Bảo hiểm giai đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999 - 2003)

PHẦN MỞ ĐẦU Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN , nền kinh tế nước ta có sự biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ. Hoà chung với xu thế đó, hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng phát triển hết sức sôi động. Trên thị trường bảo hiểm hiện nay đã xuất hiện nhiều nghiệp vụ bảo hiểm mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của người tham gia bảo hiểm. Một trong số những nghiệp vụ mới phải kể tới n

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Bảo hiểm giai đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999 - 2003), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng - một trong những nghiệp vụ bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu những hậu quả ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định - phát triển kinh tế. Ở Việt Nam hiện nay, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tuy không còn xa lạ nhưng để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý luận và thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này cho phù hợp với điều kiện Việt Nam không phải là điều đơn giản. Trong thời gian thực tập tại phòng Marketing thuộc công ty bảo hiểm Hà Nội, được tiếp xúc với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, em nhận thấy đây là một nghiệp vụ mới mẻ nhưng có tiềm năng không nhỏ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Song, quá trình triển khai nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà Nội còn gặp khá nhiều khó khăn. Với mong muốn, hệ thống hoá các nguyên tắc lý luận được áp dụng trong loại hình bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, cũng như được tìm hiểu nghiên cứu tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm này. Chính vì vậy em chọn “ Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003) ” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình. Kết cấu chuyên đề thực tập, ngoài phần mở đầu và phần kết luận gồm có 3 chương: Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Chương II: Thực tiễn triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1999-2003 Chương III : Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội. Mặc dù rất cố gắng nhưng do thời gian eo hẹp và trình độ nghiên cứu có hạn nên chuyên đề thực tập này không tránh khỏi những khiếm khuyết trong biên tập cũng như trong trình bầy. Rất mong nhận được sự đóng góp ý và phê bình từ phía các thày cô và những ai quan tâm đến đề tài này để luận văn này được hoàn thiện hơn. Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY 1.1. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Bảo hiểm là một hoạt động tài chính, có tính chất chuyên ngành mà thông qua hoạt động này các cá nhân và tổ chức kinh tế xã hội cùng tham gia đóng góp một khoản tiền nhất định để tạo lập nên quỹ bảo hiểm. Khi không may gặp rủi ro, tổn thất ngoài mong đợi của các thành viên thì lúc đó quỹ bảo hiểm mới phát huy tác dụng của nó là giúp đỡ các thành viên nhanh chóng ổn định hoạt động sản xuất cũng như đời sống, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh một cách bình thường. Ngày nay, hoạt động bảo hiểm được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của các tổ chức bảo hiểm. Hoả hoạn là một rủi ro mang tính chất thảm hoạ, nó có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, hậu quả của nó gây ra thường rất nặng nề và kéo dài trong nhiều năm. Theo số liệu thống kê, hàng năm trên thế giới trung bình có khoảng 5 triệu vụ hoả hoạn, gây thiệt hại ước tính hơn 600 tỷ USD. Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm, chúng ta thấy bảo hiểm có từ rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại. Ở buổi sơ khai, khi mới hình thành nghiệp vụ bảo hiểm không phong phú và đa dạng như hiện nay. Xã hội ngày càng phát triển, hoạt động kinh doanh ngày càng mở rộng dần dần nảy sinh nhiều nhu cầu bảo hiểm mới. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một trong số những nghiệp vụ bảo hiểm mới đó. Nếu so nghiệp vụ bảo hiểm này với các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải hay bảo hiểm cháy thì bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy ra đời muộn hơn rất nhiều. Vào những năm đầu của thế kỷ 20, mặc dù chịu sự thúc ép từ phía chính phủ và yêu cầu của các nhà sản xuất nhưng các công ty bảo hiểm của Anh vẫn chưa tiến hành bất cứ loại hình bảo hiểm “tổn thất hiệu quả nào”. Có sự chậm trễ này là do tính phức tạp trong việc phân tích các chi phí tài chính, xác định phạm vi bảo hiểm trong điều kiện kinh tế chính trị chưa ổn định. Sau đó, với sự ra đời của hai nguyên tắc Herry Booth & Commircial Union (1923) và PolikoffLtd vs North British and Mercantile (1836) mới thực sự đặt nền móng cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng hình thành và phát triển. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh còn được biết đến dưới tên gọi khác là “Bảo hiểm mất lợi nhuận” hay “tổn thất hậu quả”, mục đích của nghiệp vụ bảo hiểm này là bồi thường cho người được bảo hiểm đối với trường hợp mất lợi nhuận do doanh thu giảm và chi phí hoạt động gia tăng do hoạt động kinh doanh bị ngừng trệ do hậu quả của một rủi ro hoả hoạn. Tổn thất này thường phát sinh sau một khiếu nại thiệt hại về tài sản do cháy hay do một số rủi ro đặc biệt khác.Trong thực tế, khi một doanh nghiệp không may gặp phải rủi ro hoả hoạn thì doanh nghiệp không những phải gánh chịu những thiệt hại về mặt vật chất mà còn gánh chịu những thiệt hại mang tính chất hậu quả như chi phí hoạt động gia tăng, chi phí trả lương, trả tiền thuê nhà xưởng… Ngoài ra doanh nghiệp còn bị tổn thất do lợi nhuận thuần dự kiến thu được đã bị giảm hoặc mất. Đối với thiệt hại vật chất trực tiếp, doanh nghiệp có thể khắc phục thông qua việc mưa bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt cho tài sản,với số tiền bồi thường nhận được từ phía bảo hiểm, người được bảo hiểm có đủ tài chính để phục hồi cơ sở hạ tầng, sửa chữa, mua lại các máy móc trang thiết bị… phục vụ cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt không chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại gián tiếp - những thiệt hại mang tính hậu quả - trong khi doanh nghiệp lại có nhu cầu được bảo đảm trước các tổn thất này. Do đó, việc xuất hiện bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là một nhu cầu tất yếu khách quan. Mặc dù, “mầm mống” ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh xuất hiện từ những năm 1923 nhưng phải đến năm 1985 giao dịch bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đầu tiên mới xuất hiện tại Uỷ ban tổn thất hậu quả (một bộ phận của Uỷ ban bảo hiểm hoả hoạn ở Anh). Đây là nơi đánh giấu sự ra đời bản mẫu đơn bảo hiểm đầu tiên về đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Mẫu đơn này đã được thông qua và được sử dụng ở một số nước Tây Âu. Vào tháng 10/1989, Hiệp hội các nhà bảo hiểm London ( ABI ) đã xem xét lại mẫu đơn này trên cơ sở thống nhất lại phạm vi bảo hiểm và sau đó chính thức phát hành. Từ đó đến nay, hầu hết các quốc gia đều áp dụng theo mẫu đơn đó. Ngày nay, ở các nước phát triển, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng đã không còn xa lạ, góp phần đắc lực vào việc ổn định tâm lý cũng như an toàn sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Ở Việt Nam nghiệp vụ bảo hiểm này mới được triển khai từ 1994, trên cơ sở mẫu đơn bảo hiểm của Anh (ABI). Tuy mới triển khai, nhưng nghiệp vụ bảo hiểm này đã bước đầu khẳng định được vai trò, tiềm năng cũng như ưu điểm không thua kém gì các nghiệp vụ “đàn anh đàn chị khác”. Trong vài năm trở lại đây, nghiệp vụ này đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà bảo hiểm. Năm 1997 tại Hà Nội đã diễn ra hội thảo bảo hiểm ngừng trệ kinh doanh do Muniche và Vina Re đồng tổ chức. Từ đó đến nay, hàng năm các công ty bảo hiểm đều liên kết với nhau tổ chức hội thảo đề cập tới vấn đề này. 1.2. Tác dụng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 1.2.1. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là “lá chắn kinh tế” của các doanh nghiệp góp phần giảm thiểu những hậu quả của các rủi ro đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mặc dù con người đã chú ý đề phòng hạn chế rủi ro nhưng rủi ro vẫn xảy ra ở bất kì đâu, bất kì lúc nào không ai có thể lường trước được. Các rủi ro đã và đang không chỉ gây lên những tổn thất thiệt hại về tài sản tính mạng con người mà còn làm gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoả hoạn là một trong những rủi ro gây thiệt hại ghê gớm cho con người. Hoả hoạn xảy ra do nhiều nguyên nhân, các nguyên nhân gây cháy có thể là do sơ xuất khi dùng lửa, do vi phạm nội quy an toàn phòng cháy, do nghịch ngợm của trẻ hay do các sự cố về điện … Phần lớn các nguyên nhân dẫn đến hoả hoạn là do sơ suất hay bất cẩn của con người. Hoả hoạn không chỉ gây thiệt hại mang tính thảm hoạ về tài sản, mà còn ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều thành tựu khoa học công nghệ đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất kinh doanh, điều này làm cho qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng mở rộng, giá trị tài sản của doanh nghiệp ngày càng lớn. Nếu chẳng may xảy ra hoả hoạn thì hậu quả thường rất lớn và để lại ảnh hưởng lâu dài không chỉ với chính doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới cả những cá nhân, doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên với doanh nghiệp. Để khắc phục những tổn thất này, doanh nghiệp thường áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để bù đắp những tổn thất đó, vay ngân hàng và vay của các tổ chức tín dụng khác là một trong những biện pháp khá phổ biến, song biện pháp này lại có bất lợi lớn là mang lại gánh nặng nợ nần cho doanh nghiệp về lâu dài điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc phục hồi sản xuất. Nhưng có thể nói rằng ngoài biện pháp hiện nay đang được áp dụng rộng rãi, hiệu quả là tham gia bảo hiểm thì hầu hết các biện pháp còn lại đều chỉ là các biện pháp thụ động. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm đó. Sự ra đời của các công ty bảo hiểm đã giúp các đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định tình hình sản xuất, đảm bảo công việc kinh doanh được tiến hành bình thường. Thông qua việc bồi thường một cách kịp thời, chính xác bảo hiểm đã giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng khắc phục được hậu quả thiệt hại . Bên cạnh đó, với sự chuyển đổi của cơ chế quản lý, việc Nhà nước đã chủ động giao vốn cho các doanh nghiệp nhà nước. Theo đó các doanh nghiệp Nhà nước không còn nhận được nhiều sự hỗ trợ của Nhà nước như trong thời bao cấp, vì thế việc bảo toàn và phát triển vốn đối với các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn trước. Nếu có thiệt hại gây ra bởi các rủi ro đặc biệt là những rủi ro các công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai hay với các loại hình tương tự. Vì vậy, bảo hiểm thực sự là “lá chắn kinh tế” giúp các doanh nghiệp bảo toàn vốn khi không may gặp phải rủi ro. Trên thực tế, sau khi gặp bất cứ rủi ro nào ví dụ như rủi ro hoả hoạn thường thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể tiến hành bình thường như kế hoạch đã định. Phần thiệt hại vật chất sẽ được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt, nhưng hoả hoạn xảy ra không chỉ gây thiệt hại về mặt vật chất mà nó còn có ảnh hưởng hậu quả lâu dài đến hoạt động sản xuất kinh doanh, do vậy còn rất nhiều khoản tổn thất khác không được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm tổn thất vật chất. Để đối phó với tình huống doanh nghiệp có thể bị phá sản hay lâm vào tình huống tài chính khó khăn khi phải đối mặt với những tổn thất đó, tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mà cụ thể ở đây là bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là cách tốt nhất để bù đắp phần thiệt hại này. Khi tham gia loại hình bảo hiểm này, trong trường hợp xảy ra tổn thất, doanh nghiệp không những được bồi thường những hoạt động gia tăng nhằm duy trì hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp còn được bồi thường phần lợi nhuận ròng đáng ra họ có thể thu được nếu không xảy ra hoả hoạn. Như vậy, cùng với đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy đã góp phần làm hạn chế đến mức tối thiểu những hậu quả ảnh hưởng của hoả hoạn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thực sự là “lá chắn kinh tế” giúp các doanh nghiệp nhanh chóng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh khi không may gặp phải rủi ro hoả hoạn. 1.2.2. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy góp phần mang lại sự an toàn trong xã hội, giảm thiểu rủi ro. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, nước ta đã và đang thu hút được lượng lớn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Các nhà đầu tư, vì mục đích kinh doanh của mình luôn quan tâm đến việc bảo toàn vốn, làm sao có thể tránh được các rủi ro đáng tiếc xảy ra với đồng vốn của họ. Song, trong hoạt động sản xuất kinh doanh thường chứa đựng nhiều rủi ro mang tính ngẫu nhiên bất ngờ có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất kỳ lúc nào mà không ai có thể lường trước được. Các công ty bảo hiểm là các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở xử lý, chuyển giao và phân tán rủi ro, vì vậy để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thu được hiệu quả cao nhất có thể, các doanh nghiệp bảo hiểm luôn tìm cách giảm thiểu xác suất cũng như mức độ tổn thất của rủi ro. Một biện pháp mà các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đang áp dụng rất hiệu quả là biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Hàng năm, trên cơ sở số phí thu được, doanh nghiệp bảo hiểm thường trích ra một khoản theo tỷ lệ nhất định trên cơ sở nguồn phí thu được để chi cho công tác này. Ở Bảo Việt Hà Nội tỷ lệ này tính cho tất cả các nghiệp vụ là 0.37% phí thu. Phí thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tất yếu cũng sẽ góp một phần trong đó. Vì vậy có thể nói, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn trật tự, an ninh, an toàn xã hội cũng như tạo tâm lý an tâm trong sản xuất kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp. 1.2.3. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy góp phần làm tăng thu cho ngân sách nhà nước. Không những thế, phần phí tạm thời nhàn rỗi thu được từ các hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tạo ra nguồn vốn lớn để phát triển kinh tế thông qua hoạt động đầu tư . Trên đây là một vài minh chứng cho sự cần thiết khách quan của việc tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. II. NHỮNG NỘi DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY 2.1. Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy bảo hiểm cho các tổn thất mất giảm thu nhập thực tế và tiềm năng cũng như các chi phí hoạt động gia tăng phát sinh từ hậu quả tổn thất vật chất khi không may xảy ra hoả hoạn. Nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy mang một số đặc điểm khác biệt so với các loại hình bảo hiểm khác: 2.1.1. Đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là đối tượng vô hình. Khi xảy ra rủi ro hoả hoạn, doanh nghiệp phải gánh chịu những thiệt hại vật chất trực tiếp do cháy như: nhà xưởng, hàng hoá, máy móc trang thiết bị bị phá huỷ. Phần thiệt hại về tài sản, doanh nghiệp có thể khắc phục thông qua việc tham gia bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. Nhưng, bên cạnh những thiệt hại về vật chất thì chủ doanh nghiệp còn phải gánh chịu những tổn thất hậu về kinh doanh khác như: mất lợi nhuận, mất khả năng kinh doanh trong một khoảng thời gian nhất định. Không những thế, anh ta còn phải chịu những chi phí khác như: chi phí thuê nhà tạm, tiền trả cho công nhân viên làm ngoài giờ, lãi suất ngân hàng… mặc dù không thực hiện sản xuất kinh doanh. Hay nói khác đi, tuỳ vào mức độ thiệt hại gây ra, mà hoạt động sản xuất kinh doanh của người được bảo hiểm sẽ bị ngưng trệ hay giảm sút. Chúng ta hãy cùng xem xét một ví dụ dưới đây: T12 T12 T3 T6 T9 Cháy Doanh thu (Nguồn: hình 4.1-4/7-112) Thời kỳ xây dựng lại Hình trên miêu tả tổn thất doanh thu có thể xảy ra sau một vụ cháy nghiêm trọng. Cần chú ý rằng doanh thu của doanh nghiệp sẽ chỉ trở lại bình thường sau 9 tháng kể từ khi có vụ cháy xảy ra mặc dù công việc xây dựng lại chỉ mất 3 tháng. Có tình huống này là do nguyên nhân một số khách hàng không chắc chắn được liệu công ty có tiếp tục kinh doanh nữa hay không và nếu khách hàng có thể dễ dàng tìm được hàng hoá đó từ các đối thủ cạnh tranh khác thì thời gian phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ kéo dài hơn. Không giống như thiệt hại về mặt vật chất, thiệt hại mà nhà kinh doanh phải gánh chịu trong trường hợp gián đoạn kinh doanh là rất trừu tượng và chỉ có thể được xác định trong tương lai, tại thời điểm doanh nghiệp của người được bảo hiểm trở lại tình trạng tài chính như trước khi tổn thất xảy ra. Tóm lại, đối tượng của bảo hiểm kinh gián đoạn kinh doanh là đối tượng vô hình. Trong biểu đồ trên, người ta giả định một doanh thu tĩnh song thực tế, có rất nhiều ngành nghề biến động theo mùa, yếu tố này cần được xem xét khi giải quyết bất kỳ khiếu nại nào. Vì vậy trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung và trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng thường nêu rõ công thức sẽ được sử dụng khi giải quyết bồi thường 2.1.2. Thời hạn bồi thường. Một đặc trưng cơ bản của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là người được bảo hiểm được chọn một thời hạn bồi thường. Thời hạn bồi thường được định nghĩa: “Thời hạn bồi thường là khoảng thời gian mà trong suốt khoảng thời gian đó kết qủa kinh doanh bị ảnh hưởng do hậu qủa của hoả hoạn được bắt đầu từ ngày xảy ra hoả hoạn và không kéo dài quá thời hạn bồi thường tối đa do người được bảo hiểm lựa chọn”. Thời hạn bồi thường tối đa là giai đoạn mà theo tính toán của người được bảo hiểm sẽ đủ để người đó khôi phục lại kinh doanh, hoàn toàn khôi phục lại khả năng hoạt động và doanh thu kể cả khi xảy ra vụ hoả hoạn nghiêm trọng nhất. Không giống với thời hạn bảo hiểm, thời hạn bồi thường được tính từ ngày bắt đầu xảy ra rủi ro hoả hoạn ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của người được bảo hiểm tại địa điểm được bảo hiểm. Nếu tại một thời điểm chưa hết thời hạn bồi thường tối đa mà quả kinh doanh của doanh nghiệp được khôi phục thì thời hạn bồi thường cũng chấm tại thời điểm đó. Và ngược lại, nếu đến hết thời hạn bồi thường tối đa mà kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn chưa đạt được mức dự kiến thì thời hạn bồi thường cũng không vượt quá thời hạn bồi thường tối đa được xác định trước. Người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm về bất cứ khoản tổn thất doanh thu nào xảy ra sau thời hạn đó. Thời hạn bồi thường có thể là 6 tuần, 8 tuần, 10 tuần hay kéo dài cả thời hạn bồi thường tối đa. Người được bảo hiểm phải cân nhắc kĩ lưỡng khi lựa chọn thời hạn bồi thường tối đa. Bởi, thời hạn bồi thường tối đa không chỉ ảnh hưởng tới phạm vi bảo hiểm tối đa mà còn ảnh hưởng tới số tiền bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm. Do trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy số tiền bảo hiểm là số lợi nhuận gộp ước tính lẽ ra thu được trong thời hạn đó. Nếu thời hạn bồi thường tối đa kéo dài thì số tiền bảo hiểm càng lớn và tỷ lệ phí bảo hiểm càng nhỏ vì kết quả hoạt động kinh doanh sẽ được khôi phục dần theo thời gian đó, khi đó mức độ giảm doanh thu sẽ bớt nghiêm trọng, hay số tiền mất lợi nhuận bình quân cho cả thời hạn bồi thường tối đa sẽ thấp và ngược lại nếu thời hạn bồi thường tối đa ngắn thì số tiền mất lợi nhuận bình quân cho cả thời hạn bồi thường sẽ cao. Thời hạn bồi thường tối đa thường được lựa chọn là 12 tháng 18 tháng hay nhiều hơn, ít khi thời hạn này được chọn dưới 12 tháng bởi khoảng thời gian đó không đủ dài để người được bảo hiểm trở lại vị trí tài chính đáng ra doanh nghiệp sẽ đạt được nếu không xảy ra hoả hoạn. Xét tiếp ví dụ trên ta thấy, việc lựa chọn thời hạn bồi thường tối đa dưới 12 tháng không chỉ dẫn đến tình huống người được bảo hiểm không thoả mãn với kết quả bồi thường, mà còn là nguyên nhân dẫn đến tranh cãi giữa hai bên khi giải quyết bồi thường. Thời hạn bồi thường tối đa sẽ được ghi rõ trong phụ lục của hợp đồng . Thời hạn bồi thường tối đa phụ thuộc vào một số yếu tố sau : Sự sẵn có của các loại tài sản thay thế. Thời gian sửa chữa –xây dựng lại các tài sản bị thiệt hại bao gồm cả thời gian thu dọn hiện trường, thời gian lên kế hoạch, thời gian thiết kế và thời gian xin các loại giấy phép. Mức độ sẵn có của nguyên vật liệu. Thời gian sửa chữa lắp đặt máy móc thiết trang thiết bị. Khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường của các đối thủ cạnh tranh kéo dài hơn. Thời gian giành lại khách hàng sau khi hoạt động kinh doanh được khôi phục hoàn toàn. Đặc điểm mùa vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là một yếu tố quan trọng khi quyết định thời hạn bồi thường tối đa.Ví dụ như một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh hàng hoá phục vụ giáng sinh có đặc điểm là hoạt động kinh doanh không diễn ra đều đặn trong cả năm mà phần lớn doanh thu của doanh nghiệp thu được trong trong một vài tháng trước lễ giáng sinh. Giả sử không may xảy ra một vụ hoả hoạn vào thời điểm gần kết thúc mùa kinh doanh, khi đó nếu thời hạn bồi thường tối đa được lựa chọn là dưới 12 tháng thì sẽ không đủ dài để đưa người được bảo hiểm về vị trí tài chính lẽ ra họ có nếu không xảy ra hoả hoạn. Thời gian tuyển và đào tạo nhân viên mới. Thời hạn bảo hiểm của đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy có thể trùng với thời hạn bảo hiểm của đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt hoặc bắt đầu sau khi hợp đồng bảo hiểm tổn thất vật chất có hiệu lực nhưng phải không kéo dài quá thời điểm kết thúc của hợp đồng bảo hiểm đó. Còn thời hạn bồi thường bắt đầu từ ngày xảy ra hoả hoạn trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kéo dài cho đến khi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được khôi phục hoàn toàn mà không quan tâm đến việc hợp đồng có tiếp tục tái tụng hay không 2.1.3. Rủi ro được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy trừ những trường hợp loại trừ phải trùng khớp với rủi ro trong đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. Điều kiện tiên quyết để người được bảo hiểm có quyền đòi bồi thường theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là “tại thời điểm xảy ra hoả hoạn, các thiệt hại vật chất của tài sản được bảo hiểm tại địa điểm được bảo hiểm phải được bảo vệ bởi đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt”. Việc đảm bảo có đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt trước khi giao kết hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là cực kì quan trọng bởi: Khi hoả hoạn xảy ra dẫn đến thiệt hại về tài sản được bảo hiểm của người tham gia tại địa điểm bảo hiểm, thì đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt sẽ nhanh chóng bồi thường phần thiệt hại vật chất. Do đó, người được bảo hiểm có thể nhanh chóng phục hồi những thiệt hại đó. Điều này có giúp tối thiểu hoá thiệt hại gián đoạn kinh doanh. Đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt là điều kiện cần để đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy được giao kết. Không những thế, đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt sẽ thực hiện các khâu công việc như điều tra nguyên nhân gây ra tổn thất, xác định trách nhiệm bồi thường khi phát sinh khiếu nại bồi thường. Nếu bên phía bảo hiểm vất chất quyết định chấp thuận bồi thường thì phía bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cũng tự động chấp thuận bồi thường. Điều này không chỉ có lợi cho phía bảo hiểm mà còn có lợi cho cả bênn tham gia bảo hiểm vì việc điều tra, giám định tổn thất chỉ phải tiến hành một lần, giúp tiết kiệm thời gian và tiền cho cả hai bên. Theo đó, người ta không xét tới yếu tố doanh nghiệp tham gia đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt đầy đủ hay không mà chỉ nhấn mạnh cần phải sự bảo vệ của đơn bảo hiểm tổn thất vật chất đối với tài sản được bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, trừ những trường hợp loại trừ, phải trùng khớp với rủi ro trong bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. 2.2. Nội dung cơ bản trong hợp động bảo hiểm nói chung và trong hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng. 2.2.1. Hợp đồng bảo hiểm. 2.2.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là một thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. 2.2.1.2. Điều kiện pháp lý trong hợp đồng bảo hiểm. Có hai loại điều kiện được áp dụng cho hợp đồng bảo hiểm, đó là: Điều kiện ngầm định. Điều kiện rõ ràng. a. Điều kiện ngầm định : Trong thực tế, có những điều kiện ngầm định không được thể hiện bằng văn bản nhưng hai bên phải luôn tuân thủ trong thời hạn hiệu lực hợp động. Trong trường hợp các điều kiện này không được tuân thủ, tính hợp lệ của hợp đồng sẽ không được đảm bảo. Các điều kiện ngầm định trong hợp đồng bảo hiểm gồm có: * Quyền lợi được bảo hiểm: Giống như luật bảo hiểm của nhiều nước trên thế giới, trong luật bảo hiểm Việt Nam có quy định rõ về quyền lợi được bảo hiểm. Theo đó, để có đủ năng lực pháp lý tham gia vào hợp đồng bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm phải là người có quyền lợi khi đối tượng bảo hiểm bị thiệt hại. Điều đó có nghĩa là đối tượng bảo hiểm, đặc biệt là tài sản phải thuộc quyền sử dụng, quyền sở hữu hay quyền quản lý hợp pháp của người tham gia bảo hiểm. * Trung thực tuyệt đối: Điều kiện “Trung thực tuyệt đối” được áp dụng trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm giữa người bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm. Điều này có nghĩa, người tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm trả lời trung thực và đầy đủ tất cả các câu hỏi của người bảo hiểm trong phạm vi kiến thức và sự hiểu biết của họ. Bởi không giống như các hoạt đông kinh doanh thương mại khác, chỉ có bên tham gia bảo hiểm là nắm rõ tất cả các thông tin, người bảo hiểm chỉ biết những gì mà bên tham gia nói cho họ. Những thôn tin này có vai trò quan trọng đối với người bảo hiểm bởi đó chính là căn cứ để người bảo hiểm quyết định có chấp thuận hay từ chối? Nếu chấp thuận thì chấp thuận ở mức độ nào? Với điều kiện nào? Người tham gia bảo hiểm không được thực hiện bất cứ hành vi gian dối nào trong thời hạn bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm.Việc tuân thủ đúng nguyên tắc này đóng vai trò quan trọng trong giao dịch bảo hiểm. * Bồi thường. Khi có sự cố xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm gây thiệt hại cho người được bảo hiểm, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường theo đúng quy định của hợp đồng. Hiện nay có 3 hình thức bồi thường được áp dụng: Thanh toán bằng tiền mặt. Sửa chữa. Thay thế hay phục hồi. Hình thức bồi thường áp dụng khi giải quyết bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là hình thức thanh toán bằng tiền mặt. b. Điều kiện rõ ràng: Cùng với nghĩa vụ thực hiện các điều kiện ngầm định, giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm cũng có những điều kiện rõ ràng được quy định bằng văn trong hợp đồng buộc hai bên cùng phải tôn trọng tuân thủ. Các điều kiện này sẽ được xem xét một cách cụ thể trong các phần tiếp theo của hợp đồng bảo hiểm. 2.2.1.3. Kết cấu và nội dung của hợp đồng bảo hiểm. Thông thường một đơn bảo hiểm bao gồm ba phần chính: Giấy yêu cầu bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm. Mẫu đơn bảo hiểm. a. Giấy yêu cầu bảo hiểm: Giấy yêu cầu bảo hiểm là cách các công ty bảo hiểm thu thập thông tin có liên quan tới rủi ro được bảo hiểm. Giấy yêu cầu bảo hiểm gồm có các câu hỏi chung - riêng, tất cả các câu hỏi đó đều có giá trị đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Bởi đó chính là căn cứ để bên bảo hiểm nghiên cứu, cân nhắc quyết định chấp thuận hay từ chối bảo hiểm. Người yêu cầu bảo hiểm phải kê khai đầy đủ, chính xác các thông tin mà phía bảo hiểm yêu cầu. Đối với những thông tin bên tham gia bảo hiểm không đủ khả năng cung cấp đầy đủ theo yêu cầu của công ty bảo hiểm thì công ty bảo hiểm hoàn toàn có quyền diễn giải theo ý nghĩa gia tăng rủi ro trong khi xác định phí. Mỗi giấy yêu cầu bảo hiểm đều phải có một phần cam kết và một phần cảnh báo. Nội dung của phần cam kết là thông tin do người yêu cầu bảo hiểm cung cấp “là hoàn toàn đúng sự thật trong giới hạn tối đa người đó biết và tin tưởng”. Cam này là cần thiết để thỏa mãn các yêu cầu của nguyên tắc trung thực tuyệt đối. Các đơn này có thể do công ty bảo hiểm gốc, môi giới bảo hiểm hay các trung gian bảo hiểm. Trong hầu hết các đơn bảo hiểm thường có những câu hỏi chung như sau: Đối với người tham gia yêu cầu bảo hiểm là cá nhân: - Tên , địa chỉ nghề nghiệp tuổi tác của người yêu cầu bảo hiểm. - Thời hạn bảo hiểm. - Những khiếu nại trước kia và trong một số trường hợp là những hợp đồng bảo hiểm trước kia hay những hợp đồng bảo hiểm trước kia. Đối với trường hợp bên tham gia bảo hiểm là doanh nghiệp: - Tên của người yêu cầu bảo hiểm (tên doanh nghiệp hoặc tên giao dịch của doanh nghiệp). - Địa điểm kinh doanh cũng như các địa điểm hoạt động kinh doanh khác cần được bảo hiểm của doanh nghiệp. - Đặc điểm ngành nghề kinh doanh, loại hình kinh doanh. - Thời hạn bảo hiểm. Bên cạnh đó, cũng có những câu hỏi liên quan trực tiếp đến rủi ro cụ thể. Nói cách khác, một đơn yêu cầu bảo hiểm chứa đựng các câu hỏi chung và riêng tất cả các câu hỏi đó đều có giá trị với doanh nghiệp bảo hiểm. Giấy yêu cầu bảo hiểm chính là cơ sở của hợp đồng và là một phần không thể thiếu trong hợp đồng bảo hiểm. b. Giấy chứng nhận bảo hiểm: Nếu đơn bảo hiểm được trình bày hợp lý và công ty bảo hiểm chấp thuận bảo hiểm, thì công ty sẽ cấp cho người được bảo hiểm đơn bảo hiểm kèm theo giấy chứng nhận bảo hiểm. Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng về việc xác lập hợp đồng, trong đó bao gồm nội dung chi tiết về việc bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm là tài liệu chứng minh một đơn bảo hiểm đang có hiệu lực. Thông tin được nêu trong một giấy chứng nhận bảo hiểm do pháp luật liên quan quy định. c. Mẫu đơn bảo hiểm: + Mẫu đơn bảo hiểm là văn bản dưới hình thức hợp đồng soạn sẵn trong đó chỉ rõ các điều kiện, điều khoản của hợp đồng. + Mẫu đơn bảo hiểm là giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa công ty bảo hiểm và người được bảo hiểm đã nghiên cứu đơn và chấp thuận hợp đồng bảo hiểm. + Mẫu đơn bảo hiểm thể hiện rõ các điều kiện rõ ràng của một hợp đồng bảo hiểm. Là căn cứ giải quyết các tranh chấp khiếu kiện có thể phát sinh trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm. + Mẫu đơn bảo hiểm được xây dựng trên nguyên lý số đông của người tham gia bảo hiểm với một đối tượng có nhu cầu được bảo hiểm. + Trong mẫu đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm phải đề cập được các nội dung chính sau : - Tên, địa chỉ doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được b._.ảo hiểm hoặc người thụ hưởng. - Đối tượng bảo hiểm - Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản - Phạm vi bảo hiểm, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm . - Thời hạn bảo hiểm - Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí. - Thời hạn , phương thức bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm . - Các quy định giải quyết tranh chấp . - Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng Ngoài ra nếu phía bảo hiểm muốn có thêm thông tin khác về đối tượng được bảo hiểm ngoài những thông tin có trong giấy yêu cầu bảo hiểm thì có thể đưa ra các câu hỏi khác trong phụ lục hợp đồng. Phụ lục hợp đồng thể hiện các đặc điểm riêng có của người được bảo hiểm. 2.2. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh giống như bất kỳ một hợp đồng bảo hiểm nào đều mang đầy đủ các nội dung cũng như đặc điểm của một hợp đồng bảo hiểm như đã đề cập ở trên. Tuy nhiên, do tính đặc thù của nghiệp vụ bảo hiểm này nên hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy còn mang những đặc điểm riêng so với các loại hợp đồng bảo hiểm khác. 2.2.1. Một số khái niệm. Có ba loại thiệt hại gián tiếp mà doanh nghiệp phải gánh chịu do hậu quả của vụ cháy của vụ cháy: thiệt hại về lợi nhuận thuần, các chi phí cố định mà doanh nghiệp vẫn phải tiếp tục chi trả và các khoản chi phí hoạt động gia tăng. Do đó để xác định rõ đối tượng bảo hiểm trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cần thống nhất một số khái niệm sau: - Doanh thu: là số tiền được trả hoặc có thể được trả cho doanh nghiệp cho các hàng hoá được bán hoặc phân phối cho các dịch vụ trong qua trình tiến hành hoạt động kinh doanh tại địa điểm được bảo hiểm. Doanh thu năm: Là khoản doanh thu lẽ ra đạt được trong 12 tháng nếu không xảy ra hoả hoạn làm gián đoạn hoạt động kinh doanh. Doanh thu tiêu chuẩn: Là khoản doanh thu thu được trong thời hạn 12 tháng ngay trước khi xảy ra hoả hoạn tương ứng với thời hạn bồi thường. - Chi phí khả biến: Là các khoản chi phí biến đổi liên tục, tỷ lệ so với khối lượng kinh doanh của doanh nghiệp. - Chi phí bất biến: Là các khoản chi phí được ấn định về mặt số lượng, không phụ thuộc vào khối lượng công việc thực hiện được. - Lợi nhuận thuần: Là khoản chênh lệch giữa doanh thu và các chi phí hoạt động (chi phí bất biến và chi phí khả biến) nhưng phải được tính trước khi trừ đi các loại thuế tính trên thu nhập. - Lợi nhuận gộp. Có hai phương pháp để xác định lợi nhuận gộp: Phương pháp thứ nhất là phương pháp chênh lệch. Theo phương pháp này, lợi nhuận gộp được tính bằng: Doanh thu cộng với giá trị sản phẩm dở dang cuối kì trừ đi giá trị sản phẩm dở dang đầu kì và chi phí hoạt động kinh doanh không được bảo hiểm. Giá trị tồn đầu kì và cuối kì được tính toán phù hợp với các phương pháp kế toán thông thường của người được bảo hiểm và những khoản dự phòng thích hợp do sụt giá. Phương pháp thứ hai là phương pháp gia tăng: Theo phương pháp này, lợi nhuận gộp được tính bằng lợi nhuận thuần cộng với chi phí bất biến. - Tỷ suất lợi nhuận gộp: Là tỷ lệ lợi nhuận lẽ ra có thể đạt được trên doanh thu có được trong thời hạn bồi thường nếu hoạt động kinh doanh không bị gián đoạn. - Thời hạn bảo hiểm: Là thời hạn ghi trong phụ lục hợp đồng. Ngày bắt đầu thời hạn bảo hiểm của đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy có thể trùng hoặc muộn hơn ngày bắt đầu của đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt. Ngày chấm dứt vào ngày được quy định cụ thể trong phụ lục có thể sớm hơn hoặc trùng với ngày chấm dứt hợp đồng bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt. Điều này có nghĩa: thời hạn bảo hiểm của đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nằm trong thời hạn bảo hiểm của đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt. - Thời hạn bồi thường: Là khoảng thời gian mà trong suốt khoảng thời gian đó, kết quả kinh doanh bị ảnh hưởng do hậu qủa cảu sự ngừng trệ kinh doanh, được tính từ ngày xảy ra hoả hoạn và không kéo dài hơn thời hạn bồi thường tối đa do người được bảo hiểm do người được bảo hiểm lựa chọn. 2.2.2. Đối tượng bảo hiểm. Như đã đề cập trong phần đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, đối tượng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là đối tượng vô hình. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy bồi thường cho phần lợi nhuận gộp bị mất vì doanh thu giảm và chi phí hoạt động gia tăng. Không giống như các loại nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất có đối tượng bảo hiểm là hữu hình, đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng do tính trừu tượng. Chính điều nàyđã gây không ít khó khăn cho các nhà bảo hiểm. Đây cũng chính là lý do khiến cho một nghiệp vụ bảo hiểm quan trọng như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy ra đời muộn hơn hẳn so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh của Anh (ABI), thì đối tượng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là “tổn thất mang tính hậu quả do việc ngừng trệ hay gián đoạn kinh doanh phát sinh sau một rủi ro hoả hoạn đối với đối tượng được bảo hiểm tại địa điểm được bảo hiểm”. 2.2.3. Phạm vi bảo hiểm và rủi ro bảo hiểm. a. Phạm vi bảo hiểm: Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy chịu trách nhiệm bồi thường cho phần mất lợi nhuận gộp của chủ doanh nghiệp do doanh thu giảm và chi phí hoạt động gia tăng với điều kiện: Việc giảm doanh thu và tăng chi phí hoạt động là do tác động của bất cứ tổn thất vật chất nào của hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời hạn bảo hiểm mà những tổn thất vật chất đó phải thuộc trách nhiệm bồi thường của đơn bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt. Việc giảm doanh thu và tăng chi phí hoạt động không phải do những tổn thất thuộc những điểm loại trừ áp dụng riêng cho loại hình bảo hiểm này gây ra. Trách nhiệm của công ty bảo hiểm trong mọi trường hợp sẽ không vượt quá: Tổng số tiền bảo hiểm hay số tiền bảo hiểm tương ứng với mỗi khoản mục được kê khai trong giấy chứng nhận bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm còn lại sau khi đã bồi thường cho một tổn thất nào đó do ngưng trệ hay ảnh hưởng kinh doanh nào khác là hậu quả của tổn thất, phá huỷ hay thiệt hại xảy ra trong thời hạn bảo hiểm nếu nhà bảo hiểm hay người đại diện cho công ty bảo hiểm không thoả thuận khôi phục lại số tiền bảo hiểm ban đầu. Điều kiện 1 và 2 là hai điều kiện cần và đủ, tức là không thể thiếu một trong hai điều kiện. Trong đó điều kiện 1 có tính chất bao trùm cần phải được xem xét đầu tiên khi giải quyết bất cứ khiếu nại nào. - Nếu điều kiện 1 không thoả mãn, thì không cần phải xét tới điều kiện 2 cũng có thể kết luận khiếu nại đó không thuộc trách nhiệm của người bảo hiểm. - Nếu điều kiện một thoả mãn thì ta mới xét đến điều kiện 2. Nếu điều kiện 2 cũng thoả mãn thì khiếu nại đó mới được kết luận là thuộc phạm vi bồi thường của bảo hiểm này. Như vậy loại hình bảo hiểm này có mối liên hệ chặt chẽ với phần bảo hiểm thiệt hại vật chất thuộc đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt. Do vậy, tốt hơn cả là cả hai đơn bảo hiểm này đều được bảo hiểm tại cùng một công ty bảo hiểm, bởi điều này giúp người bảo hiểm quản lý rủi ro hiệu qủa nhất. Chính vì thế, mà hầu hết các công ty bảo hiểm trên thế giới đã ghép loại hình bảo hiểm gián này vào đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt và biến nó thành một bộ phận của đơn bảo hiểm này. Có một số tổn thất mà doanh nghiệp phải gánh chịu do hậu quả của vụ cháy nhưng không được bồi thường trong cả đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt và đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Các tổn thất đó không được loại trừ một cách cụ thể trong hai đơn bảo hiểm này nhưng đó là các nằm ngoài phạm vi bảo hiểm của các đơn bảo hiểm tiêu chuẩn, các tổn thất này bao gồm: - Bảo hiểm thiệt hại vật chất dưới giá trị. - Chênh lệch giữa giá trị của hàng hóa tại thời điểm xảy ra thiệt hại với giá trị của hàng hoá tại thời điểm thay thế. - Giảm giá của hàng hoá không bị thiệt hại sau khi xảy ra cháy. - Chi phí chuẩn bị cho các khiếu nại đòi bồi thường bảo hiểm. - Chi phí tố tụng liên quan đến khiếu nại bảo hiểm. - Các khoản tiền phạt hay các khoản thiệt hại theo hợp đồng phát sinh từ việc vi phạm hợp đồng do vụ cháy gây ra (trừ khi có thoả thuận khác trong hợp đồng). - Khiếu nại của bên thứ ba. - Tổn thất do mất tín nhiệm. - Tổn thất do không đòi được các khoản nợ vì tài liệu ghi chép, lưu trữ bị phá huỷ. Rủi ro có thể được bảo hiểm và rủi ro loại trừ: Như đã trình bầy ở phần đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thì rủi ro trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, trừ những trường hợp loại trừ, phải trùng khớp với rủi ro trong đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt. Theo đó, ta có: * Các rủi ro có thể được bảo hiểm: Rủi ro là những sự cố không chắc chắn, rủi ro có thể được bảo hiểm chia làm hai loại: - Một là: Rủi ro cơ bản như: Cháy, nổ, sét. Cháy: Bắt nguồn do nổ hoặc các nguyên nhân khác nhưng loại trừ cháy do động đất, núi lửa, hoặc các hiện tượng thiên nhiên khác, do tự lên men, toả nhiệt, hay bất cứ thiệt hại nào xảy ra dù bất ngờ hay không do hậu quả của việc cháy rừng, đồng cỏ hay do dùng lửa dọn đất. Sét: Chỉ bảo hiểm cho tác động của tia sét tới tài sản được bảo hiểm … Nổ: Là hiện tượng cháy cực nhanh, tạo ra hoặc giải phóng một áp lực lớn kèm theo một tiếng động mạnh, phát sinh bởi sự giãn nở nhanh và mạnh của các chất lỏng, chất rắn và chất khí. Chỉ bảo hiểm trong trường hợp nổ nồi hơi và hơi đốt phục vụ sinh hoạt. - Hai là: Rủi ro phụ. Bên cạnh những rủi ro cơ bản, còn có một số rủi ro đặc biệt không nằm trong rủi ro cháy nhưng có thể được lựa chọn để bảo hiểm cùng với rủi ro hoả hoạn thông qua việc mở rộng đối tượng bảo hiểm. Chỉ có bảo hiểm cho những rủi ro cơ bản mới bảo hiểm cho những rủi ro phụ. Các rủi ro phụ gồm: Máy bay và các phương tiện hàng không khác hoặc tài sản trên các phương tiện đó rơi. Động đất, núi lửa phun bao gồm cả lụt và nước biển tràn vào do hậu quả của động đất và núi lửa. Giông bão, lũ lụt, mưa đá. Vỡ hay tràn nước từ các bể chứa nước, thiết bị đựng nước hay đường ống dẫn nước nhưng loại trừ tài sản bị phá huỷ hay hư hại do nước chảy, rò rỉ từ hệ thống thiết bị phòng cháy tự động. Gây rối, đình công, bãi công, sa thải. * Các rủi ro không được bảo hiểm: Đây là những rủi ro được cụ thể hoá trong hợp đồng bảo hiểm vì phần loại trừ thường là phần gây ra tranh chấp giữa hai bên khi giải quyết khiếu nại bồi thường. Rủi ro không được bảo hiểm bao gồm: Các thiệt hại do nổi loạn , bạo động dân sự, quần chúng nổi dậy , bãi công, sa thải công nhân, chiến tranh xâm lược các hành động thù địch của nước ngoài, chiến sự nổi loạn, cách mạng binh biến bạo động, đảo chính, khủng bố hay bất cứ nguyên nhân nào quyết định việc tuyên bố duy trì và duy trì tình trạng bao vây, thiết quân luật. Những thiệt hại cho bất cứ tài sản tổn thất hay chi phí phát sinh hay tổn thất hậu quả nào trực tiếp hay gián tiếp gây ra cấu thành hoặc phát sinh từ vũ khí hạt nhân … Những thiệt hại do ô nhiễm môi trường nhưng không loại trừ tổn thất phát sinh từ thiệt hại cho tài sản của người được bảo hiểm sử dụng trong nhà cho mục đích kinh doanh mà không loại trừ ở mục khác gây ra bởi: ô nhiễm tại khu nhà được bảo hiểm nếu sự ô nhiễm này phát sinh bởi rủi ro được bảo hiểm hay bất kì rủi ro nào phát sinh do hậu quả của sự ô nhiễm 2.2.4. Số tiền bảo hiểm. Khác với các số tiền bảo hiểm trong các nghiệp vụ bảo hiểm khác, số tiền bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy được xác định dựa trên giá trị lợi nhuận gộp hàng năm của doanh nghiệp tham gia bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm trong loại hình bảo hiểm này do người được bảo hiểm xác định dựa trên số liệu sổ sách kế toán của người được bảo hiểm có sự điều chỉnh với tốc độ tăng trưởng doanh thu và lạm phát trong tương lai để đảm bảo thể hiện được giá trị lợi nhuận gộp ước tính đạt được trong tương lai của doanh nghiệp được bảo hiểm. Để xác định giá trị đó, số liệu kế toán của năm tài chính gần nhất sẽ được sử dụng. Song, để loại trừ ảnh hưởng của những biến động bất thường tới độ chính xác của số liệu thì người ta thường sử dụng số liệu kế toán của hai hoặc ba năm liên tiếp. Nếu thời hạn bồi thường lớn hơn 12 tháng thì số tiền bảo hiểm sẽ là lợi nhuận gộp của thời gian đó tức là số tiền bảo hiểm sẽ tăng lên một cách tỷ lệ (ví dụ thời hạn bồi thường là 12 tháng thì số tiền bảo hiểm sẽ bằng 1,5 lần lợi nhuận gộp hàng năm). Tuy nhiên, mục đích của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không chỉ bảo hiểm cho phần lợi nhuận bị mất so với cùng kỳ năm trước mà còn bồi thường thêm cả phần lợi nhuận họ sẽ đạt được theo tỷ lệ tăng doanh thu bình quân. Do vậy để tránh sự đánh giá thấp số tiền bảo hiểm, người ta còn tính đến hệ số tăng doanh thu bình quân của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách so sánh nhiều năm tài chính dựa trên cơ sở tính toán trước khi kí kết hợp đồng gián đoạn kinh doanh sau cháy. Bằng cách đó người ta có thể tính được số tiền bảo hiểm. Trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thông thường, số tiền bảo hiểm sẽ giảm đi một khoản tương ứng với khoản tiền bồi thường cho tới khi đáo hạn hợp đồng. Khi đó, nếu người bảo hiểm muốn được bảo hiểm đầy đủ thì cần phải thảo luận với bên bảo hiểm để tiến hành các bước cần thiết để phục hồi số tiền bảo hiểm. Để thấy rõ hơn vấn đề này chúng ta cùng xem xét ví dụ sau: Giả sử vào ngày 1/12 trước khi kết thúc năm tài chính, chủ doanh nghiệp gửi đơn yêu cầu mua bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy đến doanh nghiệp bảo hiểm. Sau khi thảo luận hai bên cùng đi đến thống nhất một số điểm sau: - Thời hạn bồi thường tối đa là 12 tháng. - Chi phí hoạt động không được bảo hiểm bao gồm : 100% chi phí nguyên vật liệu 100% chi phí bao gói 100 % chi phí vận chuyển 100% các khoản nợ phải thu khó đòi - Và người yêu cầu bảo hiểm còn yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm cho 80% chi phí thắp sáng và qua chi phí về điện. Từ giả thiết trên ta có: a, Doanh thu 1.500.000 Giá trị hàng tồn cuối kì 36.000 Giá trị sản phẩm dở dang cuối kì 9.000 Tổng cộng: 1.545.000 b, Chi phí hoạt động không được bảo hiểm Giá trị hàng tồn đầu kì 40.000 Chi phí sản xuất dở dang đầu kì 10.000 Chi phí nguyên vật liệu 500.000 Chi phí bao gói 46.000 Chi phí chuyên chở 30.000 Nợ phải thu khó đòi 3.000 Tổng cộng: 629.000 Do người yêu cầu bảo hiểm yêu cầu người bảo hiểm, bảo hiểm cho 80% chi phí thắp sáng và chi phí đốt nóng, bỏ qua chi phí về điện nên trong phần chi phí hoạt động không được bảo hiểm phải tính thêm 20 % chi phí thắp sáng, và 100 % chi phí về điện. Hay ta có: 629.000 20% chi phí thắp sáng 2.000 100% chi phí về điện 10.000 Tổng cộng: 641.000 Từ a và b ta xác định được lợi nhuận gộp = ( a ) - ( b ) = 1.545.000 - 641.000 = 904.000 Song con số lợi nhuận gộp tính được ở trên chỉ là số lợi nhuận gộp của năm tài chính trong quá khứ. Để đảm bảo con số tính toán được là sát nhất với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có thể đạt được trong thực tế thì cần phải điều chỉnh con số đó với tốc độ tăng trưởng doanh thu bình quân và có tính tới yếu tố lạm phát. Giả sử, tỷ lệ lạm phát tăng lên 10%, và doanh nghiệp hi vọng tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng doanh thu ở mức 10%. Khi đó ta có: Con số tính được 904.000 Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu tính cho năm bảo hiểm 10% 90.400 994.400 Tỷ lệ lạm phát 10% 90.400 Tổng cộng: 1.084.800 Giả sử vào ngày 31/12 năm thứ ba thì xảy ra hoả hoạn. Thời hạn bồi thường sẽ bắt đầu từ ngày 31/12/năm thứ tư và kéo dài cho tới khi kết quả hoạt động kinh doanh của người bảo hiểm trở về vị trí đáng lẽ ra đạt được nếu không xảy ra hoả hoạn hoặc tới khi hết thời hạn bồi thường tối đa. Do vậy, con số lợi nhuận gộp có thể cần phải được điều chỉnh cho tới hết thời hạn bồi thường tối đa. Lúc này ta có số liệu như sau: Con số tính được 904.000 Tỷ lệ lạm phát 10% 90.400 Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu tính cho năm bảo hiểm 10% 90.400 Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu tính cho thời hạn bồi thường 90.400 tối đa Tổng cộng 1.175.200 Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm bảo hiểm Thời hạn bồi thường Thời điểm yêu cấu bảo hiểm Thời điểm xảy ra hoả hoạn 904.000 994.400 1.084.800 1.175.200 (Nguồn: hình 7/28 – Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh lý thuyết và thực hành) 1.175.200 là con số phỏng đoán, rằng trong năm bảo hiểm và năm tiếp sau tốc độ tăng trưởng doanh thu của doanh nghiệp được duy trì với mức 10 %. Số lợi nhuận gộp thu được sau khi điều chỉnh: 1.175.000 là số tiền bảo hiểm nhỏ nhất. Nếu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng doanh thu cao hơn thì rõ ràng trường hợp này sẽ rơi vào trường hợp bảo hiểm dưới giá trị, khi đó người được bảo hiểm phải tự chịu một phần thiệt hại dưới giá trị đó. 2.2.5. Phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm do người được bảo hiểm chọn (gọi là số tiền đăng kí). Để đăng kí một hợp đồng bảo hiểm thiệt hại kinh doanh sau cháy, người bảo hiểm phải thông báo một loạt số liệu về kế toán, đặc biệt là tài khoản kết quả sản xuất kinh doanh thực hiện được một số năm trước đó. Căn cứ vào tài liệu này cộng thêm với lời khai báo , hai bên thoả thuận với nhau về số tiền bảo hiểm. Việc đi đến thoả thuận về số tiền bảo hiểm có ý nghĩa hết sức quan trọng cho công tác tính phí vì thực chất phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy được xác định như sau: Phí bảo hiểm = Số tiền bảo hiểm Tỷ lệ phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy Tỷ lệ phí bảo hiểm lại phụ thuộc vào nhân tố: Rủi ro vật chất (thể hiện bằng tỷ lệ phí bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt) Giai đoạn bồi thường Rủi ro gián đoạn kinh doanh Để xác định tỷ lệ phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy đầu tiên công ty bảo hiểm sẽ xác định tỷ lệ phí bảo hiểm chung bình của các hàng hoá, máy móc thiết bị được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm vật chất. Tỷ lệ phí này được gọi là tỷ lệ phí cơ bản. Trên cơ sở tỷ lệ phí này, người ta sẽ thực hiện một số điều chỉnh theo giai đoạn bồi thường nhằm tạo ra tỷ lệ phí bảo hiểm lợi nhuận gộp. Nhân tố, rủi ro gián đoạn kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ tới tỷ lệ phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Rủi ro gián đoạn kinh doanh là các điều kiện thuận lợi hay bất lợi làm tăng hoặc làm cản trở qúa trình khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm. Các rủi ro đó có thể bao gồm: sự khó khăn trong việc thay thế máy mớc, trang thiết bị, nguyên vật liệu, đặc điểm ngành nghề kinh doanh… Theo đó, để tính đến các rủi ro gián đoạn này, người bảo hiểm sẽ tỷ lệ phí bảo hiểm lợi nhuận gộp ở trên. 2.2.6. Phương thức bồi thường. Bồi thường là nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm. Trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, rất khó xác định số tiền bồi thường mặc dù đã có công thức xác định cách giải quyết tổn thất được ghi trong nội dung đơn bảo hiểm. Kế toán của người được bảo hiểm thường tham gia xác định mức lãi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thu được nếu như hoả hoạn hay một hiểm hoạ nào đó không xảy ra. Bồi thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy khác với bồi thường trong thiệt hại vật chất. Nếu như mục đích của bảo hiểm trong các đơn bảo hiểm vật chất là đưa người được bảo hiểm trở về vị trí tài chính giống như trước khi xảy ra tổn thất, thì đối với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy lại không hoàn toàn như vậy. Chúng ta hãy xem xét một ví dụ ngắn: Một nhà sản xuất hàng phục vụ lễ Giáng Sinh, và hiện giờ hàng đang ở trong kho chờ ngày đem bán. Một vụ cháy xảy ra ở nhà kho, phá huỷ gần hết số hàng phục vụ cho Giáng Sinh. Như vậy chúng ta sẽ thấy ngay một số nhân tố khiến hầu như không thể đưa người được bảo hiểm trở về vị trí tài chính giống như trươc khi xảy ra tổn thất. Thực tế hiển nhiên là, chẳng hạn trong vòng một tháng tới nhà sản xuất này hẳn sẽ hi vọng sẽ thu được phần lớn doanh thu của cả năm. Nhà sản xuất trong hiện tại không thể thực hiện được điều này và sẽ bỏ lỡ thị trường. Vì vậy việc đưa người sản xuất về vị trí tài chính như truớc khi tổn thất xảy ra sẽ không cung cấp được một số tiền để có thể bù đắp được tổn thất thực sự của nhà sản xuất. Do đó, đối với đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, bồi thường có thể có thể được coi là nỗ lực đưa người được bảo hiểm về vị trí tài chính mà lẽ ra người đó phải có nếu không xảy ra hoả hoạn. Kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện qua doanh thu đạt được. Doanh thu thường được sử dụng làm căn cứ để xác định mức độ ảnh hưởng của hoả hoạn dẫn đến hoạt động kinh doanh bị gián đoạn hay ngưng trệ. Doanh thu được chia làm ba bộ phận chính Chi phí khả biến. Chi phí bất biến. Lợi nhuận ròng. Khi hoạt động kinh doanh bị gián đoạn bởi một rủi ro được bảo hiểm, tất yếu kéo theo thiệt hại về doanh thu. Mức độ thiệt hại hậu quả mà doanh nghiệp phải gánh chịu chính là số thiệt hại về doanh thu. Tuy nhiên, do chi phí khả biến giảm tương ứng với sự giảm về doanh thu nên doanh nghiệp chỉ phải gánh chịu phần chi phí bất biến và lợi nhuận ròng . Theo phương pháp gia tăng: Lợi nhuận gộp = Doanh thu Chi phí khả biến Giả định, mỗi đơn vị doanh thu bao gồm 0,6 đơn vị chi phí bất biến, 0,3 đơn vị chi phí khả biến và 0,1 đơn vị lợi nhuận ròng. Khi tổn thất xảy ra dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh bị gián đoạn thì chủ doanh nghiệp không phải gánh chịu tổn thất của cả một đơn vị doanh thu đó chỉ phải gánh chịu 0,4 đơn vị chi phí cố định và lợi nhuận ròng vì doanh thu giảm thì chi phí biến đổi cũng giảm tương ứng. Nếu chủ doanh nghiệp tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thì người bảo hiểm chỉ cần bồi thường 0,4 đơn vị là đủ để có thể đưa người được bảo hiểm về vị trí tài chính mà lẽ ra người đó có nếu như tổn thất không xảy ra. Tuy nhiên, đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy không những đồng ý bồi thường cho phần lợi nhuận gộp thiệt hại mà còn bồi thường cả phần chi phí hoạt động gia tăng. Chi phí hoạt động gia tăng là những khoản chi cần thiết, hợp lý nhằm tối thiểu số hoá thiệt hại về lợi nhuận gộp. Nếu hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng đầy đủ và khoản chi không vượt quá con số xác định bằng cách lấy tỷ lệ lợi nhuận gộp nhân với doanh số được phục hồi nhờ bỏ ra chi phí đó thì chi phí hoạt động gia tăng này sẽ được bảo hiểm toàn bộ. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy không giới hạn bất cứ khoản chi phí nào bởi không ai có thể dự đoán trước chính xác những khoản chi phí cần thiết, hợp lý cần phải thực hiện sau khi xảy ra tổn thất. Đối với một khiếu nại bồi thường có giá trị lớn, khoản chi phí hoạt động gia tăng thường chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Khoản chi giúp chủ doanh nghiệp tối thiểu hoá thiệt hại lợi nhuận gộp hay chính là tối thiểu hoá số tiền bồi thường của người bảo hiểm. Số tiền có thể được bồi thường theo đơn bảo hiểm này là Đối với thiệt hại về lợi nhuận gộp: Là số tiền được tính toán bằng cách lấy tỷ suất lợi nhuận gộp nhân với hiệu số giữa doanh thu có thể đạt được nếu không xảy ra tổn thất trừ đi doanh thu thực sự đạt được trong thời hạn bồi thường. Thông thường tỷ lệ lợi nhuận gộp thường được giả định là không đổi qua các năm, đó là một giả định có thể chấp nhận được và tương đối hợp lý. Nhưng thực tế tỷ lệ này có thể thay đổi do ảnh hưởng của các sự kiện không lường trước được… Do đó trong đơn bảo hiểm thườngcó các điều khoản ghi chú thểm rằng trong một số trường hợp ngoại lệ tỷ lệ lợi nhuận gộp cũng như giá trị thiệt hại về doanh thu có thể được điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Đối với chi phí hoạt động gia tăng: Là khoản chi phí tăng thêm cần thiết và hợp lý nhằm tránh hoặc hạn chế việc giảm doanh thu mà nếu không có khoản chi này thì không tránh khỏi giảm doanh thu hoặc gia tăng hơn. Nhưng số tiền bồi thường cho phần chi phí này không vượt quá số tiền tính được bằng cách lấy tỷ suất lợi nhuận gộp nhân với doanh số được phục hồi nhờ bỏ ra chi phí đó. Điều kiện được bảo hiểm. Để được bảo hiểm người được bảo hiểm phải: 1. Trong trường hợp xảy ra một thiệt hại nào đó có thể sẽ được bồi thường theo đơn bảo hiểm này người được bảo hiểm sẽ: Thông báo ngay cho nhà bảo hiểm. Có trách nhiệm và được phép thực hiện những hành động hợp lý để giảm thiểu hoặc kiểm tra sự ngừng trệ hoặc ảnh hưởng có thể xảy ra cho doanh nghiệp để tránh và giảm thiểu tổn thất. 2. Trong trường hợp xảy ra thiệt hại nào đó có thể hoặc sẽ được bồi thường theo đơn bảo hiểm này người được bảo hiểm sẽ dùng chi phí của mình: Cung cấp bằng văn bản các chi tiết khiếu nại cùng với chi tiết của các đơn bảo hiểm khác cho toàn bộ hoặc một phần của thiệt hại này. Cung cấp cho nhà bảo hiểm sổ sách kế toán , chứng từ hoá đơn , bảng tổn kết tài sản và các tài liệu thông tin bằng chứng mà nhà bảo hiểm có thể kiểm tra hoặc điều chỉnh khiếu nại nếu cần. Các bước tính số tiền bồi thường: - Bước 1: Xác định tỷ lệ lợi nhuận gộp trong doanh thu (dựa vào báo cáo tài chính các năm trước). - Bước 2: Xác định thiệt hại về doanh thu: So sánh doanh thu trong thời gian bồi thường với doanh thu trước khi xảy ra thiệt hại. - Bước 3: Xác định thiệt hại về lợi nhuận gộp. Thiệt hại về lợi = Tỷ lệ lợi nhuận gộp Thiệt hại nhuận gộp về doanh thu Thiệt hại = Doanh thu lẽ ra Doanh thu thực tế về doanh thu thực hiện được thực hiện được - Bước 4: Xác định phần chi phí hoạt động gia tăng cần thiết hợp lý nhằm ngăn ngừa hạn chế tổn thất xảy ra thêm. - Bước 5: Xác định khoản chi phí tiết kiệm được(Tức là các khoản chi không phải tiếp tục trả do hậu quả của vụ cháy). - Bước 6: Xác định số tiền bồi thường. Số tiền = Giá trị thiệt + Chi phí hoạt -- Các khoản chi bồi thường hại lợi nhuận gia tăng tiết kiệm được gộp Ngoài ra, khi tham gia bảo hiểm dưới giá trị tức số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị xác định được bằng cách lấy tỷ lệ lợi nhuận gộp nhân với doanh thu hàng năm thì số tiền bảo hiểm cũng giảm đi một tỷ lệ tương ứng. Để hiểu rõ hơn chúng ta hãy cùng xem xét một ví dụ sau: Xét một đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thông thường, không có đặc điểm đặc biệt về nghành nghề kinh doanh, hoạt động kinh doanh diễn ra đều đặn trong năm. Giả sử : Đơn vị USD Doanh thu năm trước : 1.000.000 Lợi nhuận gộp năm trước khi xảy ra hoả hoạn : 250.000 Doanh thu 12 tháng trước khi xảy ra hoả hoạn: Tháng 9 : 120.000 Tháng 10 : 125.000 Tháng 11 : 130.000 Tháng 12 : 110.000 Tháng 1 : 65.000 Tháng 2 : 65.000 Tháng 3 : 50.000 Tháng 4 : 60.000 Tháng 5 : 65.000 Tháng 6 : 70.000 Tháng 7 : 85.000 Tháng 8 : 95.000 Tổng cộng: 1.040.000 Hoả hoạn xảy ra vào ngày 1/9 dẫn đến gián đoạn kinh doanh kéo dài 9 tháng dù thời hạn phục hồi tài sản thiệt hại chỉ trong vòng 3 tháng. Doanh thu của 9 tháng sau cháy là : Tháng 9 : 0 Tháng 10 : 50.000 Tháng 11 : 50.000 Tháng 12 : 65.000 Tháng 1 : 45.000 Tháng 2 : 45.000 Tháng 3 : 40.000 Tháng 4 : 45.000 Tháng 5 : 60.000 Tổng cộng: 400.000 Thời hạn bồi thường tối đa là : 12 tháng Số tiền bảo hiểm cho lợi nhuận gộp ước tính đạt được bao gồm cả lương trả cho công nhân viên là : 300.000 Chi phí hoạt động gia tăng doanh nghiệp phải chi ra nhằm tối thiểu hóa thiệt hại doanh thu trong thời hạn bồi thường : 75.000 (bao gồm chi phí thuê nhà tạm trong khi tài sản của doanh nghiệp đang trong quá trình sửa chữa, tiền công trả cho công nhân làm thêm giờ và một số chi phí khác). Trong thời hạn bồi thường chi phí tiết kiệm được : 27.500 (khoản tiền thuê tài sản tiết kiệm được do không thể thuê được tài sản). Theo số liệu giả định ở trên, tổn thất được xác định như sau: - Bước 1: Xác định tỷ lệ lợi nhuận gộp. Lợi nhuận gộp được đảm bảo Tỷ lệ lợi nhuận gộp = Doanh thu 250 Tỷ lệ lợi nhuận gộp = = 0.25 100.000 - Bước 2: Xác định giá trị thiệt hại về doanh thu: Tháng Doanh thu Doanh thu Thiệt hại về trước cháy sau cháy doanh thu Tháng 9 120.000 0 0 Tháng 10 125.00 50.000 75.000 Tháng 11 130.000 50.000 80.000 Tháng 12 110.000 65.000 45.000 Tháng 1 65.000 45.000 20.000 Tháng 2 65.000 45.000 20.000 Tháng 3 50.000 40.000 10.000 Tháng 4 60.000 45.000 15.000 Tháng 5 65.000 60.000 5.000 Tổng cộng 790.000 400.000 390.000 Nếu người được bảo hiểm cung cấp những bằng chứng thích đáng chứng minh rằng, do ảnh hưởng của lạm phát và tốc độ tăng trưởng doanh thu thì doanh thu có thể đạt được trong thời hạn bồi thường phải cao hơn doanh thu thu được tương ứng với thời hạn bồi thường. Doanh thu lẽ ra thực hiện được ước tính là: 825.000 Doanh thu thực tế đạt được trong thời hạn bồi thường là: 400.000 Khi đó thiệt hại doanh thu thực tế không chỉ là 390.000 mà sẽ là kết quả của phép tính: Thiệt hại = Doanh thu lẽ ra -- Doanh thu thực tế về doanh thu thực hiện được thực hiện được = 825.000 -- 400.000 = 425.000 - Bước 3: Xác định thiệt hại về lợi nhuận gộp. Người được bảo hiểm và người bảo hiểm đều nhất trí cho rằng không có bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ có sự thay đổi tỷ lệ lợi nhuận gộp hay nói cách khác tỷ lệ lợi nhuận gộp không thay đổi. Khi đó ta có: Thiệt hại về lợi = Tỷ lệ lợi nhuận gộp Thiệt hại nhuận gộp về doanh thu = 0.25425.000 = 106.25 - Bước 4: Xác định chi phí hoạt động gia tăng được bảo hiểm. Chi phí hoạt động gia tăng là: 75.000 Theo số liệu ban đầu ta có: Tỷ lệ lợi nhuận gộp doanh số được phục hồi nhờ bỏ ra chi phí này = 25% 300.000 = 75.000 Ta thấy chi phí hoạt động gia tăng là 75.000, không lớn hơn khoản lợi nhuận gộp được bảo hiểm nên khoản chi phí này được bảo hiểm đầy đủ. - Bước 5: Chi phí tiết kiệm được: 27.500 - Bước 6: Xác định số tiền bồi thường Số tiền = Giá trị thiệt + Chi phí hoạt -- Các khoản chi bồi thường hại lợi nhuận gia tăng tiết kiệm được gộp = 106.25 + 75.000 + 27.500 = 153.750 Bước tiếp theo chúng ta phải xác định xem đơn bảo hiểm trong trường hợp này là đủ giá trị hay không đủ giá trị. Nếu lợi nhuận gộp lẽ ra đạt được trong thời hạn bồi thường tối đa bằng số tiền bảo hiểm thì đơn bảo hiểm đó là đơn bảo hiểm đủ giá trị. Số lợi nhuận gộp này được xác định theo công thức sau: Lợi nhuận gộp lẽ = Tỷ lệ lợi nhuận gộp Doanh thu lẽ ra ra đạt được trong thu được trong thời hạn bồi thường thời hạn bồi thường Ta có: Doanh thu 12 tháng trước khi xảy ra hoả hoạn : 1.040.000 Doanh thu lẽ ra thu được trong 12 tháng nếu hoạt động kinh doanh diễn ra bình thường ( được xác định dựa doanh thu 12 tháng trước khi xảy._.o hiểm khác - Thứ tư là cần phải lựa chọn thận trọng khi cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài vào Việt Nam trên cơ sở: Lựa chọn các công ty có khả năng tài chính mạnh, có kinh nghiệm và uy tín trên thế giới, có kế hoạch làm ăn lâu dài tại Việt Nam Đề án hoạt động kinh doanh trong tương lai phải có tính khả thi Hạn chế các công ty bảo hiểm nước ngoài ở Việt Nam thông qua việc hạn chế về các loại nghiệp vụ, phạm vi khách hàng. Cuối cùng nhà nước nên hỗ trợ xây dựng các hạng mục công trình với mục đích giảm thiểu rủi ro như: ở nhưng đoạn đường hay xảy ra tai nạn đặt các biển báo, gương cầu ở các khúc quanh hay cho xây đường thoát hiểm trong trên các đèo núi hiểm trở nhằm giảm thiểu rủi ro và số chi bồi thường. 3.1.2. Một số kiến nghị với Tổng công ty Bảo Việt. Đề nghị Tổng công ty xây dựng các trung tâm hỗ trợ khách hàng toàn diện tại các thị trường lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh…). Đề nghị Tổng công ty tư vấn, hỗ trợ khách hàng trong các tranh chấp dân sự, trách nhiệm tài chính cho khách hàng. Đề nghị Tổng công ty tăng cường xây dựng thiết kế sản phẩm theo hướng linh hoạt để có thể đáp ứng được với nhu cầu của thị trường. Đề nghị chú trọng đến sản phẩm phục vụ khối các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tầng lớp dân cư hiện tại đang bị ít sức ép. Đề nghị Tổng công ty có hướng chỉ đạo thống nhất hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đề nghị tổng công ty xây dựng hoàn chỉnh chương trình kế toán và quản lý nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân trên máy vi tính để đáp ứng yêu cầu kinh doanh và yêu cầu bảo mật. Đề nghị Tổng công ty có chỉ đạo và hỗ trợ kinh phí đào tạo về quản lý kinh tế tài chính và quản lý nghiệp vụ cho cán bộ các công ty bảo hiểm. Tăng cường đào tạo tập chung chuyên sâu về quản lý tài chính và quản lý nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ của các công ty thành viên. Đề nghị Tổng công ty tập chung các chiến dịch quảng cáo mang tính thống nhất trong toàn hệ thống Bảo Việt để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Đề nghị Tổng công ty có đánh giá tổng kết mô hình tổ chức hiện tại của Bảo Việt Hà Nội để có công ty có định hướng hoàn thiện. 3.2. Các giải pháp 3.2.1. Các giải pháp về công tác khai thác. “Dù cho phương án kinh doanh của bạn có khéo đến đâu, xin bạn nhớ cho rằng cái cuối cùng quyết định đến thành công là bạn phải bán được hàng, dù đó là vật phẩm tiêu dùng hay dịch vụ” đó là câu nói nổi tiếng của Bill Hewlette, người sáng lập ra công ty hàng đầu thế giới Hewlett Packard (HP) và thực tế cho thấy những hãng thành công trên thế giới như Dishy, IBM, hay Sony … thường rất coi trọng khâu bán hàng. Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm công tác bán hàng (thể hiện chủ yếu ở các khâu khâu khai thác) có vai trò cực kì quan trọng do đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm không giống như các hàng hoá dịch vụ khác. Tuy nhiên như đã phân tích ở chương II, thì tại Bảo Việt Hà Nội khâu khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Đó có thể là một trong những nguyên nhân một nghiệp vụ có nhiều tiềm năng như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy vẫn chưa mang lại kết quả cao cho Bảo Việt Hà Nội? Chính vì vậy , hơn lúc nào hết, Bảo Việt cần thực hiện ngay các biện pháp thiết thực để đưa sản phẩm của mình đến với khách hàng. - Thứ nhất, Bảo Việt Hà Nội nên tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo, giới thiệu cho khách hàng biết về sản phẩm của mình. Bởi, hiện nay số khách hàng biết về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cũng như tác dụng thực sự của nghiệp vụ chưa nhiều. Ngay trên địa bàn Hà Nội, nơi có trình độ dân trí của người dân khá cao nhưng số người nhận thức đầy đủ về bảo hiểm chưa nhiều. Một số người còn cho rằng, mua bảo hiểm là mua lấy cái xúi quẩy về mình và tốt nhất là không nên mua. Thêm vào đó, một vài vụ tranh chấp trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm giữa khách hàng với người tham gia trong một vài năm trở lại đây đã gây không ít tai tiếng cho các công ty bảo hiểm , làm giảm lòng tin của khách hàng vào công ty. Vì vậy, giai đoạn hiện nay là thời gian thực sự cần thiết để công ty Bảo Việt Hà Nội thực sự coi trọng khâu xúc tiến quảng cáo bằng cách phối hợp nhiều biện pháp khác nhau như quảng cáo trên truyền hình, trên các phương tiện thông tin đại chúng khác, tổ chức hội chợ, hội nghị khách hàng , tài trợ cho các cuộc thi, cho thể thao …Công ty cũng có thể đưa ra các thông số, hình ảnh về mức độ nguy hại cũng như hậu quả của các vụ cháy và sau cháy. Vì nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy mang tính trừu tượng hơn nhiều so với nghiệp vụ bảo hiểm cháy, mọi con số thiệt hại chỉ là ước tính tương đối cho nên các con số đưa ra không dễ thuyết phục khách hàng. Do vậy, công tác quảng cáo, tuyên truyền cho nghiệp vụ bảo hiểm này phải hết sức kiên trì. Song, nhược điểm lớn của phương pháp này là chi phí quảng cáo tương đối lớn, dẫn tới hiệu quả hoạt động kinh doanh có thể giảm sút. Để đối phó với điều này,Bảo Việt Hà Nội có thể kết hợp quảng cáo về nghiệp vụ bảo hiểm này với các nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm cháy. - Thứ hai cùng với việc tuyên truyền quảng cáo, Bảo Việt Hà Nội nên đưa ra các biện pháp nhằm đổi mới cách phục vụ tiếp cận khách hàng một cách có quy củ hơn. Nếu như việc tuyên truyền quảng cáo được ví như màn mở đầu thì côngviệc tiếp cận khách hàng có thể coi là minh chứng cho những lý lẽ đã được đưa ra trong màn giới thiệu. Kinh nghiệm cho thấy công việc quảng cáo thực sự phát huy tác dụng cao nhất vào thời điểm sản phẩm mới được tung ra thị trường, hoặc mới được cải tiến và người kinh doanh thực sự muốn giới thiệu cho người tiêu dùng biết về sản phẩm của mình. Sau đó khi sản phẩm đã được biết đến trên thị trường thì chi phí quảng cáo nên giảm dần thay vào đó là những chi phí về dịch vụ bán hàng và sau bán hàng. Theo kết quả phân tích ở chương II, tại Bảo Việt Hà Nội các công tác phục vụ bán hàng diễn ra một cách tự phát, chưa được chú trọng đúng mức, đặc biệt là đối với bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thì hầu như không có các hoạt động tiếp cận khách hàng nào cả. Bảo Việt Hà Nội cần nhanh chóng tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm hoàn thiện phong cách phục vụ. Để làm được điều đó, trước hết cần phải đào tạo kiến thức chuyên môn cơ bản cho đội ngũ bán hàng. Do đặc tính riêng có của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, đội ngũ bán hàng của Bảo Việt Hà Nội hiện nay mặc dù đã có những kiến thức cơ bản về các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống nhưng hầu như cchưa biết gì nhiều về hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nên khó có thể giải thích cặn kẽ tất cả các điều khoản xuất hiện trong hợp đồng. Vì vậy, việc đào tạo lại đội ngũ bán hàng là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, Bảo Việt Hà Nội cũng cầnnâng cao phong cách phục vụ cho cán bộ bán hàng như tạo thái độ vui vẻ, niềm nở, nhiệt tình chu đáo, quan tâm tới khách hàng, có thể gủi tặng khách hàng quà vào những ngày lễ, sinh nhật hay thường xuyên thăm hỏi … Tuy có nhược điểm là phạm vi hẹp nhưng có nhiều ưu điểm như nhân viên triển khai hoạt động tiêu thụ có thể trực tiếp tiếp xúc với người tiêu dùng, có thể triển khai hoạt động tiêu thụ có tính mục đích, tập chung và kịp thời nhận được thông tin phản hồi, hiểu được mong muốn cũng như yêu cầu của khách hàng. Khó có thể so sánh hay đánh giá biện pháp này bởi đây là phương thức thúc đẩy tiêu thụ gián tiếp. - Thứ ba, Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp cụ thể để quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ đại lý. Đại lý bảo hiểm là những người được doanh nghiệp uỷ thác nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm, việc tiêu thụ khối lượng sản phẩm nhiều hay ít sẽ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đại lý nói chung và từng đại lý nói riêng. Do vậy công ty cần phải thiết lập chính sách tuyển chọn, đào tạo cũng như các phương pháp kiểm tra hoạt động của đại lý. Về công tác tuyển chọn đại lý, công ty có thể đưa ra những tiêu chuẩn nhất định đối với vị trí đại lý như trình độ tối thiểu, khả năng giao tiếp, nhanh nhậy … trên cơ sở đó tuyển chọn đại lý một cách khách quan, tránh tình trạng tuyển người không đúng nguyên tắc. Sau khi đã tuyển chọn công ty cần chú ý đào tạo ban đầu và đào tạo liên tục đối với đội ngũ này để họ nắm bắt kịp thời với những đổi mới trong việc triển khai nghiệp vụ cũng như phương thức bán hàng. Hàng tháng hoặc hàng quý, công ty có thể mời người có kiến thức nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp tổ chức những buổi hướng dẫn cho các đại lý. Thỉnh thoảng công ty cũng có thể trích quỹ phúc lợi để thực hiện các hoạt động ngoại khoá cho các đại lý giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau … Ngoài ra công ty có thể thực hiện một số chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ đại lý như hỗ trợ về tài chính lúc ban đầu, trang bị các phương tiện hoạt động … giúp người đại lý thấy tin tưởng vào khả năng phát triển nghề nghiệp của mình, từ đó yêu nghề hơn, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, việc quản lý đại lý hết sức phức tạp vì hoạt độngcủa đại lý không mang tính cố định nên công ty cần có mô hình tổ chức quản lý đại lý theo mô hình quản lý hình tháp và hàng tháng qui định những người chịu trách nhiệm quản lý phải có trách nhiệm gửi báo cáo hoạt động đại lý trong tháng cho cấp cao hơn. - Thứ tư Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp cụ thể để quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ đại lý. Đại lý bảo hiểm là những người được doanh nghiệp uỷ thác nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm, việc tiêu thụ khối lượng sản phẩm nhiều hay ít sẽ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đại lý nói chung và từng đại lý nói riêng. Do vậy công ty cần phải thiết lập chính sách tuyển chọn, đào tạo cũng như các phương pháp kiểm tra hoạt động của đại lý. Công ty lên quan hệ rộng rãi, chặt chẽ với các thành phần trung gian như các công ty môi giới, các cộng tác viên … vì chính họ là những người mang lại dịch vụ lớn cho công ty. Công ty có thể thực hiện chính sách hoa hồng thoả đáng trong hạn mức của bộ tài chính và những chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các tổ chức cá nhân mang lại cho công ty các dịch vụ. Hiện, công tác này ở Bảo Việt Hà Nội tuy có nhiều tín hiệu đáng mừng nhưng Bảo Việt Hà Nội cần tránh xu hướng cạnh tranh không lành mạnh trong việc cán bộ của công ty vì lợi ích kinh doanh mà chi hoa hồng cả cho người tham gia bảo hiểm, ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín của công ty. Như phân tích ở trên, thì phần lớn các hợp đồng giao kết được là do khách hàng tự yêu cầu, số khác thì thông qua môi giới song số chi hoa hồng lại có xu hướng ngày càng tăng. - Thứ năm, Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp cụ thể để quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ đại lý. Đại lý bảo hiểm là những người được doanh nghiệp uỷ thác nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm, việc tiêu thụ khối lượng sản phẩm nhiều hay ít sẽ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đại lý nói chung và từng đại lý nói riêng . Do vậy công ty cần phải thiết lập chính sách tuyển chọn, đào tạo cũng như các phương pháp kiểm tra hoạt động của đại lý. Về công tác tuyển chọn đại lý, công ty có thể đưa ra những tiêu chuẩn nhất định đối với vị trí đại lý như trình độ tối thiểu, khả năng giao tiếp, nhanh nhậy… trên cơ sở đó tuyển chọn đại lý một cách khách quan, tránh tình trạng tuyển người không đúng nguyên tắc. Sau khi đã tuyển chọn công ty cần chú ý đào tạo ban đầu và đào tạo liên tục đối với đội ngũ này để họ nắm bắt kịp thời với những đổi mới trong việc triển khai nghiệp vụ cũng như phương thức bán hàng . Hàng tháng hoặc hàng quý, công ty có thể mời người có kiến thức nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp tổ chức những buổi hướng dẫn cho các đại lý. Thỉnh thoảng công ty cũng có thể trích quỹ phúc lợi để thực hiện các hoạt động ngoại khoá cho các đại lý giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau … Ngoài ra công ty có thể thực hiện một số chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ đại lý như hỗ trợ về tài chính lúc ban đầu, trang bị các phương tiện hoạt động … giúp người đại lý thấy tin tưởng vào khả năng phát triển nghề nghiệp của mình, từ đó yêu nghề hơn, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, việc quản lý đại lý hết sức phức tạp vì hoạt động của đại lý không mang tính cố định nên công ty cần có mô hình tổ chức quản lý đại lý theo mô hình quản lý hình tháp và hàng tháng qui định những người chịu trách nhiệm quản lý phải có trách nhiệm gửi báo cáo hoạt động đại lý trong tháng cho cấp cao hơn. - Thứ sáu, tại Bảo Việt Hà Nội có thể sửa đổi một số công thức cũ để tạo ra một cơ hội kinh doanh mới. Thường thì bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội chỉ được bán kèm theo đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt , Bảo Việt Hà Nội không bán bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tách rời khỏi bảo hiểm cháy. Song, thực tế là công ty hoàn toàn có thể bán tách rời nghiệp vụ bảo hiểm này cho bất cứ đơn vị kinh doanh nào đã tham gia bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt ở một công ty bảo hiểm khác, điều này không đi ngược với nguyên lý khai thác trong kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm này. Làm điều này không chỉ giúp làm tăng số thu phí mà còn tạo ra cơ hội cho bảo hiểm cháy phát triển, lôi kéo được khách hàng quen tham gia bảo hiểm cháy ở các doanh nghiệp bảo hiểm khác tham gia bảo hiểm cháy tại Bảo Việt vào năm tiếp sau. - Thứ bảy: Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp khích lệ nhân viên toàn công ty tăng cường tiêu thụ sản phẩm. Việc tiêu thụ sản phẩm không những phụ thuộc vào những yếu tố như đã đề cập ở trên mà còn phụ thuộc vào chính sách phúc lợi của công ty đối với cán bộ. Như công ty có thể thúc đẩy côngtác bán hàng bằng cách khoán doanh số bán hàng cho nhân viên, thưởng cho những nhân viên có sáng kiến mới về tiếp thị, nhân viên có doanh số cao … - Thứ tám: trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, côngty cần thiết phải xác định mục tiêu trước mắt và lâu dài để phát huy thế mạnh của mình . Một trong những phương hướng Bảo Việt Hà Nội đề ra trong thời gian tới là luôn nắm vững địa bàn , và làm chủ thị trường Hà Nội. Rõ ràng, khách hàng mà Bảo Việt Hà Nội muốn nhắm tới trong thời gian tới là tất cả các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh trên địa bàn. Tuy nhiên, để hoạt động kinh doanh có hiệu qủa thì ngoài việc củng cố quan hệ, giữ những khách hàng đang có, côngty còn cần phải đẩy mạnh công tác khai thác khách hàng tiềm năng. Để thực hiện tốt công tác này, Bảo Việt Hà Nội có thể phân chia vùng trên địa bàn, theo dõi só đơn vị hoạt động kinh doanh trên địa bàn, sau đó phân công cán bộ xâm nhập vào từng khu vực để khai thác. Sau khi tiếp cận được khách hàng, cán bộ công ty cần nêu rõ ưu điểm của các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm đang triển khai tại Bảo Việt Hà Nội như tính linh hoạt của biểu phí, chất lượng công tác giám định bồi thường… Mặt khác, công ty cần chú trọng phục vụ nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một loại hình doanh nghiệp rất phổ biến hiện nay. Những doanh nghiệp này là những khách hàng mà các công ty bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường Việt Nam nói chung và thị trường Hà Nội nói riêng chưa thực sự chú trọng khai thác. Bảo Việt Hà Nội nên tận dụng tối đa khoảng trống này để lôi kéo những khách hàng nhỏ về mình, tích tiểu thành đại, nhiều khách hàng nhỏ có thể mang lại doanh thu không kém gì khách hàng lớn. Hơn nữa, cán bộ khai thác Bảo Việt Hà Nội có cơ hội hoàn thiện sản phẩm của mình. Ngoài ra, Bảo Việt Hà Nội cũng có thể nâng cao công tác khai thác bằng cách mở rộng thị trường ra nước ngoài, đổi mới sản phẩm hay thưởng cho những khách hàng có nhiều hợp đồng hay bán sản phẩm phí trả dần … Mặc dù vậy, khó có thể đưa ra một biện pháp tốt nhất cho công tác xúc tiến bán hàng bởi đây là một công tác có quá nhiều yếu tố kinh doanh biến động theo thị trường. Do đó, công ty cần phải ứng phó nhanh nhậy với nhu cầu thị trường, tiềm năng của các đối thủ cạnh tranh hay sự thay đổi của môi trường pháp lý .Để làm được điều này, yếu tố con người có thể được coi là quan trọng nhất, tức Bảo Việt Hà Nội cần có một đội ngũ cán bộ nhanh nhậy, giỏi chuyên môn cũng như các kỹ năng nghiệp vụ. 3.2.2. Nâng cao hiệu quả của công tác giám định và bồi thường. Giám định bồi thường là một khâu có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm và có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác khai thác. Nếu công tác này được thực hiện tốt sẽ lôi cuốn được khách hàng tham gia bảo hiểm. Tuy đối với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, số vụ tổn thất dẫn đến trách nhiệm bồi thường không nhiều nhưng không vì thế mà Bảo Việt Hà Nội xao nhãng công tác này trong quá trình triển khai nghiệp vụ. Do công tác giám định nhiều khi chỉ mang tính chất tương đối, dễ dẫn đến việc phản ánh không chính xác. Vì vậy, các cán bộ làm công tác giám định ngoài yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao, có tư cách đạo đức nghề nghiệp còn phải khách quan trung thực để phản ánh đúng sự việc, diễn biến gây ra rủi ro. Để nâng cao chất lượng công tác này, Bảo Việt Hà Nội nên thương xuyên cử cán bộ tham gia các khoá học của Tổng công ty dể nâng cao trình độ chuyên môn, chất lượng phục vụ, đồng thời tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ với các công ty giám định các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực. Những vụ phức tạp nên phối kết hợp với Tổng công ty , nhờ vào mối quan hệ của tổng công ty để thực hiện tốt công tác giám định. Để tránh tình trạng cán bộ giám định “đồng loã’’ với người tham gia bảo hiểm để thực hiện hành vi gian lận bảo hiểm, kê khai số thiệt hại trong biên bản lớn hơn số thiệt hại thực tế công ty bảo hiểm cần phải chọn lựa những người so tư cách đạo đức tốt làm công tác này. Đồng thời, cử cán bộ thanh tra, kiểm tra theo dõi công tác giám định một số vụ nhất định. Về công tác bồi thường, khách hàng chỉ thực sự thấy được tác dụng, ý nghĩa của việc tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải rủi ro dẫn tới thiệt hại.Việc nâng cao chất lượng phục vụ trong công tác bồi thường là rất cần thiết vì phục vụ khách hàng tốt ở khâu này là hình thức tuyên truyền hữu hiệu nhất về sự phục vụ của công ty. Trong số ít các vụ bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, việc cán bộ bảo hiểm chưa giải thích rõ cho khách hàng nguyên nhân từ chối bồi thường trong một số trường hợp vẫn tồn tại. Do đó, công ty cần thực hiện ngay những biện pháp cần thiết để nâng cao chất lượng công tác bồi thường như gửi cán bộ đi học những lớp nghiệp vụ do các chuyên gia giảng dạy, mở các lớp giáo dục về phong cách phục vụ, giới thiệu cách giải thích cho khách hàng trong một vài trường hợp điển hình có thể phát sinh từ thực tế bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm này … Ngoài ra, công ty cũng nên giảm bớt các thủ tục, giấy tờ rườm rà phức tạp, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng nhận tiền bồi thường. Công ty có thể in sẵn các tài liệu hướng dẫn khách hàng cụ thể phải làm ngay việc gì, phải nộp những giấy tờ gì? … để người được bảo hiểm nhanh chóng nhận được tiền bồi thường, nhanh chóng ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh. 3.2.3. Thực hiện tốt công tác an toàn, đề phòng, hạn chế tổn thất. Về việc đề phòng hạn chế tổn thất trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cần phải gắn kết với nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. Để thực hiện tốt công tác này, công ty cần phải gắn trách nhiệm của mình với khách hàng bằng cách thường xuyên cử cán bộ xuống cơ sở để kiểm tra đôn đốc khách hàng thực hiện tốt công tác đề phòng hạn chế cháy nổ, đưa ra các biện pháp phòng cháy, chữa cháy hữu hiệu cũng như hỗ trợ một phần kinh phí giúp doanh nghiệp mua các trang thiết bị phòng chống cháy nổ. Bên cạnh đó, công ty có thể kết hợp chặt chẽ hơn với cảnh sát phòng cháy chữa cháy, các cấp chính quyền ở địa phương để kiểm tra tình hình thực hiện công tác phòng chống cháy nổ ở đơn vị. Khi không may xảy ra tổn thẩt, người tham gia bảo hiểm thường cảm thấy rất lúng túng không biết phải xử lý ra sao. Lúc này công ty cần phải cảm thông chia xẻ với người tham gia đồng thời phải đưa ra được các biện pháp hạn chế tổn thất xảy ra thêm, giúp khách hàng nhanh chóng trở về tình trạng ổn định sản xuất kinh doanh. 3.2.4. Nâng cao công tác tổ chức nhân sự. “Luôn luôn tự điều chỉnh và hoàn thiện mình” là một trong những phương châm hành động của toàn bộ hệ thống Bảo Việt trong bất kỳ giai đoạn nào. Vì vậy, đào tạo cán bộ giỏi và có đạo đức luôn là một vấn đề được Bảo Việt quan tâm. Thực tế, trình độ cán bộ bảo hiểm trên địa bàn Hà Nội còn có những biểu hiện chưa đạt yêu cầu. Để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công ty Bảo Việt Hà Nội có thể thực hiện một số công tác như sau: - Tổ chức các khoá học, các cuộc hội thảo, không chỉ trong nội bộ công ty mà cần phối hợp với Tổng công ty hay với các công ty bảo hiểm phi nhân thọ khác về các chuyên đề liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm. - Cử cán bộ đi học (ngắn hạn hoặc dài hạn) ở nước ngoài để nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. - Phát hiện và nhìn nhận đúng năng lực của từng cán bộ, và có chính sách đãi ngộ thích đáng, để họ có thể toàn tâm toàn ý đóng góp công sức vào sự phát triển chung của công ty. - Thường xuyên nâng cao tinh thần trách nhiệm và giáo dục đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ công nhân viên, không để xảy ra bất cứ sự việc tiêu cực nào, giải quyết côngviệc chính xác, trung thực và khoa học, đó chính là nền tảng để tạo lòng tin, thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm. - Hướng dẫn cán bộ, công nhân viên trong công ty thực hiệnđúng các quy định, chính sách pháp luật của nhà nước. - Tổ chức khen thưởng đối với những cán bộ công nhân viên làm được việc và sử phạt công minh đối với những cá nhân làm việc thiếu trách nhiệm ỷ lại, không chấp hành nội quy quy chế của công ty. - Phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi cán bộ công nhân viên, từ đó khẳng định được sức mạnh của tập thể. - Phân côngchặt chẽ các khâu trong quản lý doanh nghiệp, tổ chức bộ máy điều hành gọn nhẹ, năng động. - Bổ sung đầy đủ các cán bộ lãnh đạo nghiệp vụ bảo hiểm có đủ trình độ cho các phòng ban và các chi nhánh của công ty. - Đào tạo về kĩ năng giao tiếp, cách tìm kiếm khách hàng, tổ chức những buổi gặp gỡ, thảo luận nhóm giữa các đại lý có kinh nghiệm và các đại lý mới để mọi người có cơ hội gặp gỡ và trao đổi kinh nghiệm trong khai thác. 3.2.5. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính. Trong hoạt động kinh doanh của bất kì nghành nghề nào, thì công việc quản lý tài chính cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, vì dù cho các hoạt động khác có tiến hành tốt đến đâu nhưng công tác quản lý tài chính lại không tốt thì vẫn có thể đưa công ty phải đối mặt với nguy cơ kinh doanh không có lãi hoặc tệ hơn có thể là mất khả năng thanh toán. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một hình thức kinh doanh dịch vụ, trong đó quỹ tiền tệ dùng để chi trả bồi thường được hình thành từ việc đóng góp của người được bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Việc tính toán mức phí phải đảm bảo đủ để chi trả bồi thường, đảm bảo kinh doanh có lãi đồng thời phải đảm bảo được khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, ở Bảo Việt Hà Nội, hiện nay, phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thường đều tính dựa vào tỷ lệ phí của các công ty bảo hiểm nước ngoài có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình cạnh tranh trên thị trường chứ không dựa trên cơ sở tính toán xác suất rủi ro thực tế. Điều này có thể gây ra những khó khăn trên không thể lường trước được trong tương lai có thể xảy ra cho hoạt động kinh doanh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Do đó Bảo Việt Hà Nội cần đề xuất với Tổng công ty thuê hoặc tuyển nhân viên giỏi để đảm nhận công tác tính xác suất rủi ro từ đó đưa ra mức phí hợp lý. Song song với công việc trên, Bảo Việt Hà Nội nên quản lý tài chính dựa trên phương châm “Tiết kiệm chính là để giầu có trong tương lai”. Hiện nay ở hầu hết các công ty, doanh nghiệp nhà nước tình trạng cán bộ công nhân viên đều chịu ảnh hưởng của quan điểm “Cha chung không ai khóc” đã và đang sử dụng lãng phí các nguồn lực. Để tránh tình trạng này để nâng cao hiệu quả kinh doanh, Bảo Việt Hà Nội nên hun đúc một ý thức tiết kiệm trong toàn công ty, tiết kiệm từ việc xây dựng văn phòng trụ sở cho đến việc chi quản lý, giảm tối đa các chi phí hội họp, tiếp khách cũng như các lễ nghi không cần thiết. Một đặc điểm khác biệt của hoạt động kinh doanh bảo hiểm khác với các hoạt động kinh doanh khác là ngành có chu trình kinh doanh đảo ngược, nghĩa là người bảo hiểm sẽ thu phí trước và thực hiện nghĩa vụ chi trả sau khi bên mua bảo hiểm gặp sự cố thuộc phạm vi bảo hiểm. Do vậy, người bảo hiểm sẽ nắm giữ một phần lớn số phí tạm thời nhàn rỗi. Khoản tiền này không chỉ tạo thêm việc làm và thu nhập cho công ty nếu biết tung vào dòng chảy đầu tư.Vì vậy, Bảo Việt Hà Nội có thể tính toán đâù tư vào loại hình thích hợp để mang về lợi ích cho công ty, để công việc kinh doanh ổn định hơn, tăng khả năng cạnh tranh. KẾT LUẬN Mặc dù, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy mới triển khai chưa lâu nhưng những kết quả mà Bảo Việt Hà Nội thu được từ nghiệp vụ này trong thời gian qua là rất đáng khích lệ. Doanh thu phí và số hợp đồng khai thác được năm sau luôn cao hơn năm trước. Tuy nhiên, ở một thị trường giầu tiềm năng như ở thị trường Hà Nội với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định so với tốc độ phát triển chung của cả nước thì Bảo Việt Hà Nội vẫn chưa thể hài lòng với kết quả đạt được Bảo Việt Hà Nội cần phải năng động hơn nữa trong công tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này nhăm đưa nghiệp vụ này sánh ngang tầm với các nghiệp vụ bảo hiểm “đàn anh đàn chị” khác. Trong giai đoạn sắp tới, khi Việt Nam đã gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới một cách đầy đủ toàn diện hơn thì tiềm năng của thị trường còn lớn hơn rất nhiều đồng thời các tập đoàn bảo hiểm nước ngoài sẽ có thêm cơ hội gia nhập sâu hơn vào thị trường bảo hiểm Việt Nam làm cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Đề tài đã hệ trình bầy khái quát những điểm lý luận chính về nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Đánh giá được khái quát thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1999-2003. Qua đó, đưa ra một kiến nghị và số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Hy vọng rằng nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy sẽ sớm trở thành một trong những nghiệp vụ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho Bảo Việt Hà Nội. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nghị định 100/CP về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Luật kinh doanh bảo hiểm - NXB Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – 2001. Giáo trình kinh doanh bảo hiểm - ĐH-KTQD- Chủ biên PGS-TS Hồ Sỹ Sà - NXB Thống kê - 2000. Bảo hiểm và nguyên tắc thực hành - Dr David – NXB Tài Chính. Kinh tế và phát triển số 48, 49, 50, … ( năm 2001). Guide to Consequential Loss Insurrance – Commercial Union Overseas 5/1988. Bussiness Interruption Insurrance - Theory and Practice - John Phillips – London 1988. Bussiness Interruption Rerporting and Rish Improvement - The Insurrance of Institute of London 1988. DANH MỤC SƠ ĐỒ - BẢNG BIỂU Số thứ tự Trang Sơ đồ 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Bảo Việt Hà Nội. 34 Bảng 1: Kết quả kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). 36 Bảng 2: Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh 40 doanh sau cháy tại Bảo Việt bảo hiểm (1999-2003). Bảng3: Tỷ trọng doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh 43 doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). Bảng 4: Tình hình chi đề phòng hạn chế tổn thất của nghiệp vụ 48 bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). Bảng 5: Tình hình chi bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn 51 kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). Bảng 6: Tình hình chi kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh 53 sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). Bảng 7: Kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm 55 gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). MỤC LỤC NỘI DUNG LỜI CẢM ƠN 1 PHẦN MỞ ĐẦU 2 Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy I Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 4 1.1Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 4 1.2.Tác dụng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 6 II Những nội dung cơ bản của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 8 2.1.Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 8 2.2. Những nội dung cơ bản của hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh 16 2.2.1 Hợp đồng bảo hiểm 16 2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 18 2.2.3. Phạm vi bảo hiểm và rủi ro bảo hiểm 18 2.2.4. Số tiền bảo hiểm 21 2.2.5. Phí bảo hiểm 24 2.2.6. Phương thức bồi thường 25 Chương II: Thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003) I Khái quát chung về Bảo Việt Hà Nội 33 1.1. Giới thiệu về Bảo Việt Hà Nội 33 1.2 Cơ cấu tổ chức của Bảo Việt Hà Nội 34 1.3. Kết quả kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội (1999 - 2003) 35 II. Thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003) 37 2.1. Sự ra đời và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội 37 2.2. Thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003) Công tác khai thác bảo hiểm 38 2.2.1. Khâu khai thác 39 2.2.2.Công tác đề phòng hạn chế tổn thất 47 2.2.3.Công tác giám định bồi thường 49 2.2.4.Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 52 Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội I.Một số thuận lợi và khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 58 3.1. Một số thuận lợi 58 3.2. Một số khó khăn 59 II Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội 62 3.1. Một số kiến nghị 62 3.1.1. Một số kiến nghị với Nhà nước 62 3.1.2. Một số kiến nghị với Tổng công ty 63 3.2.Một số giải pháp 64 3.2.1.Giải pháp về công tác khai thác 64 3.2.2. Nâng cao hiệu quả của công tác giám định bồi thường 69 3.2.3.Thực hiện tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất 70 2.2.4. Nâng cao công tác tổ chức nhân sự 71 2.2.5.Hoàn thiện công tác quản lý tài chính 72 KẾT LUẬN 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0009.doc
Tài liệu liên quan