Bảo Hiểm An sinh Giáo Dục

PHần III - Tình hình triển khai chương trình an sinh giáo dục tại Công ty bảo hiểm nhân thọ 29 I - Một vài nét về Công ty bảo hiểm nhân thọ 29 1. Giới thiệu chung về Công ty 29 2. Những thuận lợi khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em tại Công ty bảo hiểm nhân thọ 31 II - Tình hình triển khai chương trình an sinh giáo dục ở Công ty bảo hiểm nhân thọ 34 1. Đánh giá chung về kết quả nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em 34 2. Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo

doc59 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1493 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Bảo Hiểm An sinh Giáo Dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiểm trẻ em trong quý I năm 1999 tại Công ty Bảo hiểm nhân thọ 37 2.1. Công tác khai thác 37 2.2. Công tác đánh giá rủi ro ban đầu 37 2.3. Công tác quản lý hợp đồng 40 2.4. Công tác tuyển dụng và đào tạo 42 2.5. Công tác tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý 44 2.6. Công tác giám dịnh bồi dưỡng 47 2.7. Vấn đề hoạt động đầu tư 47 III - Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ an sinh giáo dục 48 1. Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác 50 2. Đa dạng các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác 50 3. Cần có phương pháp khai thác hợp với từng thị trường 53 4. Công tác tuyển dụng, đào tạo và quản lý cán bộ khai thác 54 5. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm 55 6. Một số kiến nghị khác 56 Kết luận 58 Lời nói đầu Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò con người. Không ngừng cải thiện nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục đích hàng đầu của chế độ xã hội ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong các kì đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8 đã và đang có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế nước ta. Sau hơn mười năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã gặt hái được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Nên nền kinh tế nước ta dần dần khởi sắc và phát triển một cách vững chắc, về cơ bản chúng ta đã thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài, sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế đang được điều chỉnh, đIều kiện sống của nhân dân không ngừng được cảI thiện và nâng cao. Trong xu thế phát triển toàn diện đó, ngành bảo hiểm cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày càng có nhiều nghiệp vụ mới ra đời, bảo hiểm nhân thọ là một ví dụ điển hình. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ mang tính đặc thù cao, có sức hấp dẫn riêng và có sự khác biệt so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ bao gồm nhiều loạI hình khác nhau như: Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5-10 năm, An sinh giáo dục...Sở dĩ em chọn đề tài:“An sinh giáo dục: Thực trạng và một số biện pháp phát triển nghiệp vụ này ở công ty Bảo hiểm nhân thọ “ cho chuyên đề thực tập của mình là vì những lý do sau: - Mặc dù bảo hiểm nhân thọ ra đời rất sớm trên thế giới ( năm 1583, ở Anh) và khônh ngừng phát triển ở khắp nơi, nhưng lại được triển khai rất muộn ở Việt nam. Vì vậy, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới để áp dụng vào thực tế triển khai ở nước ta là một đòi hỏi cấp bách có ý nghĩa kinh tế lớn - Do nghiệp vụ “ An sinh giáo dục “mới được triển khai ở nước ta, thêm vào đó chúng ta lại thiếu một hệ thống luật đồng bộ trong bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng, nên khó tránh khỏi những hạn chế, những điều bất hợp lý trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách khoa học, tìm ra giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Nghiệp vụ bảo hiểm này có tính chất khác biệt rõ nét so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác ở chỗ nó không chỉ mang tính chất bảo hiểm các rủi ro mà còn mang tính chất tiết kiệm. Điều này có nghĩa là công ty phải trả một khoản tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù không có rủi ro xảy ra với khách hàng. Do vậy công ty bảo hiểm nhân thọ cần có một chính sách đầu tư vốn hợp lý để đảm bảo tài chính của công ty. - Nghiệp vụ này còn thu hút được nhiều người nghiên cứu vì nó có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Với các khẩu hiệu “ Tất cả vì tương lai con em chúng ta”, “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai “ thì chương trình “An sinh giáo dục “ là một biện pháp hữu hiệu để các thế hệ đi trước thể hiện sự quan tâm đối với các thế hệ đi sau. Khi nghiên cứu đề tài, ta phải phân tích tình hình triển khai, từ đó đưa ra một số biện pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của công ty trong thời gian tới. Nội dung đề tài gồm ba phần: Phần I: Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ. Phần II: Những nội dung cơ bản về nghiệp vụ An sinh giáo dục trong hệ thống bảo hiểm nhân thọ. Phần III: Tình hình triển khai chương trình An sinh giáo dục tại công ty bảo hiểm nhân thọ. Phần I lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ. I. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ. 1. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ. a. Trên thế giới: Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển từ rất lâu trên thế giới. Hình thức bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo hiểm là William Gybbon. Như vậy, bảo hiểm nhân thọ có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con người, nên bảo hiểm nhân thọ phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm nhân thọ đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Với sự xuất hiện các phép tính xác suất Pascal và Fermat thì sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ là một tất yếu khách quan. Năm 1759, công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở châu Mỹ nhưng chỉ bán các hợp đồng bảo hiểm cho các con chiên trong nhà thờ của họ. Năm 1762, ở Anh thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable. Đây là công ty đầu tiên bán các hợp đồng bảo hiểm rộng rãi cho nhân dân và áp dụng nguyên tắc phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời gian bảo hiểm. Năm 1812, một công ty bảo hiểm nhân thọ nữa được thành lập ở Bắc Mỹ. Năm 1860 bắt đầu xuất hiện hệ thống mạng lưới đại lý bán bảo hiểm nhân thọ. Cho đến nay bảo hiểm nhân thọ đã phát triển rất mạnh mẽ và đa dạng. Từ những loại hình nhân thọ cơ bản là Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn (Bảo hiểm tử kỳ), Bảo hiểm trọn đời, Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, Bảo hiểm trợ cấp hưu trí, mỗi công ty bảo hiểm đều thiết kế những sản phẩm mang những đặc thù riêng để đáp ứng nhu cầu tài chính của từng khu vực dân cư và phù hợp với chính sách kinh tế, xã hội của từng quốc gia. Người ta cũng thường có những điều khoản bổ sung trong đó phạm vi bảo hiểm là tai nạn hoặc bệnh tật, ốm đau, các bệnh hiểm nghèo xảy ra trong thời hạn bảo hiểm của hợp đồng chính (là một trong bốn dạng trên). Trên thế giới, hiện nay doanh số của bảo hiểm nhân thọ chiếm trên 50% doanh số của ngành bảo hiểm. Dưới đây là số liệu thể hiện tỷ trọng doanh số bảo hiểm nhân thọ ở các khu vực trên thế giới trong hai năm 1990, 1996. Bảng 1: Doanh số của bảo hiểm nhân thọ so với doanh số ngành bảo hiểm ở các khu vực Đơn vị tính: % Năm Khu vực 1990 1996 Châu á 33,8 75 Châu Âu 31,4 50 Châu Mỹ 34,8 43 Nguồn tài liệu: Tạp chí Tái bảo hiểm - 1996. Trong đó, cho đến năm 1993, ở Đông Nam á tổng doanh thu phí bảo hiểm là 61,1 tỷ USD, doanh số của bảo hiểm nhân thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8% , doanh số của bảo hiểm phi nhân thọ là 16 tỷ USD chiếm 26,2%. Có thể đưa ra đây một số ví dụ về sự phát triển bảo hiểm nhân thọ ở một số nước như sau: Bảng 2: Phí bảo hiểm nhân thọ ở một số nước trên thế giới năm 1993. Tên nước Tổng phí bảo hiểm (tr.USD) Nhân thọ (%) Phi nhân thọ (%) Phí BHNT trên đầu người(US/ 1000người) Tỷ lệ BHNT trên GDP (%) Bảo hiểm phi nhân thọ trên GDP (%) Hàn Quốc Nhật Bản Đài Loan Singapor Philipin Thái Lan Malaixia Inđonêxia Mỹ Đức Pháp Anh 36.050 320.143 9.886 1.666 1.238 2.127 1.989 1.233 522.468 107.403 84.303 102.360 79,66 73,86 68,77 62,42 59,43 53,64 46,45 30,25 41,44 39,38 56,55 64,57 20,34 26,14 31,23 37,28 40,57 43,36 53,55 69,75 58,56 60,62 43,65 35,43 651.201 1.909.870 325.311 358.620 11.294 19.470 48.125 1.974 838.223 524.138 826.320 1.141.450 8,68 5,61 3,14 1,89 1,38 0,92 1,43 0,26 3,41 2,25 3,80 7,00 2,21 1,98 1,43 1,14 0,82 0,80 1,65 0,60 4,82 3,46 2,82 3,85 Nguồn: Tạp chí Kinh tế phát triển - Đại học kinh tế quốc dân. b.Tại Việt Nam: Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ, trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ này. Với sự ra đời của công ty bảo hiểm nhân thọ, chính thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ gần ba năm, nhưng trong thực tế bảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm dưới nhiều hình thức khác nhau. Trước năm 1954, ở miền Bắc, những người làm việc cho Pháp đã được bảo hiểm và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này. Các hợp đồng bảo hiểm này đều do các công ty bảo hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện. Trong những năm 1970 - 1971 ở miền Nam công ty Hưng Việt bảo hiểm đã triển khai một số loại hình bảo hiểm như “An sinh giáo dục”, “Bảo hiểm trường sinh” (Bảo hiểm nhân thọ trọn đời), “Bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 - 10 - 20 năm”, nhưng công ty này chỉ hoạt động từ một đến hai năm nên các nghiệp vụ bảo hiểm không được biết đến rộng rãi. Năm 1987, Bảo Việt đã có đề án “Bảo hiểm nhân thọ và việc vận dụng vào Việt Nam”, nhưng vào lúc đó điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn như: - Tỷ lệ lạm phát rất cao và không ổn định. - Thu nhập của nhân dân chỉ đủ để chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu thường ngày, phần tiết kiệm rất ít. - Chưa có điều kiện để công ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực đầu tư. Công ty bảo hiểm lúc đó chưa được phép sử dụng quỹ bảo hiểm đi đầu tư, môi trường đầu tư chưa phát triển. - Chưa có những qui định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ giá công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm và khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm. Với những khó khăn trên đã không cho phép công ty Bảo Việt phát triển nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Thay cho bảo hiểm nhân thọ, năm 1990, Bộ Tài chính cho phép công ty Bảo Việt triển khai “Bảo hiểm sinh mạng con người thời hạn 1 năm”.Thực tế triển khai nghiệp vụ này cho thấy: - Việc lo xa cho gia đình khi không may người chủ gia đình bị mất mà chỉ tính đến trong vòng 1 năm là không hấp dẫn. Tâm lý người tham gia loại hình bảo hiểm này cũng không thoải mái. Và do đó loại hình bảo hiểm này chỉ đáp ứng được nhu cầu cho những người già. - Mọi người tham gia bảo hiểm đều thắc mắc, nếu không gặp rủi ro có được nhận lại gì không? Với thực tế trên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu triển khai nghiệp bảo hiểm nhân thọ với hai loại hình mang tính chất tiết kiệm từ cuối năm 1993. Đến tháng 1 năm 1994, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam mới chính thức trình Bộ Tài chính dự án thành lập công ty Bảo hiểm nhân thọ. Với những yêu cầu về quản lý quỹ bảo hiểm nhân thọ, Bộ Tài chính đã ký quyết định số 568/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam. 2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một vài người trong số họ phải gánh chịu. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia bảo hiểm nhân thọ trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển.ở châu á, những năm gần đây bảo hiểm nhân thọ phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao.Theo Tài liệu của công ty Bảo Việt nhân thọ, năm 1996, ở châu á, tổng doanh thu phí bảo hiểm là 61,1 tỷ USD trong đó phí bảo hiểm nhân thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8%. Ơ các nước phát triển có môi trường đầu tư tốt, bảo hiểm nhân thọ phát triển rất mạnh mẽ. Bảo hiểm nhân thọ giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia bảo hiểm nhân thọ nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dải, tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh". Muốn thực hiện được thắng lợi mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội đã đề ra thì nhân tố vốn đầu tư là rất quan trọng. Vốn đầu tư chủ yếu được lấy từ quĩ tích luỹ của nền kinh tế quốc dân và nguồn vốn vay nước ngoài. Theo kinh nghiệm của một số nước phát triển và tình hình kinh tế xã hội thực tế của Việt Nam thì nhất thiết phải tạo nhanh nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và phải coi đây là biện pháp chính. Có tích luỹ từ trong nước thì mới tiếp nhận được nguồn vốn từ bên ngoài. Mà quĩ tích luỹ này được hình thành chủ yếu từ tiết kiệm, để phát huy nguồn vốn này cần phải đẩy mạnh tiết kiệm, tạo khoản vốn cần thiết để phát triển kinh tế. Một trong những mặt yếu kém của nền kinh tế nước ta thời gian qua là nguồn vốn đầu tư phát triển bằng nguồn vốn trong nước tăng không đáng kể, mặc dù theo điều tra, vốn trong dân không phải là nhỏ. Báo Đầu tư số ra gần đây cho biết: Nguồn vốn trong dân ước tính trong các năm : - Năm 1992: 9419 tỷ đồng chiếm 9,8% GDP. - Năm 1994: 21.753 tỷ đồng chiếm 12,8% GDP. - Năm 1995: 34.382 tỷ đồng chiếm 13,2% GDP. Dự đoán từ nay đến năm 2000 tỷ lệ này đạt 15% GDP. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi. Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển. Bảo hiểm nhân thọ từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng lượng vốn mà công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam huy động được cũng là hết sức cần thiết trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay. Nếu như đối với nghiệp vụ bảo hiểm khác thời gian bảo hiểm thường ngắn, mức phí đóng thường là thấp thì ở nghiệp vụ " An Sinh Giáo Dục " thời gian bảo hiểm dài, mức phí định kỳ cao. Điều này cho thấy huy động vốn bằng cách tăng cường triển khai nghiệp vụ "An Sinh Giáo Dục " là hết sức cần thiết đối với công ty bảo hiểm nhân thọ. II - Mục đích, ý nghĩa và đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ 1.Mục đích Bảo hiểm nhân thọ là một sự đảm bảo và mang tính chất tương hỗ - đó là mục đích chính, và do đó bảo hiểm nhân thọ mang tính chất xã hội rất lớn. Số tiền được trả cho thân nhân và gia đình người tham gia bảo hiểm khi không may gặp rủi ro được bảo hiểm sẽ giúp những người thân chi trả những khoản chi tiêu rất lớn như: tiền thuốc thang và bác sỹ, tiền ma chay, khoản tiền cần thiết để ổn định cuộc sống, chi phí giáo dục con cái, nuôi dưỡng chúng nên người. Không ai muốn nghĩ tới cái chết, nhưng không ai biết nó đến lúc nào. Việc mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là thể hiện sự chu đáo của mình đối với gia đình. Và nếu như may mắn trong suốt thời hạn bảo hiểm không có rủi ro thì người được bảo hiểm vẫn nhận lại được số tiền đã nộp cộng thêm lãi nhờ hoạt động của công ty bảo hiểm. Nhiều khoản tiền nhỏ lúc đó cộng lại đã thành khoản tiền lớn để chi tiêu cho những công việc lớn, hoặc như dành dụm cho con bằng cách mua hợp đồng “An sinh giáo dục” thì khi đứa trẻ 18 tuổi đã có một khoản tiền để cấp vốn cho nó làm ăn hoặc chi phí cho nó tiếp tục đi học đại học. Chi phí giáo dục - một vấn đề lớn trong ngân sách của mỗi gia đình hiện nay và càng trở nên nóng bỏng trong tương lai. So với các hình thức tiết kiệm, bảo hiểm nhân thọ có ưu điểm sau: - Bảo hiểm nhân thọ là hình thức tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch. Khi đã quyết định mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì các khoản phí nhỏ đóng hàng tháng được coi như là các chi phí thường xuyên như tiền ăn, tiền điện, tiền nước...và người đại lý chính là người thường xuyên nhắc nhở và thu khoản tiền này. - Bảo hiểm nhân thọ hỗ trợ khó khăn về tài chính cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bằng một khoản tiền lớn ngay cả khi họ mới kịp tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ. 2 . ý nghĩa của bảo hiểm nhân thọ Cũng giống như các nghiệp vụ bảo hiểm khác , bảo hiểm nhân thọ có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống mỗi cá nhân , mỗi gia đình nói riêng và của xã hội nói chung . a.Đối với mỗi cá nhân , gia đình . - Bảo hiểm nhân thọ thể hiện sự quan tâm lo lắng của người chủ gia đình đối với con cái hay những người phụ thuộc . Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển , các công nghệ hiện đại giúp cho cuộc sống tiện lợi hơn , văn minh hơn nhưng những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào , nó cướp đi mạng sống của con người hoặc gây cho con người những thương tật mà không thể phục hồi trở lại . Chính vì thế , trong xã hội văn minh hiện nay vẫn có một thực trạng đáng buồn là nhiều gia đình trở nên khó khăn , túng quẫn khi người trụ cột gia đình không may gặp rủi ro dẫn tới mất mát hoặc giảm thu nhập. Do đó, nếu tham gia bảo hiểm nhân thọ thì họ sẽ có một khoản tiền để chi trả, trang trải những chi phí như nằm viện , phẫu thuật , thuốc men , nợ nần , chi phí mai táng hoặc bù đắp một phần những khoản thu nhập thường xuyên của gia đình bị mất hoặc bị giảm . Vì thế , bảo hiểm nhân thọ góp phần giảm bớt khó khăn về tài chính khi không may người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro . -Bên cạnh đó , mỗi người dân lao động đều có ý thức tiết kiệm , dành dụm tiền để thực hiện những dự định trong tương lai . Bảo hiểm nhân thọ là một trong những biện pháp để thực hiện tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch đối với từng gia đình . Đặc điểm ưu việt của loại hình bảo hiểm nhân thọ là khi hết thời hạn bảo hiểm , người được bảo hiểm vẫn được nhận lại toàn bộ số tiền bảo hiểm cho dù trong thời gian bảo hiểm có xảy ra rủi ro hay không . Không ai dám nói trước về tương lai và tiết kiệm từ hôm nay để đảm bảo cho ngày mai là biện pháp tích cực và có ý nghĩa nhất vì tương lai tốt đẹp của con cái , của gia đình luôn được đảm bảo bằng trình độ học vấn , bằng cấp khoa học , vị trí xã hội vững vàng - Bảo hiểm nhân thọ góp phần thực hiện kế hoạch tài chính của từng gia đình : tạo quỹ dành cho giáo dục con cái , có tiền để chi dùng khi về hưu . Tóm lại , bảo hiểm nhân thọ có vai trò hết sức quan trọng, to lớn đối với mỗi thành viên trong toàn xã hội. Tham gia bảo hiểm nhân thọ là quyền lợi của mọi người và nhờ có bảo hiểm nhân thọ mà cuộc sống của con người trở nên hạnh phúc hơn , an toàn hơn .Tham gia bảo hiểm nhân thọ làm người ta tự tin hơn, quyết đoán hơn vì bảo hiểm nhân thọ giúp người tham gia giảm bớt sự ràng buộc đối với người thân mà người tham gia phải có trách nhiệm nuôi dưỡng . Chính sự tự tin này làm cho mọi hoạt động của người tham gia đạt hiệu quả cao hơn . Nhờ những đặc tính ưu việt của mình mà bảo hiểm nhân thọ đã và đang phát triển rất nhanh rộng khắp các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có trình độ phát triển, trình độ dân trí và bình quân thu nhập đầu người cao. Đây là nhuyên nhân chính thúc đẩy bảo hiểm nhân thọ phát triển mạnh ,và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với các hoạt động của cả ngành bảo hiểm nói chung. b.Đối với xã hội . - Bảo hiểm nhân thọ là một hình thức quan trọng để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhằm giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Với nguồn vốn lớn thu được từ phí bảo hiểm đã giúp cho công ty đầu tư vào các lĩnh vực, công trình lớn, đặc biệt là các công trình cơ sở hạ tầng . Hiện nay ở một số nước trên thế giới, lượng vốn do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp lớn hơn nhiều so với các tổ chức tài chính khác. Ví dụ như ở Mỹ, năm 1970 số vốn do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp vào thị trường là 9 tỷ USD, trong khi đó số vốn do hệ thống ngân hàng cung cấp là 37 tỷ USD. Nhưng cho đến năm 1991 con số đó đã là: số vốn do công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp: 90,2 tỷ USD, số vốn do hệ thống ngân hàng cung cấp: 85,7 tỷ USD. Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư Việt Nam là 11 tỷ USD, trong đó có khoảng 50% là dự trữ bằng vàng. Đây là một lượng vốn nhàn rỗi lớn, mà các tổ chức tài chính chưa huy động được hết, do đó đã để lãng phí nhiều. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì thế vốn càng là một nhu cầu tất yếu , bức thiết để tiến hành công cuộc này,với các chính sách mở cửa đất nước nhằm thu hút vốn đầu tư của nước ngoài song chúng ta lại chưa khai thác hết tiềm năng trong nước. Trước tình hình này bảo hiểm nhân thọ cần có biện pháp, kế hoạch huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân để phục vụ cho nhu cầu đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước . - Bên cạnh vai trò huy động vốn trong nước thì bảo hiểm nhân thọ còn có vai trò thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư cho một công ty bảo hiểm lúc đầu thường rất lớn , khi có một chính sách phù hợp sẽ thu được một lượng vốn đầu tư bên ngoài đáng kể, vì bảo hiểm nhân thọ là một thị trường hết sức mới mẻ và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa đặc điểm của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ có tính chất dài hạn nên nguồn vốn cung cấp cho nền kinh tế cũng lớn. Trong khoảng thời gian này các nhà đầu tư chưa thu được nhiều lợi nhuận, do đó họ sẽ tiếp tục đầu tư mà không rút khỏi thị trường Việt Nam. - Bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo nên phong cách , tập quán sống mới. Tham gia bảo hiểm nhân thọ thể hiện một nếp sống đẹp, đó là biết lo lắng cho tương lai mình và quan tâm đến tương lai của người thân, đồng thời góp phần giáo dục con em mình về đức tính tiết kiệm, cần cù và sống có trách nhiệm với người khác. - Bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế . Vấn đề thất nghiệp luôn được quan tâm bởi chính phủ, các tổ chức xã hội, người lao động...Tỷ lệ thất nghiệp cao hay thấp đều ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã hội như tình trạng nền kinh tế, sự ổn định chính trị, tệ nạn xã hội .v.v. Giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp là mục tiêu của tất cả các chính ohủ và là mong muốn của toàn thể nhân dân lao động . Để thực hiện mục tiêu này các nước phải chống lại tình trạng gia tăng dân số, hạn chế sự tác động của khoa học kỹ thuật . Chính sự mâu thuẫn này làm cho xã hội luôn có tình trạng thất nghiệp dù chúng ta có cố gắng thế nào đi chăng nữa. Với tư cách là tổ chức hoạt động kinh doanh, công ty bảo hiểm cũng đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của toàn xã hội, đó là tạo ra công ăn việc làm, hạn chế tình trạng thất nghiệp . Trước hết, để đảm bảo cho bộ máy của mình hoạt động, bảo hiểm nhân thọ đã trực tiếp tạo việc làm cho một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động . Nhữnh người này làm việc trong các mạng lưới của công ty như nhân viên , đại lí , môi giới bảo hiểm .v.v. Chẳng hạn như riêng ở Hồng Kông chỉ với 6 triệu dân nhưng đã có 35 000 người hoạt động trong lĩnh vực vực bảo hiểm nhân thọ. Theo tài liệu thống kê năm 1993 ta có : Bảng3:Số lao động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ ở một số nước Đơn vị tính: người Tên nước Đài Loan Hàn Quốc Pháp Mỹ Số lao động 8.000 14.000 150.000 1.000.000 Nguồn : Tổng cục thống kê Mặt khác công ty bảo hiểm nhân thọ còn là một tổ chức tài chính trung gian, do đó nó có chức năng gián tiếp tạo công ăn việc làm thông qua việc đầu tư , cho vay vốn mà công ty thu được từ những người tham gia bảo hiểm . Như vậy, bảo hiểm nhân thọ có một chức năng , một vai trò to lớn trong việc tạo việc làm , giải quyết thất nghiệp cho xã hội . - Bảo hiểm nhân thọ góp phần giải quyết một số vấn đề như : + Vấn đề giáo dục Đầu tư giáo dục phải được coi là một trong những nhân tố then chốt cho sự phát triển . Trong khi ngân sách Nhà nước còn eo hẹp và chi phí cho giáo dục ngày càng tăng , chúng ta đã thực hiện một số giải pháp như : kêu gọi sự đóng góp của các cơ quan , doanh nghiệp cho việc đào tạo giáo dục , triển khai cho sinh viên vay vốn ngân hàng , hỗ trợ học tập . . . Tuy nhiên đó chỉ là những biện pháp vĩ mô và mang tính chất tình thế , chưa thực sự huy động các tầng lớp trong xã hội tham gia . Bảo hiểm nhân thọ - cụ thể là chương trình An sinh giáo dục là một biện pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho việc giáo dục từ việc tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch của mỗi gia đình . Đấy cũng là một giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội . Tham gia bảo hiểm nhân thọ sẽ đảm bảo được quỹ giáo dục cho con cái ngay cả khi người trụ cột trong gia đình mất hoặc giảm thu nhập . + Vấn đề xoá đói giảm nghèo Mặc dù điều kiện sống đã được nâng cao nhưng không ai lường trước được rủi ro và nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào . Tham gia bảo hiểm nhân thọ là một cách để bảo vệ mỗi cá nhân trong gia đình chống lại sự bất ổn về mặt tài chính khi rủi ro xảy ra . Xét về mặt xã hội , bảo hiểm nhân thọ đã góp phần làm giảm người bần cùng nghèo khổ do những rủi ro gây ra . + Vấn đề người về hưu và cao tuổi Điều kiện sống được cải thiện thì đời sống của con người cũng được nâng cao , dẫn tới tỉ lệ người già ngày càng cao trong dân số . Chính vì thế ta cần phải lo cho tương lai khi về hưu , bảo hiểm nhân thọ chính là một công cụ để thực hiện điều đó . Nói cách khác bảo hiểm nhân thọ đã góp phần giảm bớt gánh nặng trách nhiệm cho xã hội đối với người về hưu , người già... - Bảo hiểm nhân thọ góp phần nâng cao phúc lợi xã hội Tham gia bảo hiểm nhân thọ là quyền lợi của mỗi công dân , sự xuất hiện của bảo hiểm nhân thọ đã làm cho cuộc sống con người được bảo đảm và phát triển một cách có kế hoạch . Sự phát triển này khiến chúng ta có độ thoả mãn cao hơn về vật chất và tinh thần . Khi tham gia bảo hiểm nhân thọ chúng ta sẽ sống thoải mái hơn vì đã có sự đảm bảo nhất định của công ty bảo hiểm . Do vậy, đứng trên phương diện nào đó thì bảo hiểm nhân thọ đã và đang nâng cao phúc lợi xã hội . Thêm vào đó ,bảo hiểm nhân thọ đang góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội như cướp bóc , mãi dâm , cờ bạc v.v... Nếu như không có bảo hiểm nhân thọ thì khi một người là lao động chính trong gia đình gặp tai nạnvà mất khả năng lao động, lúc đó cuộc sống của toàn thể gia đình sẽ gặp muôn vàn khó khăn . Ai cũng có mưu cầu hạnh phúc , mưu cầu tồn tại nhưnh khi không thể kiếm sống được bằng lao động , bằng chính sức lực của mình thì rất có thể họ sẽ kiếm tiền bằng các biện pháp phi pháp để đạt được mưu cầu này .Với sự đóng góp của mình , công ty bảo hiểm nhân thọ đã góp phần hoàn thiện các công trình phúc lợi , các khu vui chơi giải trí công cộng . c. Đối với doanh nghiệp: Doanh nghiệp hoặc cá nhân làm kinh doanh thường mua bảo hiểm nhân thọ với một trong hai lý do sau: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cá nhân có thể đảm bảo trả một khoản tiền để công việc kinh doanh vẫn tiếp tục trong trường hợp tử vong của chủ doanh nghiệp, đối tác hoặc những người chủ chốt. Một doanh nghiệp có thể mua bảo hiểm nhân thọ để đảm bảo một số chế độ đãi ngộ cho người làm công. Điều đó có nghĩa là bất cứ một doanh nghiệp tư nhân hay các công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn đều có thể duy trì hoạt động kinh doanh của mình nếu người chủ doanh nghiệp hoặc nhân vật chủ chốt bị tử vong. Nếu người chủ doanh nghiệp chết cổ phần của anh ta trong doanh nghiệp sẽ trở thành một phần tài sản thừa kế của anh ta và tài sản phải trả được dùng để trả các khoản nợ - kể cả nợ kinh doanh . Nếu không đủ tiền trả nợ người thực hiện di chúc bị buộc phải bán doanh nghiệp với khoản lỗ lớn để có được số tiền cần thiết trả các khoản nợ. Đồng thời chỉ định một nhân viên có năng lực tiếp tục kinh doanh. Thêm vào đó, người chủ sở hữu cho phép bán tài sản của anh ta cho doanh nghiệp theo điều khoản hợp đồng mua bán nếu thành viên kia không đủ tiền mua doanh nghiệp thì hoạt động bảo hiểm nhân thọ là cách phổ biến nhất đề cấp vốn cho hoạt động này. Nhân viên mua hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của chủ sở hữu doanh nghiệp vừa là chủ hợp đồng vừa là người trả phí bảo hiểm và là người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm đủ để người đó mua doanh nghiệp. Bảo hiểm nhân thọ thể hiện ở việc bảo hiểm tính mạng con người. Do đó khi chủ doanh nghiệp tham gia bảo hiểm nhân thọ thì sẽ đảm bảo cho quá trình kinh doanh của công ty và cái chết của người này có thể gây thiệt hại về tài sản của công ty. Không chỉ có thế, bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo lập nên mối quan hệ vững chắc giữa chủ doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong công ty thông qua chế độ đãi ngộ. Với việc doanh nghiệp tham gia bảo hiểm nhân thọ cho các nhân viên, doanh nghiệp đã góp phần ổn định đời sống cho người lao động nếu không may họ gặp rủi ro. 3. Đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ a. Tính đa mục đích của bảo hiểm nhân thọ: Đối với các loại bảo hiểm khác, người mua bảo hiểm chỉ có một mục đích là khi xả._.y ra rủi ro được trả một số tiền đủ để thanh toán các chi phí phát sinh. Trong bảo hiểm nhân thọ, người tham gia trông mong nhiều hơn và thực sự bảo hiểm nhân thọ mang tính đa mục đích hơn, thể hiện ở: Thứ nhất, bảo hiểm nhân thọ tạo ra một khoản tiền đáng kể giúp người được bảo hiểm thực hiện được các ý định, công việc của mình. Thứ hai, khi người được bảo hiểm đóng vai trò là người trụ cột trong gia đình không may tử vong, số tiền bảo hiểm lúc này là khoản thu nhập quí giá giúp gia đình người được bảo hiểm trang trải các chi phí cần thiết. Thứ ba, trong một giới hạn nhất định, hợp đồng bảo hiểm trong thời hạn hiệu lực được coi như một Tài sản thế chấp để người được bảo hiểm vay tiền của ngân hàng. Thứ tư, bảo hiểm nhân thọ đảm bảo được cuộc sống cho chính người được bảo hiểm lúc tuổi già hay không may bị tàn tật. b. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm hai sự kiện trái ngược nhau trong cùng một hợp đồng: Đó là hai sự kiện sống và chết. Trong bất kỳ một loại hình bảo hiểm nào khác, sự kiện được bảo hiểm chỉ là một rủi ro gây thiệt hại cho người được bảo hiểm. Nếu như không có rủi ro xảy ra trong thời hạn bảo hiểm nhà bảo hiểm sẽ hết trách nhiệm với người được bảo hiểm. Nhưng trong bảo hiểm nhân thọ cụ thể trong loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, nhà bảo hiểm cam kết sẽ trả một số tiền nhất định nếu người được bảo hiểm bị chết trước một thời điểm nào đó đã được ghi trong hợp đồng hoặc nếu người được bảo hiểm còn sống đến hết thời hạn hợp đồng. Như vậy, việc trả tiền của nhà bảo hiểm là chắc chắn, nó chỉ còn tuỳ thuộc vào thời gian xảy ra rủi ro và thời hạn của hợp đồng bảo hiểm của người được bảo hiểm. Đây là một đặc trưng rõ nét nhất của bảo hiểm nhân thọ mà không một loại hình bảo hiểm nào khác có được. c. Vấn đề duy trì sức mua của đồng tiền trong bảo hiểm nhân thọ: Vì thời gian của hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ là dải nên người ta không thể không tính đến sức mua của đồng tiền. Trong thực tế, ở Việt nam có thời kỳ đồng tiền bị mất giá tới hơn 90% trong 10 năm. Giải quyết vấn đề này nhà bảo hiểm có thể áp dụng các phương pháp sau: - Thông qua cơ chế đánh giá lại bằng cách xác định được thời điểm tính được sự mất giá của đồng tiền. Điều này sẽ làm được nếu tính mức phí theo các năm. Đây là một công việc khá phức tạp, hiện nay bảo hiểm nhân thọ ở Việt nam tính theo mức phí cố định. - Thông qua các cam kết của đôi bên (giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm) không được biểu hiện bằng tiền. Nghĩa là số tiền bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm sẽ được biểu hiện qua các hình thức như: + Các ngoại tệ (đặc biệt là các ngoại tệ mạnh) có mức mất giá ít. Tuy nhiên điều này liên quan tới luật pháp của các nước khác nhau. + Vàng, chứng khoán có giá, nhà cửa... người ta hy vọng rằng giá trị của các loại này sẽ tăng, ít nhất cũng bù đắp được sự mất giá của đồng tiền. Ngoài các đặc trưng trên, một đặc trưng nữa của bảo hiểm nhân thọ đó là bảo hiểm nhân thọ chịu sự tác động giao thoa của hai nhân tố: Nhân tố tuổi thọ và nhân tố Tài chính. Cả hai nhân tố tuổi thọ và nhân tố Tài chính đều tác động đến quá trình tính phí bảo hiểm và việc đem đầu tư số phí thu được của công ty bảo hiểm nhân thọ. Trong các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, cần phải duy trì sự công bằng trung thực giữa nhà bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm. Điều này được thể hiện rõ qua việc định phí bảo hiểm đối với các rủi ro có độ trầm trọng tăng lên hoặc trong trường hợp rủi ro rất xấu. ở trường hợp thứ nhất phải tăng phí, hoặc trong trường hợp thứ hai thì phí phải rất cao. Đó là điều quan trọng đối với người làm bảo hiểm. Trong bảo hiểm tử kỳ thuần tuý, để đảm bảo sự công bằng, người tham gia bảo hiểm không được phép thu về những khoản tiền tiết kiệm tích luỹ được khi họ bị tử vong hay sắp bị tử vong. Trên đây là những đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ, thể hiện sự khác biệt giữa các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ với các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ trong hệ thống bảo hiểm. III . Các loại hình bảo hiểm nhân thọ và chương trình An sinh giáo dục trong bảo hiểm nhân thọ Như trên đã nêu, bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ mang ý nghĩa kinh tế - xã hội sâu sắc . Trong đó, người tham gia bảo hiểm sẽ định kì đóng những khoản phí trong một thời gian thoả thuận trước vào một quỹ lớn do công ty bảo hiểm quản lívà công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một khoản tiền khi kết thúc thời hạn hợp đồng bảo hiểm hoặc khi có sự kiện rủi ro xảy ra cho người được bảo hiểm hoặc cho người thừa kế hợp pháp . Do đó bảo hiểm nhân thọ được hiểu như một sự đảm bảo , một hình thức tiết kiệm và mang tính chất tương hỗ .Bảo hiểm nhân thọ trên một phương diện nào đó còn mang tính chất bổ sung cho bảo hiểm xã hội khi đời sống của nhân dân đưọc nâng cao mà chế độ bảo hiểm xã hội chưa đáp ứng được . 1 . Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản đang được triển khai Hiện nay , hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ ở các nước trên thế giới đang triển khai 4 loại hình bảo hiểm nhân thọ sau : a. Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn bao gồm các loại hình bảo hiểm trong đó tiền bảo hiểm chỉ được trả khi người được bảo hiểm bị chết trong thời hạn bảo hiểm. b. Bảo hiểm trọn đời Bảo hiểm trọn đời là loại hình bảo hiểm nhân thọ mà thời gian bảo hiểm không xác định và số tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế khi người được bảo hiểm chết. Người được bảo hiểm sẽ đóng phí ngay từ khi ký hợp đồng cho đến khi chết hoặc đến một độ tuổi nhất định c. Bảo hiểm trợ cấp hưu trí Đây là loại hình bảo hiểm đóng phí ngay một lần và công ty bảo hiểm nhân thọ có trách nhiệm trả trợ cấp định kì cho người được bảo hiểm đến khi chết . Người mua bảo hiểm thường kết hợp dạng bảo hiểm này với dạng bảo hiểm hưu trí . Nghĩa là khi về hưu , người được bảo hiểm được số tiền khá lớn của hợp đồng bảo hiểm hưu trí và mua ngay hợp đồng trợ cấp hưu trí để đảm bảo cuộc sống ngay sau khi về hưu cho đến lúc chết . d. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm . Số tiền bảo hiểm sẽ được trả khi người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến hết hạn hợp đồng . Thời hạn bảo hiểm được xác định trước . Riêng loại hình này cũng rất phong phú,đa dạng như “ Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn , chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành ( An sinh giáo dục ) , bảo hiểm hưu trí , bảo hiểm cưới xin . Ngoài ra còn có các hợp đồng bảo hiểm mang tính chất đầu tư , trong đó số tiền trả khi hết hạn hợp đồng, phụ thuộc vào lĩnh vực và hiệu quả mang lại do đầu tư phí bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn . Tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính khác nhau của bản thân , mỗi người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm bảo hiểm nhân thọ sao cho phù hợp với mục đích của mình . 2 . Giới thiệu hai loại hình bảo hiểm nhân thọ đầu tiên đươc Bảo Việt triển khai ở Việt Nam ( theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài chính ). a. Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm hoặc 10 năm . - Khi hết hạn hợp đồng , nếu người được bảo hiểm còn sống sẽ được nhận số tiền đã đóng khi kí hợp đồng . - Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hợp đồng hết hạn , Bảo Việt sẽ trả số tiền đã chọn khi kí hợp đồng cho người thừa kế hợp pháp của người được bảo hiểm . Nếu khi qua đời ( không phải do tai nạn ) hợp đồng chưa đủ 1 năm thì Bảo Vệt Nhân Thọ sẽ hoàn lại 80 % số phí bảo hiểm đã nộp . - Nếu người được bảo hiểm bị thưong tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn , Bảo Việt Nhân Thọ sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm, đồng thời ngừng thu phí nhưng hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực và bảo đảm đầy đủ các quyền lợ bảo hiểm . - Ngoài số tiền bảo hiểm , tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty sẽ trả cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh của Bảo Việt tại nghiệp vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng bảo hiểm . - Trong thời hạn bảo hiểm hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên , nếu người tham gia bảo hiểm gặp khó khăn về tài chính thì có thể yêu cầu huỷ bỏ hợp đồngvà nhận được số tiền gọi là giá trị hoàn lại hoặc duy trì miễn phí với số tiền bảo hiểm giảm . b. Chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành ( chương trình An sinh giáo dục ) . - Khi trẻ em đến tuổi trưởng thành ( năm 18 tuổi ) Bảo Việt Nhân Thọ sẽ trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng . - Nếu trẻ em không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, Bảo Việt ngừng thu phí và trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cho đến năm trẻ em tròn 18 tuổi . - Nếu trẻ em không may bị chết , Bảo Việt Nhân Thọ sẽ hoàn trả 80 % số phí đã nộp . - Nếu người tham gia bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn , công ty sẽ ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực . - Ngoài số tiền bảo hiểm , tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo hiểm sẽ trả cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh tại nghiệp vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng . - Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên , người tham gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là giá trị hoàn lại . Cả hai loaị hình này đều thuộc nhóm bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp nên thể hiện rất rõ nét tính kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm . Như vậy, nội dung của bảo hiểm nhân thọ rất rộng, rất đa dạng, phong phú. Vì thế, nội dung chính của đề tài này chỉ giới hạn ở chương trình An Sinh Giáo Dục Phần II Những nội dung cơ bản về nghiệp vụ An sinh giáo dục trong hệ thống bảo hiểm nhân thọ I . ý nghĩa của chương trình An sinh giáo dục . Chương trình An sinh giáo dục là bảo đảm cho trẻ em tới tuổi trưởng thành. Chương trình này là một loại hình thuộc bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp nên nó mang tất cả các ý nghĩa , vai trò của bảo hiểm nhân thọ, ngoài ra nó còn mang một số đặc trưng khác như: - An sinh giáo dục : một giải pháp đầu tư cho tương lai , giúp con nhà nghèo có thể học đại học . Hiện nay có nhiều sinh viên phải bỏ dở việc học đại học , mà một trong những nguyên nhân là do chi phí phải nộp cùng các khoản đóng góp quá cao . Chi phí cho học hành trở thành vấn đề bức xúc đối với toàn xã hội cũng như các bậc phụ huynh mà phần lớn họ có mức thu nhập thấp . Nhà nước chủ trương không bao cấp mà thu học phí của sinh viên là thể hiện phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong giáo dục . Đối với sinh viên việc học để tiếp thu kiến thức đã là một công việc gay go , vất vả nhưng lo sao cho có đủ tiền nộp học phí là chuyện rất khó khăn . Làm sao để con em mình có tiền đi học đại học ? Vậy giải pháp có tính khả thi và phù hợp với tất cả mọi người hiện nay là gì ? Đó là An sinh giáo dục . An sinh giáo dục giúp cho mọi người thực hiện được mong ước cho tương lai và đảm bảo quyền lợi cho chính con cái và gia đình . - An sinh giáo dục mang ý nghĩa nhân văn, giáo dục sâu sắc Là một loại hình của bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, nên người tham gia chương trình An sinh giáo dục chắc chắn sẽ nhận được số tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù rủi ro không xảy ra . Tuy nhiên, nó lại thể hiện tính nhân văn cao cả mà các loại hình bảo hiểm khác không thể hiện được. Có thể cùng nhận một khoản tiền như bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm , 10 năm nhưng nó mang một ý nghĩa to lớn hơn rât nhiều. Trong một xã hội nói chung và một gia đình nói riêng, các thế hệ đi trước thường có mối quan tâm đặc biệt đối với các thế hệ đi sau và chương trình An sinh giáo dục đã thể hiện rõ sự quan tâm đặc biệt đó . Nó thể hiện sự chăm lo sâu sắc của ông bà , cha mẹ đối với con cháu và ngược lại , nó làm cho thế hệ trẻ chúng ta biết sống vì người khác, hiểu rõ hơn sự quan tâm của ông bà , cha mẹ để phấn đấu hơn trong học tập và rèn luyện . - An sinh giáo dục còn góp phần tạo nên một phong cách , tập quán và lối sống mới . Người tham gia bảo hiểm có thể bảo hiểm , tạo quyền lợi cho chính mình và con cháu mình . Điều đó thể hiện một nét sống đẹp là biết chăm lo cho con cái và biết tự lo cho chính bản thân . Cha mẹ tham gia chương trình An sinh giáo dục là một cách để giáo dục con cái mình và sống có trách nhiệm với người khác . - Tham gia chương trình An sinh giáo dục là góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội . Vì “ Trẻ em hôm nay , thế giới ngày mai “ nên đầu tư cho giáo dục phải được coi là một trong những nhân tố then chốt cho sự phát triển , nó làm cho sự tiến bộ xã hội không ngừng được nâng cao . An sinh giáo dục là một trong những giải pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho giáo dục từ việc tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch của mỗi gia đình . Đây là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội . Bảo đảm tương lai cho con em mình, cũng nên được coi là trách nhiệm của mỗi gia đình - tế bào của xã hội với chức năng cơ bản tạo ra thế hệ kế cận ưu tú hơn. - An sinh giáo dục là chưong trình bảo hiểm cho cả người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm . Đây là một đặc trưng của bảo hiểm trẻ em vì khi ông ba, cha mẹ tham gia chương trình An sinh giao dục cho con em mình thì đồng thời cũng bảo hiểm cho bản thân mình.Đó là quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm. * Một số điểm khác nhau giữa bảo hiểm trẻ em ( An sinh giáo dục) và bảo hiểm học sinh : - Thời hạn bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm trẻ em dài hơn ( có thời hạn từ 5 đến 17 năm ) , còn bảo hiểm học sinh có thời hạn từng năm . - Phạm vi của hợp đồng An sinh giáo dục hẹp hơn : sự kiện bảo hiểm chỉ có các trường hợp là chết và thương tật toàn bộ vĩnh viễn, còn bảo hiểm học sinh có phạm vi bảo hiểm rộng hơn : chết , thương tật , ốm đau , nằm viện , giải phẫu ... - Trong hợp đồng An sinh giáo dục , người được bảo hiểm chắc chắn nhận được số tiền bảo hiểm khi hết hạn hợp đồng , còn với bảo hiểm học sinh thì số tiền bảo hiểm chỉ nhận được khi có sự kiện được bảo hiểm xảy ra . Trường hợp bảo hiểm học sinh,khi hết hạn hợp đồng mà không gặp rủi ro thì người được bảo hiểm sẽ không nhận lại được khoản gì . Đây là điểm khác biệt rõ nhất giữa An sinh giáo dục và bảo hiểm học sinh và với tất cả các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ khác . -Độ tuổi tham gia của chương trình An Sinh Giáo Dục khác với bảo hiểm toàn diện học sinh II . Nội dung cơ bản của bảo hiểm trẻ em ( ASGD ) . A . Hợp đồng bảo hiểm Giấy yêu cầu bảo hiểm , điều khoản và các phụ lục là những bộ phận cơ bản của hợp đồng bảo hiểm . 1 . Giấy yêu cầu bảo hiểm Khái niệm : là thể hiện ý nguyện được bảo hiểm , là bằng chứng của người tham gia bảo hiểm và người mua bảo hiểm . Nội dung của giấy yêu cầu : giấy yêu cầu là một ophần quan trọng của hợp đồng bảo hiểm . Người yêu cầu bảo hiểm phải kê khai trung thực mọi chi tiết về bản thân : tên , tuổi , giới tính , chỗ ở , sở thích ; về tình trạng sức khoẻ : về điều kiện bảo hiểm mà minh lựa chọn theo mẫu đã in sẵn . Trên cơ sở giấy yêu cầu bảo hiểm , công ty bảo hiểm sẽ xem xét có nhận bảo hiểm hay không . Nếu đồng ý chấp nhận bảo hiểm , công ty sẽ đưa ra một mức phí phù hợp . Sau khi nhận được số phí đầu tiên , công ty sẽ phát hành hợp đồng bao gồm điều khoản và các phụ lục . Một bản gửi lại cho khách hàng , một bản giữ lại ở công ty cùng với giấy yêu cầu bảo hiểm. 2 . Các khái niệm chung . 2.1. Người tham gia bảo hiểm : Là công dân Việt Nam trong độ tuổi từ 18 đến 60 , là người kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm , đồng thời là người kí hợp đồng và nộp phí bảo hiểm . Tên người tham gia bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm , là người mà sinh mạng và cuộc sống và sinh mạng của họ được bảo hiểm theo các điều kiện của hợp đồng bảo hiểm . 2.2. Người được bảo hiểm : Trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 1 đến 13 ( tính đến thời diểm gửi giấy yêu cầu bảo hiểm ) . Tên người được bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm . 2.3.Tai nạn Trong bảo hiểm nhân thọ quy ước “ Tai nạn là bất cứ thiệt hại thân thể nào do hậu quả duy nhất và trực tiếp của một lực mạnh , bất ngờ từ bên ngoài tác động lên thân thể người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm , loại trừ ốm đau hoặc bệnh tật hoặc bất kì trạng thái nào xảy ra tự nhiên hoặc quá trình thoái hoá “ . Như vậy những thương tật xảy ra do ngộ độc thức ăn , cảm , trúng gió bất ngờ đối với người bảo hiểm nhưng không được coi là tai nạn bảo hiểm . 2.4.Thương tật toàn bộ vĩnh viễn . Là khi người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị mất hoàn toàn hoặc không thể phục hồi được chức năng của : - Hai tay hoặc hai chân hoặc . . . - Một tay , một chân hoặc hai mắt hoặc . . . - Một tay , một mắt hoặc . . . - Một chân , một mắt hoặc . . . 2.5. Giá trị giải ước ( hay giá trị hoàn lại ) : Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm có thể nhận lại khi yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực . Hợp đồng bảo hiểm có giá trị giải ước khi có hiệu lực từ 2 năm trở nên . Giá trị giải ước ứng với mỗi năm hợp đồngvào ngày kỉ niệm của hợp đồng bảo hiểm ( là ngày kỉ niệm hàng năm của hợp đồng bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực trong thời hạn bảo hiểm ) . Giá trị giải ước luôn nhỏ hơn tổng số phí mà người tham gia bảo hiểm đã đóng góp với công ty bảo hiểm , nó chiếm khoảng 70 đến 80 % số phí bảo hiểm đã đóng , vì người tham gia bảo hiểm phải thanh toáncho công ty những khoản chi phí đã thực hiện hợp đồng như chi phí phát hành và quản lí hợp đồng , chi phí khai thác... Tỷ lệ giải ước trên số phí đã đóng càng cao thì càng thu hút , hấp dẫn đối với khách hàng và do đó cũng là nhân tố tác động đến quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ hay không . 2.6.Số tiền bảo hiểm giảm Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên . Người tham gia bảo hiểm có thể ngừng đóng phí và tiếp tục duy trì hợp đồng bảo hiểm này với số tiền bảo hiểm mới gọi là số tiền bảo hiểm bị giảm . Điều này giúp người tham gia bảo hiểm vẫn tiếp tục tham gia bảo hiểm nhân thọ trong những lúc gặp khó khăn , đây là sự linh động của bảo hiểm nhân thọ ứng với mỗi điều kiện khác nhau . 2.7.Phạm vi bảo hiểm : Do đây là loại hình bảo hiểm nhân thọ nên phạm vi bảo hiểm ( rủi ro ) phải gắn liền với cuộc sống của con người . Do vậy ta phải phân ra : - Rủi ro được bảo hiểm ( sự kiện được bảo hiểm ) + Rủi ro còn sống : người được bảo hiểm sống đến hết hạn hợp đồng bảo hiểm . + Rủi ro tử vong : đây là rủi ro có thể phát sinh do 2 nguyên nhân : chết do tai nạn hoặc chết cho bệnh tật . Bên cạnh những rủi ro được bảo hiểm , trong bảo hiểm nhân thọ còn có quy định về rủi ro loại trừ . Việc đưa ra các rủi ro nhằm hạn chế phạm vi trách nhiệm của nhà bảo hiểm , mặt khác gián tiếp giáo dục mọi người về ý thức tổ chức kỉ luật , tôn trọng pháp luật , có ý thức đề phòng và hạn chế rủi ro . - Rủi ro loại trừ xảy ra do mật số nguyên nhân sau : + Hành động cố ý của người được bảo hiểm , người tham gia bảo hiểm hoặc người được thừa kế . + Hành động vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm , người tham gia bảo hiểm . + Người tham gia bảo hiểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng của rượu , bia , ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự . + Do động đất , núi lửa v .v . . . + Do chiến tranh , bạo động v.v . . . 3 . Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm a . Trách nhiệm của các bên . * Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm ; - Kí hợp đồng bảo hiểm : người tham gia trực tiếp kí hợp đồng bảo hiểm , cùng công ty bảo hiểm thoả thuận cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng . - Trách nhiệm khai báo rủi ro : Ngay khi kí hợp đồng bảo hiểm , người tham gia hợp đồng bảo hiểm có trách nhiệm kê khai trung thực những yêu cầu của công ty bảo hiểm ( kê khai tình trạng sức khoẻ ) . - Trách nhiệm đóng phí bảo hiểm : đây là số tiền mà họ phải đóng cho công ty bảo hiểm , theo quy định nộp phí của công ty khoản phí đóng đầu tiên sẽ là cơ sởthời điểm bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng . Người tham gia baỏ hiểm phải đóng đầy đủ phí theo quy định và đúng hạn . - Trách nhiệm khai báo , thông báo tổn thất : khi có sự cố rủi ro xảy ra , người tham gia bảo hiểm phải khai báo cụ thể tình hình xảy ra sự cố tổn thất , tình trạng sức khoẻ của người được bảo hiểm cho công ty bảo hiểm biết . Bên cạnh đó phải cung cấp đầy đủ hồ sơ cho công ty một cách trung thực , chính xác để công ty căn cứ trả tiền bảo hiểm . Tạo điều kiện để công ty giám định tình trạng sức khoẻ . * Trách nhiệm của công ty bảo hiểm : - Kí kết hợp đồng chấp nhận người tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm. - Đề phòng , hạn chế tổn thất xảy ra trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực . - Thu phí và có trách nhiệm nộp cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền gọi là thuế như đối với các doanh nghiệp khác . - Bảo toàn đồng vốn và chấp hành đúng pháp luật . b . Quyền lợi bảo hiểm 1) Đến năm người được bảo hiểm tròn 18 tuổi , khi hợp đồng bảo hiểm hết hạn , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ trả cho người được bảo hiểm số tiền bảo hiểm đã cam kết và được ghi trong hợp đồng bảo hiểm . 2) Trường hợp ngưòi được bảo hiểm bị chểttước ngày hợp đồng bảo hiểm hết hạn , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ hoàn trả 100% số phí đã nộp . Tại sao khi rủi ro xảy ra đối với ngưòi được bảo hiểm thì công ty chỉ hoàn trả 100% số phí đã nộp mà không phải là số tiền bảo hiểm ? Vì khi người tham gia bảo hiểm nhân thọ kí kết hợp đồng với mục đíchlà đảm bảo cho con em mình tới tuổi trưởng thành . Do vậy khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bị chết thì ý nghĩa của chương trình này không còn nữa , nên công ty bảo hiểm chỉ hoàn trả 100% số phí đã nộp . 3) Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị chết 3.1. Do tai nạn xảy ra sau 01 ngàykể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ ngừng thu phí bảo hiểm từ kì thu phí bảo hiểm tiếp theo ngay sau ngày xảy r tai nạn và hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo hiểm . Trường hợp tai nạn xảy ra trước thời gian 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực , công ty bảo hiểm sẽ hoàn trả 80% số phí bảo hiểm đã nộp cho người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm và hợp đồng này bị huỷ bỏ . 3.2.Do các nguyên nhân khác ( trừ trường hợp tự tử và nhiễm virut HIV ) . Khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực chưa đủ 1 năm , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ hoàn trả cho người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm 80% số phí bảo hiểm đã nộp và hợp đồng bảo hiểm này sẽ bị phá bỏ . Khi hợp đồng bảo hiểm này có hiệu lực từ một năm trở lên , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ ngừng thu phí bảo hiểm tiếp sau ngay sau ngày xảy ra tai nạn và hợp đồng vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ các quyền lợi bảo hiểm . 3.3.Do nguyên nhân tự tử hoặc do nhiễm virut HIV . Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ ngừng thu phí bảo hiểm kể từ ngày đến kì thu phí tiếp theo ngay sau ngày xảy ra tai nạn và hợp đồng vãn tiếp tục duy trì với đày đủ quyền lợi bảo hiểm . 4) Trong trường hợp người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn . Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn ( tai nạn được bảo hiểm ) thì sẽ được hưởng quyền lợi như phần 3.1 trên, nghĩa là : Tai nạn xảy ra sau một ngày hợp đồng có hiệu lực thì công ty sẽ ngừng thu phí và hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo hiểm. Tai nạn xảy ra trước một ngày hợp đồng có hiệu lực thì hợp đồng này sẽ bị xoá bỏ và công ty sẽ hoàn trả 80% số phí đã nộp cho người thừa kế hợp pháp. Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn xảy ra sau 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực , công ty bảo hiểm nhân thọ trả cho người được bảo hiểm số tiền trợ cấp hàng năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cam kết cho đến ngày hợp đồng bảo hiểm đáo hạn . Trường hợp tai nạn xảy ra trước một ngày nói trên , công ty bảo hiểm nhân thọ hoàn trả 80% số phí đã nộp cho người tham gia bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm này sẽ bị huỷ bỏ . Ngoài các quyền lợi nói trên và khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên , công ty bảo hiểm còn có thể trả một khoản tiền lãi từ kết quả đầu tư phí bảo hiểm nhân thọ của công ty cho người tham gia bảo hiểm vào ngày kỉ niệm của hợp đồng bảo hiểm hoặc khi thanh toán giá trị giải ước hoặc vào ngày thanh toán tiền bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm bị chết và trả cho người được bảo hiểm vào ngày đáo hạn của hợp đồng . 4 . Thủ tục bảo hiểm 4.1. Khi yêu cầu bảo hiểm , người tham gia bảo hiểm phải điền đầy đủ , trung thực vào giấy yêu cầu bảo hiểm , xuất trình giấy khai sinh của người được bảo hiểm và giấy khai sinh hoặc chứng minh thư hay hộ khẩu của người tham gia bảo hiểm cho công ty bảo hiểm nhân thọ. 4.2. Khi hợp đồng đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên , người tham gia bảo hiểm không tiếp tục nộp phí bảo hiểm nhưng vẫn muốn duy trì hợp đồng thì phải thông báo bằng văn bản cho công ty bảo hiểm nhân thọ trước kỳ nộp phí tiếp theo 15 ngày,và công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ thông báo bằng văn bản cho người tham gia bảo hiểm biết về số tiền bảo hiểm giảm tại thời điểm dừng đóng phí trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của người tham gia bảo hiểm. 4.3. Trong thời gian 14 ngày kể từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên, người tham gia BH có quyền từ chối không tiếp tực tham gia bảo hiểm. Trong trường hợp này người tham gia bảo hiểm được nhận 100% số phí đã nộp. 4.4. Huỷ bỏ và thay đổi hợp đồng bảo hiểm: a) Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực công ty bảo hiểm nhân thọ không có quyền huỷ bỏ hay thay đổi các điều khoản, điều kiện của hợp đồng này trừ khi đã có thoả thuận khác nhau giữa công ty bảo hiểm nhân thọ và người tham gia bảo hiểm b) Trường hợp người tham gia bảo hiểm có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm - Khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ hai năm, công ty bảo hiểm nhân thọ không hoàn trả lại số phí đã nộp cho người tham gia bảo hiểm. - Khi hợp đồng có hiệu lực từ hai năm trở lên, công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ thanh toán cho người tham gia bảo hiểm giá trị giải ước tính đến thời điểm, nhận được yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng và khoản tiền lãi của hợp đồng này từ kết quả đầu tư phí bảo hiểm nhân thọ của công ty. B. Phí và số tiền bảo hiểm 1. Phí bảo hiểm và nguyên tắc tính phí Cũng như tất cả các loại hình bảo hiểm , phí bảo hiểm là cơ sở để xây dựng quĩ bảo hiểm để chi trả cho người được bảo hiểm và các khoản phụ phí. Phí bảo hiểm là số tiền cần phải thu của công ty bảo hiểm để công ty bảo hiểm đảm bảo trách nhiệm của mình khi có các sự kiện bảo hiểm được xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm như: chết, hết hạn hợp đồng, thương tật và đảm bảo cho việc hoạt động của công ty. Đây cũng là sự thể hiện trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm với công ty bảo hiểm nhằm nhận được sự bảo đảm trước những rủi ro đã được nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm. Phí bảo hiểm có thể nộp một lần ngay sau khi ký hợp đồng hoặc có thể nộp định kỳ trong năm. Phí nộp một lần sẽ phải đóng góp ít hơn so với tổng số chi phí đóng góp hàng kỳ do hiệu quả đầu tư của việc đóng phí một lần cao hơn và chi phí quản lý thấp hơn. Nguyên tắc tính phí được dựa trên biểu thức cân bằng giữa trách nhiệm của công ty bảo hiểm và trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm tính theo giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng. Trách nhiệm của người được bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng bằng trách nhiệm của công ty bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng Phí bảo hiểm gồm hai phần: phí thuần và phụ phí. + Phí thuần là những khoản phí dùng để chi trả cho người được bảo hiểm. + Phụ phí gồm: - Chi phí khai thác chi cho tuyên truyền, quảng cáo, môi giới, chi cho đại lý... - Chi phí quản lý hợp đồng trong thời hạn hợp đồng đang thu phí, kể cả chi phí thu phí BH ... - Chi phí quản lý liên quan đến các khoản chi trả bồi thường. Cách xác định phí: a. Phí thuần: Có rất nhiều yếu tố tác động lên phí nhưng cơ bản vẫn là: - Tuổi thọ của người được bảo hiểm cụ thể là bảng tỉ lệ tử vong. - Lãi xuất kỹ thuật: lãi xuất tiền gửi tính trong cơ sở tính phí. Ngoài ra, còn có các nhân tố khác tác động như thời hạn bảo hiểm , số tiền bảo hiểm, cách thức nộp phí, tỉ lệ huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn. Qua bảng tỉ lệ tử vong ta có thể đưa ra số lượng những người còn sống (lx+n) ở lứa tuổi x sau n năm. Từ đây có thể tính được xác suất sống và xác suất tử vong của một người ở độ tuổi x sau n năm. Tuổi (x) Số người sống (lx) Số người chết (dx) Tỷ lệ chết (1000.qx) Lãi xuất kỹ thuật: nhà bảo hiểm phải có trách nhiệm đầu tư cac khoản phí để đưa ra một phần lãi làm giảm mức phí đóng của người tham gia. Mức lãi này càng cao thì càng phải kích thích được số lượng người tham gia. Do vậy nhà bảo hiểm phải đưa vào lãi suất tiền gửi để tính phí. Trước khi tính phí ta cần hiểu một số khái niệm sau: x: tuổi của người được bảo hiểm khi bắt đầu được nhận bảo hiểm. lx: số người sống l(x+n): số ngưòi được bảo hiểm sống sau n năm hợp đồng. d(x+k): số người được bảo hiểm chết trong năm hợp đồng k. n: thời hạn hợp đồng. v: thừa số chiết khấu v=1/1+i. T(x+k): số người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn trong năm hợp đồng k. C: số tiền bảo hiểm. p: phí thuần. p”: phí toàn phần. Do bảo hiểm nhân thọ gồm nhiều trường hợp được trả số tiền bảo hiểm. Do vậy phải xác định phí bảo hiểm cho từng trường hợp. + Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi hết hợp đồng: + Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết trước khi hết hạn hợp đồng: + Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn: ( Theo điều qui định của nghiệp vụ thì khi người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn sẽ được công ty bảo hiểm trả định kỳ 1/4 số tiền bảo hiểm trong những năm còn lại của hợp đồng). Phí bảo hiểm nhân thọ được xây dựng trên cơ sở P1 ,P2 ,P3. P = P1 + P2 + P3. b. Phí toàn phần: Trên cơ sở phí thuần, nhà bảo hiểm căn cứ vào các khoản phụ phí để tính ra khoản phí mà người tham gia bảo hiểm phải nộp cho công ty bảo hiểm. Phí toàn phần = Phí thuần + Phụ phí Thông thường thu phí chiếm khoảng 5% phụ phí, trong đó: + 3% chi phí quản lí + 2% chi phí khai thác hợp đồng Mức phí không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có thể nộp theo tháng, quý, năm hoặc theo 2 kì trong năm. công thức tính phí nộp mỗi kì (F) theo phí tháng như sau: Nếu nộp phí theo quý thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng Fquí = Ftháng * 3*0,98 (so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số._.p nhiều khó khăn tạm thời về vấn đề tài chính. + Khách hàng không nộp phí nhưng cũng không ký vào giấy đề nghị huỷ bỏ hợp đồng. + Thời gian đầu công ty tập trung nhiều vào khai thác cho nên buông lỏng công tác quản lý hợp đồng, thêm vào đó lại khai thác nhiều tại thị trường giáo dục. Do đó trong thời gian nghỉ hè, giáo viên các trường đều nghỉ học. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thu phí không hoàn thành theo kế hoạch. + Việc đối chiếu số liệu, xác định hợp đồng nợ phí, gửi thông báo nợ phí của công ty đến khách hàng trong những tháng đầu năm chưa thực hiện đầy đủ, còn nhiều thiếu sót. + Một số cán bộ khai thác chạy theo khai thác hợp đồng mới, do đó còn lơi là trong công tác thu phí định kỳ. Để giải quyết vấn đề này, trong thời gian qua công ty đã tiến hành hàng loạt các biện pháp đồng bộ như: + Thường xuyên gửi thông báo đến từng cán bộ khai thác và từng khách hàng thông báo tình trạng nợ phí từ 30 đến 70 ngày, trên 70 ngày. + Cùng cán bộ khai thác đến từng khách hàng tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ phí và có biện pháp giải quyết cụ thể cho từng trường hợp cụ thể. Trường hợp khách hàng không có lý do chính đáng thì tiến hành làm thủ tục huỷ bỏ theo quy định của điều khoản hợp đồng. + Cung cấp các thông tin về quá trình nộp phí của khách hàng như ngày nôp tổng số tiền đã nôp .v.v. để khách hàng yên tâm biết rõ tổng số phí đã đóng và số phí còn thiếu để đốc thu. + Việc đưa chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch thu phí là một chỉ tiêu đánh giá xét thưởng thi đua đã góp phần thúc đẩy cán bộ khai thác tăng cường thu phí và giảm bớt số phí nợ. 2.4. Công tác tuyển dụng và đào tạo. Trong 4 tháng đầu năm 1999, Công ty đã tuyển dụng 2 khoá cán bộ khai thác khoá 10 và khoá 11 với số lượng là 78 người. Rút kinh nghiệm của những lần tuyển chọn trước, công ty đã áp dụng quy trình tuyển chọn mới, từ đó đã khắc phục được những điểm yếu của những lần tuyển chọn trước đây: như chú trọng vào việc định hướng công việc của cán bộ khai thác bảo hiểm nhân thọ cho tuyển viên trước khi tham dự phỏng vấn nhằm loại bỏ những cá nhân chưa xác định đúng đắn nghề nghiệp, tuyển chọn những người có hộ khẩu Hà Nội, có lý lịch bản thân cũng như gia đình rõ ràng, có khả năng tài chính ổn định nhằm hạn chế khả năng chiếm dụng phí. Đồng thời sau khi phỏng vấn Công ty đã tiến hành thẩm tra, xác minh lý lịch của từng người. Những người này sau khi được tuyển chọn ban đầu sẽ tham dự các khoá đào tạo kéo dài trong 6 - 7 ngày. Nội dung các khoá đào tạo đó đã được sửa đổi và phong phú hơn. Cụ thể ngoài việc trang bị các kiến thức đại cương về bảo hiểm nói chung, bảo hiểm nhân thọ, quy trình khai thác, Marketing trong bảo hiểm, Công ty đã tiến hành trang bị các kiến thức về thực hành bán hàng và tổ chức thực tập các kỹ năng bán sản phẩm. Hiện nay tổng số cán bộ khai thác toàn công ty là 224 người. Trong đó: + Đại lý chuyên nghiệp là: 209 người. + Đại lý bán chuyên nghiệp: 15 người. + Cộng tác viên bảo hiểm có 3 đơn vị là: Trung tâm chuyển tiền Bưu điện Hà Nội, công ty NASSCO và công ty Du lịch cựu chiến binh. Đầu tháng 3 năm 1999 công ty đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ về các sản phẩm mới cho toàn bộ cán bộ khai thác. Sau khoá tập huấn công ty đã tổ chức kiểm tra, kết quả cho thấy hơn 75% tổng số cán bộ khai thác đạt kết quả từ trung bình khá trở lên. Số cán bộ không đạt yêu cầu và không tham dự kiểm tra, công ty đã yêu cầu dừng không cho khai thác sản phẩm mới cho đến khi kiểm tra đạt yêu cầu mới cho tiếp tục khai thác. Qua đợt tập huấn và thực tiễn khai thác cho thấy cần thiết phải tăng cường công tác trao đổi thường xuyên nghiệp vụ và nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật. Để triển khai bảo hiểm Nhân thọ trọn đời và bảo hiểm niên kim vào đầu tháng 7. Công ty đã tổ chức tập huấn cho 22 cán bộ khai thác về 2 nghiệp vụ bảo hiểm trên nhằm triển khai thí điểm nghiệp vụ này. Trong tháng 4 có 28 cán bộ khai thác thôi việc chiếm tỷ lệ 16% số tuyển dụng mới trong năm do công việc không phù hợp và chất lượng công việc không đạt yêu cầu quy định. Từ công tác tuyển chọn và đào tạo ban đầu công ty đã rút được nhiều những kinh nghiệp sau: + Chỉ tập trung tuyển chọn cán bộ khai thác chuyên nghiệp. + Khâu tuyển chọn đã được tiến hành khoa học nghiêm túc và đạt chất lượng cao. + Chất lượng, nội dung đào tạo phải được nâng cao, đồng thời công tác kiểm tra sát hạch cần được duy trì thường xuyên + Cần tăng cường các cuộc trao đổi, sinh hoạt nghiệp vụ để không ngừng bồi dưỡng củng cố kiến thức nghiệp vụ cho các cán bộ khai thác. 2.5. Công tác tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý: Đầu năm 1999 ngoài việc tiếp tục đẩy mạnh hoạt động khai thác. Công ty còn tập trung vào công tác nâng cao chất lượng khai thác, quản lý cán bộ khai thác, quản lý chặt chẽ việc thu phí định kỳ coi đây là nhiệm vụ trọng tâm. Công ty đã áp dụng mô hình tổ chức cán bộ khai thác 3 cấp: thành lập các phòng khai thác khu vực, chia số cán bộ khai thác thành từng tổ. Đã chọn lựa các cán bộ khai thác giỏi có kinh nghiệm bổ nhiệm làm Tổ trưởng và Trưởng phòng, bước đầu đã đáp ứng được công tác quản lý và điều hành công việc hàng ngày. Để quản lý hoạt động cán bộ khai thác dần đi vào nề nếp, khoa học công ty đã ban hành nhiều văn bản quy định một cách chi tiết các nội dung, quy định về hoạt động cán bộ khai thác, các mẫu biểu, báo cáo thống kê hàng tháng thống nhất từ Cá nhân - Tổ - Phòng vừa giúp các cán bộ khai thác tổng hợp, đánh giá kết quả hoạt động trong tháng vừa phục vụ cho công tác quản lý của Công ty. Ngoài ra công ty đã tổ chức, quản lý lưu trữ hồ sơ cá nhân của các cán bộ khai thác. Đã tổ chức theo dõi, chấm công coi việc thực hiện ngày công là một tiêu chuẩn để đánh giá xếp loại cán bộ khai thác chuyên nghiệp. Công ty cũng đã áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cán bộ khai thác như: hỗ trợ tài chính cho các cán bộ khai thác trong thời gian học nghề, phân công cán bộ cũ có kinh nghiệm giúp đỡ cán bộ mới, áp dụng chế độ thưởng đối với các cá nhân, tổ, phòng có thành tích cao, tổ chức các phong trào thi đua: Ngôi sao tháng (Month star). Câu lạc bộ 200 hợp đồng. Phòng đạt chỉ tiêu khai thác mới bình quân 6,5 hợp đồng/người... Đã tiến hành đánh giá phân loại cán bộ khai thác hàng tháng theo các chỉ tiêu như: số lượng hợp đồng khai thác mới, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch thu phí định kỳ, tỷ lệ duy trì hợp đồng, nợ phí, ngày công làm việc. Việc tiến hành đánh giá phân loại đã tạo động lực cho cán bộ khai thác phấn đấu, thi đua. Một số tồn tại trong công tác quản lý, tổ chức hoạt động của cán bộ khai thác trong năm 1998 như: chế độ sinh hoạt, báo cáo thống kê thu phí định kỳ, tình trạng cán bộ khai thác chiếm dụng phí, việc phân công thu phí định kỳ của những hơp đồng khai thác trực tiếp, việc bàn giao, theo dõi hợp đồng giữa các cán bộ khai thác thôi việc về cơ bản đã được khắc phụ trong những tháng đầu năm 1999. 2.6. Công tác giám định bồi thường. Giám định là việc xác định thiệt hại thực tế của người bị rủi ro tai nạn. Bởi vậy nó rất quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Cùng với bồi thường, giám định đòi hỏi phải có những cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao. Do công ty mới thành lập nên số hợp đồng hết hiệu lực là chưa phát sinh vì thời hạn hợp đồng ngắn nhất cũng là 5 năm. Còn số hợp đồng hết hiệu lực do xảy ra sự cố tử vong đối với người được bảo hiểm hiện nay là 25 trường hợp trong đó bảo hiểm trẻ em là 7 trường hợp, số tiền bảo hiểm là 61,7 triệu. Điều đó chứng tỏ khả năng xảy ra rủi ro là rất thấp. Có thể khái quát chung hiệu quả kinh doanh của công ty đang theo chiều hướng tốt. Song chúng ta cũng không nên vội kết luận, bởi vì với cơ sở tính phí xác suất rủi ro được tính dựa trên một mẫu số lớn, mà số hợp đồng của công ty hiện nay chưa đủ lớn, do vậy đánh giá công tác này cũng chưa được chính xác. Hiện tại công tác giám định bồi thường ở Công ty còn ít nên bộ phận này chưa được hình thành còn đang trực thuộc phòng nghiệp vụ. 2.7. Vấn đề hoạt động đầu tư Là một tổ chức tài chính trung gian nên hoạt động đầu tư vốn của công ty bảo hiểm nhân thọ là một trong những hoạt động quan trọng nhất của công ty. Tham gia thị trường vốn với tư cách là một nhà cung cấp, do đó công ty bảo hiểm có một số ảnh hưởng nhất định trên thị trường vốn. Ra đời vào ngày trước cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, thêm vào đó Việt Nam ta còn chưa có thị trường vốn nên hoạt động của công ty gặp nhiều khó khăn. Phân tích hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ có ý nghĩa hết sức quan trọng, tuy nhiên do thiếu thông tin nên việc phân tích này gặp rất nhiều khó khăn. Hoạt động đầu tư vốn của công ty hiện nay còn chưa đa dạng chủ yếu mua trái phiếu kho bạc do Nhà Nước phát hành. Tuy nhiên lãi suất của trái phiếu là thấp khoảng 13%/ năm. Với các khoản chi phí như chi phí hoa hồng, chi phí quản lý, chi trả bảo hiểm chiếm khoảng 20 - 25% doanh thu từ phí bảo hiểm. Vậy 13% lãi suất của trái phiếu là quá nhỏ nên Công ty đã cho các Công ty khác vay với lãi suất cao hơn như cho Công ty may Thăng Long vay 7 tỷ với lãi suất 19%/ năm. Hiện nay, nước ta sắp ra đời thị trường chứng khoán, nó sẽ tạo điều kiện cho Công ty Bảo hiểm nhân thọ đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, để tránh xảy ra rủi ro lớn như mua trái phiếu với lãi suất giảm, Công ty sẽ tiến hành cho vay vốn rải rác ở nhiều nơi, vì nếu Công ty này làm ăn thua lỗ, phá sản thì Công ty Bảo hiểm nhân thọ vẫn còn lĩnh vực hoạt động khác để thu được lợi nhuận. III. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ an sinh giáo dục. Bảo hiểm nhân thọ nói chung và nghiệp vụ “An sinh giáo dục” nói riêng là những nghiệp vụ bảo hiểm hết sức mới mẻ không chỉ đối với người tham gia bảo hiểm mà còn đối với cả cán bộ của công ty bảo hiểm nhân thọ. Là đơn vị đi tiên phong trong lĩnh vực này, trong gần ba năm hoạt động, công ty bảo hiểm nhân thọ đã gặp không ít những khó khăn trở ngại. Tất cả đều mới và phải tự mình tìm tòi vươn lên. Bằng sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ, nhân viên trong công ty và sự ủng hộ, giúp đỡ của Tổng công ty, thời gian qua công ty bảo hiểm nhân thọ đã đạt được những thành quả đáng khích lệ, bước đầu tạo đà cho hướng phát triển sau này. Tuy nhiên công ty cũng cần ngày càng phát huy hơn nữa những thế mạnh của mình, giải quyết những vấn đề còn tồn tại, không dừng lại ở những gì đã đạt được để hoàn thiện hơn nữa hệ thống phân phối sản phẩm đưa lại hiêụ quả kinh doanh cho công ty. Thời gian tới là giai đoạn tương đối khó khăn cho công ty trong bối cảnh chung của đất nước. Năm 1999 là năm phục hồi của các nền kinh tế khu vực sau cuộc khủng hoảng Tài chính châu á. Bắt đầu từ tháng 1-1999 áp dụng thuế giá trị gia tăng, chỉ số giá cả của một số loại mặt hàng tăng lên tuy không lớn nhưng cũng làm cho sức mua của thị trường giảm và ảnh hưởng đến việc kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trong đó có sản phẩm “An sinh giáo dục” Theo đánh giá năm 1999 là năm đầu tiên Bộ Tài chính sẽ mở cửa thị trường bảo hiểm nhân thọ vì vậy sẽ có các công ty bảo hiểm khác triển khai nghiệp vụ này tại Việt nam. Các công ty này có tầm cỡ trên thị trường quốc tế. Cuộc cạnh tranh kinh doanh bảo hiểm nhân thọ sẽ bắt đầu và chắc chắn sẽ khó khăn và quyết liệt hơn. Đối với bảo hiểm nhân thọ, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam coi năm 1999 là năm bản lề để thực hiện triển khai rộng trong toàn quốc đồng thời chú trọng nhiều đến công tác quản lý nghiệp vụ. Đến nay phương châm “ tăng trưởng và quản lý “ vẫn còn nguyên giá trị. Trong năm nay Tổng công ty sẽ thực hiện một số điểm mới như: trình Bộ Tài chính cho phép bán thêm các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ: Bảo hiểm nhân thọ trọn đời và Bảo hiểm niên kim, áp dụng phần mềm tin học mới quản lý nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, áp dụng mô hình quản lý đại lý thống nhất trong toàn quốc. Tất cả các yếu tố trên tác động đến việc triển khai và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ nói chung và nghiệp vụ “An sinh giáo dục” nói riêng. Trong bối cảnh đó công ty xác định nhiệm vụ kinh doanh năm 1999 như sau: Phấn đấu hoàn thành kế hoạch đã đăng ký với Tổng công ty là 12000 hợp đồng khai thác mới với doanh thu là 50 tỷ đồng. Tiếp tục kiện toàn công tác tổ chức của công ty, bố trí đủ số cán bộ làm việc trong các ngành chức năng, triển khai việc thực hiện mô hình tổ chức và quản lý đại lý mới do Tổng công ty ban hành. Bồi dưỡng và bổ nhiệm đủ số cán bộ lãnh đạo cho các tổ và các phòng khai thác khu vực; tăng cường công tác quản lý trong tất cả các khâu, các mặt hoạt động để nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Để khắc phục những điều chưa đạt được, phấn đấu đạt được các kế hoạch đã đề ra công ty cần có những kế hoạch cụ thể sau: 1.Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác Mở rộng mạng lưới khai thác luôn luôn là mục tiêu hàng đầu trong việc triển khai các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Theo con số thống kê, hiện nay số người tham gia bảo hiểm nhân thọ trên địa bàn Hà Nội mới chiếm khoảng 0,8% dân số, một con số rất nhỏ bé. Thu nhập bình quân đầu người của dân cư Hà Nội là hơn 600$/năm /người. Thành phố Hà Nội với dân số đông, lại là nơi tập trung hàng nghìn cơ quan, bộ, ngành, đơn vị, trường học, bệnh viện của trung ương và hơn 3000 doanh nghiệp đóng trên địa bàn thành phố.Như vậy, thị trường Hà Nội là một thị trường lớn và đầy tiềm năng. Với số lượng cán bộ khai thác hiện nay,hơn 200 người là quá ít, lại phân bố chưa đồng đều. Công ty cần khẩn trương tuyển dụng và đào tạo thêm cán bộ khai thác,nâng tổng số cán bộ khai thác lên khoảng 400 người và mở thêm các phòng khai thác nhằm phủ kín điạ bàn thành phố. Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội còn quận Tây Hồ và huyện Từ Liêm chưa có phòng khai thác bảo hiểm nhân thọ. Công ty cần khẩn trương thành lập ngay các phòng khai thác này để mở rộng và hoàn thiện mạng lưới khai thác. Công ty cũng cần mở rộng thị trường ở các cơ quan, doanh nghiệp triển khai sâu thị trường giáo dục, y tế , đó là những thị trường đầy tiềm năng và mở rộng thị trường mới là các khu dân cư ở các phường xã. Đây là khu vực thị trường hết sức mới mẻ, chưa được khai thác nhiều. Trên thực tế một số lượng lớn dân cư làm nghề buôn bán và lao động tự do còn chưa biết về bảo hiểm nhân thọ. Nếu mở rộng khai thác vào khu vực thị trường này sẽ đem lại kết quả khai thác khả quan cho công ty. 2. Đa dạng các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác Biện pháp khai thác truyền thống của các cán bộ khai thác là giới thiệu về sản phẩm với người mua và thuyết phục để cho khách hàng hiểu được lợi ích, tác dụng của sản phẩm để từ đó kí hợp đồng tham gia bảo hiểm. Nhưng phải thấy rằng rất nhiều khách hàng khi nghe giải thích, vì chưa có một khái niệm gì về bảo hiểm nhân thọ nên họ hoàn toàn không hiểu hoặc hiểu sai về các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt là với nghiệp vụ “An sinh giáo dục”. Đa số khách hàng đều nói rằng: “Tôi đem tiền đi gửi tiết kiệm lãi suất còn cao hơn tham gia bảo hiểm”. Hoặc đôi khi có những khách hàng đã từng biết qua về các nghiệp vụ này, nhưng vì biết không chính xác nên họ hiểu sai về nghiệp vụ, cho rằng “Gửi tiền vào bảo hiểm nhân thọ rồi chẳng lấy ra được”, hoặc “Công ty bảo hiểm họ cầm đằng chuôi”. Trong những trường hợp như vậy, cán bộ khai thác cần phải giải thích hết sức khéo léo, kĩ lưỡng với người tham gia bảo hiểm để họ hiểu rõ thấu đáo về các nghiệp vụ này. Quan điểm của khách hàng nhiều khi rất đa dạng, và dễ bị thay đổi. Nhiều khách hàng cho rằng chưa cần mua bảo hiểm, chưa có điều kiện để mua hay không cần thiết phải tiết kiệm. Người cán bộ khai thác phải hiểu rằng trong những trường hợp như vậy, khi mình có những giải thích thoả đáng, đánh trúng vào tâm lý của khách hàng sẽ làm họ thay đổi ý kiến. Như vậy, biện pháp khai thác phải luôn luôn linh hoạt, thay đổi cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng, chứ không nên theo một qui trình, công thức cụ thể nào cả. Một điều hết sức quan trọng đối với người các bộ khai thác là tính kiên trì và sự chịu đựng. Nhiều khi khách hàng khó tính hoặc vì không hiểu mà chê bai, phản đối việc tham gia bảo hiểm, phải luôn ghi nhớ câu “ Khách hàng là thượng đế”. Hơn nữa, không phải chỉ thuyết phục một lần mà khách hàng đã tham gia bảo hiểm ngay. Có khi phải thuyết phục 2-3 lần, thậm chí 4-5 lần mới đạt kết quả. Cán bộ khai thác cần có nhiều hình thức, biện pháp khai thác, bằng cách thăm dò tiếp cận nhằm trực tiếp toạ đàm, giải thích với khách hàng một cách khoa học về sản phẩm, đặc biệt là với sản phẩm “An sinh giáo dục”. Phải thấy rằng sản phẩm “An sinh giáo dục” là sản phẩm đáp ứng được nhu cầu khá phổ biến của người dân Việt Nam- đó là nhu cầu tiết kiệm, đôi khi nhu cầu này còn được quan tâm hơn nhu cầu về bảo hiểm. Vì vậy, ngay cả khi thị trường hiện tại chưa có hợp đồng, người cán bộ khai thác vẫn phải giữ mối quan hệ và duy trì thị trường này vì chính nó là những tiềm năng lớn trong tương lai. Bên cạnh đó, một biện pháp khai thác tương đối phổ biến đối với các loại sản phẩm thông thường mà chưa được áp dụng trong quá trình triển khai các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ noí chung, cũng như nghiệp vụ “An sinh giáo dục” nói riêng. Đó chính là các hình thức khuyến mãi, tặng quà cho khách hàng. Công ty nên tổ chức các đợt khuyến mại vào các ngày lễ lớn trên qui mô rộng, không chỉ làm tăng số lượng hợp đồng khai thác mà còn tăng hiểu biết của khách hàng về các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Khuyến mại nên được tổ chức dưới các hình thức như tặng quà cho người tham gia bảo hiểm, giảm phí cho người tham gia hợp đồng với mức trách nhiệm cao, tặng quà cho khách hàng giới thiệu được nhiều khách hàng mới tham gia bảo hiểm...Đây là những hoạt động rất cần thiết và trong thực tế đã làm nên thành công cho nhiều doanh nghiệp. Cần lưu ý rằng chi phí cho những hoạt động này là không lớn mà hiệu quả tác động rất cao, nó mang ý nghĩa về mặt tinh thần đối với khách hàng nhiều hơn, đánh vào tâm lý được quan tâm, đề cao của người mua. Bên cạnh hoạt động đa dạng các biện pháp khai thác, doanh nghiệp cũng cần ngày càng nâng cao chất lượng khai thác nhằm giảm đến mức tối đa tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng. Tỷ lệ duy trì hợp đồng là một tiêu thức quan trọng để đánh giá chất lượng khai thác. Năm1998, số hợp đồng huỷ bỏ là 2073 hợp đồng chiếm tỷ lệ 11,6% số hợp đồng phát hành, trong đó số lượng hợp đồng “An sinh giáo dục” huỷ bỏ là 1532 hợp đồng, chiếm 73,9% tổng số hợp đồng huỷ bỏ. Để nâng cao chất lượng khai thác, đặc biệt đối với sản phẩm “An sinh giáo dục”, công ty Bảo Việt nhân thọ cần rút kinh nghiệm giữa các cán bộ khai thác, giữa các phòng khai thác. Tại sao có những cán bộ khai thác, những phòng khai thác hầu như khôngCó hoặc có rất ít hợp đồng bị huỷ bỏ.Phần lớn những cán bộ khai thác có nhiều hợp đồng bị huỷ bỏ là người ít kinh nghiệm, hơn nữa vì chạy theo số lượng hợp đồng nên khi ký hợp đồng thường vội vàng, không tuân theo đúng các quy trình cần thiết như: giải thích cụ thể cho khách hàng về điều khoản, biểu phí của hợp đồng... Do đó, những điều lưu ý đối với cán bộ khai thác là phải giới thiệu đầy đủ quyền lợi bảo hiểm, nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm cho khách hàng trước khi ký hợp đồng. Trong trường hợp đã ký hợp đồng rồi, khách hàng yêu cầu huỷ bỏ thì cán bộ khai thác cần phải tìm hiểu rõ nguyên nhân và thuyết phục khách hàng duy trì hợp đồng. Công ty chỉ huỷ bỏ sau khi có ý kiến xác nhận của cán bộ khai thác. 3. Cần có phương pháp khai thác hợp với từng thị trường Thời gian tới, công ty cần có kế hoạch tập trung vào phân loại, đánh giá từng khu vực thị trường để có các phương pháp khai thác thích hợp . Việc phân loại đánh giá này giúp nhận biết được đặc điểm, đặc trưng riêng của từng khu vực, về thu nhập, về nhu cầu bảo hiểm, về nhận thức của người lao động, từ đó đưa ra các phương pháp khai thác khác nhau. Ví dụ, đối với thị trường các tổ chức tại cơ quan, công ty, trụ sở làm việc.. cán bộ khai thác nên sử dụng phương pháp “vết dầu loang”. Phương pháp này thực hiện bằng cách tiếp xúc và kích thích nhu cầu tham gia bảo hiểm của các lãnh đạo tổ chức đó. Từ đó tiếp tục khai thác các cán bộ trong tổ chức bằng cách lấy các vị lãnh đạo đó là những tấm gương để khuyến khích, giải thích với nhân viên của họ về nghiệp vụ An sinh giáo dục này. Nghiệp vụ An sinh giáo dục là một nghiệp vụ rất thích hợp với các cán bộ, nhân viên công tác trong các tổ chức, cơ quan Nhà nước vì nó mang tính tiết kiệm, dành dụm, lo lắng cho tương lai. Một khi các vị lãnh đạo tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này tức là họ thấy được lợi ích và ưu việt của nó, điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc triển khai tiếp theo trong tổ chức này. Nhiều khi, phương pháp này cũng cần áp dụng linh hoạt. Giả sử trước khi thực hiện kế hoạch khai thác ở một tổ chức, cán bộ khai thác tìm hiểu về lãnh đạo ở tổ chức này và biết được đó là một người rất bận rộn, hay phải đi công tác và rất khó gặp được. Lúc này, người cán bộ khai thác lại phải tìm cách tiếp cận với thu ký, trợ lý hay cán bộ cấp dưới của vị lãnh đạo đó, thuyết phục họ tham gia bảo hiểm. Sau khi đã thuyết phục được họ tham gia bảo hiểm, cán bộ khai thác sẽ có cơ hội để nắm rõ về vị lãnh đạo, về lịch công tác, có cơ hội để gặp gỡ và trò chuyện, từ đó mời tham gia bảo hiểm. Ngoài ra do tính chất của sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình, vào thời điểm bán sản phẩm mà nhà bảo hiểm cung cấp ra thị trường chỉ là lời hứa, lời cam kết, người bán không chỉ ra được kích thước, màu sắc.. người mua không cảm nhận được bằng các giác quan của mình. Điều này gây trở ngại cho hoạt động khai thác sản phẩm. Để khắc phục, cán bộ khai thác cần có các biện pháp để củng cố lòng tin với khách hàng, tăng tính hữu hình cuả sản phẩm. Nên mời những người nổi tiếng có uy tín giới thiệu về sản phẩm hoặc những người này mới nhận được tiền trả bảo hiểm để tuyên truyền về sản phẩm. Từ đó để thấy phương pháp khai thác phù hợi với thị trường, công tác phân loại, đánh giá từng khu vực thị trường cần chính xác, cụ thể, kịp thời để nâng cao hiệu quả khai thác đối với nghiệp vụ “An sinh giáo dục “. 4. Công tác tuyển dụng, đào tạo và quản lý cán bộ khai thác Điều quan trọng đầu tiên là công ty chỉ tập trung tuyển chọn cán bộ khai thác chuyên nghiệp. Hiện nay trong công ty số lượng cán bộ khai thác bán chuyên nghiệp cũng không nhiều nên việc tuyển chọn cán bộ khai thác chuyên nghiệp sẽ tạo thuận lợi cho công tác quản lý cán bộ khai thác. Công tác tuyển chọn cán bộ khai thác cần được tiến hành khoa học, nghiêm túc và đảm bảo chất lượng cao ngay từ ban đầu. Chất lượng, nội dung đào tạo phải được nâng cao, đồng thời công tác sát hạch kiểm tra cần được duy trì thường xuyên. Thực tế tồn tại nhiều cán bộ khai thác không thực hiện đúng các quy định khi khai thác, ký hợp đồng bảo hiểm như kê khai hộ giấy yêu cầu cho khách hàng, thu phí đầu tiên trước khi giấy yêu cầu bảo hiểm được chấp nhận, để nợ phí quá nhiều, quá thời hạn ... cần có biện pháp cụ thể để khắc phục hoàn toàn các tình trạng này. Đây là những quy định rất dễ thực hiện nhưng một số cán bộ khai thác lại coi thường, xem nhẹ vì chưa có quy định cụ thể về xử lý vi phạm. Công ty đã có những biện pháp như giảm lương hoặc sa thải những cán bộ khai thác kém như: tỷ lệ khách hàng huỷ bỏ hợp đồng cao. Tuy nhiên, cũng cần quy định cụ thể hơn, ví dụ như tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng ở mức 10 - 30 % số hợp đồng khai thác mới thì phạt tiền ở mức 50.000 đồng/hợp đồng, tỷ lệ huỷ bỏ từ 30% trở lên thì buộc thôi việc. Một vấn đề nữa còn tồn tại giữa các cán bộ khai thác đó là việc các cán bộ khai thác, tổ khai thác, phòng khai thác còn chồng chéo trong việc khai thác trong cùng một khu vực thị trường, đòi hỏi các trưởng phòng và tổ trưởng nhắc nhở các cán bộ khai thác thực hiện tốt, nhằm tránh hiện tượng tranh giành thị trường làm mất uy tín của công ty. Xem qua vấn đề này là không lớn song xét trên thực tế công ty của ta mới thành lập, giữ uy tín với khách hàng là yếu tố hết sức quan trọng nên còn những tồn tại đó sẽ khó khăn cho bước đường tiến triển của công ty trên thương trường. Trong công tác đào tạo và quản lý cán bộ khai thác, công ty cần chú trọng việc nghiên cứu xây dựng một qui trình tuyển dụng và đào tạo cán bộ khai thác chi tiết, chính xác. Tăng cường các cuộc trao đổi, sinh hoạt nghiệp vụ giữa các phòng, các tổ để không ngừng bồi dưỡng củng cố các kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ khai thác. Hiện nay, Tổng công ty đã có quyết định về mô hình tổ chức và quản lý đại lý. Công ty cần thực hiện kịp thời các qui định này, tiến tới có một hệ thống đại lý vững mạnh. Công ty cũng cần tiến hành ký kết lại hợp đồng đại lý và giải quyết dứt điểm các tồn đọng trong hoạt động cộng tác viên. Hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động của các phòng khai thác, đồng thời xây dựng qui chế hoạt động của các phòng để các phụ trách phòng điều hành công việc. Công ty cũng cần tiếp tục duy trì đánh giá phân loại cán bộ khai thác hàng tháng. Hiện nay có câu lạc bộ 200 hợp đồng, nên thành lập câu lạc bộ 300 hợp đồng tạo hướng phấn đấu cho các cán bộ khai thác. Đồng thời ban hành tiêu chuẩn đánh giá, phân loại thống nhất ngay từ đầu năm nhằm tạo ra động lực thi đua giữa các phòng, các tổ và cán bộ khai thác. Phát động các phong trào thi đua, tổ chức các hoạt động tập thể... để động viên cán bộ khai thác hoàn thành nhiệm vụ. Công ty nên áp dụng các chế độ đãi ngộ dải hạn cho cán bộ khai thác như chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế để tạo sự gắn bó lâu dải với công ty 5. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm. 5.1. Công tác giám định: - Tổ chức các khoá đào tạo giám định viên về các kiến thức y học, kiến thức luật để các cán bộ giám định hiểu sâu rộng về các lĩnh vực này , tạo điều kiện hoàn thành tốt công việc. - Đề nghị Bộ Tài chính cùng các cơ quan hữu quan quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cho cán bộ giám định được đi học hỏi kinh nghiệm ở các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài, gặp gỡ các chuyên gia về giám định trong công ty bảo hiểm nhân thọ. 5.2. Công tác trả tiền bảo hiểm: Công ty cần duy trì những kết quả đã đạt được và phải luôn chú trọng công tác này, đảm bảo quyền lợi cho khách hàng cũng như tăng thêm uy tín của công ty. Hiện nay chưa tới thời gian đáo hạn của các hợp đồng bảo hiểm nhưng công ty cũng cần lập kế hoạch cụ thể để tới thời hạn trả tiền bảo hiểm cho hàng loạt khách hàng, công ty sẽ không gặp khó khăn. Công ty cần phân loại khách hàng được trả tiền bảo hiểm theo địa chỉ của khách hàng, theo thời điểm lấy tiền để tiện cho việc trả tiền. Ngoài ra, cũng cần qui định cụ thể về trách nhiệm của cán bộ khai thác trong việc hướng dẫn khách hàng làm thủ tục yêu cầu trả tiền bảo hiểm. Nếu có bất cứ một khiếu kiện nào của khách hàng về thủ tục yêu cầu trả tiền bảo hiểm, cán bộ khai thác thu phí định kì của khách hàng đó sẽ phải chịu trách nhiệm. Tránh trường hợp hiện nay có những cán bộ khai thác không hướng dẫn khách hàng về các thủ tục này hoặc hướng dẫn không đầy đủ, làm cho khách hàng rất lúng túng và hiểu sai lệch về các hoạt động của công ty, 6. Một số kiến nghị khác. 6.1.Về việc nâng tỉ lệ hoa hồng cho đại lý: Do trách nhiệm của người đại lý (cán bộ khai thác) là rất nặng nề, thu nhập của họ sẽ bị giảm sút bởi lẽ số lượng hợp đồng năm thứ nhất sẽ theo họ tới khi mãn hạn, trong khi đó tỉ lệ hoa hồng của các hợp đồng thấp đi theo năm (năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba...) và giảm đi đáng kể. Vì trách nhiệm của người đại lý trong các năm hợp đồng tiép theo không giảm đi là bao nhiêu (họ vẫn phải thu phí định kì tại nhà, vẫn phải chăm sóc khách hàng thường xuyên) khi đó người đại lý có trách nhiệm sẽ không có điều kiện để khai thác thêm những hợp đồng mới (khi mà họ có thừa năng lực để làm việc này). Liệu có thể xảy ra khả năng đại lý sao nhãng việc thu phí và chăm sóc khách hàng cũ, để đi tìm kiếm các khách hàng mới hay không?... Hơn nữa, khi có một công ty bảo hiểm nào đó (kể cả công ty bảo hiểm nước ngoài) được cấp giấy phép kinh doanh bảo hiểm nhân thọ có thể sẽ trả hoa hồng cao để kéo đại lý của Bảo Việt về phía họ.Đó là những nguyên nhân mà công ty cần xem xét để có mức hoa hồng đại lý cho phù hợp giữa các năm hợp đồng mà vẫn đảm bảo hiệu quả kinh doanh của công ty. 6.2.Về thuế thu nhập đối với số tiền đóng phí bảo hiểm nhân thọ: Nhà nước nên có chính sách ưu đãi không đánh thuế thu nhập với số tiền đóng phí bảo hiểm nhân thọ. Hiện nay ngoài các yếu tố mang ý nghĩa thu hút khách hàng của công ty, có một yếu tố có tính quyết định trong việc lựa chọn hình thức tiết kiệm và tham gia bảo hiểm nhân thọ của khách hàng đó là thuế thu nhập. Vì thông thường mỗi người đều nhận thấy ý nghĩa của bảo hiểm nhân thọ, song họ còn quan tâm nhiều về khía cạnh tiết kiệm, đó là điều bất lợi cho việc triển khai nghiệp vụ của công ty. Nếu như số tiền đóng phí bảo hiểm nhân thọ không bị đánh thuế thu nhập, thu hút được rất nhiều khách hàng, đặc biệt khách hàng có thu nhập cao và chắc chắn hợp đồng bảo hiểm tham gia cũng sẽ ở mức trách nhiệm cao, thu hút được vốn đầu tư cho công ty. 6.3.Về công tác tuyên truyền quảng cáo: - Chi kinh phí cho quảng cáo và tuyên truyền nhiều hơn, đặc biệt là quảng cáo trên đài truyền hình, đài phát thanh. - Các buổi phát thanh ở phường nên phát nhiều hơn, khoảng 2 - 3 lần/ tháng với chi phí mỗi lần là 15000, chú ý phát vào giờ mọi người ở nhà đầy đủ buổi sáng trước khi đi làm, tránh phát vào giờ nghỉ trưa hay giờ tới công sở, sẽ không thu được hiệu quả. - In các tờ rơi quảng cáo dưới nhiều hình thức, mẫu mã khác nhau phù hợp với từng đối tượng bảo hiểm. - Tổ chức các buổi trả tiền bảo hiểm khi đến thời hạn trả tiền bảo hiểm cho hợp đồng đáo hạn hàng loạt. - Tổ chức chương trình khuyến mại, thông tin rộng rãi trên các báo hàng ngày như báo Hà nội mới, Nhân dân, Lao động... Trên đây là những kiến nghị, giải pháp nhằm ngày càng hoàn thiện hơn nữa sản phẩm “An sinh giáo dục” của công ty Bảo Việt nhân thọ, góp phần vào sự phát triển của công ty. kết luận Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm - Trường ĐH KTQD 2. Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm - Trường ĐH KTQD 3. Giáo trình thống kê bảo hiểm - Trường ĐH KTQD 4. Chương trình đào tạo đại lý Công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam 5. Sổ tay người đại lý bảo hiểm nhân thọ- Tổng công ty BHVN. 6. Cơ sở kỹ thuật bảo hiểm nhân thọ 7. Tạp chí Tài chính, Ngân hàng, Thông tin thị trường bảo hiểm 1998- 1999. 8. Và một số Tài liệu liên quan khác. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3877.doc
Tài liệu liên quan