... Trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm bao, mỗi lần vận chuyển hàng hoá, người được bảo hiểm phải gửi giấy báo vận chuyển cho người bảo hiểm. Nếu có thay đổi đặc biệt về số lượng, giá trị hàng, ... phải tiến hành kí kết hợp đồng bảo hiểm khác. Sau khi cấp đơn bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm, nếu người được bảo hiểm thấy cần bổ sung, sửa đổi một số điều và người bảo hiểm đồng ý thì người bảo hiểm sẽ cấp giấy bảo hiểm bổ sung. Giấy này cũng có giá trị như một đơn bảo hiểm, là một bộ phận được kèm và không thể tách rời của hợp đồng bảo hiểm (hoặc đơn bảo hiểm) ban đầu. Ngoài ra hợp đồng bảo hiểm có thể chuyển nhượng từ người đứng tên trong đơn cho một người khác được hưởng quyền lợi của hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm chỉ cần ký hậu vào đơn rồi trao lại đơn và các giấy tờ liên quan khác cho người được chuyển nhượng. Chương II : Thực trạng hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt I. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của Bảo Việt 1. Một vài nét tổng quát Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay đang diễn ra rất sôi động, cả nước hiện có tới 16 doanh nghiệp bảo hiểm đang tiến hành hoạt động kinh doanh. Trong đó Bảo Việt là một doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước lớn nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay. Bảo hiểm ở Việt Nam ra đời muộn hơn nhiều so với thế giới. Hoạt động bảo hiểm đã xuất hiện từ thời kỳ nước ta vẫn còn bị Pháp đô hộ và ở miền Nam dưới chế độ cũ, song thời điểm thực sự đáng chú ý, đánh dấu sự hình thành của ngành bảo hiểm là sự ra đời của Công ty bảo hiểm Việt Nam. Bảo Việt là tên gọi tắt củaTổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (tiền thân là Công ty bảo hiểm Việt Nam), chính thức đi vào hoạt động từ ngày 15/1/1965 theo Quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964 của Thủ tướng Chính phủ với tư cách là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Ngày đầu, Bảo Việt có trụ sở chính tại Hà Nội và một chi nhánh tại Hải Phòng. Bảo Việt có nhiệm vụ thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ sự đóng góp tham gia bảo hiểm của các đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các thành viên khác trong xã hội nhằm bồi thường cho những người tham gia bảo hiểm không may bị thiên tai, tai nạn bất ngờ gây thiệt hại, giúp các tổ chức, cá nhân mau chóng ổn định sản xuất và đời sống. Sau ngày thống nhất đất nước, Bảo Việt tiếp quản cơ sở vật chất của một số Công ty bảo hiểm thuộc chế độ cũ qua việc sát nhập với Công ty bảo hiểm và Tái bảo hiểm miền Nam Việt Nam, bắt đầu mở rộng hoạt động ở một số tỉnh phía Nam. Từ năm 1981, Bảo Việt đã có các tổ chức bảo hiểm trực thuộc đặt tại các tỉnh thành trong cả nước để thực hiện các dịch vụ bảo hiểm. Ngày 17/12/1989, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 27/TCQĐ/TCCB chuyển Công ty Bảo hiểm Việt Nam thành Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (Vietnam Insurance Corporation). Ngày 1/3/1996, Bộ trưởng Bộ Tài chính (theo uỷ quyền của Chính phủ) đã ra Quyết định số 145/TCQĐ/TCCB về việc thành lập lại Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam. Ngày 8/10/1996, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 745/Ttg xếp hạng doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt cho Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam. Về mặt tổ chức, có thể coi Bảo Việt là một tập đoàn bảo hiểm, việc chỉ đạo được tiến hành tập trung, hạch toán thống nhất toàn ngành. Với số vốn ban đầu được giao là 776 tỷ đồng, Bảo Việt hoàn toàn tự chủ về tài chính, có quỹ dự trữ lớn để bồi thường cho khách hàng. Trải qua gần 40 năm phát triển, Bảo Việt đã trở thành tập đoàn bảo hiểm lớn nhất ở Việt Nam, gồm 64 công ty và 1 chi nhánh bảo hiểm trực thuộc, 27 công ty bảo hiểm nhân thọ đặt tại các tỉnh, thành phố trong cả nước với gần 4.000 cán bộ công nhân viên và 200 phòng bảo hiểm khu vực các quận, huyện. Năm 1999, Bảo Việt thành lập Công ty chứng khoán Bảo Việt, công ty chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam. Bên cạnh đó, Bảo Việt còn có đội ngũ đông đảo đại lý, cộng tác viên nhiệt tình, giàu kinh nghiệm. Đặc biệt từ khi triển khai bảo hiểm nhân thọ, gần 6.000 đại lý chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp - lực lượng bán hàng mới đã bổ sung cho đội ngũ cán bộ của Bảo Việt càng thêm lớn mạnh. Ngoài ra, Bảo Việt còn có một trung tâm đào tạo cho riêng mình, đảm bảo đào tạo ra những cán bộ công nhân viên có năng lực làm việc cao. Bảo Việt đã đáp ứng được yêu cầu bảo hiểm của các tổ chức, các nhà đầu tư cũng như mọi thành phần kinh tế và cá nhân bằng việc tiến hành hơn 50 nghiệp vụ bảo hiểm thuộc các loại hình bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và bảo hiểm trách nhiệm và bảo hiểm nhân thọ. Tại thời điểm hiện nay, Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất tại Việt Nam được phép kinh doanh cả bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Về quan hệ quốc tế của Bảo Việt, ta có thể minh hoạ bằng bảng sau : Bảng 2 : Quan hệ quốc tế của Bảo Việt Châu á Trung Quốc Hongkong ấn Độ Nhật Bản CHDCND Triều Tiên Hàn Quốc Kuweit Li băng Malaysia Mông Cổ Philippin Singapore Srilanca Đài Loan Thái Lan Châu Âu Anbani Bỉ Bungari Cộng hoà Séc Đan Mạch Pháp Đức Hy Lạp Hungari Hà Lan Italia Na Uy Ba Lan Bồ Đào Nha Rumani Tây Ban Nha Thụy Điển Thụy Sĩ Nga Ucraina Vương quốc Anh Châu Mỹ Mỹ Canada Cu ba Châu úc Ôxtrâylia Niu Dilân Châu Phi Ai Cập (Nguồn : Báo cáo tổng kết 35 năm thành lập Bảo Việt - 2000) Bảo Việt đã có quan hệ về tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, đại lý giám định, đại lý xét bồi thường với hàng trăm công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm trên thế giới. Trong đó có hầu hết các công ty danh tiếng như: Lloyd’s, CUG, Sedwick, Heath R/I Brockers, TRB, ... (Anh); AIG, CIGNA, AON, AETNA, ... (Mỹ); AXA, GAN, ... (Pháp); Tokyo Marine, Chiyoda, SUMITOMO, ... (Nhật); Munich Re (Đức); Swiss Re, Zurich (Thụy Sĩ); Asia Ins (Singapore); A& A, CHINA MARINERS, ... (Đài Loan); SAMSUNG LG, ... (Hàn Quốc);... Với quy mô hoạt động như vậy, hàng năm Bảo Việt đã nhận bảo hiểm cho hơn 10 triệu học sinh, sinh viên; 5 triệu lượt khách du lịch; 6 triệu người bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật, bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm sinh mạng cá nhân; trên ._.. Thông qua tuyên truyền quảng cáo mà mọi người biết được sự tồn tại của Bảo Việt trên thị trường cũng như các sản phẩm bảo hiểm công ty đang triển khai. Hơn nữa, quảng cáo trong bảo hiểm cũng là một biện pháp phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức của khách hàng về tác dụng của việc tham gia bảo hiểm. Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu việc tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo lại càng cần thiết hơn bao giờ hết khi mà tỷ lệ tham gia bảo hiểm hàng hoá trong nước còn thấp, thị trường bảo hiểm trong nước đang có sự cạnh tranh gay gắt. Hơn nữa bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không lại là một sản phẩm tuy đã có từ trước nhưng do doanh thu chưa cao nên chưa được đánh giá đúng mức. Vì vậy công tác tuyên truyền quảng cáo càng cần được chú trọng. Tại Bảo Việt, hoạt động tuyên truyền quảng cáo cũng được công ty để ý tới, song vẫn còn nghèo nàn và đơn điệu. Ngoài những biển quảng cáo chung về công ty được dựng trên một số đường phố, một vài dòng quảng cáo trên báo chí, còn trên truyền hình chủ yếu là quảng cáo cho các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ … thì công ty chưa có hình thức quảng cáo nào thật đặc sắc, gây được sự chú ý mạnh đối với mọi người. Trong khi đó, các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài quảng cáo rất rầm rộ thường xuyên và gây ấn tượng. Trước bối cảnh đó, thiết nghĩ Bảo Việt cần có biện pháp đầu tư thích đáng cho hoạt động này phải xác định được đầu tư cho quảng cáo là tốn kém nhưng tăng được doanh thu phí cho tương lai. Bảo Việt cần chú trọng quảng cáo tên công ty, các sản phẩm bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng. Hình thức quảng cáo nên áp dụng một cách phong phú, ấn tượng để thu hút khách hàng như pano, áp phích, tờ rơi, truyền hình, báo chí, … và phải tiến hành thường xuyên liên tục. Ngoài biểu tượng như hiện nay "Bảo Việt luôn có mặt khi bạn cần" … công ty nên sáng tác ra biểu tượng mới, ngắn gọn dễ nhớ, để lại ấn tượng mạnh với khách hàng. Như vậy trong hoạt động tuyên truyền quảng cáo, dù diễn ra theo hình thức nào cũng phải truyền tải được cho khách hàng về Bảo Việt, một công ty có khả năng tài chính lớn mạnh, hoạt động lâu năm, sự hoàn hảo về dịch vụ bảo hiểm, đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, từ đó tạo nên sự tin tưởng, thu hút khách hàng tham gia tại Bảo Việt. Bên cạnh dùng các phương tiện quảng cáo, cán bộ khai thác bảo hiểm trực tiếp có thể đảm nhận công tác này bằng cách xuống từng cơ sở thực hiện. Khả năng thuyết phục lôi cuốn hấp dẫn khách hàng của nhân viên khai thác bảo hiểm là một yếu tố quan trọng. Đôi khi sự hiểu biết của khách hàng về bảo hiểm gây khó khăn cho cả hai bên trong việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm, đặc biệt trong công tác bồi thường. Người cán bộ bảo hiểm khi tuyên truyền phải giải thích rõ ràng cho khách hàng về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu mà công ty mình đang cung cấp để dành được lòng tin của khách hàng, củng cố uy tín cho công ty. 1.4. Mở rộng mối quan hệ hợp tác Để có thể kí kết được hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không nói riêng thì cần phải có thông tin về nhu cầu bảo hiểm của khách hàng. Thu nguồn thông tin này có nhiều cách khác nhau trong đó có những thông tin từ những mối quan hệ, vì vậy, Bảo Việt phải tăng cường mở rộng mối quan hệ hợp tác của mình. Bảo Việt nói chung và phòng bảo hiểm Hàng hoá nói riêng phải tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan như Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ kế hoạch đầu tư, các ngân hàng, cơ quan Hải quan, cơ quan kiểm tra giám sát chất lượng hàng hoá và với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì quan trọng hơn cả là với các hãng hàng không, đặc biệt là hãng hàng không quốc gia Vietnam Airlines để tìm kiếm những thông tin kinh doanh. Có thể là kim ngạch xuất nhập khẩu, hạn ngạch xuất nhập khẩu của các đơn vị được phân cấp, hướng đầu tư, kế hoạch đầu tư hay chi tiết hơn là thông tin về các hợp đồng mua bán ngoại thương. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin có ích, các cơ quan này còn có thể giúp cho việc tuyên truyền quảng cáo, thuyết phục các doanh nghiệp, chủ đầu tư lựa chọn và tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt. Riêng với bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì do đặc điểm của hàng hoá là nhỏ lẻ hơn so với vận chuyển bằng đường biển, nhưng giá trị lại tương đối lớn; nên chăng Bảo Việt tạo được những đường dây thông tin với các doanh nghiệp đã, đang và sẽ có nhu cầu bảo hiểm cho những mặt hàng của mình. Như vậy việc khách hàng tham gia Bảo Việt sẽ được định hướng ngay từ đầu, vừa giúp cho công ty tăng doanh thu, vừa giúp cho khách hàng thuận lợi trong việc lựa chọn công ty bảo hiểm uy tín cho mình trong một thị trường mà các công ty đều cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Bên cạnh đó, Bảo Việt cần phải chủ động có biện pháp tích cực để triển khai có hiệu quả hơn các hợp đồng đại lý đã kí kết với các hãng hàng không, công ty giao nhận hàng, … tăng cường sự hợp tác chặt chẽ với chủ hàng, hãng hàng không để thực hiện mục tiêu lợi nhuận đã đề ra. Ngoài ra Bảo Việt nên tạo quan hệ tốt với các công ty môi giới bảo hiểm trong và ngoài nước, công ty giám định điều tra tổn thất có uy tín trên thế giới để học hỏi kinh nghiệm trong quá trình đánh giá rủi ro, giám định và xử lý khiếu nại. Điều này luôn cần thiết vì do đặc điểm của vận tải hàng không khác với đường biển, rủi ro tuy xảy ra không nhiều nhưng đã có tổn thất thì mức độ lại rất lớn và phức tạp đòi hỏi trình độ cao. Tình trạng số phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu mà các nhà bảo hiểm trong nước thu được quá thấp so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hiện nay dẫn đến tình trạng chúng ta đang bị "chảy máu" một lượng ngoại tệ không nhỏ. Điều này đòi hỏi giữa các nhà bảo hiểm, các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu và các nhà vận chuyển phải liên kết với nhau, để giành quyền lợi bảo hiểm về cho mình. Tức là Bảo Việt phải nghiên cứu để tìm ra một mô hình cụ thể thích hợp nhằm phối hợp một cách đồng bộ hoạt động ngoại thương, vận tải và bảo hiểm bằng cách liên doanh, liên kết hay lập các Hiệp hội hàng hải để thâu tóm được toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trong đó có bảo hiểm. 2. Những biện pháp về công tác nghiệp vụ 2.1. Về phí bảo hiểm và phương pháp chào phí Sản phẩm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không trên thị trường hiện nay là tương đối giống nhau về nội dung. Điều khác biệt giữa các công ty là áp dụng mức phí như thế nào, chất lượng dịch vụ ra sao. Thông thường ban đầu khách hàng thường hay quan tâm đến mức phí trước, dành ưu tiên cho công ty bảo hiểm nào có mức phí thấp nhất. Hiện nay phí của Bảo Việt so với các công ty khác là ngang bằng nhau, thậm chí có trường hợp còn thấp hơn. Trong tình trạng cạnh tranh như hiện nay, công ty phải thường xuyên nghiên cứu để đưa ra được mức phí hợp lý để làm sao vừa đảm bảo lợi ích khách hàng, vừa để khuyến khích khách hàng mua bảo hiểm, giữ vững thị phần, nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty, đảm bảo chi phí kinh doanh thấp. Muốn vậy khi xây dựng phí bảo hiểm công ty phải tính đến nhiều yếu tố tác động đến hành trình chuyên chở cũng như hàng hoá. Chẳng hạn, phí bảo hiểm có thể được xác định dựa trên cơ sở không gian và thời gian. Vì ở những thời gian khác nhau, do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu, phí bảo hiểm cũng khác nhau; ở những nơi khác nhau, các thị trường khác nhau thì đặc điểm khách hàng, thói quen tiêu dùng, thu nhập cũng khác nhau làm cho mức độ xảy ra sự cố cũng khác nhau. Khi áp dụng các mức phí thay đổi một cách linh hoạt, Bảo Việt sẽ có thể thích ứng với các vùng thị trường khác nhau, khai thác hiệu quả những thị trường tiềm năng. Với những khách hàng có phương thức thanh toán bằng tiền mặt hay chuyển khoản trả ngay một lần, Bảo Việt cũng cần tính mức phí thấp hơn thanh toán bằng séc hoặc trả dần. Hiện tại Bảo Việt có một biểu phí quy định sẵn ở dạng mở, đòi hỏi mỗi cán bộ bảo hiểm phải thật sự nhạy bén và linh động. Thông thường mức phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không xê dịch từ 0,35% á 0,4%, nhưng trên thực tế có trường hợp Bảo Việt chấp nhận với mức phí 0,3%, ngược lại có những đơn đòi hỏi mức phí tới 0,5%. Tùy từng loại khách hàng, tuỳ từng mặt hàng, khả năng xảy ra rủi ro, … mà đưa ra được mức phí cụ thể nào đó mà khách hàng chấp nhận được trong khả năng của mình. Như đối với trường hợp khách hàng gặp phải sự biến động của giá cả thị trường. Giá thị trường của lô hàng nhập về thấp hơn so với giá dự kiến, do đó, chủ hàng sẽ không thu được lợi nhuận cao. Trong khi đó họ vẫn phải bỏ ra những chi phí cố định khác như thuế nhập khẩu, cước phí vận chuyển không nhỏ của hàng không, … Phí bảo hiểm trong trường hợp này phải hạ hơn nhiều so với biểu phí nhằm mục đích giảm bớt chi phí cho chủ hàng, giúp chủ hàng cải thiện được tình hình kinh doanh. Tuy nhiên, việc đưa ra mức phí hạ hơn bình thường phải dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro tổn thất đối với lô hàng cụ thể đó. Đối với khách hàng thường xuyên và lâu năm, mức phí có thể thấp hơn hoặc có một số ưu đãi vì đây chính là những người mang lại kết quả kinh doanh tốt cho công ty. Cũng có thể trong trường hợp đối với những khách hàng mới, họ có ý định tham gia bảo hiểm và đã tham khảo một số biểu phí ở các công ty khác thì việc đưa ra mức phí có tính chất cạnh tranh là điều nên làm để thu hút được nhiều khách hàng đến với công ty. Bên cạnh đó phải tăng phí đối với những mặt hàng thường xuyên có tổn thất hay những mặt hàng mà Nhà nước không khuyến khích nhập khẩu, đối với hàng không chủ yếu là những mặt hàng xa xỉ phẩm, … Việc giảm phí so với đối thủ cạnh tranh trong một số trường hợp là một biện pháp chứa đựng nhiều rủi ro song lại là một trong những biện pháp tốt nhất để thu hút khách hàng, trên cơ sở "số đông bù số ít" mà vẫn đảm bảo kinh doanh có hiệu qủa. Điều này phải tính đến yếu tố đầu tư vốn. Ngày nay, với những thuận lợi trong việc đầu tư vốn, khả năng sinh lời cao, các doanh nghiệp bảo hiểm hầu như ít nhắm đến lãi từ hoạt động bảo hiểm gốc mà chú trọng lãi từ hoạt động đầu tư. Nếu có số phí thu ổn định, có thị trường đầu tư tốt thì dù phí có giảm chút ít so với đối thủ cạnh tranh nhưng sẽ tranh thủ được khách hàng và có lãi đem đầu tư. Đó là hướng đi đúng đắn để Bảo Việt trở thành một tập đoàn bảo hiểm hàng đầu ở Việt Nam. Mặt khác, do ở Việt Nam thuế VAT mới được áp dụng rộng rãi trong vài năm gần đây nên cán bộ bảo hiểm của Bảo Việt cũng phải có trách nhiệm giải thích cho những khách hàng không hiểu rõ về phần thuế VAT thu trên đơn bảo hiểm là thu hộ Nhà nước chứ không có đồng thời trong phần phí đó. Việc chào phí phải rõ ràng, khi đưa ra mức phí phải nói rõ là phí đã gồm VAT hay chưa. Tâm lý khách hàng bao giờ cũng muốn phí thấp, do đó, nên đưa cho khách hàng tỷ lệ phí chưa có thuế để tạo được sự hấp dẫn ngay từ ban đầu cho khách hàng. Quá trình chào phí đòi hỏi cán bộ khai thác của Bảo Việt phải thật khéo léo, làm sao cho khách hàng thấy mức phí mà công ty đưa ra là hợp lý nhất, phù hợp với giá cả thị trường để từ đó khách hàng lựa chọn Bảo Việt là nơi bảo hiểm cho lô hàng của mình. Để nâng cao kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì Bảo Việt cần phải tìm ra giải pháp hạn chế tình trạng nộp phí chậm, nợ đọng phí dây dưa như hiện nay. Đây là một vấn đề hết sức tế nhị, ảnh hưởng đến quan hệ của công ty với khách hàng, Bảo Việt cần hết sức khéo léo. Vì vậy, công ty nên quy định thời gian tối đa cho khách hàng nợ phí, nếu nợ quá thời hạn thì áp dụng biện pháp tính lãi suất với phần phí đó. Nếu nộp sớm thì được hưởng chiết khấu một phần nào đó. Làm như vậy khách hàng sẽ không cố tình kéo dài thời gian nợ phí nữa, công ty sẽ thu được phí đúng kế hoạch. 2.2. Nâng cao hiệu quả công tác giám định và bồi thường Việc tiến hành giám định và xét giải quyết bồi thường một cách nhanh chóng, chính xác và hợp lý là phương thức tốt nhất để tạo uy tín của Bảo Việt trên thị trường. Nhờ đó sẽ thu hút được khách hàng cũ tiếp tục hợp đồng mới với công ty, khách hàng mới mạnh dạn chọn Bảo Việt là nơi tham gia bảo hiểm. Vì vậy, để thúc đẩy nghiệp vụ này phải nâng cao hiệu quả của công tác giám định và bồi thường. Đầu tiên về mặt thủ tục, để phục vụ cho khách hàng tốt hơn thì công ty cần phải tập trung cải tiến quy trình trong khâu giám định và bồi thường để bớt những thủ tục hành chính gây phiền hà cho khách hàng. Công ty cần phải quy định thời gian đưa ra biên bản giám định, thời gian giải quyết khiếu nại bồi thường đối với những tổn thất thuộc trách nhiệm của phòng nghiệp vụ hay phòng trên phân cấp. Mặt khác, để nâng cao chất lượng công tác giám định - bồi thường đồng thời đảm bảo tiết kiệm chi phí về mọi mặt, công ty cần phải không ngừng đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ giám định, giảm việc phải thuê giám định viên từ các công ty giám định nước ngoài. Tổn thất đối với hàng hoá vận chuyển bằng đường hàng không thường không lớn bằng các phương tiện khác, nhưng khi có tổn thất đối với phương tiện vận chuyển thì việc xác định trách nhiệm là vô cùng khó khăn và phức tạp, do vậy đòi hỏi cán bộ giám định phải tìm hiểu và nghiên cứu kỹ, xác minh rõ các loại tổn thất và nguyên nhân gây ra. 2.3. Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Hoạt động này thực hiện tốt, một mặt hạn chế được tổn thất xảy ra, giảm chi bồi thường; một mặt tạo niềm tin cho khách hàng vào dịch vụ của công ty. Trong thời gian qua, hoạt động này cũng đã được Bảo Việt để tâm tới nhưng chi cho đề phòng và hạn chế tổn thất còn thấp, chỉ chiếm 0,01% doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nên chưa thực sự phát huy được hết tác dụng của nó. Trong thời gian tới Bảo Việt nên tăng chi cho hoạt động đề phòng và hạn chế tổn thất hơn nữa để có kinh phí mở rộng và chuyên sâu hơn hoạt động này. Bên cạnh đó, muốn nâng cao công tác này thì công ty phải phân công một phòng chuyên có trách nhiệm theo dõi, thống kê tổn thất để có nhận xét về những rủi ro dễ xảy ra, loại hàng hoá nào thường gặp rủi ro, nguyên nhân gây ra rủi ro để trên cơ sở đó đề ra biện pháp phòng ngừa cho cả mình và cho khách hàng. Với công ty, sẽ kiểm tra kỹ lưỡng hàng hoá, mức độ rủi ro xảy ra,… để xem có nên nhận bảo hiểm hay không. Với khách hàng, công ty sẽ tư vấn, tham mưu về các mặt để tổn thất xảy ra thấp nhất. Ngoài ra Bảo Việt nên mở các lớp bồi dưỡng cũng như các cuộc hội thảo về công tác đề phòng và hạn chế tổn thất cho khách hàng, cho các hãng vận tải có quan hệ truyền thống với công ty. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất là một công tác thể hiện chất lượng của dịch vụ bán hàng, Bảo Việt làm tốt công tác này sẽ hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động của mình cũng như không ngừng nâng cao uy tín của công ty trên thị trường bảo hiểm. 3. Những biện pháp về công tác cán bộ Bảo hiểm là một nghiệp vụ rất nhạy cảm với sự biến động của các điều kiện kinh tế xã hội, liên quan đến nhiều lĩnh vực trên một phạm vi rộng lớn bao gồm nhiều thông lệ, quy định của Nhà nước khác nhau. Vì vậy đòi hỏi các cán bộ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu không những phải có trình độ chuyên môn cao mà còn phải am hiểu về các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Đặc biệt phải có sự hiểu biết sâu sắc về hoạt động ngoại thương, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và có óc tìm tòi, phân tích dự đoán xu hướng biến động của nền kinh tế - xã hội khu vực và trên thế giới. Từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn, các kế hoạch phù hợp trong quá trình triển khi nghiệp vụ. Chính vì vậy, vai trò của yếu tố con người là rất quan trọng đòi hỏi trong thời gian tới Bảo Việt cần phải chú trọng hơn nữa công tác đào tạo và các chương trình đào tạo cần thiết để nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên. Mặc dù Bảo Việt đã xây dựng một trung tâm đào tạo nhưng bên cạnh đó cần phải tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ định kỳ cho cán bộ công nhân viên nhằm không ngừng đổi mới và phát triển phương thức kinh doanh của từng cá nhân, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng. Hơn nữa, khi có điều kiện, công ty nên gửi cán bộ đi dự các lớp đào tạo, hội thảo chuyên ngành ở nước ngoài để nắm bắt được những thông tin liên quan đến thị trường bảo hiểm thế giới. Về cán bộ khai thác bảo hiểm : cần phải nâng cao hơn nữa vai trò tư vấn của đội ngũ này. Cán bộ khai thác bảo hiểm cần am hiểu về thương phẩm cũng như về các điều khoản. Người làm công tác khai thác tư vấn cho khách hàng về các điều kiện bảo hiểm để khách hàng không phải trả những khoản phí bảo hiểm không cần thiết, và cũng được bồi thường với những rủi ro tương ứng trong trường hợp hàng hoá của họ bị tổn thất. Cán bộ khai thác bảo hiểm cũng cần có kiến thức về hàng hải để có thể tư vấn cho khách hàng loại tàu hay phương thức chuyên chở đối với từng loại hàng hoá để mức độ rủi ro là ít nhất. Các cán bộ khai thác bảo hiểm của Bảo Việt qua việc tư vấn của mình sẽ tạo được sự tin tưởng từ phía khách hàng, làm cho họ yên tâm hơn khi tham gia bảo hiểm hàng hoá tại Bảo Việt, lôi kéo một lượng khách hàng lớn hơn tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt. Đối với cán bộ làm công tác giám định thì phải đào tạo cho họ không chỉ kiến thức về vận tải mà còn cả về thương phẩm để có những đánh giá đúng khi xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Chất lượng công tác bồi thường ra sao phụ thuộc hoàn toàn vào biên bản giám định. Việc đòi người thứ ba cũng không thể có kết quả nếu biên bản giám định không xác định rõ nguyên nhân gây tổn thất. Đối với những cán bộ làm công tác bồi thường phải là những cán bộ giỏi chuyên môn, hiểu kỹ về các điều khoản bảo hiểm để có thể biết rủi ro có thuộc trách nhiệm bồi thường bảo hiểm hay không. Đây là yếu tố then chốt để bồi thường đúng. Có thể thiệt hại tổn thất là có thật nhưng nếu khách hàng không mua bảo hiểm rủi ro đó thì sẽ không được bồi thường. Ngược lại, phải bồi thường đầy đủ cho khách hàng nếu không sẽ dễ dẫn đến tranh chấp, ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Đối với đội ngũ cộng tác viên, đại lý Bảo Việt cũng cần phải có những chính sách đãi ngộ hợp lý, coi họ như những nhân viên làm công tác hỗ trợ hoạt động kinh doanh trong quá trình thực hiện. Mức hoa hồng thoả đáng, gia tăng theo hiệu quả công việc thực hiện là động lực thúc đẩy các cộng tác viên, đại lý tham gia tích cực vào công tác bảo hiểm của Bảo Việt. Tóm lại, đây là một công tác cần được chú trọng trong mọi thời kỳ, bên cạnh việc đào tạo cán bộ giỏi, phân công hợp lý, công ty cũng cần quan tâm tới chế độ đãi ngộ cho các cán bộ làm công tác bảo hiểm nói chung để tạo động lực cho họ hoàn thành tốt công việc, nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Bên cạnh những giải pháp trên, em xin đưa ra một vài kiến nghị chung sau đây với mong muốn thúc đẩy hơn nữa hoạt động của thị trường bảo hiểm hàng hoá bằng đường hàng không ở Việt Nam trong thời gian tới. III. Một số kiến nghị chung Những năm gần đây nền kinh tế nước ta nói chung và ngành hàng không dân dụng nói riêng đã có những bước phát triển cao và ổn định. Điều này làm cho vận tải hàng không trở nên quan trọng và thiết yếu hơn bao giờ hết, không chỉ đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách nữa mà còn đang từng bước cố gắng để đáp ứng nhu cầu về vận tải hàng hoá đang ngày một gia tăng. Định hướng này cũng phù hợp với nội dung phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước, mà trong đó ngành hàng không cũng một chiếm vị trí quan trọng " … điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta với đối tác. Chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp …" (Trích Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII); trong đó quán triệt các quan điểm "phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ hàng không …" cũng là một phần trong định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Hơn nữa, khi Việt Nam gia nhập vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 2006 và một số tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới thì tình hình cạnh tranh sẽ gay gắt hơn làm cho thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam ngày một sôi động. Nhất là hiện nay - khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được hai Quốc hội thông qua (T.10/2001), với những điều khoản về lộ trình mở cửa của thị trường bảo hiểm Việt Nam : "không hạn chế các công ty bảo hiểm Mỹ cung cấp các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài lao động tại Việt Nam, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm vận chuyển quốc tế, dịch vụ đánh giá rủi ro và xét giải quyết bồi thường…". Đây chính là những yếu tố quan trọng để phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không ở nước ta, để theo kịp với khu vực và thế giới - những nơi có ngành vận tải hàng không cũng như bảo hiểm phát triển. Bên cạnh đó, hiện nay tỷ lệ tham gia bảo hiểm hàng hoá trong nước còn rất thấp, hàng nhập khẩu chiếm khoảng hơn 20%, hàng xuất khẩu chiếm gần 5%. Hàng năm phí bảo hiểm hàng hoá phải chuyển ra nước ngoài cho các nhà bảo hiểm khoảng 70 triệu USD, đây là một điều rất lãng phí, làm thất thu ngân sách cho Nhà nước. Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới đòi hỏi phải có sự đổi mới, nỗ lực không ngừng không chỉ bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm mà của cả các cơ quan chức năng có liên quan, sự quan tâm chỉ đạo từ phía Nhà nước. 1. Đối với Bảo Việt nói riêng và các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước nói chung Trong những năm qua ngành bảo hiểm Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong việc khai thác khách hàng mới. Chất lượng phục vụ được nâng lên rõ rệt. Ngoài việc cung cấp sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm đã chủ động tăng cường tiếp cận khách hàng để tư vấn kỹ thuật chuyên môn, giúp khách hàng lựa chọn rủi ro tham gia bảo hiểm cho phù hợp và đạt hiệu quả. Tuy vậy, trong thời gian tới ngành bảo hiểm Việt Nam cần nâng cao năng lực bảo hiểm lên ngang tầm quốc tế (Hiện nay mới chỉ có Bảo Việt và Bảo Minh đạt tiêu chuẩn ISO 9000). Phải có chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ tinh thông kỹ thuật nghiệp vụ, am hiểu luật pháp quốc gia và quốc tế, có nghệ thuật giao tiếp ứng xử trước khách hàng; phải đa dạng hoá sản phẩm, khai thác triệt để thị trường trong nước; phải có chiến lược nâng cao năng lực tài chính của các công ty bảo hiểm để các công ty bảo hiểm Việt Nam có khả năng kí các hợp đồng bảo hiểm cho những tài sản có giá trị lớn. Đối với các công ty bảo hiểm nhỏ, cần mạnh dạn sáp nhập lại thành các công ty lớn. Nhà nước cần tăng cường cung cấp vốn cho Bảo Việt để nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty với các công ty bảo hiểm nước ngoài, tạo uy tín với các công ty xuất nhập khẩu nước ngoài khi họ kí hợp đồng bảo hiểm với ta. 2. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng trong việc định hướng cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không nói riêng thông qua những chính sách về bảo hiểm cũng như về ngành hàng không. Chính phủ cần có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích các công ty xuất nhập khẩu kí kết hợp đồng theo điều kiện xuất khẩu CIF, nhập khẩu FOB như : giảm thuế xuất nhập khẩu cho chủ hàng nào tham gia bảo hiểm tại Việt Nam, hoặc giảm thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng, giảm thủ tục hải quan, hoặc chủ hàng được giao hạn ngạch xuất nhập khẩu cao hơn so với những chủ hàng không tham gia bảo hiểm tại Việt Nam …Điều kiện giao hàng có tác dụng chủ yếu phân định trách nhiệm giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại, còn ý nghĩa kinh tế không rõ ràng. Với các chính sách ưu đãi trên, các công ty xuất nhập khẩu sẽ chủ động hơn trong đàm phán, kí kết, thực hiện phương thức xuất nhập khẩu theo điều kiện có lợi nhất tạo cơ sở nâng cao tỷ trọng hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước, đồng thời thúc đẩy ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển. Mặc dù Luật kinh doanh bảo hiểm đã ra đời (có hiệu lực từ 1/4/2001) tại điều 6 quy định "Mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam". Nhưng hiện nay tính hiệu lực của quy định này vẫn chưa thực sự phát huy tác dụng, Nhà nước sớm có Nghị định hướng dẫn thi hành một cách chi tiết hơn nữa, sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Mặt khác, sau Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và trong thời gian chuẩn bị gia nhập vào AFTA năm 2006, để giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm đứng vững trong cạnh tranh thì Nhà nước ta nên mở cửa thị trường bảo hiểm một cách từ từ. Tiếp tục chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước, duy trì vai trò chủ đạo trên thị trường bảo hiểm, thông qua các chính sách về tài chính, đào tạo và phát triển công nghệ bảo hiểm. Để tránh tình trạng đua nhau hạ phí nhằm giành giật khách hàng như hiện nay, thì các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm mà trực tiếp là Vụ quản lý bảo hiểm thuộc Bộ Tài chính phải xây dựng hành lang biểu phí cụ thể, thống nhất hoặc quy định mức phí trần và sàn hợp lý. Các công ty bảo hiểm nếu muốn thay đổi biểu phí của mình thì cần phải trình cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chuẩn y trước khi thực hiện. Cần xem xét lại mức thuế suất VAT đối với doanh nghiệp bảo hiểm (vì mức 10% là quá cao so với thuế suất thuế doanh thu trước kia có 4%). Đồng thời cũng nên nghiên cứu lại việc đánh thuế VAT cho phần doanh thu nhượng tái (hiện nay các doanh nghiệp bảo hiểm cho rằng đây là việc đánh thuế chồng lên thuế). Tháng 12/2000 các doanh nghiệp bảo hiểm trong đó có Bảo Việt đã thông qua Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam thống nhất thoả thuận "Quy chế hợp tác trong lĩnh vực khai thác bảo hiểm phi nhân thọ và một số lĩnh vực khác giữa các doanh nghiệp hội viên Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam". Quy chế này đã được áp dụng vào thực tiễn nhưng hiệu quả chưa cao, đặc biệt là đối với các nghiệp vụ bảo hiểm mang tính đối ngoại như bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Vì vậy, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, với chức năng của mình nên đưa ra một bản thoả thuận và hợp tác cụ thể hơn nữa trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu để tránh tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm trong nước, đoàn kết với nhau để cạnh tranh với các công ty bảo hiểm nước ngoài. 3. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Cần nhanh chóng thay đổi tập quán thương mại, thay đổi phương thức xuất nhập khẩu để tham gia bảo hiểm ở thị trường trong nước. Điều này, xét về toàn cục có lợi cho nền kinh tế quốc dân do đã tạo cơ hội cho ngành bảo hiểm và vận tải hàng không phát triển. Và chính sự phát triển của hai ngành này có tác động ngược trở lại góp phần mở rộng không ngừng hoạt động kinh tế đối ngoại. Sự phối hợp hỗ trợ nhau cùng phát triển của ba lĩnh vực xuất nhập khẩu, bảo hiểm và vận tải có một ý nghĩa quan trọng. Sẽ là rất khó cho hoạt động xuất nhập khẩu nếu ngành bảo hiểm và vận tải kém phát triển (điều này được minh chứng bằng kim ngạch bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không còn thấp khi vận tải hàng không chưa phát triển), ngành bảo hiểm và vận tải cũng không thể phát triển mạnh được trong điều kiện kim ngạch xuất nhập khẩu thấp. Tóm lại, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt nền kinh tế nước ta trước những thời cơ mới và thách thức mới. Trong bối cảnh đó, ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng không nói riêng cần chủ động hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm bảo hiểm, tăng cường tiềm lực tài chính … để hội nhập thành công và cạnh tranh có hiệu quả với các công ty bảo hiểm nước ngoài, tạo cơ sở nâng cao tỷ trọng kim ngạch bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước. Trên đây là một số ý kiến nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không nói riêng tại Bảo Việt. Các khâu trong nghiệp vụ này luôn tác động xen kẽ với nhau. Vì vậy, chỉ cần thực hiện tố một khâu nào đó trong nghiệp vụ này thì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các khâu khác. Hy vọng trong thời gian tới Bảo Việt sẽ có những đổi mới, hoàn thiện hơn trong tất cả các khâu, từ đó đứng vững trong cạnh tranh, tăng thị phần bảo hiểm, nâng cao doanh thu phí và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá ngày càng phát triển hơn. kết luận --&œ-- Thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không ở Việt Nam là một thị trường rất mới mẻ và đang trở lên sôi động trong thời gian gần đây. Tại Bảo Việt, một công ty bảo hiểm hàng đầu tại Việt Nam thì nghiệp vụ này đã và đang được triển khai và doanh thu bước đầu đã có sự tăng trưởng qua các năm. Tuy nhiên, những kết quả đạt được của nghiệp vụ vẫn chưa tương xứng với khả năng của Bảo Việt trước một thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vẫn còn ở dạng tiềm năng, chưa khai thác. Trong thời gian sắp tới, khi Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế ở khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện cho sự phát triển của lĩnh vực ngoại thương thì tiềm năng của thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không còn lớn hơn rất nhiều. Đồng thời lúc đó các tập đoàn bảo hiểm nước ngoài sẽ có nhiều cơ hội hơn để thâm nhập sâu vào thị trường bảo hiểm trong nước, vì thế sẽ làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Do vậy, ngay từ bây giờ Bảo Việt cần phải tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng phục vụ và hiệu quả kinh doanh từ khâu khai thác, giám định đến khâu giải quyết khiếu nại, bồi thường tổn thất. Khoá luận "Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt" được tổng hợp dựa trên những lý thuyết đã học trong trường đại học, các tài liệu về tình hình kinh doanh ở Bảo Việt. Bên cạnh đó, em cũng xin mạnh dạn nêu một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Bảo Việt trong nghiệp vụ này cùng những kiến nghị với Nhà nước. Hy vọng rằng, bước vào thế kỷ mới, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam nói riêng và toàn ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung sẽ bắt kịp và hoà nhập vào thị trường bảo hiểm sôi động của thế giới. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3852.doc
Tài liệu liên quan