Lời mở đầu
“Đường cong đồ thị giới hạn khả năng sản xuất sẽ có hình dạng khác nhau theo từng vĩ tuyến lịch sử của mỗi nước. Không chỉ có tình trạng tỉ lệ có sẵn của tài nguyên mà cả lợi thế so sánh cũng không ổn định do sự chênh lệch của tích luỹ năng lực kỹ thuật”. Tsujimura Ko Taro, nhà kinh tế học Nhật Bản đã nói như vậy về vai trò của công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế của đất nước đồng thời nhấn mạnh ý nghĩa của kế hoạch hoá đối với sự phát triển của công nghiệp.
Là một trong nhữ
109 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bảo đảm vốn đầu tư cho thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí Việt Nam giai đoạn 2001-2005 (108tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ngành công nghiệp hàng đầu của đất nước, Dầu khí đã, đang và sẽ tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Ngoài vai trò tối quan trọng là cung cấp nhiên liệu để vận hành các ngành công nghiệp khác và phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân, Dầu khí còn cung cấp nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp quan trọng khác như hoá chất, hoá dầu... Việc sử dụng những sản phẩm năng lượng sạch tạo ra từ dầu thô và khí thiên nhiên có tác dụng vào việc bảo vệ môi trường trong lành hơn. Dầu thô là mặt hàng xuất khẩu thu được giá trị lớn, góp phần làm cân bằng cán cân xuất nhập khẩu của Việt Nam. Hàng năm có đóng góp rất lớn cho ngân sách Nhà nước.
Nhận thức được điều đó, việc lập kế hoạch phát triển cho một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước là điều vô cùng cần thiết. Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã phối hợp với các bộ chuyên ngành, đặc biệt được sự chỉ đạo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư để lập kế hoạch phát triển cho giai đoạn 2001-2005. Và một vấn đề tối quan trọng để thực hiện kế hoạch là việc đảm bảo một nguồn lực không thể thiếu, đó là vốn đầu tư. Kế hoạch đã đi được nửa già của chặng đường, đã đạt những thành tích đáng khích lệ nhưng cũng gặp phải nhiều khó khăn chồng chất. Bởi vậy, trong hai năm cuối của kế hoạch, cần phải tăng cường vốn đầu tư hơn nữa, phát huy sức mạnh tổng thể để thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra, đưa Dầu khí thực sự trở thành một ngành kinh tế chủ chốt, hướng tới hình thành tập đoàn dầu khí có tầm cỡ trong khu vực và thế giới.
Trong thời gian thực tập tại Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, được tìm hiểu những vấn đề thực tế đầy bức xúc của Dầu khí về vốn phát triển, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu để viết luận văn với đề tài “Bảo đảm vốn đầu tư cho thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí Việt Nam giai đoạn 2001-2005”.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn có kết cấu ba phần:
Chương một: Sự cần thiết phải bảo đảm vốn đầu tư thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí Việt Nam.
Chương hai: Thực trạng quá trình bảo đảm vốn đầu tư thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí Việt Nam 2001-2003.
Chương ba: Một số giải pháp để bảo đảm vốn đầu tư thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí 2004-2005.
Tuy nhiên, do hiểu biết chưa sâu, nhìn nhận vấn đề chưa thấu đáo, kiến thức còn hạn chế, tài liệu thu thập còn thiếu thốn nên luận văn của em chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự nhận xét, sửa chữa của thầy giáo và các cô chú, anh chị trong Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự động viên, hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS. Ngô Thắng Lợi và sự nhiệt tình giúp đỡ của TS. Đặng Văn Thuận cũng như các cô chú, anh chị khác trong Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Chương một
Sự cần thiết phải bảo đảm vốn đầu tư cho việc thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí Việt Nam
I. Tổng quan về ngành Dầu khí Việt Nam
1. Đặc điểm ngành Dầu khí
1.1. Khái niệm:
Dầu khí là hydrocarbon ở thể lỏng trong trạng thái khí tự nhiên, asphalt, ozokerite và hydrocarbon lỏng thu được từ khí thiên nhiên bằng phương pháp ngưng tụ hoặc chiết xuất.
Dầu khí gồm dầu thô, khí thiên nhiên và hydrocarbon ở thể khí, lỏng, rắn hoặc nửa rắn trong trạng thái thiên nhiên, kể cả sulphur và các chất tương tự khác kèm theo hydrocarbon nhưng không kể than, đá phiến sét, bitum hoặc các khoáng sản khác có thể chiết xuất được dầu.
Khí thiên nhiên là toàn bộ hydrocarbon ở thể khí khai thác từ giếng khoan, bao gồm cả khí ẩm, khí khô, khí dầu giếng khoan và khí còn lại sau khi chiết xuất hydrocarbon lỏng từ khí ẩm.
1.2. Đặc điểm
1.2.1. Dầu khí, nguồn tài nguyên quý không thể tái tạo
Trên thế giới, tài nguyên dầu khí được phát hiện từ lâu nhưng mới bắt đầu khai thác mang tính công nghiệp từ nửa cuối thế kỷ 19. Đây là nguồn tài nguyên không có khả năng tái tạo. Dầu khí được tạo ra nhờ các quá trình biến đổi địa chất liên quan đến sự hình thành, chuyển hoá, di chuyển và tích tụ các vật chất hữu cơ (hydrocarbon) và trong một khoảng thời gian rất dài, từ 1 triệu đến 100 triệu năm.
Do cấu tạo địa chất cũng như khí hậu của từng vùng mà các mỏ dầu khí phân bố không đều giữa các vùng trên trái đất. Những mỏ dầu lớn nhất thế giới tập trung ở các nước Trung Đông, Vênêzuêla, Nga, Mỹ. Việt Nam cũng may mắn được thiên nhiên ưu đãi, có những mỏ dầu khí ở thềm lục địa. Nguồn tài nguyên quý giá này đã đóng góp rất nhiều cho quá trình phát triển kinh tế đất nước bởi giá trị kinh tế cao và những thuộc tính vượt trội so với các nguồn năng lượng khác. dầu mỏ được chế biến thành các dạng nhiên liệu khác như xăng dầu, đã được sử dụng rộng rãi trong sản xuất và đời sống. Các sản phẩm dầu mỏ còn là nguyên liệu cho các ngành công nghiệp hoá chất và công nghiệp hàng tiêu dùng. Khí thiên nhiên ngày càng được sử dụng rộng rãi như một loại năng lượng sạch có khả năng thay thế các loại chất đốt như than, dầu hoả.
Trữ lượng dầu khí trên thế giới là có hạn, bị cạn kiệt theo quá trình khai thác. Theo tính toán dự báo, với nhịp độ đầu tư khai thác như hiện nay, trữ lượng của những quốc gia đã tìm thấy dầu, tính đến cuối thế kỷ 20 sẽ chỉ đủ khai thác trong vòng 50 năm tới. Nhiều nước ở Đông Nam á 8:59 PMhiện nay đang là nước xuất khẩu dầu thô như Inđônêxia, Malaysia sẽ trở thành những nước nhập khẩu vào những năm sau 2010.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), trữ lượng dầu khí của Việt Nam có khả năng khai thác là một tỷ tấn, đứng thứ 4 trong khu vực Đông Nam á. Các nhà khoa học dự đoán rằng: sản lượng dầu thô khai thác sẽ không đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ sản phẩm xăng dầu trong nước sau 2020 và Việt Nam sẽ phải nhập khẩu dầu thô. Do vậy, việc lập kế hoạch khai thác dầu khí và sử dụng hợp lý dầu khí là rất cần thiết để bảo đảm cho sự phát triển kinh tế của đất nước bền vững lâu dài.
1.2.2. Hoạt động dầu khí mang đầy tính rủi ro, mạo hiểm nhưng thu được lợi nhuận cao.
Trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò dầu khí, độ rủi ro cao trước hết phụ thuộc vào điều kiện địa chất. Xác suất thành công trung bình trong tìm kiếm thăm dò, khai thác dầu khí trên thế giới hiện nay rất thấp, chỉ khoảng 10%. ở Việt Nam, xác suất này còn thấp hơn nhiều. Từ năm 1988 tới hết 1999, với 153 giếng khoan tìm kiếm thăm dò trên khắp thềm lục địa với chi phí hơn 3 tỷ USD ta mới phát hiện được 5 mỏ có tính thương mại là Rồng, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Lan Tây - Lan Đỏ. Tuy nhiên, khi đã phát hiện ra mỏ dầu khí thì sẽ thu được siêu lợi nhuận. Chi phí cho một thùng dầu thô chỉ bằng 1/3 giá bán. Đặc biệt, ở khu vực Trung Đông, chi phí sản xuất ra một thùng dầu chỉ khoảng 1 USD nhưng giá bán một thùng dầu có thể đạt tới 20-30 USD.
Không chỉ những rủi ro về địa chất ảnh hưởng đến xác suất phát hiện mỏ mà rủi ro về kỹ thuật trong khi khoan, khai thác, vận chuyển cũng gây ra chi phí rất lớn. Việc xây dựng, vận hành các đề án dầu khí luôn đi đôi với nguy cơ cháy nổ làm tổn hại đến người và của, gây ô nhiễm môi trường sinh thái do các sự cố như tràn dầu thường xảy ra ở vùng khai thác hay trong khâu vận chuyển… Các chi phí cho những rủi ro này khó lường trước được. Chính vì độ rủi ro cao như vậy, các nhà đầu tư trở nên mạo hiểm khi bỏ vốn vào lĩnh vực này.
12.3. Dầu khí, ngành công nghiệp có nhu cầu vốn đầu tư rất lớn
Đặc trưng nổi bật của ngành công nghiệp Dầu khí, khác biệt so với các ngành công nghiệp khác là quy mô vốn đầu tư rất lớn. Mỗi lĩnh vực hoạt động của ngành dầu khí lại đòi hỏi lượng vốn đầu tư phù hợp để đạt hiệu quả kinh tế cao.
Trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, mỗi công ty dầu khí nước ngoài cam kết chi tối thiểu trên phạm vi 1-2 lô diện tích hợp đồng lên tới 40-50 triệu USD trong thời gian từ 3-5 năm. Các chi phí thực hiện trong khâu này rất lớn, một giếng khoan thăm dò trung bình từ 7-10 triệu USD. ở Việt Nam, đã có lúc chi phí cho một giếng khoan tới 40 triệu USD.
Như vậy, với xác suất khoảng 10% để tìm thấy một trữ lượng dầu khí thương mại, ta phải chi hàng trăm triệu USD. Để gia tăng 1 triệu tấn dầu trữ lượng xác minh ta cần đầu tư khoảng 5 triệu USD. Để có sản lượng khai thác 20 triệu tấn dầu quy đổi hàng năm thì mỗi năm phải đầu tư khoảng 150 triệu USD cho tìm kiếm thăm dò, phát triển những mỏ mới.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là chi phí ban đầu. Nếu có phát hiện thương mại thì giai đoạn khai thác tiếp theo sẽ kéo dài ít nhất là 20 năm với số vốn đầu tư còn lớn hơn nữa. Chi phí phát triển cho một mỏ để đưa vào khai thác cực kỳ tốn kém, đòi hỏi cường độ đầu tư nhiều trăm triệu USD trong khoảng 3 - 4 năm. Ta có thể lướt qua một vài con số để thấy ấn tượng: phát triển mỏ Bạch Hổ trong 5 năm đã cần tới 1,5 tỷ USD. Đề án phát triển mỏ khí Lan Tây - Lan Đỏ trong 3 năm để đưa vào khai thác cũng cần 1,5 tỷ USD. Xí nghiệp liên doanh Dầu khí Vietsopetro cũng cần phải chi phí 200-250 triệu USD hàng năm để đảm bảo sản lượng khai thác 15 triệu tấn dầu/năm như hiện nay…
Vận chuyển dầu khí vào bờ cũng đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn vì hầu hết các mỏ nằm rất xa bờ. Quá trình vận chuyển dầu khí vào bờ phải sử dụng hệ thống chuyên dụng, phương tiện kỹ thuật hiện đại như giàn nén trung tâm cỡ lớn trên 100 triệu USD. Để xây dựng công trình đường ống dẫn khí từ mỏ vào đất liền cần một lượng vốn đầu tư trung bình 1 triệu USD/km đường ống. Chế biến dầu khí không những cần một lượng vốn đầu tư ban đầu rất lớn bằng ngoại tệ mà thời gian thu hồi vốn rất dài. Các lĩnh vực hoá dầu, sản xuất dầu mỡ nhờn, chất dẻo, phân bón và các sản phẩm dầu khí cũng cần nhiều vốn đầu tư. Thêm vào đó, lĩnh vực dịch vụ dầu khí cũng có nhu cầu về vốn đầu tư khoảng 30-40 triệu USD mỗi năm.
1.2.4. Dầu khí, ngành công nghiệp công nghệ cao
Tại Việt Nam, các mỏ dầu thường nằm ở dưới độ sâu hàng nghìn mét trong lòng đất. Ngoài thềm lục địa thì còn phải tính thêm độ sâu nước biển từ hàng chục đến hàng trăm mét. Vì vậy, con người không thể tiếp cận trực tiếp với các mỏ dầu ở trong lòng đất sâu như thế được. Sự hiểu biết của con người về địa chất, về cấu tạo mỏ dầu khí, về sự chuyển dịch của các lưu thể lỏng: dầu, khí, nước…trong mỏ đều phải qua suy đoán, tính toán nhờ vào các phương tiện, máy móc, kỹ thuật hiện đại kết tinh hàm lượng chất xám cao. Do đó, lĩnh vực tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí đòi hỏi phải áp dụng những tiến bộ mới nhất về khoa học, kỹ thuật.
Nhiều thành quả tiến bộ khoa học công nghệ đã được áp dụng cho công tác thăm dò, khai thác dầu khí. Những tín hiệu xung lượng phản hồi từ các tầng địa chấn khác nhau sâu, trong lòng đất từ 4 - 5 km thu lượm được phải nhờ đến các trung tâm điện tử với công suất tính toán lớn mới xử lý được.
Do điều kiện làm việc đặc thù ngoài biển khơi, mỗi dàn khoan hoạt động tới gần 30 dịch vụ khác nhau. Từ hệ thống định vị vệ tinh, địa chất, công trình biển, dự báo thời tiết, thông tin liên lạcm, kể cả truyền ảnh vệ tinh, máy bay trực thăng, tàu biển, dịch vụ lặn sâu đến các thiết bị máy móc phân tích mẫu thu được liên tục trong quá trình khoan. Tất cả đều là những tiến bộ khoa học mới nhất, được áp dụng nhằm giảm thiểu các chi phí và rủi ro trong thăm dò tìm kiếm dầu khí.
1.2.5. Dầu khí, ngành mang tính quốc tế cao
Vốn đầu tư lớn, độ rủi ro cao, đòi hỏi áp dụng khoa học công nghệ hiện đại là lý do khiến các công ty dầu khí đa quốc gia mở rộng hoạt động ra khắp năm châu để giảm thiểu bất trắc. Yếu tố khách quan đáng lưu ý là hầu hết các nước có tài nguyên dầu khí Trung Đông, châu Phi, Mỹ Latinh… lại là những nước nghèo, không đủ sức tự chịu rủi ro để tìm kiếm tài nguyên. Điều đó tất yếu dẫn tới sự tham gia của các công ty dầu khí ở các nước phát triển.
Hiện nay trên thế giới, không một nước nào, kể cả Mỹ - cường quốc về dầu khí - có thể sản xuất tất cả các loại máy móc, thiết bị cho hoạt động của ngành. Bởi vậy, hoạt động dầu khí thường có nhiều công ty với nhiều quốc tịch cùng tham gia. Ta có thể thấy các dàn khoan dầu khí di động từ châu Phi sang châu á rồi châu Mỹ đã trở thành hiện tượng bình thường.
Tại Việt Nam, sau những năm kêu gọi đầu tư nước ngoài, ngành Dầu khí đã chứng kiến sự có mặt của nhiều công ty dầu khí trên thế giới. Những công ty dầu khí hàng đầu thế giới có doanh thu mỗi năm hàng trăm tỷ USD như: Exxon, Mobil, Shell; những công ty dầu khí quốc gia như: Petrocanada (Canada), Petronas (Malaysia), PTT (Thái Lan), KNOC (Hàn Quốc) đến các tổ hợp của nhiều công ty độc lập loại vừa có thu nhập vài tỷ USD mỗi năm đều đến Việt Nam để chia sẻ rủi ro.
Trong xu hướng toàn cầu hoá, cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt là điều phải tính đến trong chính sách thu hút đầu tư phát triển dầu khí của mỗi quốc gia. Tình hình biến động kinh tế thế giới hay khu vực đều có ảnh hưởng đến hoạt động dầu khí, đặc biệt là thị trường dầu mỏ. Do đó, các nước xuất khẩu dầu thô khối lượng lớn đã liên kết thành tổ chức OECD. Tổ chức này kiểm soát lượng cung dầu mỏ trên thị trường thế giới nhằm bảo vệ quyền lợi của mình.
1.2.6. Giá dầu thô và các sản phẩm dầu khí luôn biến động
Sự biến động về giá dầu thô và các sản phẩm dầu khí buộc các tập đoàn dầu khí phải có những giải pháp tổ chức áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, nghiên cứu ứng dụng và phát triển để tạo thế cạnh tranh về điều kiện môi trường địa chất, địa lý, tính chất dầu thô, giá thành thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, lợi nhuận.
2. Quá trình hình thành và phát triển ngành Dầu khí Việt Nam
Việc tìm ra lửa là một phát minh vĩ đại của nhân loại. Nó đã làm biến chuyển đời sống nguyên thuỷ ăn lông ở lỗ của loài người sang một trang mới, văn minh hơn và tiến bộ hơn. Kể từ đó tới nay, loài người không ngừng những cuộc tìm kiếm các mỏ năng lượng, những nguồn năng lượng mới để phục vụ cho sản xuất và đời sống. Dầu khí cũng không nằm ngoài số đó.
Trên thế giới, việc tìm kiếm thăm dò dầu khí đã có từ rất sớm, nhưng ở Việt Nam thì mới bắt đầu từ những năm 60, khi có những phát hiện mới trong lĩnh vực địa chất. Đoàn địa chất 36 đã được thành lập để đảm nhận trọng trách này. Ngay từ khi thành lập, Đoàn đã tích cực thực hiện công tác thăm dò dầu khí trên nhiều vùng lãnh thổ của đất nước. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh, nên mới chỉ tập trung tìm kiếm ở khu vực phía Bắc. Phải tới khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, năm 1975, thì hoạt động tìm kiếm mới thực sự được mở rộng trên cả nước. Và khi đó, Tổng cục Dầu khí chính thức được thành lập (3/9/1975).
Một ngành kinh tế ra đời và phát triển trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều bom đạn chiến tranh. Trong thập kỷ 80, lại cùng vật lộn với đất nước khi chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Thế mà đến nay, ngành công nghiệp non trẻ ấy đã phát triển, trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp nhiều nhất cho ngân sách Nhà nước. Để có được những thành tích đáng khích lệ ấy là cả một sự cố gắng tột bậc của cán bộ công nhân viên toàn ngành, cùng với sự giúp đỡ của các chuyên gia nước bạn.
Thời gian 1975 - 1982, hoạt động của Tổng cục Dầu khí chủ yếu chỉ thực hiện trong phạm vi hẹp, chủ yếu là thăm dò tìm kiếm trên đất liền. Phải đến những năm 1981-1987, mới mở rộng công tác thăm dò ở cả những vùng biển, thông qua hợp tác với Liên Xô cũ. Năm 1981, Tổng cục đã tìm kiếm, thăm dò và khai thác mỏ khí đầu tiên của Việt Nam tại Tiền Hải, Thái Bình. Cũng trong năm đó, việc thành lập Xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt Xô đã tạo ra một bước ngoặt mới cho ngành Dầu khí Việt Nam. Năm 1986, thành công đầu tiên rất đáng tự hào đã đến với xí nghiệp: dòng dầu đầu tiên phun lên từ mỏ Bạch Hổ.
Năm 1990, Tổng cục Dầu khí được chuyển thành Tổng công ty Dầu khí và khí đốt trực thuộc Bộ Công nghiệp nặng.
Năm 1992, Tổng công ty Dầu khí và khí đốt tách khỏi Bộ Công nghiệp nặng, trực thuộc Chính phủ.
Thành công nối tiếp thành công, năm 1995, lần đầu tiên, cũng từ mỏ Bạch Hổ, Tổng công ty đã đưa được khí đồng hành vào bờ. Và tới ngày 29/05/1995, Tổng công ty Dầu khí được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định trở thành tổng công ty quốc gia theo quyết định thành lập số 330/TTg. Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty được Chính phủ phê duyệt tại Nghị định số 38/CP ngày 30/05/1995, được Uỷ ban Kế hoạch nhà nước, nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 110016 vào ngày 27/07/1995.
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, với tên giao dịch là VIETNAM OIL AND GAS CORPORATION hay PETROVIETNAM, đặt trụ sở chính hiện nay tại số 22 Ngô Quyền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Các chức năng, nhiệm vụ của Tổng công ty là: nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, tàng trữ, vận chuyển, cung cấp các dịch vụ kỹ thuật dầu khí. Kinh doanh và phân phối các sản phẩm dầu khí, hoá dầu. Xuất nhập khẩu dầu thô và các vật tư, thiết bị dầu khí, các sản phẩm dầu khí, hoá dầu. Tư vấn đầu tư, khảo sát, thiết kế, kinh doanh xây dựng và sửa chữa các công trình, phương tiện nổi phục vụ dầu, khí, dân dụng. Bảo hiểm và tái bảo hiểm dầu khí. Kinh doanh khách sạn, du lịch, đào tạo và cung ứng nhân lực. Tiến hành các hoạt động kinh doanh, các nhiệm vụ khác do Nhà nước giao. Nhận và sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, tài nguyên. Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nhân trong toàn ngành.
Tuy nhiên, hoạt động của toàn ngành mới chỉ chủ yếu tập trung vào khai thác và xuất khẩu dầu thô. Sản lượng dầu thô khai thác và xuất khẩu không ngừng tăng nói lên hiệu quả của hoạt động đầu tư lớn vào khâu này. Nhiều công ty hàng đầu trên thế giới đã đến Việt Nam và đầu tư tìm kiếm thăm dò dầu khí. Tính đến nay, đã có gần 40 nhà đầu tư với tổng vốn đầu tư lên tới hàng trăm triệu USD, trong đó nhiều nhà thầu đã phát hiện ra dầu khí và một số mỏ thương mại đã được đưa vào để khai thác. Đó là các mỏ Rạng Đông, Hồng Ngọc, Bunga Kekwa, Lan Tây - Lan Đỏ.
Năm 1999, để mở rộng và phát triển hoạt động của ngành Dầu khí, Công ty liên doanh nhà máy lọc dầu Việt - Nga được thành lập và xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam (Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất) công suất 6.5 triệu tấn/năm với tổng vốn đầu tư 1.3 tỷ USD.
Năm 2001, dự án hoá dầu đầu tiên của Việt Nam được thành lập. Đó là nhà máy phân đạm Phú Mỹ công suất 800.000 tấn/năm đã được khởi công xây dựng.
Năm 2002, một năm đáng nhớ của ngành Dầu khí Việt Nam với những sự kiến lớn lao. Một công trình tầm cỡ, in đậm dấu ấn tinh thần tự lực tự cường của cán bộ công nhân viên Tổng công ty, đó là nối hệ thống đường ống khí Rạng Đông - Bạch Hổ. Sự kiện khí Nam Côn Sơn vào bờ đánh dấu sự khởi đầu của ngành công nghiệp khí thiên nhiên đầu tiên của Việt Nam. Cũng trong năm này, Thủ tướng Chính phủ chính thức phát động triển khai cụm khí - điện - đạm Cà Mau với ba dự án đường ống dẫn khí 2 tỷ m3/năm, nhà máy điện với công suất 720 MW, nhà máy đạm sản lượng 800.000 tấn/năm, tổng số vốn đầu tư là 1.1 tỷ USD, đồng thời Thủ tướng cũng phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi của Liên hiệp Lọc hoá dầu Nghi Sơn với tổng vốn đầu tư 2.5 tỷ USD.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, mặc cho điều kiện hoàn cảnh còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, ngành Dầu khí luôn phấn đấu vươn lên để khẳng định vai trò là ngành kinh tế trọng điểm của đất nước. Với những nỗ lực không biết mỏi mệt để có được những thành công to lớn, ngành Dầu khí luôn xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần vào việc thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Vai trò của ngành Dầu khí Việt Nam
Vị trí trọng yếu của ngành năng lượng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia là một điều không thể phủ nhận. Trong khi tìm kiếm những nguồn năng lượng mới, tiếp tục khai thác, sử dụng những nguồn năng lượng hiện thời thì dầu khí vẫn luôn chiếm ưu thế nổi trội bởi vai trò của nó đối với mỗi quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
3.1. Cung cấp năng lượng phục vụ cho sản xuất và đời sống
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành công nghiệp Dầu khí Việt Nam là tiến tới bảo đảm an toàn về năng lượng dưới dạng nhiên liệu như xăng, dầu, khí hoá lỏng phục vụ đời sống xã hội của nhân dân và thoả mãn nhu cầu về nhiên liệu cho sản xuất công nghiệp.
Hiện nay, trong cân bằng năng lượng thế giới, dầu mỏ và khí thiên nhiên chiếm tỉ lệ khoảng 63%, than đá chiếm 23%, điện hạt nhân, thuỷ điện và các dạng năng lượng khác chiếm phần còn lại. Một đất nước với hơn 80 triệu dân thì nhu cầu của nhân dân về các sản phẩm dầu khí là rất lớn. Vào năm 2005, dự báo Việt Nam tiêu thụ khoảng 16 triệu tấn xăng dầu, gấp hai lần nhu cầu tiêu thụ năm 2000. Như vậy, để góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành công nghiệp Dầu khí Việt Nam là thoả mãn nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng cho đất nước.
3.2. Tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp khác
3.2.1. Công nghiệp lọc dầu, hoá dầu:
Lọc dầu và hoá dầu có quan hệ mật thiết, thậm chí đôi khi còn đan xen vào nhau. Bởi vì, lọc dầu thường tạo ra các sản phẩm mà chúng chủ yếu được sử dụng làm nhiên liệu và làm đầu vào cho ngành công nghiệp hoá chất. Hiện nay, nước ta hầu như chưa có sản phẩm lọc, hoá dầu bởi lẽ ngành công nghiệp lọc, hoá dầu đang trong giai đoạn xây dựng và hoàn thành. Trong khi đó, nhu cầu về các sản phẩm này đang ngày càng lớn. Các sản phẩm: phân đoạn nhẹ, xăng các loại, dầu hoả, nhiên liệu phản lực, nhiên liệu DO, nhiên liệu FO, các phân đoạn nặng làm nguyên liệu sản xuất dầu bôi trơn, asphalt, cốc… rất cần thiết cho đời sống và sản xuất, nhưng phải nhập khẩu. Bên cạnh đó, lọc dầu còn tạo ra nguồn nguyên liệu quan trọng cho hoá chất để sản xuất ra những sản phẩm như sợi tổng hợp, cao su tổng hợp, nhựa cao phân tử… đang được sử dụng rộng rãi và ngày càng được ưa chuộng trên thị trường.
3.2.2. Ngành công nghiệp hoá chất:
Trong công nghiệp hoá chất, phần lớn nhất các sản phẩm hoá học cần thiết cho nhân loại là hợp chất hydrocarbon. Tuy có tới khoảng 90% nguồn hydrocarbon của dầu mỏ được sử dụng cho mục đích nhiên liệu, số còn lại mới được dùng để tạo nên sản phẩm hoá học, nhưng chính số còn lại ít ỏi đó lại là nền tảng cho công nghiệp hoá chất phát triển. Việt Nam đang ở trong tình trạng xây dựng công nghiệp hoá chất mà chưa có nguồn nguyên liệu hữu cơ. Vì thế, có thể thấy ngành hoá chất nước ta chưa thật hoàn chỉnh và còn thua kém các nước trong khu vực. Trong giai đoạn hiện nay, không có một nguồn nguyên liệu nào có thể cạnh tranh được với dầu khí. Do đó, để kích thích sự phát triển của công nghiệp hoá chất, trước hết cần chú trọng xây dựng và phát triển công nghiệp hoá dầu.
3.2.3. Các ngành công nghiệp khác:
Tác động của ngành công nghiệp dầu khí tới sự phát triển của các ngành khác là rất rộng thông qua các mối liên hệ phát triển ngược và xuôi. Điều đó nói lên vai trò quan trọng, ý nghĩa có tính chất quyết định của ngành dầu khí tới sự phát triển chung của nền kinh tế.
Công nghiệp khí: Là ngành gắn bó máu thịt với dầu mỏ. Tiềm năng khí đốt ở nước ta khá lớn, nhưng trước khi có công trình thu gom vận chuyển khí vào bờ, ứng với mỗi tấn dầu thô có tới 120-200 m3 khí đồng hành bị đốt bỏ. Vì thế, để sử dụng tối đa nguồn lực này, yêu cầu phải xây dựng một ngành công nghiệp khí vững mạnh. Cho đến nay, một số nhà máy khí đã được xây dựng với sản lượng khai thác 2 tỷ m3, ngành khí sẽ là một trong những ngành phục vụ đắc lực cho đời sống thông qua việc thực hiện sản xuất các sản phẩm chất đốt cho dân dụng, nhiên liệu cho ngành điện, cho hoá dầu… Sự phát triển của ngành dầu khí sẽ là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp khí do khai thác dầu thô đồng thời thu được khí đồng hành. Với tiềm năng dồi dào, ngành công nghiệp khí hứa hẹn một tương lai tươi sáng, đóng góp vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp nhựa: Một phần nguồn nguyên liệu đầu vào của ngành nhựa lấy từ dầu khí. Dầu mỏ sau khi được chế biến sẽ trở thành nguyên liệu cần thiết để phục vụ cho ngành nhựa sản xuất ra các sản phẩm công nghiệp cũng như dân dụng. Bởi, sau khi được chế biến, dầu mỏ sẽ trở thành nguyên liệu để sản xuất nhiều loại chất dẻo như PP, PS, PE, PVC… Đây cũng là một trong các lý do xây dựng các nhà máy hoá dầu để cho ra đời những loại chất dẻo đó, phục vụ sự phát triển của ngành công nghiệp nhựa trong tương lai không xa.
Công nghiệp điện: Hiện nay, các nhà máy điện sử dụng khí làm đầu vào đang được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng điện, thay thế cho các nguồn nguyên liệu khác đang cạn kiệt hoặc tiềm năng nhỏ bé. Sử dụng khí làm đầu vào vừa giảm ô nhiễm môi trường, vừa tận dụng được một nguồn tài nguyên dồi dào. Hiện nay, nhà máy nhiệt điện Bà Rịa tiêu thụ 1 tỷ m3 khí/năm lấy từ mỏ Bạch Hổ. Tương lai, Việt Nam dự kiến xây dựng nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 1.1, 2.1, 2.2 tiêu thụ khoảng 3 tỷ m3 khí/năm.
3.3. Mang lại nguồn ngoại tệ lớn nhờ xuất khẩu
Dầu khí đóng vai trò vô cùng quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì nó là ngành tích luỹ tư bản cho quá trình phát triển. Thiên nhiên ưu đãi cho nước ta nguồn tài nguyên dầu khí. Đây là một thuận lợi lớn của Việt Nam trong quá trình tích luỹ vốn ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hoá. Từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài, ta đã thu hút ngày càng nhiều công ty dầu khí nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm thăm dò. Đó là cơ hội cho ta rút ngắn quá trình tích luỹ vốn bằng cách khai thác các mỏ dầu và khí thiên nhiên để xuất khẩu, chủ yếu là dầu thô.
Dầu thô đứng đầu trong 8 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam dưới dạng sản phẩm thô, gồm có: dầu thô, gạo, hải sản, cà phê, hạt điều, cao su, than đá, tơ tằm. Những sản phẩm này chiếm tới 60-70% tổng kim ngạch xuất khẩu, chỉ riêng dầu thô xuất khẩu đã chiếm 17.5%. Dầu thô đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện cán cân xuất nhập khẩu.
Trong thời gian tới, khi các nhà máy lọc hoá dầu đi vào hoạt động, nguồn ngoại tệ thu được sẽ lớn hơn nữa nhờ xuất khẩu những sản phẩm dầu tinh chế.
3.4. Là nguồn thu lớn của ngân sách Nhà nước
Ngành Dầu khí Việt Nam hiện đang là một trong những ngành đóng góp nhiều nhất cho ngân sách Nhà nước. Thực hiện hoạt động xuất khẩu dầu thô đã mang lại lợi nhuận lớn cho ngành và cho đất nước. Hiện nay, ngành đã phát triển và đưa vào khai thác an toàn các mỏ khí: Bạch Hổ, Đại Hùng, Hồng Ngọc,...Tổng sản lượng dầu thô và khí thu được đã tăng qua các năm. Đến nay, tổng sản lượng đã khai thác là 110 triệu tấn dầu thô và trên 7 tỷ m3 khí cung cấp cho sản xuất điện. Với sản lượng khai thác lớn như thế và giá dầu thô trong những năm qua tương đối cao, Dầu khí đã đóng góp cho GDP ngày càng tăng và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Tính trung bình, 15% ngân sách Nhà nước là thu từ Dầu khí thông qua các khoản thuế và lợi nhuận của nước chủ nhà.
3.5. Góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường, tăng phúc lợi xã hội
Việc sử dụng các sản phẩm dầu khí trong sinh hoạt, sản xuất thay cho những nguồn nguyên liệu truyền thống như than, củi đã có tác động tích cực tới việc bảo vệ và giữ gìn môi trường. Rừng sẽ không bị tàn phá, những thảm thực vật, động vật được bảo vệ an toàn. Bầu không khí sẽ trong lành hơn khi các sản phẩm năng lượng sạch của dầu khí được tiêu thụ. Khí hoá lỏng sẽ thế chỗ cho xăng dầu trong việc vận hành các phương tiện giao thông, góp phần làm giảm bụi khói gây ô nhiễm môi trường...
Việc sử dụng các sản phẩm như khí hoá lỏng, gas... là biểu hiện của một xã hội văn minh, đời sống của con người được nâng cao. ở Việt Nam hiện nay, các hộ gia đình trung lưu đều đã chuyển sang sử dụng bếp gas. Các xe ô tô bắt đầu sử dụng khí hoá lỏng (LPG). ý thức của con người về bảo vệ môi trường ngày càng được nâng cao. Những bệnh0 về đường hô hấp hoặc những bệnh do môi trường ô nhiễm gây ra cũng sẽ giảm dần. Nguồn ngân sách Nhà nước tăng thu nhờ đóng góp ngày một lớn hơn của ngành Dầu khí, sẽ tăng chi cho phát triển xã hội, cải thiện cuộc sống của con người.
4. Cơ cấu tổ chức khai thác và chế biến Dầu khí ở Việt Nam
4.1. Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là đầu tầu của ngành Dầu khí Việt Nam. Để hoạt động hiệu quả, Tổng công ty cần sự hỗ trợ, giúp đỡ của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc. Hội đồng quản trị thực hiện quản lý công ty, còn Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc thực hiện việc điều hành công ty.
Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý nhà nước các hoạt động của Tổng công ty, chịu trách nhiệm trước Chính phủ về sự phát triển của Tổng công ty theo nhiệm vụ nhà nước giao.
Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc: Tổng giám đốc, là đại diện pháp nhân của Tổng công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, Thủ tướng Chính phủ và pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng công ty. Tổng giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong Tổng công ty.
Phó tổng giám đốc, là người giúp việc cho Tổng giám đốc trong một số lĩnh vực hoạt động của Tổng công ty theo phân công hoặc uỷ quyền của Tổng giám đốc, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được phân công hoặc uỷ quyền.
Kế toán trưởng, giúp Tổng giám đốc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê của Tổng công ty, có quyền hạn và nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Văn phòng, các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp việc Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lý và điều hành công việc, bao gồm: (sơ đồ)
Với một bộ máy quản lý, tổ chức chặt chẽ, có hệ thống, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam luôn đạt những thành quả to lớn và xứng đáng là cơ quan đầu não của ngành Dầu khí Việt Nam.
Ban Hợp tác quốc Các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ
tế và
Quản lý PSC Ban
Ban Kiểm toán nội bộ
Ban Thăm dò khai thác
Ban Công nghệ thông tin
Ban Kế hoạch
Ban khí điện
Các phòng ban chuyên môn nghiệp vụ của TCT
Ban Luật
Ban Chế biến dầu khí
Ban Chế biến dầu khí
Văn phòng thẩm định đầu tư
Ban Đầu tư
phát triển
Ban Công nghệ, an toàn và
môi trường
Ban Thương mại
Ban Lao động, Tiền lương ,Chế độ chính sách
Ban Thanh tra bảo vệ
Ban Tài chính
kế toán
Văn phòng
Ban Tổ chức nhân sự - đào tạo
4.2. Các đơn vị trực thuộc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
Các đơn vị trực thuộc TCT Dầu khí Việt Nam
Công ty tư vấn đầu tư và xây dựng dầu khí (PVICCC)
Công ty tài chính dầu khí (PFC)
Trung tâm đào tạo và cung ứng nhân lực dầu khí (PVTMSC)
Trung tâm an toàn và môi trường dầu khí (RDCPSE)
Tr._.ung tâm nghiên cứu và phát triển chế biến dầu khí (RDCPP)
Viện Dầu khí
(VPI)
Công ty tư vấn
đầu tư
Công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC)
Công ty dịch vụ du lịch dầu khí (PVTSC)
Công ty chế biến và KD sản phẩm dầu (PVPDC)
Công ty chế biến và KD sản phẩm khí (PVGC)
Công ty thương mại dầu khí (PETECHIM)
Công ty thiết kế và xây dựng dầu khí (PVECC)
Trung tâm thông tin tư liệu dầu khí (PIC)
Công ty dung dịch khoan và hoá phẩm dầu khí (DMC)
Công ty dịch vụ và kỹ thuật dầu khí (PTSC)
Công ty thăm dò và khai thác dầu khí (PVEP)
Công ty đầu tư và phát triển dầu khí (PIDC)
4.3. Các công ty liên doanh của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
Xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsopetro
Các công ty liên doanh của TCT Dầu khí Việt Nam
Liên doanh chế biến suất ăn
dầu khí
Liên doanh Barit Tuyên Quang - DMC
Liên doanh
MI -Việt Nam
Công ty liên doanh dầu khí Mekong
Cty LDSX sửa chữa cầu khoan ống chống Vietubes
Công ty LD điều hành Vietgasprom JOC lô 112
Dự án đường ống dẫn khí
Nam Côn Sơn
Công ty liên doanh điều hành Cửu Long
Công ty điều hành Hoàn Vũ lô 16-01
Công ty điều hành Hoàn Vũ JOC lô 09 - 2
Tổ hợp địa vật lý Thái Bình Dương
Liên doanh khí hoả lỏng Mekong (Mekong gas)
Liên doanh nhựa và hoá chất
Phú Mỹ
Liên doanh cơ khí Petro - Summit
Liên doanh Petrovietnam -Sông Trà
Cty LD kinh doanh văn phòng dầu khí Petrotower
Công ty liên doanh xây lắp Việt - Nga
Công ty LD nhà máy lọc dầu Việt - Nga (Vietross)
Công ty liên doanh VLG hoá chất (LG VINA)
Cty LD khí hoá lỏng Việt Nam (VIETNAM LPG)
Liên doanh khí hoá lỏng
Thăng Long
Để mở rộng và phát triển ngành, đồng thời do yêu cầu, đòi hỏi khách quan đối với một đơn vị sản xuất kinh doanh cần phải nâng cao khả năng chiếm lĩnh thị trường, Tổng công ty đã thực hiện liên doanh với 22 đơn vị trên. Qua việc thực hiện liên doanh, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam ngày càng trưởng thành và vững mạnh.
4.4. Các tổ chức có liên quan
Đó là những tổ chức đã có những đóng góp không nhỏ cho việc xây dựng và phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam. Mỗi tổ chức đó có vai trò khác nhau, thực hiện một số khâu ở các lĩnh vực khác nhau: thượng nguồn, trung nguồn, hạ nguồn nhưng cùng hướng tới mục đích: phục vụ cho sự lớn mạnh của ngành Dầu khí Việt Nam.
4.4.1. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex)
Có vai trò rất quan trọng trong phân phối sản phẩm dầu. Làm nhiệm vụ cung ứng xăng dầu cho đất nước, đã có được những đóng góp to lớn cho công cuộc đổi mới phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và cho sự nghiệp phát triển ngành Dầu khí nói riêng. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam có một đội tàu thực hiện chuyên chở các sản phẩm của dầu khí. Thời gian gần đây, Tổng công ty xăng dầu Việt Nam còn mở rộng hoạt động kinh doanh xăng dầu, khí hoá lỏng sang kinh doanh, vận chuyển xăng dầu, thiết kế đường ống, bể chứa, cơ khí chuyên dụng, bảo hiểm và du lịch, bắt đầu có quan hệ làm ăn với nước ngoài.
4.4.2. Công ty xăng dầu Thành phố Hồ Chí Minh (Saigonpetro):
Được thành lập từ năm 1986, thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là chế biến dầu khí và sản xuất, kinh doanh, dịch vụ kỹ thuật, thương mại và khí hoá lỏng, xăng dầu và các sản phẩm có nguồn gốc từ dầu mỏ.
4.4.3. Công ty Thương mại Kỹ thuật và Đầu tư (Petec), công ty xăng dầu hàng không Việt Nam (Vinapco) cũng có vai trò không nhỏ trong ngành Dầu khí. Với chức năng phân phối, kinh doanh các sản phẩm xăng dầu, các công ty này đã bảo đảm cung ứng phần nào cho đời sống nhân dân và hiện đang tích cực mở rộng thị trường hơn nữa nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu thụ xăng dầu của Việt Nam.
II. Vai trò của Dầu khí đối với tăng trưởng phát triển kinh tế xã hội Việt Nam
1. Dầu khí và vấn đề tăng trưởng kinh tế
Những tác động tích cực của ngành Dầu khí đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam là điều không thể phủ nhận. Mọi hoạt động của sản xuất và đời sống sẽ bị ngừng trệ, không thể phát triển được nếu như không có năng lượng. Phát triển Dầu khí tác động tới rất nhiều ngành công nghiệp khác trong các công đoạn khai thác, chế biến, phân phối kinh doanh như hoá dầu, hoá chất, công nghiệp khí... Nhờ có Dầu khí mà những ngành đó có điều kiện tăng trưởng và phát triển vì Dầu khí không chỉ cung cấp nhiên liệu, mà còn cung cấp nguyên liệu cho các ngành này hoạt động. Đó hầu hết là những ngành chủ chốt trong nền kinh tế đất nước. Để phục vụ ngành còn đỏi hỏi phải có nhân công. Phát triển Dầu khí đã gián tiếp tạo việc làm cho nhiều người lao động, gián tiếp giải quyết những bức xúc những vấn đề xã hội. Dầu thô, các sản phẩm của Dầu khí cũng như sản phẩm của các ngành có liên quan xuất khẩu thu được ngoại tệ góp phần giải quyết vấn đề thiếu vốn đầu tư. Như vậy, Dầu khí đã tạo những tiền đề, điều kiện cho các ngành đó lớn mạnh, góp phần làm tăng thu cho ngân sách Nhà nước.
2. Dầu khí và vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước
Thực hiện mục tiêu chung về chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển Dầu khí Việt Nam dựa trên những lợi thế. Là một ngành có lợi thế về tài nguyên nên cần phải phát triển mạnh, cần hướng mạnh hơn nữa về xuất khẩu, tạo ra nhiều việc làm, tăng nguồn thu ngoại tệ và góp phần làm cân đối cán cân thương mại. Đối với khâu chế biến, cần mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng sản phẩm để vừa tăng thêm sản phẩm để phục vụ tiêu dùng trong nước cũng như cho xuất khẩu, vừa tạo ra sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp.
Dầu khí là một ngành công nghiệp nặng quan trọng, có sức cạnh tranh mạnh mẽ, được phát triển có chọn lọc. Cùng với luyện kim, hoá chất, công nghiệp Dầu khí góp phần tạo ra phần lớn nguyên liệu và nhiên liệu cho các ngành công nghiệp khác. Do cần vốn đầu tư lớn và yêu cầu công nghệ cao, để phát triển các ngành này phải liên doanh với các đối tác nước ngoài để đẩy nhanh tiến độ phát triển. Dầu khí có tác động tới nhiều ngành công nghiệp khác theo các mối quan hệ ngược chiều, xuôi chiều và phát triển. Để phục vụ cho việc khai thác dầu khí cần có những giàn khoan, việc khai thác thường thực hiện ở ngoài khơi nên cần phải đưa đón nhân công, mua sắm những máy móc công nghệ hiện đại... Như vậy, cần có sự hỗ trợ của các ngành xây dựng, vận tải hàng không, thương mại... trong phát triển công nghiệp Dầu khí. Đó là mối quan hệ trực tiếp ngược. Mặt khác, sau khi khai thác dầu thô, nếu xuất khẩu luôn thì lợi nhuận thu được không cao. Cần có công nghiệp lọc dầu, hoá dầu cho ra đời những sản phẩm chế biến phục vụ cho sản xuất và đời sống. Khi đó, hoá chất có được nguồn nguyên liệu, công nghiệp khí cũng phát triển song hành với khai thác dầu thô... Đó là mối quan hệ trực tiếp xuôi chiều của Dầu khí với các ngành khác. Khí cung cấp cho các nhà máy điện, góp phần phát triển công nghiệp điện, đó là mối quan hệ gián tiếp xuôi chiều giữa Dầu khí với công nghiệp điện. Dầu khí tăng trưởng và phát triển khiến cho thu nhập của lao động Dầu khí tăng, chi tiêu dùng tăng, cơ cấu sản xuất hàng tiêu dùng cũng thay đổi. Đó là mối quan hệ gián tiếp xuôi chiều phát triển.
3. Dầu khí với việc giải quyết các vấn đề xã hội.
Không chỉ có những tác động tích cực tới phát triển kinh tế đất nước mà Dầu khí còn mang lại những hiệu quả tích cực đối với việc phát triển xã hội Việt Nam. Phát triển Dầu khí đồng thời có tác động tích cực tới sự phát triển của một số ngành kinh tế có liên quan như hoá dầu, công nghiệp nhựa, sản xuất phân bón, đạm, công nghiệp khí... Tức là cần có nhân lực để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong các ngành đó. Như vậy, Dầu khí đã gián tiếp tạo ra thêm nhiều chỗ làm, việc làm mới cho người lao động.
Là một ngành công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại nên yêu cầu bắt buộc những người tham gia vào hoạt động của ngành phải đạt một trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định. Đây chính là yếu tố thúc đẩy việc tăng cường giáo dục và đào tạo người lao động để đáp ứng những yêu cầu đặt ra. Bởi thường xuyên làm việc với các chuyên gia, tiếp xúc với những kỹ thuật công nghệ hiện đại, nếu không có trình độ chuyên môn cao thì không thể nắm bắt và làm việc được. Do đó, người lao động luôn phấn đấu nâng cao trình độ, thúc đẩy việc tự rèn luyện để thích ứng với những đòi hỏi cao mà ngành đặt ra.
Việc cung cấp năng lượng để phục vụ đời sống của nhân dân là nhiệm vụ trọng yếu của ngành. Những loại năng lượng sạch của ngành cung cấp góp phần làm giảm khí bụi, không gây ô nhiễm môi trường nên càng ngày nhu cầu sử dụng càng tăng. Điều này thể hiện ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường ngày càng được nâng cao, đồng thời nó cũng có tác dụng ngược lại đối với ngành là thúc đẩy sự phát triển của ngành mạnh hơn nữa, cung cấp nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Một đặc trưng của ngành là trong hoạt động sản xuất cần phải hợp tác đầu tư với nước ngoài trên cả ba khâu: thượng nguồn, trung nguồn, hạ nguồn. Đây là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển của quan hệ hợp tác quốc tế. Qua đó, học hỏi kinh nghiệm, làm quen với phương thức kinh doanh quốc tế. Sự hợp tác này cũng khiến cho người lao động học tập tác phong công nghiệp, làm việc có kỷ luật của người nước ngoài, tiếp thu những kiến thức, học hỏi nhiều kinh nghiệm quý giá. Đồng thời, cũng nhờ quan hệ hợp tác này, Việt Nam có cơ hội tham gia vào thị trường kinh doanh thế giới, tiến tới tìm hiểu và mở rộng thị phần cho chính mình.
Mặc dù hoạt động kinh doanh dầu khí mới chỉ có xuất khẩu dầu thô nhưng nguồn thu ngân sách Nhà nước từ dầu khí rất lớn. Khi quỹ ngân sách được làm đầy hơn nhờ Dầu khí cũng có nghĩa là ngân sách có quyền chi nhiều hơn cho các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội... nhằm nâng cao hơn mức sống của con người, làm tăng phúc lợi xã hội, góp phần làm giàu có hơn đời sống cộng đồng.
III. sự cần thiết phải bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển Dầu khí Việt Nam
1. Vốn đầu tư và phát triển kinh tế
Thật khó có thể tưởng tượng được nếu như một nền kinh tế mà không có vốn đầu tư. Vốn đầu tư là yếu tố mang tính quan trọng bậc nhất ở Việt Nam để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch. Kế hoạch vốn đầu tư là kế hoạch một yếu tố nguồn lực có liên quan trực tiếp và là tiền đề quan trọng nhất để thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế. Trong hệ thống kế hoạch phát triển, kế hoạch khối lượng vốn đầu tư có vai trò quan trọng không những xuất phát từ vị trí của chính bộ phận kế hoạch này mà còn từ mối quan hệ trực tiếp của kế hoạch vốn đầu tư với các kế hoạch khác. Vốn được coi là chìa khoá của sự phát triển. Hai nhà kinh tế học Harrod - Domar đã đặt ra mối quan hệ chặt chẽ giữa sự tăng trưởng đầu tư với sự tăng trưởng thu nhập quốc dân và kết luận để đảm bảo tăng trưởng kinh tế phải đạt được một tỷ lệ tích luỹ nhất định trong GDP.
Từ việc xem xét bản chất của đầu tư phát triển, các nhà lý thuyết kinh tế, cả lý thuyết kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi đó là nhân tố quan trọng hàng đầu để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Sự cần thiết phải có vốn đầu tư cho phát triển kinh tế thể hiện qua các mặt sau:
1.1 Vốn đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tác động của vốn đầu tư đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế thể hiện qua hệ số ICOR. Mức ảnh hưởng của đầu tư đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tổng vốn đầu tư và hệ số ICOR. Mối quan hệ đó thể hiện qua công thức:
Mức tăng GDP = vốn đầu tư/ ICOR
Hệ số ICOR cho thấy hiệu quả đầu tư của nền kinh tế, thể hiện lượng vốn đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị GDP tăng thêm. Về phương diện lý thuyết, hệ số ICOR càng thấp càng chứng tỏ hoạt động đầu tư trong nền kinh tế có hiệu quả càng cao. Nghĩa là với một lượng vốn đầu tư nhất định, nền kinh tế có thể tạo ra nhiều sản phẩm đầu ra hơn.
Tuy nhiên, do hệ số ICOR phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ cấu vốn trong nước, do đó không phản ánh trình độ phát triển của các quốc gia. Các nước phát triển thường có hệ số ICOR lớn (5-7%) do các nước này thừa vốn, thiếu lao động, sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển, hệ số ICOR thấp (2-3%) do vừa thừa lao động, thiếu vốn, công nghệ lại kém tiên tiến, giá rẻ hơn.
Hệ số này còn phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành. Thông thường, ICOR trong nông nghiệp thấp hơn ICOR trong công nghiệp. Điều này giải thích tại sao ở các nước đang phát triển với cơ cấu nông nghiệp chiếm chủ đạo, tỷ lệ đầu tư thấp và kết quả là dẫn tới tốc độ tăng trưởng thấp.
Nếu hệ số ICOR là không đổi, sản lượng tạo ra của một quốc gia sẽ phụ thuộc vào đầu tư của quốc gia đó. Lượng vốn đầu tư tăng làm cho sản lượng của nền kinh tế tăng lên và ngược lại, đầu tư giảm thì sản lượng của nền kinh tế sẽ bị thu hẹp. Vốn được dùng để đầu tư vào các lĩnh vực:
1.1.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế:
Để phát triển kinh tế của một đất nước, trước hết, quốc gia đó cần phải có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đạt một trình độ nhất định. Cần có vốn để xây dựng nhà xưởng, có vốn để xây dựng và phát triển giao thông liên lạc...phục vụ cho sản xuất, đời sống, lưu thông hàng hoá dịch vụ. Cần có vốn để phát triển sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị, đầu tư công nghệ hiện đại. Một nền kinh tế khó mà phát triển, tăng trưởng được nếu không có những máy móc, công nghệ tiên tiến, hiện đại của nhân loại.
1.1.2. Đầu tư tăng cường và phát triển khoa học công nghệ:
Đầu tư tăng khả năng nghiên cứu và phát triển các công nghệ mới, hoàn thiện các công nghệ hiện có, giúp tăng cường năng lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Các nước đang phát triển như nước ta với xuất phát điểm thấp, kỹ thuật lạc hậu, năng lực sản xuất hạn chế dẫn đến tích luỹ vốn thấp, khả năng đầu tư đổi mới công nghệ và tăng cường năng lực sản xuất là rất hạn chế, cuối cùng dẫn đến lạc hậu. Đây là một cái vòng luẩn quẩn mà hầu hết các nước đang phát triển đều mắc phải. Để vượt qua, không còn con đường nào khác là phải có những cú bứt phá bằng con đường khoa học công nghệ. Do đó, cần có vốn đầu tư.
1.1.3. Vốn để phát triển nguồn nhân lực:
Nếu chỉ có máy móc, công nghệ mà không có nguồn nhân lực thì cũng không thể thực hiện được hoạt động sản xuất dù cho máy móc, công nghệ đó có hiện đại tới đâu. Vốn nhân lực luôn là yếu tố quyết định không thể thiếu đối với mỗi quá trình sản xuất. Bởi vậy, vốn nhân lực cần phải được đề cao. Trình độ người lao động không thể tự có được nếu không được qua quá trình đào tạo và một quá trình tự rèn luyện học hỏi. Cần có đầu tư vào giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực để có một đội ngũ lao động giỏi chuyên môn, có ý thức kỷ luật lao động và yêu nghề.
1.1.4. Phát triển thị trường, mở rộng quan hệ quốc tế:
Nền kinh tế trong nước muốn phát triển cần có quan hệ trao đổi, làm ăn với nước ngoài. Để thực hiện trao đổi thì trình độ sản xuất cũng phải tương ứng với các nước khác. Và hơn bất cứ nhân tố nào, vai trò của vốn lại càng được đề cao. Có vốn để phát triển sản xuất đạt tới trình độ tiên tiến, vốn để mở rộng sản xuất, tìm kiếm thị trường, tạo quan hệ làm ăn với các đối tác nước ngoài.
1.2. Tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.2.1. Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng:
Ngoài bị ảnh hưởng của các yếu tố như địa lý, khí hậu, điều kiện lịch sử, cơ cấu vùng kinh tế chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của lượng vốn đầu tư. Khi hoạt động đầu tư ở một vùng phát triển lên, các ngành kinh tế trong vùng được tăng cường và mở rộng, tạo việc làm và nâng cao đời sống kinh tế xã hội. Ngược lại, vì lý do nào đó mà lượng vốn đầu tư vào một vùng giảm đi sẽ có ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của vùng. Chính sách khuyến khích đầu tư vào các vùng kinh tế trọng điểm, vùng có vị trí an ninh quốc phòng... của Chính phủ quyết định đến cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ của nền kinh tế quốc dân. Theo đó, Chính phủ tập trung đầu tư hoặc tiến hành các biện pháp ưu đãi đầu tư vào một số vùng làm cho tổng mức đầu tư ở vùng đó tăng lên, kinh tế xã hội của vùng đó phát triển, đời sống của nhân dân được nâng cao.
1.2.2. Đầu tư với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:
Hoạt động đầu tư trong mỗi ngành có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của ngành đó trong nền kinh tế quốc dân. Những tác động của cơ cấu đầu tư đến cơ cấu kinh tế theo ngành thể hiện ở những nội dung sau:
Sự thay đổi về số tuyệt đối cũng như tỷ trọng vốn đầu tư giữa các ngành kinh tế sẽ làm thay đổi tương quan năng lực sản xuất giữa các ngành này, thay đổi cơ cấu sản phẩm, thay đổi sản lượng đầu ra của ngành đó dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hiệu quả hoạt động đầu tư của các ngành có ảnh hưởng trực tiếp đến sự đóng góp của ngành đó đối với nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả đầu tư tăng nghĩa là cùng với một lượng đầu tư nhất định sẽ cho sản lượng đầu ra lớn hơn đối với ngành có hiệu qủa cao.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, để hạn chế những mặt tự phát của thị trường, Nhà nước sử dụng các chính sách và hệ thống các công cụ, kể cả sử dụng trực tiếp lượng vốn đầu tư của mình để định hướng phát triển cơ cấu vùng, ngành kinh tế theo mục tiêu đã định.
2. Vai trò của yếu tố vốn đầu tư trong phát triển Dầu khí
Những đặc điểm của dầu khí đã phân tích cho thấy đây là một ngành công nghiệp công nghệ đặc biệt cao, có nhu cầu vốn đầu tư rất lớn. Cùng với chủ trương xây dựng Tổng công ty Dầu khí Việt Nam trở thành một tập đoàn kinh tế hùng mạnh, cần phải phát triển đồng bộ các hoạt động từ thượng nguồn tới hạ nguồn. Trước hết, cần đáp ứng được nhu cầu về đầu tư ngày càng cao để thực hiện kế hoạch phát triển ngành.
Qua thống kê cho thấy, một dự án đầu tư hoàn chỉnh trung bình cần từ 300 - 400 triệu USD. Trong khi đó, ở Việt Nam, một xí nghiệp vào loại tương đối chỉ có vốn khoảng từ 15 - 20 triệu USD. Để đầu tư phát triển ngành Dầu khí trong 5 năm tới, thông qua các dự án được Nhà nước phê duyệt, cần số vốn đầu tư là 8,759 tỷ USD. Nguồn vốn trong nước có thể huy động chỉ khoảng 3,749 tỷ USD. Như vậy, khả năng huy động vốn của Petrovietnam rất hạn chế, mới chỉ đáp ứng 42,18% nhu cầu. Những số liệu đó cho thấy, sự thiếu hụt về vốn, nhu cầu về vốn đầu tư cho Dầu khí ở Việt Nam cao đến mức nào. Để có dầu lửa sử dụng, phải trải qua nhiều giai đoạn từ tìm kiếm, thăm dò đến khai thác, chế biến mà giai đoạn nào cũng cần phải đầu tư thoả đáng thì mới mang lại hiệu quả kinh tế cao.
2.1. Vốn để phát triển lĩnh vực thượng nguồn Dầu khí:
Hoạt động thượng nguồn gắn với một khu vực địa lý nhất định, có tính độc quyền cao. Hiện nay, theo Luật Dầu khí Việt Nam, chỉ có Tổng công ty Dầu khí Việt Nam mới được phép hoạt động trong lĩnh vực này. Quá trình đầu tư cho thượng nguồn có thể kéo dài trong nhiều năm, tiêu tốn rất nhiều tiền bạc, vật liệu và trí tuệ. Trong giai đoạn tìm kiếm, thăm dò, mỗi đề án dầu khí trên phạm vi 1 - 2 lô đã được vạch định thì chi phí đã lên tới 40 - 50 triệu USD cho thời gian 3 - 5 năm. Tất cả các giai đoạn tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí đều cần có một trình độ kỹ thuật tiên tiến, hiện đại mà trong nước chưa thể đáp ứng được. Chính những đặc điểm về vốn và công nghệ rất đặc biệt nêu trên, nên nguồn vốn và công nghệ của hoạt động dầu khí chủ yếu là từ nước ngoài vì Việt Nam chưa thể đáp ứng. Vì vậy mà hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm được áp dụng đối với hoạt động thăm dò tìm kiếm dầu khí ở Việt Nam.
2.2. Vốn phục vụ phát triển lĩnh vực trung nguồn Dầu khí:
Để thực hiện các hoạt động tàng trữ, vận chuyển dầu khí ở khâu này, cần có đường ống dẫn dầu, đường ống dẫn khí, đội tàu chở dầu thô, cầu cảng, bồn chứa... Tức là cần phải có vốn, mà phải là vốn lớn, để mua sắm và lắp đặt những phương tiện trên. Những phương tiện công nghệ cao này, hiện nay Việt Nam chưa có khả năng đáp ứng nên phải mua toàn bộ từ bên ngoài. Một vấn đề đặt ra ở đây là: những công ty sản xuất các phương tiện đó thường là những công ty độc quyền, Việt Nam thường bị ép giá cao gấp nhiều lần so với các nước khác. Điều này là một thiệt thòi rất lớn cho Việt Nam, gây ra chi phí vốn không đáng có. Như vậy, nhiệm vụ đặt ra cho khâu này là: ngoài thu hút vốn đầu tư còn cần phải tạo lập được quan hệ tốt với các nhà cung cấp những phương tiện kỹ thuật phục vụ hoạt động sản xuất dầu khí để không còn những chi phí vô lý đó.
2.3. Vốn đầu tư phát triển lĩnh vực hạ nguồn Dầu khí:
Hạ nguồn không mang tính độc quyền, mọi nhà đầu tư có thể tham gia bất cứ hoạt động nào trong lĩnh vực này. Vấn đề cốt lõi là sản phẩm đầu ra có thể cạnh tranh được trên thị trường hay không. Sự cạnh tranh đã tăng cao khi Việt Nam tham gia AFTA và còn cao hơn nữa khi Việt Nam gia nhập WTO. Khâu lọc dầu, Tổng công ty được Nhà nước trực tiếp giao cho triển khai xây dựng các nhà máy. Còn hoá dầu, kinh doanh bán lẻ, phân phối các sản phẩm dầu khí thì Tổng công ty chỉ là một trong nhiều đơn vị được phép kinh doanh. Do đó, ngoại trừ lọc dầu và chế biến, trong các hoạt động còn lại thì Tổng công ty rất non kém về trình độ và khả năng chiếm lĩnh thị trường. Nhất là đối với hoạt động kinh doanh bán lẻ và phân phối các sản phẩm dầu khí, Petrovietnam gặp phải thách thức rất lớn với Petrolimex - Tổng công ty xăng dầu Việt Nam - đã phát triển hàng chục năm, chiếm lĩnh thị trường toàn quốc, có mạng lưới bán lẻ rộng khắp. Để chiếm được 40% thị phần vào năm 2010, nhu cầu vốn đầu tư của Petrovietnam không phải là nhỏ.
Một đặc điểm về nhu cầu vốn đầu tư trong khâu hạ nguồn là ngoài khối lượng vốn đầu tư rất lớn để làm tăng tính cạnh tranh thì thời gian đầu tư thường ngắn, và càng nhanh càng tốt để không bỏ lỡ cơ hội chiếm lĩnh thị trường cùng các cơ hội khác trong kinh doanh.
2.4. Các lĩnh vực khác của Dầu khí cũng cần có vốn để phát triển:
Ngoài ba khâu chủ yếu nêu trên, ngành Dầu khí cũng cần đầu tư vốn vào một số lĩnh vực khác như: xây dựng cơ bản, đầu tư trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học, xây lắp chuyên ngành, thực hiện các hoạt động dịch vụ như bảo hiểm, tái bảo hiểm, du lịch, tư vấn, văn phòng, xây dựng các cảng biển, căn cứ dịch vụ dầu khí... Đặc biệt, nên quan tâm đầu tư nhiều hơn nữa cho lĩnh vực dịch vụ, vì nguồn vốn đầu tư đòi hỏi không lớn lắm nhưng thu lợi nhuận cao và phù hợp với khả năng hiện có của Việt Nam.
3. Chiến lược phát triển Dầu khí Việt Nam đặt ra một thách thức lớn cho việc bảo đảm vốn đầu tư
Quán triệt tinh thần của Đại hội Đảng IX về việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Xuất phát từ khả năng, vật lực của mình mà ngành Dầu khí đã xây dựng chiến lược phát triển đến năm 2010 có các nội dung chủ yếu sau đây:
Thăm dò tìm kiếm: đẩy mạnh công tác khảo sát địa chất 2D ở những vùng còn ít được nghiên cứu, địa chất 3D ở những vùng có triển vọng. Tiếp tục hợp đồng thăm dò tìm kiếm với các công ty nước ngoài.
Khai thác dầu khí: đầu tư khai thác thứ cấp để nâng cao hệ số thu hồi dầu và đầu tư công nghệ mới nhằm khai thác các mỏ có hàm lượng khí CO2 cao, kiểm tra bảo vệ môi trường sinh thái.
Phát triển thị trường khí: xây dựng các khu công nghiệp sử dụng khí thiên nhiên, mở rộng sử dụng khí cho sinh hoạt (LPG), giao thông vận tải... hình thành đường ống dẫn khí xuyên quốc gia, khuyến khích nhà thầu đầu tư hợp tác để phát triển các mỏ khí đồng hành.
Đầu tư thăm dò và khai thác dầu khí ở nước ngoài: lựa chọn khu vực thích hợp, có tiềm năng dầu khí cao, triển khai đa dạng hình thức đầu tư, chọn đối tác tin cậy.
Chế biến dầu khí: về lọc dầu, xây dựng và đưa vào hoạt động nhà máy lọc dầu Dung Quất, Nghi Sơn, nhà máy lọc dầu số 3 ở miền Nam. Về hoá dầu, xây dựng 4 trung tâm hoá dầu: số 1ở Quảng Ngãi, số 2 ở Nghi Sơn, số 3 ở miền Nam, số 4 ở Tây Nam Bộ. Đồng thời thu hút vốn đầu tư vào các dự án chế biến dầu khí cả trong và ngoài nước.
Hệ thống tàng trữ, vận chuyển, phân phối sản phẩm dầu khí: mở rộng và nâng cấp hệ thống cảng tiếp nhận, kho trung chuyển, đầu tư đội tàu vận chuyển dầu thô và các sản phẩm dầu khí, các trạm nạp khí nén (CNG), xe bồn chở xăng dầu và khí lỏng (LPG), tiến tới tham gia vận chuyển dầu thô trong khu vực và trên thế giới.
Dịch vụ và kinh doanh dầu khí: mở rộng các loại hình dịch vụ công nghệ cao, mở rộng các hình thức kinh doanh các sản phẩm dầu khí. Thu hút các doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước tham gia thị trường dịch vụ và kinh doanh dầu khí.
Phát triển khoa học công nghệ dầu khí: đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học. Triển khai, ứng dụng và làm chủ công nghệ. Chú trọng và có kế hoạch đào tạo đội ngũ chuyên gia đầu đàn về công nghệ dầu khí, tăng cường đầu tư trang thiết bị hiện đại.
Thu xếp vốn và đầu tư tài chính: tranh thủ tối đa nguồn lực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đồng thời tích cực huy động nguồn vốn trong nước. Tham gia thị trường vốn, chứng khoán cả trong và ngoài nước để thu hút vốn tối đa cho phát triển ngành.
Đào tạo nguồn nhân lực dầu khí: tăng cường đào tạo chuyên gia khoa học công nghệ, công nhân kỹ thuật, cán bộ quản lý điều hành đồng thời nâng cấp các cơ sở đào tạo.
Phấn đấu đạt được các mục tiêu trên nhằm hướng tới xây dựng Tổng công ty Dầu khí Việt Nam thành tập đoàn kinh tế mạnh. Do đó, tổng vốn đầu tư giai đoạn 2001 - 2010 dự kiến cần khoảng 19 - 20 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần thu hút khoảng 10 tỷ USD. Phần vốn của công ty dự kiến thu xếp như sau: 61% từ quỹ đầu tư phát triển của Tổng công ty; 39% từ các nguồn vay, trong đó 27% từ vay ngân hàng và tín dụng xuất khẩu, 8% từ phát hành trái phiếu và 4% từ các nguồn khác.
Cơ cấu vốn đầu tư dự kiến: 11 tỷ USD cho tìm kiếm thăm dò; 1,5 tỷ USD cho hệ thống thu gom vận chuyển; 5 - 6 tỷ USD cho chế biến; 2 tỷ USD cho các khoản đầu tư khác.
Những con số trên quả là lớn so với khả năng tài chính của Việt Nam trong việc đầu tư thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí. Do vậy, việc liên doanh hợp tác với nước ngoài để tranh thủ vốn và công nghệ là điều tất yếu. Vấn đề về vốn trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Việc đảm bảo về vốn để thực hiện chiến lược phát triển, kế hoạch phát triển trên ngày càng trở nên vô cùng quan trọng, Có thể nói vốn là tác nhân chủ yếu tác động tới việc thực hiện thành công kế hoạch đề ra.
4. Những bất cập còn tồn tại trong việc bảo đảm vốn thực hiện các mục tiêu phát triển Dầu khí
Để thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí cũng như những định hướng chiến lược phát triển ngành nêu trên, đòi hỏi sự đóng góp rất lớn của vốn đầu tư. Tuy nhiên, việc thu hút nguồn vốn đầu tư cả trong và ngoài nước không được như mong muốn. Vấn đề thiếu vốn đã cản trở sự phát triển của Dầu khí rất nhiều không chỉ trong giai đoạn hiện nay mà từ ngay khi ngành ra đời. Xuất hiện từ những năm 1960 nhưng do chiến tranh, sau đó là thiếu vốn để phát triển cho nên ngành chưa có đóng góp gì đáng kể. Chỉ tới khi Nhà nước có chính sách mở cửa thì ngành mới thực sự khởi sắc, tìm kiếm và phát hiện được một số mỏ có tính thương mại nhờ hợp tác, liên doanh với các công ty dầu khí trên thế giới. Tuy nhiên, cho tới nay ngành vẫn chưa thật sự phát triển đồng bộ và toàn diện. Đó cũng là do thiếu vốn. Các tập đoàn dầu khí nước ngoài có vốn và công nghệ nhưng họ mới chỉ thực hiện đầu tư vào các khâu tìm kiếm thăm dò theo các hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm. Còn các khâu khác thì họ ít bỏ vốn vào đầu tư. Đối với Việt Nam, để có vốn đầu tư cho bất cứ khâu nào cũng là một thách thức rất lớn. Bởi vậy, hiện nay, nhiều khâu của Dầu khí vẫn còn bỏ ngỏ, chưa thực sự có được sự quan tâm đúng mức như lọc dầu, hoá dầu, các dịch vụ dầu khí...
Vấn đề về thu hút vốn đã khó khăn, và càng khó khăn hơn khi nhiều tập đoàn dầu khí sau một thời gian đã rút khỏi Việt Nam, mới đây nhất là phía Nga đã rút vốn ra khỏi nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất. Việc sử dụng vốn cũng có nhiều bất cập. Ta cần phải đi sâu tìm hiểu những khúc mắc đó để tìm ra hướng giải quyết nhằm bảo đảm được nguồn vốn phát triển Dầu khí.
Giá dầu thô trên thế giới luôn luôn biến động, trong khi 80% doanh thu của ngành lại từ xuất khẩu dầu thô. Và trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư của của Tổng công ty thì có tới 65% thu từ lãi dầu. Do đó, nguồn vốn đầu tư phát triển cũng thường xuyên biến động.
Về tiềm năng dầu khí của Việt Nam, kết quả nghiên cứu khảo sát thu thập được trong thời gian qua cho thấy: Tổng tiềm năng và trữ lượng dự báo dầu khí có thể thu hồi vào khoảng 3000-4000 triệu m3 dầu quy đổi, tập trung chủ yếu ở thềm lục địa (khoảng 99%), trong đó có tới 1200-1500 triệu m3 dầu/condensat và 1800-2500 tỷ m3 khí. Các mỏ dầu và khí được phát hiện phân bố không đều. Các mỏ dầu tập trung chủ yếu ở bể Cửu Long thuộc thềm lục địa phía Nam. Các mỏ khí thiên nhiên được phát hiện phân tán ở các bể Nam Côn Sơn, Malay - Thổ Chu và sông Hồng. So với tiềm năng dầu khí của các nước khác trong khu vực Đông Nam á, Việt Nam được xếp hạng trung bình. Trữ lượng xác minh được xác định ít hơn Indonesia, Malaysia nhưng cao hơn các nước khác còn lại. Tuy nhiên, phần lớn vẫn chưa được tìm kiếm, thăm dò vì tập trung ở vùng nước sâu, xa bờ. Còn ở các vùng đã tiến hành tìm kiếm thăm dò cho đến nay thì do cấu trúc địa chất phức tạp, nhiều rủi ro, chủ yếu phát hiện các mỏ nhỏ. Việc rút đi của các tập đoàn dầu khí lớn thế giới càng gây khó khăn hơn về vốn trong lĩnh vực này. Vì vốn đầu tư nước ngoài luôn là nguồn quan trọng để phát triển Dầu khí, nó thường xuyên chiếm hơn 50% trong vốn đầu tư của ngành. Bởi vậy, cần có chính sách ưu đãi hơn nữa: đơn giản hoá thủ tục hành chính và xây dựng các sắc thuế ưu đãi để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, dành ưu tiên hơn cho thuê đất. Bản thân ngành cũng cần hoàn thiện mình để tạo uy tín và sự yên tâm cho các đối tác đầu tư nước ngoài khi hợp tác kinh doanh.
Trữ lượng dầu khí của Việt Nam không nhiều, điều kiện khai thác ngày càng khó khăn, vì thế ngành Dầu khí Việt Nam phải nhanh chóng triển khai đầu tư thăm dò dầu khí ở nước ngoài để góp phần bảo đảm cân đối nhu cầu về dầu thô cho đất nước. Như vậy, ngoài việc bảo đảm vốn đầu tư phát triển trong nước, ngành cũng cần một lượng không nhỏ để phát triển hoạt động ra nước ngoài, trong khi khả năng tài chính của công ty còn nhiều khó khăn. Do đó, cần có cơ chế tài chính phù hợp đặc biệt để Tổng công ty Dầu khí Việt Nam được chủ động sử dụng toàn bộ lợi nhuận sau thuế, cân đối cho đầu tư phát triển các lĩnh vực và tăng cường đầu tư tìm kiếm thăm dò ._. quan hệ giúp cho Tổng công ty có thể lựa chọn đối tác phù hợp nhất với mục tiêu của từng dự án. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay việc duy trì mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương đảm bảo cho Tổng công ty phát triển liên tục và ổn định. Việc tìm hiểu cặn kẽ đối tác là điều tối quan trọng. Nếu có càng nhiều thông tin về đối tác càng có lợi cho Tổng công ty trong việc giành thế chủ động.
Kết luận: Do lượng vốn huy động còn nhiều hạn chế, khâu nào cũng cần đầu tư mà phải đầu tư nhiều vốn, công nghệ. Ngay một lúc, không thể làm thoả mãn những mục tiêu trên được mà phải đầu tư theo thứ tự ưu tiên. Do vậy, cần phải có thứ tự ưu tiên đầu tư thật hợp lý, phải xác định khâu nào có hiệu quả cao nhất, khả năng thu hồi vốn nhanh và mang lại lợi nhuận cao nhất. Trong các dự án đầu tư, cần thực hiện quản lý giám sát chặt chẽ, chính xác, theo đúng yêu cầu đề ra. Muốn vậy, cần cải tiến cơ chế quản lý, điều hành giám sát các hoạt động dầu khí. Một mặt, ngành cần có biện pháp hữu hiệu trong việc tạo ra một hệ thống quản lý chặt chẽ, mặt khác, có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ tham gia của mình trong các hợp đồng đã ký. Chỉ có như vậy, mới tạo niềm tin cho các nhà đầu tư đem tiền vốn và công nghệ vào tham gia hoạt động dầu khí, đặc biệt trong hoạt động tìm kiếm và thăm dò với độ rủi ro cao. Hệ thống quản lý của ngành hiện nay còn nhiều vần đề cần phải giải quyết. Cụ thể là việc chồng chéo trách nhiệm đã dẫn đến hiện tượng cạnh tranh giữa các công ty trong nội bộ ngành trong vấn đề quản lý hợp đồng và quan hệ với các công ty nước ngoài.
5. Một số biện pháp hỗ trợ
5.1. Hỗ trợ về tài chính của Nhà nước:
Xác định đúng vai trò và tầm quan trọng của ngành Dầu khí đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, Nhà nước cần có những hỗ trợ thoả đáng, những ưu đãi đặc biệt đối ngành. Sự phát triển của ngành có tác động thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế chung của đất nước. Do vậy, ngành mạnh dạn có những kiến nghị sau đối với Nhà nước:
5.1.1. Mở rộng quyền tự chủ cho doanh nghiệp:
Nhà nước được phép thực hiện hai quyền là chủ sở hữu và quản lý đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, hai quyền này chưa được phân tách rõ ràng, không chỉ trong quản lý đối với các doanh nghiệp mà còn trong nhiều lĩnh vực khác. Hiện nay,quy định về chủ sở hữu không rõ ràng nên các cấp, bộ, ban, ngành đều có thể can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp khiến cho hoạt động của doanh nghiệp không được tự chủ. Ngành Dầu khí cũng có chung khó khăn này. Nhiều công tác quan trọng đã gặp những rào cản không đáng có khiến cho cả ngành bị thiệt hại cả về uy tín và vật chất. Nếu Nhà nước có thể giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho Tổng công ty thì sẽ tạo được sự phát triển vượt bậc bởi lẽ đó là sự tự chủ có tính định hướng. Tổng công ty có thể đưa ra những quyết định kịp thời, có lợi không chỉ cho bản thân ngành mà còn làm giàu cho quốc gia. Việc quản lý cần quy định rõ ràng để trành tình trạng chồng chéo giữa các quyết định. Riêng đối với chủ quyền sở hữu, phải lưu ý rằng Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là tổng công ty nhà nước, chỉ trực tiếp chịu sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Xác định như vậy để tránh những can thiệp quá sâu của các cấp quản lý không có liên quan. Đây là một kiến nghị quan trọng được nêu ra trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 đối với Nhà nước để nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành Dầu khí đáp ứng những yêu cầu mà Nhà nước đề ra đối với ngành.
5.1.2. Tạo lập một cơ chế tài chính phù hợp:
Với vai trò của một ngành kinh tế mũi nhọn, nên sự cần thiết phải tạo lập một cơ chế tài chính thông thoáng là yêu cầu cần thiết. Cần phải đảm bảo cơ chế phân cấp mạnh mẽ hơn nữa cho các đơn vị thành viên về quyết định đầu tư, cho phép hạch toán nhiều cấp trong các tập đoàn kinh tế, lập ngân hàng trong các tập đoàn kinh tế. Có cơ chế bảo đảm tính độc lập tự chủ cho doanh nghiệp, xoá bỏ cơ chế xin - cho. Việc chuyển đổi hoạt động của Tổng công ty sang mô hình công ty mẹ - công ty con, có nghĩa là sự chuyển đổi cơ chế Nhà nước giao vốn sang hình thức đầu tư vốn. Cần có cơ chế tài chính đặc biệt cho phép Tổng công ty được để lại toàn bộ lợi nhuận sau thuế, cân đối đầu tư phát triển và tăng cường tiềm lực tài chính, sớm hình thành định chế tài chính hoàn chỉnh trong ngành Dầu khí nhằm tăng vị thế và hiệu quả hoạt động của ngành. Chính việc xây dựng một cơ chế tài chính mới, đủ mạnh nhằm đảm bảo huy động được mọi nguồn lực, phát huy tối đa thế mạnh của nguồn thu ngoại tệ thu được từ hoạt động dầu khí, đồng thời đa dạng hóa các hình thức huy động vốn trong và ngoài nước, nghiên cứu thành lập ngân hàng đầu tư và phát triển dầu khí nhằm tăng cường tiềm lực tài chính và hiệu quả hoạt động của Tổng công ty và cho Tập đoàn Dầu khí sau này.
5.1.3. Chính sách đầu tư nước ngoài thông thoáng:
Hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều e ngại khi đầu tư vào Việt Nam nói chung và vào ngành Dầu khí nói riêng. Chính sự can thiệp qúa sâu vào hoạt động của ngành của một số cấp quản lý khiến cho các hoạt động của ngành trở nên rườm rà, chậm trễ, đặc biệt trong lĩnh vực có đầu tư nước ngoài. Mặc dù Luật Đầu tư nước ngoài đã có nhiều sửa đổi theo hướng mở rộng tích cực song vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Do vậy, những ngành cần nhiều vốn đầu tư nước ngoài như ngành Dầu khí cũng phải chịu nhiều thiệt thòi, ảnh hưởng của những chính sách chưa thật thông thoáng đó. Bởi vậy, cần có một chính sách thu hút đầu tư nước ngoài thông thoáng hơn nữa, có nhiều ưu đãi hơn, đồng thời mở rộng quyền hạn và trách nhiệm cho ngành đẻ giảm bớt phần nào những thủ tục hành chính trong hoạt động có sự tham gia của nước ngoài.
5.1.4. Chính phủ nên có nhiều ưu đãi về thuế và trợ giá
Các chính sách về thuế cần được làm rõ ngay từ khi liên doanh chuẩn bị thành lập. Hiện nay có nhiều dự án dùng chính sách thuế hiện hành để tính toán hiệu quả tài chính, kết quả đó đã không hấp dẫn được nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, Chính phủ cần đưa ra lời hứa cụ thể về thuế cũng như các chính sách hỗ trợ khác trong các khâu của ngành để khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Với các dự án có vốn đầu tư lớn đề nghị Chính phủ đứng ra bảo lãnh cho Tổng công ty vay vốn, tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Các dự án sản xuất hàng hoá phục vụ xuất khẩu có thể áp dụng cơ chế thưởng xuất khẩu, hoặc miễn thuế xuất khẩu....Còn đối với các dự án sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu cần giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu, tăng thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm đầu ra của dự án.
5.2. Các kiến nghị khác
5.2.1. Sửa đổi, bổ sung các chính sách, luật và văn bản dưới luật:
Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Dầu khí được ban hành thì môi trường đầu tư đã thực sự có những cải thiện rõ rệt, đã thông thoáng và rõ ràng hơn để thu được nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hơn. Tuy vậy, cả hai văn bản trên được ban hành vào thời điểm chưa có nhiều văn bản luật mới như luật về VAT, thuế xuất nhập khẩu... nên đã bộc lộ nhiều vướng mắc. Để tạo điều kiện cho ngành Dầu khí hoàn thành kế hoạch phát triển 2001-2005 thì đề nghị Nhà nước phải tháo gỡ các khó khăn như: nhanh chóng có chính sách và thông qua quy hoạch phát triển công nghiệp sử dụng dầu khí, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư ở những vùng có độ rủi ro cao, nước sâu xa bờ và các mỏ dầu khí đã phát hiện có quy mô nhỏ. Đồng thời, ổn định các loại thuế, các sắc thuế phải thống nhất, rõ ràng từ văn bản luật tới các văn bản dưới luật để không gây tranh cãi trong quá trình áp dụng, đảm bảo tính ổn định về các khoản thu khác...
5.2.2. Mở rộng thị trường tiêu thụ dầu khí trong và ngoài nước:
Công việc dọn đường quan trọng nhất để triển khai dự án, thực hiện chiến lược là việc chủ động phát triển thị trường tiêu thụ các sản phẩm dầu khí, tạo cơ hội bỏ vốn cho nhà đầu tư. Gần đây với sự uỷ nhiệm của ban lãnh đạo của Tổng công ty, Viện dầu khí đã lập quy hoạch sử dụng khí phía Bắc, quy hoạch sử dụng khí Tây Nam, đang xúc tiến công tác phát triển thị trường tiêu thụ khí Tây Nam.
Khí là một mảng hoạt động có khả năng sinh lợi cao. Ngoài những khách hàng truyền thống tiêu thụ LPG là các hộ công nghiệp và các hộ gia đình, Tổng công ty cần có sự nghiên cứu công nghệ sử dụng khí hoá lỏng trong việc làm nhiên liệu cho động cơ. Công nghệ chuyển đổi từ sử dụng xăng dầu sang sử dụng khí hoá lỏng đối với các động cơ rất phức tạp nhưng đây là thị trường tiềm năng cần được quan tâm nghiên cứu.
Nhìn chung nhu cầu về các sản phẩm lọc hoá dầu của nước ta khá lớn và đang tăng trưởng mạnh, ước tính mức tăng trung bình thời kỳ 2001-2005 là 15-20%/năm. Sự ra đời của nhà máy lọc dầu số 1 ở Dung Quất có thể đáp ứng được khoảng 65% nhu cầu nội địa tại thời điểm bắt đầu vận hành. Việc xây dựng nhà máy lọc dầu số 2 ở Nghi Sơn còn đang kêu gọi đầu tư, cơ hội bỏ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài là rất lớn.
Đi đôi với việc phát triển thị trường thì Tổng công ty cần có chính sách nâng cao hình ảnh của Tổng công ty trong con mắt khách hàng. Việc quảng bá thương hiệu không những giúp cho Tổng công ty chiếm lĩnh thị trường dầu khí bán lẻ trong tương lai mà còn nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư cho Tổng công ty cả ở trong và ngoài nước.
5.2.3. Đơn giản hoá thủ tục cấp phép đầu tư:
Việc quản lý các dự án đầu tư cần được tập trung ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có nhiệm vụ tham khảo ý kiến của các bộ chuyên ngành có liên quan. Điều này vừa tiết kiệm được thời gian và tiền bạc cho nhà đầu tư vừa thuận lợi trong việc quản lý của Nhà nước.
Một trong những khâu dễ gây ách tắc nhất trong việc cấp giấy phép đầu tư là quá trình thẩm định dự án. Quy trình thẩm định cần nhấn mạnh vào việc tính toán hiệu quả kinh tế, đưa ra khuyến cáo với chủ đầu tư, lựa chọn phương án mang lại hiệu quả cao nhất cho quốc gia. Bộ cần loại bỏ những thủ tục không cần thiết, xây dựng cơ chế gắn chặt chẽ giữa công việc và trách nhiệm với kết quả công việc đó. Chất lượng thẩm định được nâng cao, thời gian cấp phép giảm xuống là điều kiện rất quan trọng cho việc thúc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư cho việc bảo đảm kế hoạch phát triển của ngành.
5.2.4. Ưu đãi về đất đai:
Về vấn đề này, Chính phủ chỉ nên thu mức thuế đất hợp lý,phù hợp với tương quan các nước trong khu vực. Chính quyền địa phương cần hỗ trợ đắc lực hơn trong việc giải phóng mặt bằng, hoàn tất các thủ tục bồi thường, di dời nhanh chóng. Chính phủ nên mở rộng phạm vi áp dụng quyền sử dụng đất để góp vốn. Chính phủ có thể xây dựng sẵn các khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư thực hiện dự án, rút ngắn thời gian xây dựng nhằm giảm chi phí cho chuẩn bị đầu tư. Dầu khí là ngành cần có sự quan tâm đặc biệt, các tổ hợp lọc hoá dầu phải được chuẩn bị trước về địa điểm, cấm xây dựng các công trình khác không tuân thủ quy hoạch, xây dựng trước kết cấu hạ tầng nhằm tiết kiệm thời gian, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực nhàn rỗi.
5.3. Nâng cao chất lượng ngũ lao động Dầu khí:
Vai trò của nguồn nhân lực có tác động mang tính chất sống còn đối với sự phát triển vững mạnh của ngành. Bởi chính đặc tính yêu cầu về công nghệ cao đi kèm theo là đội ngũ người lao động sử dụng những công nghệ đó phải có trình độ để đủ khẳ năng hiểu biết, nắm bắt được công nghệ đó. Do vậy, ngành luôn cần một đội ngũ lao động giỏi chuyên môn, dày dạn kinh nghiệm, nhu cầu đó là vô cùng cấp thiết. Thế nhưng, một thực tế xảy ra ở đây là ngành vừa thiếu lại vừa thừa lao động. Thiếu là thiếu lao động lành nghề trình độ cao và thừa là thừa những lao động không đủ khả năng nắm bắt công nghệ. Điều này xảy ra là do việc quy hoạch đào tạo lao động Việt Nam để có thể đảm nhiệm những vị trí đúng chuyên môn trong bộ máy quản lý của ngành và các hoạt động cần tay nghề cao chưa được làm kịp thời. Để khắc phục tình trạng này, ngành cần có kế hoạch đào tạo hợp lý, nâng cao trình độ của người lao động bằng các hoạt động như tổ chức các lớp nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên trong ngành, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân viên trong ngành tự tiến hành nghiên cứu và học tập, quy hoạch đào tạo lao động bám sát thực tiễn phát triển ngành, nâng cao trình độ ngoại ngữ của người lao động....Những giải pháp này sẽ tạo điều kiện phát triển cả nhân lực và trí lực cho cán bộ công nhân viên ngành Dầu khí.
Như vậy, cần có vốn để phát triển nguồn nhân lực là một bắt buộc. Sử dụng vốn vào đây là hướng đi đúng đắn, là giải pháp tích cực có tác dụng dài hạn để nâng cao trình độ nguồn nhân lực một cách toàn diện và để phục vụ cho sự nghiệp phát triển chung của ngành. Cần có vốn để làm tốt công tác tổ chức đào tạo với chính sách thu hút nhân tài từ các trường đại học trong nước. Có vốn để tăng cường kiểm tra giám sát chất lượng đào tạo và sử dụng cán bộ được đào tạo, theo dõi công tác đào tạo đối với các nhân viên làm cho nhà thầu và các công ty khác hoạt động trong lĩnh vực dầu khí, áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ vi phạm các quy chế, quy định của Tổng công ty về công tác đào tạo. Lập kế hoạch về kinh phí đầu tư cẩn trọng, phải lựa chọn đối tượng đạo tạo. Chính sách sử dụng cán bộ công nhân viên được đào tạo phải vừa mang tính chất kinh tế, thực hiện chế độ người lao động và đơn vị sử dụng người lao động được Tổng công ty đào tạo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về kinh phí đã chi cho đào tạo nếu có sai phạm xảy ra.
5.4. Khắc phục sự cố môi trường:
Công nghiệp Dầu khí của Việt Nam tuy còn non trẻ nhưng tốc độ tăng trưởng mạnh đã sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Hoạt động dầu khí mang lại nguồn lợi lớn cho nền kinh tế quốc dân song cũng tiềm ẩn nhiều khả năng xảy ra sự cố môi trường. Sự cố môi trường của hoạt động dầu khí liên quan đến ô nhiễm dầu, một dạng ô nhiễm đặc biệt nguy hại phá huỷ nghiêm trọng môi trường, gây thiệt hại đến kinh tế-xã hội-môi trường nặng nề và hiện nay đang là vấn đề mang tính chất toàn cầu. Việc ngăn ngừa và khắc phục sự cố môi trường luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong hoạt động của tất cả các công ty dầu khí trên thế giới. Cùng với sự tăng trưởng của công nghiệp Dầu khí Việt Nam, nguy cơ xảy ra sự cố môi trường ngày càng gia tăng, đặt ra nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết.
Trong hoạt động dầu khí, sự cố môi trường có thể bất ngờ xảy ra,là do: rơi vãi, rò rỉ dầu trong bơm tải tiếp dầu, tiếp nhiên liệu. Các sự cố đường ống như rò rỉ, vỡ nứt ống. Phụt khí, tràn dầu trong khi khoan giếng hoặc các hoạt động hoàn thiện giếng. Các sự cố va chạm tàu. Tổn thất dầu thô từ các tàu chứa nổi hoặc do hỏng hóc bể chứa, thân tàu hoặc các hoạt động bốc dỡ dầu thô trong giai đoạn khai thác. Tràn đổ hoá chất, dung dịch khoan hoặc chất thải nguy hại. Các sự cố có tính leo thang như cháy nổ, va chạm, hư hỏng cấu trúc.
Cần có nhận thức đầy đủ về vần đề an toàn môi trường và có ý thức bảo vệ môi trường là hàng đầu trong khi thực hiện các hoạt động dầu khí. Vì vậy, các nhà thầu cần phải:
+ Tuyệt đối tuân thủ các quy định về an toàn và môi trường của nước chủ nhà, cập nhật và báo cáo đẩy đủ.
+ Tuân thủ chính sách sức khoẻ, an toàn môi trường do Uỷ ban quản lý phê duyệt.
+ Đào tạo nhân viên và yêu cầu các bên tham gia thi công đào tạo nhân viên của mình về an toàn cấp chứng chỉ khi lên giàn khoan.
+ Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện để ứng cứu sự cố và cấp cứu tai nạn chu đáo.
+ Mua bảo hiểm đầy đủ theo quy định của hợp đồng và luật pháp Việt Nam.
Kết luận
Sự phát triển của công nghiệp là bộ phận quan trọng để thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kế hoạch hóa phát triển công nghiệp được xem như là bộ phận chủ đạo trong thực hiện các mục tiêu của kế hoạch hoá tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong đó, kế hoạch phát triển Dầu khí được đặt ở vị trí trọng tâm. Để thực hiện được, nhất thiết và cần phải có vốn đầu tư. Và hơn hết thảy là việc bảo đảm vốn.
Kế hoạch phát triển ngành giai đoạn 2001-2005 đã đi vào giai đoạn nước rút. Năm 2004 được coi là năm bản lề của kế hoạch, làm tiền đề để thực hiện đạt và vượt kế hoạch đã đề ra. Việc bảo đảm vốn để thực hiện kế hoạch phát triển ngành không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực từ bản thân ngành mà còn rất cần đến sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ của Nhà nước, trong đó có vai trò to lớn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Việc thực hiện thành công kế hoạch phát triển Dầu khí để tiến tới thực hiện thành công mục tiêu chiến lược là đưa ngành công nghiệp này thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, một ngành công nghiệp đồng bộ và hoàn chỉnh từ khâu tìm kiếm thăm dò, khai thác, tàng trữ, vận chuyển đến chế biến, phân phối, tiêu thụ sản phẩm, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên chiến lược này, một ngành Dầu khí ngang tầm với khu vực và trên thế giới. Muốn vậy, không thể không tìm biện pháp bảo đảm vốn đầu tư để phát triển ngành.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội, chủ biên PGS. TS. Ngô Thắng Lợi, NXB Thống kê 2002.
2. Bài giảng Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội của thầy giáo PGS. TS. Ngô Thắng Lợi.
3. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia 2001
4. Tạp chí Kinh tế phát triển, các số năm 2001, 2002, 2003, 2004
5. Tạp chí Phát triển kinh tế, các số năm 2001, 2002, 2003, 2004
6. Thời báo Kinh tế Việt Nam, các số năm 2001, 2002, 2003, 2004
7. Kinh tế Việt Nam và thế giới 2001-2002, 2002-2003, 2003-2004.
8. Tạp chí Dầu khí, các số năm 2001, 2002, 2003, 2004
9. Bản tin Dầu khí, số ra hàng tháng các năm 2001, 2002, 2003, 2004
10. Luật Dầu khí Việt Nam
11. Tìm hiểu Dầu khí, NXB Khoa học và kỹ thuật 1999.
12. Vietsopetro 20 năm xây dựng và phát triển, NXB Khoa học và kỹ thuật 2002.
13. Hoạch định chiến lược phát triển và kế hoạch hoá doanh nghiệp Dầu khí, NXB Thống kê 2002.
14. Tuyển tập báo cáo hội nghị khoa học công nghệ Viện Dầu khí 25 năm xây dựng và trưởng thành, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Viện Dầu khí 2003.
15. Financial Times 2001, 2002, 2003, 2004.
16. The Petroleum industry: a nontechnical guide.
17. Chiến lược phát triển Dầu khí Việt Nam 2001-2010.
18. Kế hoạch phát triển Dầu khí Việt Nam 2001-2005.
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I: Sự cần thiết phải đảm bảo vốn đầu tư cho việc thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí Việt Nam 3
I. Tổng quan về ngành Dầu khí Việt Nam 3
1. Đặc điểm của ngành Dầu khí 3
1.1 Khái niệm 3
1.2 Đặc điểm 3
2. Quá trình hình thành và phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam 7
3. Vai trò của ngành Dầu khí Việt Nam 10
4. Cơ cấu, tổ chức khai thác và chế biến Dầu khí ở Việt Nam 14
4.1 Tổng công ty Dầu khí Việt Nam 14
4.2 Các đơn vị trực thuộc 16
4.3 Các công ty liên doanh của TCT Dầu khí Việt Nam 17
4.4 Các tổ chức liên quan 18
II. Vai trò của Dầu khí đối với tăng trưởng kinh tế xã hội ở Việt Nam 18
1. Dầu khí và vấn đề tăng trưởng kinh tế 18
2. Dầu khí và vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước 19
3. Dầu khí với việc giải quyết các vấn đề xã hội 20
III. Sự cần thiết phải bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển Dầu khí Việt Nam 21
1. Vốn đầu tư và phát triển kinh tế 21
1.1 Vốn đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế 21
1.2 Tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế 23
2. Vai trò của yếu tố vốn đầu tư trong phát triển Dầu khí 24
2.1 Vốn đề phát triển lĩnh vực thượng nguồn Dầu khí 24
2.2 Vốn phục vụ phát triển lĩnh vực trung nguồn Dầu khí 25
2.3 Vốn đầu tư trong phát triển lĩnh vực hạ nguồn Dầu khí 25
2.4 Các lĩnh vực khác 26
3. Chiến lược phát triển Dầu khí Việt Nam đặt ra thách thức lớn cho việc bảo đảm vốn đầu tư 26
4. Những bất cập còn tồn tại trong việc bảo đảm vốn thực hiện các mục tiêu phát triển ngành 28
Chương II: Thực trạng quá trình bảo đảm vốn đầu tư cho thực hiện kế hoạch phát triển dầu khí Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2003 30
I. Kế hoạch phát triển Dầu khí và nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển Dầu khí 2001 - 2003 trong khuôn khổ kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 30
1. Kế hoạch phát triển Dầu khí 2001 - 2005 và các mục tiêu cụ thể của ba năm đầu 2001 - 2003 30
1.1 Mục tiêu 30
1.2 Kế hoạch phát triển Dầu khí Việt Nam 2001 - 2003 31
2. Nhu cầu vốn đầu tư và kế hoạch bảo đảm vốn đầu tư phát triển Dầu khí Việt Nam 2001 - 2003 37
2.1 Nhu cầu vốn đầu tư 2001 - 2003 37
2.2 Kế hoạch bảo đảm vốn đầu tư phát triển Dầu khí Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2003 41
II. Tình hình thực hiện kế hoạch 3 năm 2001 - 2003 44
1. Thành tựu 44
2. Hạn chế 49
3. Nguyên nhân 52
III. Đánh giá việc bảo đảm vốn đầu tư 2001 - 2003 54
1. Thực trạng bảo đảm vốn đầu tư theo nguồn 54
1.1 Nguồn vốn trong nước 54
1.2 Nguồn vốn nước ngoài 59
2. Phân tích việc bảo đảm vốn đầu tư theo đối tượng sử dụng 61
3. Phân tích việc quản lý và tổ chức hoạt động cung ứng đầu tư....................65
4. Tác động của việc bảo đảm vốn tới phát triển sản xuất kinh doanh Dầu khí Việt Nam.............................................................................................................66
5. Kết luận về việc bảo đảm vốn đầu tư phát triển Dầu khí Việt Nam trong thời gian qua...............................................................................................................68
Chương III: Một số giải pháp sử dụng vốn đầu tư thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí Việt Nam giai đoạn 2004 - 2005 69
I. Kế hoạch phát triển Dầu khí 2004 - 2005 69
1. Mục tiêu 69
2. Nhiệm vụ kế hoạch hai năm 2004 - 2005 70
II. Nhu cầu vốn đầu tư thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí 2004 - 2005 74
1. Kế hoạch vốn đầu tư phát triển Dầu khí 2004 - 2005 74
1.1 Tổng nhu cầu vốn đầu tư.......................................................................74
1.2 Nhu cầu vốn đầu tư theo nguồn............................................................75
1.3 Nhu cầu vốn đầu tư theo đối tượng sử dụng..........................................75
2. Kế hoạch bảo đảm vốn đầu tư .76
III. Một số giải pháp bảo đảm vốn đầu tư thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí Việt Nam 78
1. Đa dạng và chủ động các nguồn vốn tự có 78
1.1 Tăng cường thêm vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước 78
1.2 Thu hút vốn đầu tư của cán bộ công nhân viên trong ngành 79
1.3 Mở rộng, tăng cường thu hút vốn trong dân 79
1.4 Hấp dẫn hơn nữa đầu tư nước ngoài 80
2. Củng cố và tạo sự hấp dẫn hơn cho các đối tác đầu tư nước ngoài 80
3. Hoàn thiện mô hình Công ty Tài chính Dầu khí 82
4. Xác định các đối tượng đầu tư có trọng điểm và hiệu quả..........................84
4.1 Tăng cường đầu tư hiện đại hoá công nghệ kỹ thuật.............................85
4.2 Phát triển mạnh các lĩnh vực lọc, hoá dầu và phân phối các sản phẩm dầu khí..................................................................................................................85
4.3 Đầu tư phát triển và gắn nghiên cứu khoa học với thực tế sản xuất......85
4.4 Xây dựng cơ sở hạ tầng, hoàn thiện lĩnh vực dịch vụ dầu khí................85
4.5 Đầu tư tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế............................86
5. Một số biện pháp hỗ trợ...............................................................................89
Kết luận .95
Tài liệu tham khảo .96
Phụ lục...........................................................................................................97
Danh mục ký hiệu viết tắt
TCT : Tổng công ty
C.ty : công ty
VTN : vốn trong nước
VNN : vốn nước ngoài
PSC : hợp đồng phân chia sản phẩm
BBC : hợp đồng hợp tác kinh doanh
LD : liên doanh
KD : kinh doanh
LPG : khí hoá lỏng
PVFC : Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam
Danh mục bảng biểu
Bảng 1: Kế hoạch khai thác dầu khí 2001 - 2003.................................................32
Bảng 2: Kế hoạch cung cấp các sản phẩm xăng dầu 2001 - 2003........................33
Bảng 3: Kế hoạch chế biến, sản xuất sản phẩm dầu 2001 - 2003.........................34
Bảng 4: Một số dự án đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ 2001 - 2005.........................35
Bảng 5: Kế hoạch đào tạo nhân lực 2001 - 2003..................................................37
Bảng 6: Nhu cầu vốn đầu tư phát triển Dầu khí theo nguồn 2001 - 2003............38
Bảng 7: Nhu cầu vốn đầu tư phát triển Dầu khí theo sử dụng 2001 - 2003.........40
Bảng 8: Kế hoạch bảo đảm vốn đầu tư phát triển Dầu khí Việt Nam giai đoạn 2001- 2003............................................................................................................42
Bảng 9: Kết quả sản xuất kinh doanh...................................................................46
Bảng 10: Sản lượng khai thác qua các năm 1986 – 2003.....................................48
Bảng 11: Thực trạng bảo đảm vốn đầu tư theo nguồn phát triển Dầu khí Việt Nam giai đoạn 2001-2003.............................................................................................56
Bảng 12: Thực trạng bảo đảm vốn đầu tư phát triển Dầu khí Việt Nam theo đối tượng sử dụng giai đoạn 2001-2003......................................................................62
Bảng 13: Các dự án tìm kiếm thăm dò dầu khí giai đoạn 2001 - 2005.................70
Bảng 14: Sản lượng khai thác dầu khí 2004 - 2005...............................................71
Bảng 15: Các dự án thu gom vận chuyển khí........................................................71
Bảng 16: Kế hoạch cung cấp các sản phẩm xăng dầu 2004 - 2005......................72
Bảng 17: Kế hoạch chế biến, sản xuất sản phẩm dầu 2004 - 2005.......................73
Bảng 18: Kế hoạch đào tạo nhân lực 2004 - 2005................................................74
Bảng 19: Nhu cầu vốn đầu tư theo nguồn 2004 - 2005.........................................75
Bảng 20: Nhu cầu vốn đầu tư theo đối tượng sử dụng 2004 - 2005......................76
Bảng 21: Kế hoạch bảo đảm vốn đầu tư 2004 - 2005...........................................77
Các hợp đồng dầu khí đang thực hiện (chia sản phẩm/liên doanh)
tt
Nhà thầu
Lô
Giai đoạn hoạt động
1
M & P (Pháp)
trũng Hà Nội
thăm dò, thẩm định
2
BP / PVEP (Anh-Việt Nam)
05 - 2
thẩm định mỏ
3
BP / CONOCO (Anh-Mỹ)
05 - 3
thẩm định mỏ
4
P.Carigali / PVEP (Malaysia, VN)
01+02
phát triển mỏ
5
BP / ONGC; PVEP (Anh, ấn Độ, Việt Nam)
06. 1
phát triển mỏ
6
Vietsopetro / PV (Nga, Việt Nam)
09.1; 17;
04.1; 05.1
phát triển mỏ
7
KNOC (Hàn Quốc)
11. 2
chuẩn bị phát triển mỏ
8
Samedan / Delek, Energy, OPECO
(Mỹ, Israel)
12E; 12W
thăm dò
9
JVPC / CONOCO, PVEP (Nhật, Mỹ, Việt Nam)
15. 2
phát triển mỏ
10
CONOCO / PIDC (Mỹ, Việt Nam)
133; 134
thăm dò
11
UNOCAL / PVEP, TTEP
(Mỹ, Việt Nam, Thái Lan)
B+48/95
thẩm định mỏ
12
Talisman / Carigari, PVEP
(Canada, Malaysia, Việt Nam)
PM3-46
phát triển mỏ
13
VAMEX (Mỹ)
08; 08
thăm dò
14
UNOCAL / MOECO (Mỹ, Nhật)
52/97
thăm dò
15
CONOCO, KNOC, SK, Geopetrol, PVEP (Mỹ, Hàn Quốc, Pháp, Việt Nam)
15. 1
thăm dò
16
Hoàng Long JOC (Việt Nam, Mỹ, Anh)
16. 1
thăm dò
17
ATI (Mỹ)
102; 106
thăm dò
18
CONOCO / KNOC, PVEP
(Mỹ, Hàn Quốc, Việt Nam)
16. 2
thăm dò
19
OMV-EIS (áo, ý)
111
thăm dò
20
Vietgasprom (Nga, Việt Nam)
112
thăm dò
21
Hoàn Vũ JOC (Mỹ, Việt Nam)
09 - 2
thăm dò
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam
Các mỏ đang khai thác
Công ty điều hành
Mỏ
Sản lượng
Dầu
(tr.tấn )
Khí
(tỷ m3)
1
PIDC (Việt Nam)
Tiền Hải
0.02
2
Vietsopetro (Nga-Việt Nam)
Bạch Hổ
12.77
1.674
3
Vietsopetro (Nga-Việt Nam)
Rồng
0.55
4
Vietsopetro (Nga-Việt Nam)
Đại Hùng
0.14
5
JVPC (Nhật)
Rạng Đông
2.14
0.03
6
Petronas CV (Malaysia)
Hồng Ngọc
1.03
7
Lundin
Bunga Kekwa
0.37
Tổng
17.0
1.724
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam
Danh mục dự án đầu tư trong giai đoạn 2001 - 2005
STT
Các dự án đầu tư
Tổng vốn đầu tư
(tr.USD)
Trong đó, VĐTNN
%
tr.USD
I
Các dự án tiếp tục đầu tư
5725
2873
1
Đầu tư cam kết tối thiểu còn lại
của các hợp đồng
300
100
300
2
Đề án tự tìm kiếm, thăm dò
500
0
0
3
Phát triển các mỏ dầu khí
1000
85
850
4
Đường ống khí Nam Côn Sơn
500
49
245
5
Xây dựng đội tàu chở dầu thô
400
70
280
6
Nhà máy lọc dầu số 1
1300
50
650
7
Liên doanh sản xuất nhựa đường
với Total
190
70
133
8
Nhà máy chế biến Condensate
15
0
0
9
Hệ thống kho tàng, phân phối các
sản phẩm dầu khí
400
0
0
10
Trung tâm phân phối khí Phú Mỹ
20
0
0
11
Các đề án sản xuất kinh doanh
sản phẩm dầu khí
650
0
325
12
Đầu tư xây dựng cơ bản, trang bị
cho nghiên cứu khoa học chuyên
ngành, phát triển dịch vụ (bến
cảng, căn cứ dịch vụ dầu khí...)
450
20
90
II
Các dự án kêu gọi đầu tư
2230
1245
1
Đầu tư tìm kiếm thăm dò mới
100
100
1000
2
Đường ống khí Tây Nam
350
0
0
3
Quy hoạch tổng thể phía Bắc
500
0
0
4
Hệ thống thu gom khí đồng hành
bể Cửu Long
30
0
0
5
Nhà máy sản xuất Methanol trên bờ
350
70
245
Tổng cộng
7955
4118
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - tự do - hạnh phúc.
lời cam đoan
Họ tên: Trần Thẩm Thuý Hằng
Lớp: Kế hoạch 42B
Khoa: Kế hoạch Phát triển
Nội dung cam đoan: Luận văn với đề tài: “Bảo đảm vốn đầu tư cho thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005”là công trình nghiên cứu độc lập và tự lực của em, dựa trên những tìm hiểu về tình hình thực tế tại cơ quan thực tập: Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trong quá trình thực hiện, có tham khảo các tài liệu liên quan. Em xin chịu trách nhiệm về những lời cam đoan trên.
Hà Nội, ngày 18 tháng 6 năm 2004.
Người viết
Trần Thẩm Thuý Hằng
Lời cảm ơn
Là sinh viên năm cuối chuyên ngành kế hoạch, được thực tập tại Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là một cơ hội tốt cho em. Được tiếp xúc với công việc thực tế, lại có sự chỉ bảo tận tình của các cô chú, anh chị trong Vụ, em đã học hỏi được nhiều điều. Những kiến thức được học trong trường và công việc thực tế đã giúp em trưởng thành và vững tin hơn. Luận văn tốt nghiệp của em với đề tài “Bảo đảm vốn đầu tư cho thực hiện kế hoạch phát triển Dầu khí Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005” được thực hiện và hoàn thành nhờ quá trình thực tập tại Vụ. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của TS. Đặng Văn Thuận cũng như các cô chú, anh chị khác trong Vụ. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo PGS. TS Ngô Thắng Lợi đã nhiệt tình hướng dẫn em trong suốt quãng thời gian thực tập vừa qua.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT409.doc