BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÀ RỊA – VŨNG TÀU
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KH-CN CẤP TRƯỜNG
TÊN ĐỀ TÀI:
XÂY DỰNG TIẾN TRÌNH DẠY HỌC THEO MÔ HÌNH
DẠY HỌC DỰA TRÊN VẤN ĐỀ Ở MỘT SỐ NỘI DUNG
PHẦN VẬT LÍ HẠT NHÂN NHẰM PHÁT TRIỂN TƯ DUY
SÁNG TẠO CHO SINH VIÊN
Chủ nhiệm đề tài: ThS Nguyễn Thị Thanh Huyền
Năm 2018
BR-VT, T9 - 2018
THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
1. Tên đề tài: Xây dựng tiến trình dạy học theo mô hình dạy học dựa trên vấn đề
ở một số nội dung phần V
66 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 04/01/2022 | Lượt xem: 404 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Báo cáo tổng kết đề tài - Xây dựng tiến trình dạy học theo mô hình dạy học dựa trên vấn đề ở một số nội dung phần Vật lí hạt nhân nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho sinh viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vật lí hạt nhân nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho
sinh viên.
2. Chủ nhiệm đề tài: ThS Nguyễn Thị Thanh Huyền. Mã số:
3. Danh sách cán bộ tham gia chính:
4. Nội dung chính:
• Nghiên cứu cơ sở lí luận của dạy hoc dựa trên vấn đề, dạy học phát triển tư
duy sáng tạo.
• Điều tra thực trạng của việc dạy và học nội dung phần VLHN cho SV khối
kĩ thuật ở trường Đại học BR-VT.
• Phân tích nội dung kiến thức “Phân rã phóng xạ” trong phần VLHN.
• Thiết kế tiến trình dạy học kiến thức “Phân rã phóng xạ” theo kiểu dạy học
dựa trên vấn đề.
5. Kết quả đạt được:
• Nghiên cứu cơ sở lí luận của dạy hoc dựa trên vấn đề, dạy học phát triển tư
duy sáng tạo.
• Điều tra thực trạng của việc dạy và học nội dung phần VLHN cho SV khối
kĩ thuật ở trường Đại học BR-VT.
• Phân tích nội dung kiến thức “Phân rã phóng xạ” trong phần VLHN.
• Thiết kế tiến trình xây dựng kiến thức “Phân rã phóng xạ” theo kiểu dạy học
dựa trên vấn đề.
• Xây dựng tình huống cho vấn đề cần nghiên cứu.
• Thiết kế tiến trình dạy học “Phân rã phóng xạ” theo kiểu dạy học dựa trên
vấn đề.
6. Thời gian nghiên cứu: 06 tháng, từ T3 - T9 năm 2018
Chủ nhiệm đề tài
Nguyễn Thị Thanh Huyền
MỤC LỤC
Danh mục những từ viết tắt 3
Mở đầu 4
1. Lí do chọn đề tài 4
2. Mục đích nghiên cứu 6
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 6
4. Giả thuyết khoa học 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
6. Phương pháp nghiên cứu 7
Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 8
1.1 Các nghiên cứu trong và ngoài nước về dạy học dựa trên vấn đề 8
1.2 Các nghiên cứu về tư duy sáng tạo 11
Chương 2. Cơ sở lí luận và thực tiễn về tổ chức dạy học dựa trên vấn đề 15
2.1 Một số định nghĩa về dạy học dựa trên vấn đề 15
2.2 Mục tiêu chung của dạy học dựa trên vấn đề 17
2.2.1 Mục tiêu môn học cụ thể và liên môn 17
2.2.2 Mục tiêu quy trình và học tập 17
2.2.3 Mục tiêu đối với GV 18
2.3 Mục tiêu của dạy học Vật lí sử dụng PBL 18
2.4 Đặc trưng cơ bản của PBL 19
2.5 Các đặc trưng của một vấn đề tốt 23
2.5.1 Xây dựng vấn đề dựa vào kiến thức có liên quan đến bài học 23
2.5.2 Người học tự tìm tòi để xác định thông tin nhằm giải quyết vấn đề 24
2.5.3 Thảo luận nhóm là hoạt động cốt lõi 24
2.5.4 GV có vai trò hỗ trợ 25
2.5.5 Kiến thức mang tính liên môn và quan hệ với môi trường thực tế 25
2.6 Điều tra thực trạng dạy và học nội dung kiến thức phần VLHN 26
Chương 3. Xây dựng tiến trình dạy học theo mô hình dạy học dựa trên 30
vấn đề ở một số nội dung phần VLHN nhằm phát triển tư duy sáng tạo
1
cho SV
3.1 Nội dung kiến thức chương “Phân rã phóng xạ” 30
3.2 Thiết kế tiến trình dạy học chương “Phân rã phóng xạ” 31
3.2.1 Mục tiêu dạy học 31
3.2.2 Xây dựng tình huống có vấn đề 32
3.2.3 Tiến trình xây dựng kiến thức “Hiện tượng phóng xạ” 47
3.2.4 Tiến trình xây dựng kiến thức “Các loại tia phóng xạ và bản chất của 48
các tia phóng xạ”
3.2.5 Tiến trình xây dựng kiến thức “Định luật phóng xạ. Độ phóng xạ” 49
3.2.6 Tiến trình xây dựng kiến thức “Đồng vị phóng xạ và các ứng dụng” 50
3.2.7 Tiến trình dạy học nội dung kiến thức chương “Phân rã phóng xạ” 51
Kết luận và kiến nghị 61
Tài liệu tham khảo 62
Các công trình khoa học đã công bố 63
Phụ lục 64
2
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
Giảng viên GV
Sinh viên SV
Problem-Based Learning PBL
Vật lí đại cương VLĐC
Vật lí hạt nhân VLHN
Đơn vị học trình Đvht
Sách giáo khoa SGK
Tư duy sáng tạo TDST
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vật lí học là một ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu những tính chất, quy luật
cơ bản và khái quát nhất của thế giới vật chất. Những thành tựu của vật lí được ứng
dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong Y học, những ứng dụng của Vật lí
học như: sử dụng các kĩ thuật vật lí trong chẩn đoán và điều trị, điện tim, điện tâm đồ,
điện não đồ, điều trị bằng nhiệt, bằng từ trường, ứng dụng của âm và siêu âm, chụp X
quang, sợi quang học trong mổ nội soi, ứng dụng của phóng xạ, chụp hình cắt lớp vi
tính, chụp cộng hưởng từ hạt nhân, mắt và các dụng cụ quang học, ứng dụng của ánh
sáng trong điều trị, những ứng dụng của laser... đã làm cho ngành Y có một sự phát
triển vượt bậc, giúp các thầy thuốc chẩn đoán chính xác và điều trị có hiệu quả cao.
Cùng với xu thế chung của ngành giáo dục, việc dạy và học vật lí hiện nay ở
các bậc phổ thông, đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp cũng đang có nhiều
thay đổi về phương pháp. Tuy nhiên, sự thay đổi này vẫn còn diễn ra rất chậm và chưa
thực sự đồng bộ ở các cấp học. Thực tế cho thấy rằng việc áp dụng dạy học tích cực
trong dạy học phần Vật lí đại cương (VLĐC) cho sinh viên (SV) khối kĩ thuật còn rất
nhiều bất cập, nhất là các Trường Đại học ngoài công lập. Do trình độ đầu vào của SV
không cao, số tiết dành cho học phần không nhiều, sĩ số lớp quá đông... nên việc thay
đổi và triển khai từ dạy học truyền thống sang vận dụng các phương pháp dạy học tích
cực gặp nhiều khó khăn. Mặc dù hướng nghiên cứu về phát triển năng lực sáng tạo cho
SV không hẳn là vấn đề mới mẻ, nhưng một bộ phận không nhỏ giảng viên (GV) hiện
nay vẫn chưa tạo ra được một môi trường lớp học thân thiện, cởi mở; chưa có biện
pháp, cách thức cụ thể để phát triển năng lực sáng tạo cho SV. Việc giảng dạy còn quá
nặng về lí thuyết, còn quá coi trọng vai trò của người dạy, nội dung kiến thức chưa sát
thực và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế, sự nghèo nàn về phương thức đánh giá
người học, việc đánh giá còn quá nặng về kiểm tra khả năng học thuộc dẫn đến hiệu
quả đào tạo chưa cao. Hệ quả kéo theo là SV còn học thụ động, chưa phát huy được
tính tích cực, tự giác, chủ động, chưa hình thành và phát triển năng lực tự học (khả
năng tìm kiếm và cập nhật thông tin, khả năng đọc và khai thác một cuốn sách hoặc
một công trình nghiên cứu...).
Thực trạng hiện nay còn cho thấy một bộ phận không nhỏ SV không có động cơ
học Vật lí, một phần vì chương trình học quá nặng, một phần vì SV cảm thấy không
4
phục vụ trực tiếp cho chuyên ngành của mình. Do đó, để khắc phục được những bất
cập nêu trên thì bản thân mỗi GV cần không ngừng đổi mới nội dung và phương pháp
dạy học cho phù hợp. Tinh thần của việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
mới là phải phát huy được năng lực sáng tạo của SV, chú ý đến hoạt động tích cực của
SV trên lớp, SV được trực tiếp tham gia vào bài giảng của GV, dưới dự hướng dẫn của
GV thì SV có thể phát hiện ra vấn đề, suy nghĩ và tìm cách giải quyết vấn đề, đặc biệt
là các vấn đề gắn với thực tiễn.
Vật lí hạt nhân (VLHN) là một nội dung tương đối khó và trừu tượng trong Vật
lí. Để hiểu được sâu sắc kiến thức này thực sự không phải dễ đối với SV và ngay cả
với GV. Qua nhiều đánh giá cho thấy việc SV thu nhận kiến thức về VLHN là khá ít,
hầu hết chỉ học lí thuyết và làm bài tập để đối phó với kỳ thi, còn GV cũng chỉ dạy cho
đúng lịch trình và nội dung quy định. Có một số trường đại học có dạy VLĐC, nội
dung về VLHN còn vắng bóng trong nội dung đào tạo hoặc nếu có thì chỉ coi như nội
dung đọc thêm, để SV tự học, tự nghiên cứu mà không có kiểm tra, đánh giá. Điều này
thật lạc hậu khi chúng ta đang sống trong một thế giới mà ngành hạt nhân phát triển
mạnh mẽ, đem lại vô vàn lợi ích to lớn trong các lĩnh vực như trong nông nghiệp, công
nghiệp, sinh học, y học, khảo cổ, quốc phòng và kể cả trong lĩnh vực môi trường. Việc
trang bị các kiến thức cơ bản về hạt nhân là rất cần thiết và phù hợp với thời đại. Mặt
khác, bức xạ của hạt nhân cũng có thể mang tới tác hại tiềm ẩn bất cứ lúc nào đối với
cuộc sống cộng đồng nói chung và bản thân mỗi người nói riêng. Do đó, khi học nội
dung này, ngoài kiến thức cơ bản đã có trong giáo trình, SV rất cần được mở rộng và
tiếp cận với các kiến thức thực tế, nhất là các kiến thức về bức xạ với sức khỏe, bức xạ
trong nghề nghiệp và cách phòng tránh bức xạ hạt nhân.
Trong xu thế đổi mới phương pháp giảng dạy đại học theo hướng lấy hoạt động
học, hoạt động nghiên cứu của SV làm trung tâm, dạy học dựa trên vấn đề (tên tiếng
anh là Problem-Based Learning, viết tắt là PBL) đang được các nền giáo dục đại học ở
nhiều nước quan tâm nghiên cứu và vận dụng. Mặc dù đã ra đời từ những năm 60 của
thế kỷ trước, cho đến nay dạy học dựa trên vấn đề vẫn thu hút được sự quan tâm của
những nhà nghiên cứu giáo dục bởi mục tiêu cơ bản của dạy học dựa trên vấn đề nhằm
rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề, tất nhiên trong đó cần bao gồm cả năng lực giải
quyết vấn đề một cách sáng tạo khả năng nhận biết, phát hiện vấn đề.
5
Dạy học dựa trên vấn đề đảo lộn thứ tự của hoạt động dạy học nếu so với các
phương pháp truyền thống, ở đó thông tin được GV trình bày từ thấp đến cao theo một
trình tự nhất định, và SV sẽ chỉ được tiếp cận với một vấn đề cần được lí giải (nếu có)
một khi họ đã được trang bị đầy đủ những kiến thức cần thiết. Trong dạy học dựa trên
vấn đề, SV được tiếp cận với vấn đề ngay ở giai đoạn đầu của một đơn vị bài giảng.
Vấn đề trong dạy học dựa trên vấn đề phải được xây dựng xung quanh một tình
huống (một sự việc, hiện tượng...) có thực trong cuộc sống và chứa đựng những điều
cần được lí giải. Vấn đề đặt ra cần phải có nhiều tài liệu tham khảo nhưng trọng tâm
nhằm giúp người học có thể tự tìm tài liệu, tự khai thác thông tin và tự trau dồi kiến
thức; các phương tiện giao thông đại chúng như sách vở, băng cassette, phần mềm mô
phỏng, internet...Nói cách khác, chính người học phải tự trang bị cho mình phần “lí
thuyết” nhằm có đủ kiến thức để tiếp cận và giải quyết vấn đề thực tiễn. Như vậy, dạy
học dựa trên vấn đề rất thích hợp để sử dụng trong đào tạo SV.
Chính vì những lí do trên, tôi quyết đinh chọn đề tài nghiên cứu khoa học là:
“Xây dựng tiến trình dạy học theo mô hình dạy học dựa trên vấn đề ở một số nội dung
phần Vật lí hạt nhân nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho sinh viên”.
2. Mục đích nghiên cứu
Phát triển tư duy sáng tạo cho SV khối kĩ thuật thông qua dạy học dựa trên vấn
đề ở nội dung kiến thức phần VLHN trong chương trình VLĐC.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Hoạt động dạy và học phần VLHN của GV và SV khối kĩ thuật, Trường Đại
học Bà Rịa – Vũng Tàu
Phát triển tư duy sáng tạo cho SV khối kĩ thuật, Trường Đại học Bà Rịa – Vũng
Tàu.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được các tiến trình dạy học theo mô hình dạy học dựa trên vấn đề
ở một số nội dung kiến thức phần VLHN thì có thể phát triển tư duy sáng tạo của SV.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận dạy học đại học, dạy học dựa trên vấn đề, dạy học phát
triển tư duy sáng tạo cho SV.
Phân tích một số nội dung kiến thức trong phần VLHN.
6
Điều tra thực trạng của việc dạy và học nội dung phần VLHN cho SV khối kĩ
thuật ở trường Đại học BR-VT.
Thiết kế tiến trình dạy học dựa trên vấn đề một số nội dung kiến thức phần
VLHN.
6. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận: nghiên cứu các tài liệu về lí luận dạy học đại học, nghiên
cứu tâm sinh lí lứa tuổi thanh thiếu niên, các văn kiện Đại hội Đảng về đổi mới giáo
dục, cơ sở lí luận về dạy học dựa trên vấn đề, dạy học phát triển tư duy sáng tạo, các
bài báo, luận văn, luận án và các website có liên quan đến nội dung của đề tài.
Nghiên cứu thực tiễn: Điều tra bằng phiếu về thực trạng dạy và học nội dung kiến
thức phần VLHN.
7
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các nghiên cứu trong và ngoài nước về dạy học dựa trên vấn đề
Từ lâu, dạy học dựa trên vấn đề đã được các nhà sư phạm danh tiếng của các
nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới quan tâm nghiên cứu, phát triển lí luận
cũng như hiệu quả của dạy học dựa trên vấn đề trong thực tiễn và bước đầu đã thu
được những kết quả khả quan. Dạy học dựa trên vấn đề không phải là một phương
pháp dạy học cụ thể mà là một quan điểm dạy học nên có thể vận dụng trong hầu hết
các hình thức và phương pháp dạy học, kể cả trong phương pháp dạy học truyền thống
cũng có thể sử dụng kiểu đàm thoại hay thuyết trình để giải quyết vấn đề. Dạy học dựa
trên vấn đề (PBL) là một phương pháp nhằm kích thích, hướng dẫn SV học tập thông
qua quá trình các em cọ xát với một vấn đề thực tế, có liên quan đến chương trình học.
Là một phương pháp dạy học lấy SV làm trung tâm, PBL tạo nên một sự thay đổi cơ
bản từ việc tập trung vào giảng dạy để tập trung vào học tập. Phương pháp này nhằm
sử dụng sức mạnh thực sự của việc giải quyết vấn đề để khơi gợi sự ham thích tìm
hiểu, thu hút, tăng cường động lực học tập của SV. PBL được coi là một mô hình có
thể phát triển đồng thời các chiến lược giải quyết vấn đề bên cạnh đó đảm bảo kiến
thức, kĩ năng liên quan đến môn học bằng cách đặt SV vào các vai trò tích cực của
người giải quyết vấn đề, phải đối mặt với vấn đề phi cấu trúc đựợc mô phỏng như các
loại vấn đề mà các em có thể phải đối mặt trong tương lai.
Nhìn chung, trong thời đại công nghệ thông tin và truyền thông phát triển vượt
bậc, các mô hình dạy học này bằng nhiều con đường đã đến với nhiều GV, nhiều nhà
nghiên cứu, nhưng hình như chúng ta loay hoay mãi vẫn chưa tìm ra con đường để
chúng đi vào thực tiễn giáo dục Việt Nam. Một lí do thuyết phục cơ bản là mục tiêu
giáo dục quá khác nhau dẫn đến sự khác biệt không chỉ đơn thuần là phương pháp dạy
học (như nhiều người vẫn nghĩ) mà là cả mô hình dạy học. Đổi mới giáo dục trước tiên
là đổi mới tư duy, từ bỏ nhiều quan niệm quen thuộc lâu đời về giáo dục của những ai
làm giáo dục.
Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề xuất hiện đầu tiên vào đầu những năm
1960 tại trường đại học y khoa McMaster ở Canada. Lịch sử khoa học của nó thì còn
lâu đời hơn thế. Theo Thomas Cort, hiệu trưởng của trường ĐH Samford cho rằng
PBL như là một phong cách học mới vừa được phục hồi. Theo quan điểm đó của ông,
PBL bao hàm phép biện chứng hỏi và-đáp của Socrates và phép biện chứng chính đề-
8
phản đề-tổng hợp của Hegelian. Như John Cavanaugh đã nói rằng nó giống như cách
học dựa trên khám phá vào những năm 1960. Khi Dewey đề cập về sự cọ sát, ông đã
nói rằng mọi người đều biết về nó nhưng không áp dụng. Dewey đã nói đúng trên cấp
độ trừu tượng. Chúng ta chỉ xử lí chi tiết tốt hơn, và chỉ có thế thôi, đó là nhờ sự tiến
bộ trong khoa học nhận thức và kĩ thuật. Gần 100 năm trước, John Dewey – nhà triết
học, tâm lí học, nhà cải cách giáo dục người Mỹ đã cho rằng trường học ít nhất nên là
một phần nhỏ của sự chuẩn bị cho cuộc sống và tốt hơn nữa xuất phát từ chính cuộc
sống. Để những hướng dẫn y học đi vào chính cuộc sống, những GV khoa Y tại đại
học McMaster thử nghiệm dạy học dựa trên vấn đề vào năm 1969 (Albanese và
Mitchell, 1993; Vernon và Blake, 1993). Trong quá trình đào tạo, có một nghịch lí
khiến các GV thất vọng về kết quả SV đó là sự khác biệt giữa kết quả giảng dạy giáo
khoa truyền thống và thực tế lâm sàng mà SV của họ cuối cùng phải đối mặt, vì vậy họ
quyết định hướng dẫn dựa trên những trường hợp thực tế. SV đã được giới thiệu
những vấn đề lâm sàng mà họ có thể giải quyết chỉ khi học những kiến thức y học liên
quan. Từ đó, PBL đã chứng tỏ nó là phương pháp hữu hiệu. Sau đó, các khoa Y của
một số trường đại học khác tiếp tục kế thừa những nghiên cứu này, trong đó có Đại
học Y Havard. Hiện nay, 70% các khoa Y tại Mỹ dùng PBL trong những năm tiền lâm
sàng (Kinkade, 2005). Tại Quebec (một bang của Canada), tất cả các khoa Y đều sử
dụng PBL trong đào tạo. Là một phương pháp sư phạm, PBL đã được thực hiện thành
công trong các ngành khác nhau, như kiến trúc (Maitland, 1997), kinh doanh (Stinson
và Milter, 1996), giáo dục (Duffy, 1994), pháp luật (Driessen và Van der Vleuten,
2000), công tác xã hội (Boud và Feletti, 1991), kĩ thuật (Fink, năm 1999; Woods,
1994) và vật lí (Wiliams, 2001; Wiliams và Duch, 1997; Duch, 1996). Ở các nước phát
triển như Anh, Hoa Kì, Canada, Úc phương pháp này không chỉ áp dụng ở các
trường đại học mà ngày nay nó còn được dùng trong cải cách giáo dục tiểu học và
giảng dạy khoa học tại các trường trung học. Tháng 06/2002, một hội thảo quốc tế
riêng về PBL được tổ chức tại Baltimore, bang Maryland của Hoa Kì. Tháng 03/2007,
một hội thảo quốc tế tương tự được tổ chức tại Singapore. Hiện nay nhiều trường đại
học có riêng những trung tâm nghiên cứu triển khai phương pháp PBL hoặc tổ chức
ngân hàng vấn đề cho các chuyên ngành đào tạo của mình và chia sẻ trên các trang
web của họ, ví dụ như: Trường đại học Delaware, Hoa Kì:
Trường đại học Samford, Anh:
9
Trường đại học
Sydney, Úc
Tuy PBL ra đời hơn 60 năm và được nhiều cơ sở đào tạo trên thế giới áp dụng,
như đại học Erasmus, Hà Lan; đại học Lund, Thụy Điển; đại học Yog Jakarta,
Indonesia và đại học Walailak, Thái Lan nhưng ở Việt Nam PBL là phương pháp
khá mới mẻ.
Nhiều báo cáo nghiên cứu đánh giá cao hiệu quả của phương pháp học tập này,
đặc biệt là hiệu quả trong việc giúp cho SV thực sự tăng cường khả năng tự học và làm
việc nhóm. Trong khi đó, khả năng học tập chủ động và tự học tập, nghiên cứu của số
đông SV, SV Việt Nam còn hạn chế là một thách thức đối với giáo dục đào tạo của
Việt Nam nên việc áp dụng các phương pháp học tập tích cực là một yêu cầu xuất phát
từ thực tế của đào tạo tại Việt Nam.
Năm 2004, PBL lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam do khoa Y tế công cộng
(Đại học Y Hà Nội) đưa vào giảng dạy.
Bắt đầu từ năm học 2007-2008, trường ĐH Y tế công cộng triển khai áp dụng
thử nghiệm phương pháp này cho 06 môn học (Bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em, phòng
chống HIV/AIDS, Phòng chống tai nạn thương tích, dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực
phẩm, sức khỏe nghề nghiệp và tiếp thị xã hội) trong chương trình đào tạo Thạc sĩ Y tế
công cộng (YTCC) và môn Bệnh thông thường trong chương trình Cử nhân YTCC.
Ngày 25/12/2008, tại Hà Nội đã khai mạc “Hội thảo chia sẻ phương pháp học
tập dựa trên vấn đề” với sự tham gia của đại diện 10 trường đại học Y, Điều dưỡng và
Kĩ thuật y học trên cả nước.
Từ đó, phương pháp PBL được phổ biến trong các trường đại học Y khoa, như
Đại học Y dược thành phố Hổ Chí Minh, đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch (với sự hỗ
trợ của Ủy ban phát triên đại học Bỉ). Nhằm mục đích đánh giá tình hình áp dụng
phương pháp giảng dạy mới được áp dụng ở các bộ môn, ngày 27/11/2009, tại đại học
Y Phạm Ngọc Thạch đã tổ chức hội thảo “Kinh nghiệm áp dụng phương pháp giảng
dạy mới: Học theo vấn đề (PBL - Problem based learning) và lí luận lâm sàng (ARC –
Apprentissage au Raisonnement Clinique)” với sự tham gia của 65 GV thuộc các
khoa.
Bên cạnh đó, trong các lĩnh vực khác PBL bước đầu được các GV trẻ đưa vào
giảng dạy, ví như vừa qua Thạc sĩ Vũ Hải Yến khoa Môi trường, chuyên ngành Công
10
nghệ sinh học thuộc đại học Kĩ thuật - công nghệ thành phố Hồ Chí Minh đã thử
nghiệm và có báo cáo “Giảng dạy Môi Trường bằng phương pháp Đặt vấn đề Problem
Based Learning” – Hội Thảo Khoa Học Quốc Tế – Đại Học Hoa Sen & Đại Học An
Giang năm 2010, hay GV Diệp Thanh Tùng tại đại học Kinh tế-Luật và Ngoại Ngữ,
đại học Trà Vinh đang áp dụng PBL vào các bài giảng về kinh tế. Trong giáo dục phổ
thông, PBL chưa được đưa vào áp dụng chính thức, tuy nhiên có nhiều GV đã bắt đầu
biết đến những giá trị của phương pháp học tập tích cực này và tiến hành nghiên cứu,
thực nghiệm sư phạm với một số đề tài như:
Nguyễn Thị Thu Thủy ( 2009), Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề và vận
dụng vào thiết kế, giảng dạy chương VII “Mắt và các dụng cụ quang học” – vật lí 11-
nâng cao, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học sư phạm Tp.HCM
Đặng Hoàng Thủy Tiên ( 2011), Vận dụng mô hình học tập trên cơ sở vấn đề
vào tổ chức dạy học các chương “Chất khí” và “Cơ sở của Nhiệt động lực học”, luận
văn thạc sĩ, Trường ĐSVP Tp Hồ Chí Minh.
Phùng Việt Hải (2015), Bồi dưỡng năng lực dạy học theo Góc cho SV ngành Sư
phạm vật lí, luận án tiến sĩ, trường ĐH sư phạm Hà Nội.
Nguyễn Thị Thu Hằng (2010), Tổ chức hoạt động dạy học theo hướng phát huy
năng lực sáng tạo cho SV của các trường đại học, cao đẳng khối nông – lâm – ngư khi
dạy phần Nhiệt học trong chương trình VLĐC, luận văn thạc sĩ, trường ĐH sư phạm
Thái Nguyên.
Nguyễn Thanh Nga (2015), Tổ chức hoạt động dạy học dự án trong dạy học
Vật lí đại cương nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo và phát triển tư duy kĩ thuật
của SV ngành kĩ thuật, luận án tiến sĩ, trường ĐH sư phạm Hà Nội.
Nguyễn Minh Tân (2014), Xây dựng và sử dụng Tài liệu điện tử dạy học nội
dung về “Các phương pháp và kĩ thuật vật lí ứng dụng trong Y học”, hỗ trợ dạy học
môn Lí sinh y học cho SV ngành Y, luận án tiến sĩ, trường ĐH sư phạm - Đại học Thái
Nguyên.
1.2 Các nghiên cứu về phát triển tư duy sáng tạo (TDST)
Vào thế kỷ thứ 3, nhà toán học Pappos (Hy Lạp) đã đặt nền móng khởi đầu cho
khoa học nghiên cứu TDST. Ông đặt tên cho khoa học này là Heuristics (lấy gốc từ
Eureka- tìm ra rồi). Ơristic (Heuristics) theo cách hiểu lúc đó là khoa học về các
phương pháp và quy tắc sáng chế, phát minh trong mọi lĩnh vực như khoa học kĩ thuật,
11
nghệ thuật, văn học, chính trị, triết học, toán học, quân sự,... Sau Pappos, một số nhà
khoa học như Descartes, Leibnitz, Bolzano, Poincaré cố gắng xây dựng và phát triển
tiếp Heuristics. Trên thực tế, Heuristics đã tồn tại 16 thế kỷ nhưng ít người biết đến nó.
Mãi đến thế kỉ XX, với sự phát triển vượt bậc trong các lĩnh vực khoa học thì lĩnh vực
sáng tạo đã được quan tâm nghiên cứu và được xem như là một hiện tượng khá phổ
biến trong xã hội. Đặc biệt nhu cầu nghiên cứu hoạt động sáng tạo trong khuôn khổ
của sự phát triển tâm lí, nhất là phát triển trí tuệ được xuất hiện. Các nhà khoa học Mỹ
tuyên bố rằng, việc tìm ra và bồi dưỡng những nhân cách sáng tạo là vấn đề có ý nghĩa
quốc gia, bởi vì hoạt động sáng tạo có ảnh hưởng to lớn không chỉ đến sự tiến bộ khoa
học, mà còn đến toàn bộ xã hội nói chung, và dân tộc nào biết nhận ra được những
nhân cách sáng tạo một cách tốt nhất, biết phát triển họ và biết tạo ra được một cách
tốt nhất cho họ những điều kiện thuận lợi nhất, thì dân tộc đó sẽ có được những ưu thế
lớn lao.
Có thể nói nghiên cứu về sáng tạo một cách có hệ thống được bắt đầu vào năm
1950. Người có công lớn là nhà tâm lí học Mỹ Guiford. J.P. Ông đưa ra mô hình phân
định cấu tạo trí tuệ gồm 2 khối cơ bản: trí thông minh và sáng tạo. Ông là người đầu
tiên đưa ra các khái niệm: tư duy hội tụ và tư duy phân kì. Trong đó, tư duy hội tụ
(convergent thinking) là kiểu tư duy theo một chiều hướng đã định sẵn, rập khuôn. Tư
duy phân kì (divergent thinking) là kiểu tư duy rộng ra, tìm ra nhiều lời giải, nhiều
phương án vượt ra khỏi khuôn khổ ban đầu. Đây là kiểu tư duy của người sáng tạo.
Ông xem sáng tạo là một thuộc tính của tư duy, là một phẩm chất của quá trình tư duy
và nhấn mạnh ý nghĩa của hoạt động sáng tạo: thậm chí sáng tạo là chỉ báo quan trọng
hơn là trí thông minh về năng khiếu, tiềm năng của một người. Từ đó, số lượng các tác
giả, tác phẩm và các cơ sở nghiên cứu vấn về sáng tạo tăng nhanh. Chỉ riêng việc
nghiên cứu vấn đề sáng tạo thuộc phạm vi tâm lí học, giáo dục học đã có tới 14 nhóm
nghiên cứu và những công trình nghiên cứu về sáng tạo liên tục được xuất bản với nội
8 dung chủ yếu là hoạt động sáng tạo. Tuy vậy phương pháp nghiên cứu của các nhà
tâm lí học Mỹ hầu hết còn mang tính chất kinh nghiệm. Tác giả Pônômariôp trong
cuốn sách Tâm lí học sáng tạo của mình đã có nhận xét: “Những công trình nghiên cứu
của nhà tâm lí học Mỹ thì nhiều, nhưng thông tin thì rất ít, lại mang nhiều tính chất
kinh nghiệm, suy luận từ thực tiễn và nặng về mô tả bên ngoài của hoạt động sáng tạo,
trong khi thực tiễn đòi hỏi phải tìm ra cơ chế của hoạt động sáng tạo và điều khiển nó.
12
Ở giai đoạn này, tiếp tục có những nghiên cứu vấn đề sáng tạo với các tên tuổi lớn
như: Holland (1959), May (1961), Mackinnon D.W (1962), Yahamoto Kaoru (1963),
Torrance E.P (1962, 1963, 1965, 1979, 1995),.. và một số tác giả người Mỹ như:
Barron (1952, 1955, 1981, 1995), Getzels (1962, 1975),... Nội dung của các nghiên
cứu này chủ yếu đề cập tới một số vấn đề cơ bản của hoạt động sáng tạo như: tiêu
chuẩn cơ bản của hoạt động sáng tạo, sự khác biệt giữa sáng tạo và không sáng tạo,
bản chất và quy luật của hoạt động sáng tạo, vấn đề phát triển năng lực sáng tạo và
kích thích hoạt động sáng tạo, những thuộc tính nhân cách của hoạt động sáng tạo, linh
tính, trí tưởng tượng, tính ì tâm lí,trong quá trình TDST.
Mặc dù khoa học về sáng tạo đã có từ rất lâu, tuy vậy đến mãi thế kỉ XX cho đến
nay, khi mà mọi lĩnh vực khoa học khác có những bước phát triển vượt bậc, khi mà
sức sáng tạo của con người được thăng hoa thành những thành tựu khoa học vĩ đại, khi
mà TDST phát huy được vai trò to lớn của nó đối với sự phát triển thế giới, thì khi đó
con người ta mới đặt nhiều câu hỏi về TDST và làm thế nào để phát huy tối đa sức
sáng tạo của con người. Lúc này khoa học sáng tạo mới thực sự được quan tâm nghiên
cứu một cách bài bản trên khắp thế giới.
Ở Việt Nam, những hoạt động liên quan đến khoa học về lĩnh vực sáng tạo mới
thật sự bắt đầu vào thập kỉ 70 của thế kỷ XX, trước đó những hoạt động này chưa có tổ
chức cao. Tuy vậy, những nghiên cứu về sáng tạo cho đến nay vẫn còn khá ít. Có thể
kể ra một số nghiên cứu tiêu biểu như: “Rèn luyện khả năng sáng tạo toán học ở nhà
trường phổ thông” (Hoàng Chúng, 1964), “Làm thế nào để sáng tạo” (Phan Dũng,
1992), “Khơi dậy tiềm năng sáng tạo” (Nguyễn Cảnh 11 Toàn (chủ biên), 2004). Một
số tác giả khác cũng rất quan tâm đến vấn đề sáng tạo như Vũ Dương Thụy (2003),
Trần Hiệp, Đỗ Long (1990), Tôn Thân (1995). Ngoài ra còn một số tác giả có bài
giảng về sáng tạo như: “Tâm lí học sáng tạo” (Nguyễn Huy Tú, 1996), “Tâm lí học
sáng tạo” (Đức Uy, 1999) Trong những nghiên cứu trên, một số nghiên cứu tập
trung trong lĩnh vực tâm lí học: Tác giả Đức Uy trong cuốn “Tâm lí học sáng tạo” của
mình, đã đề cập đến năm vấn đề. Thứ nhất, ông cho rằng tâm lí học sáng tạo chính là
tâm lí học phát triển. Thứ hai, cái chính yếu của sáng tạo là sự mới mẻ của nó,... Cuối
cùng, ông đã phân tích một số phẩm chất cơ bản của nhân cách sáng tạo và năng lực
sáng tạo. Tác giả không đi vào chi tiết cấu trúc, các thành phần, yếu tố của TDST mà
hệ thống hóa các thành tựu về tâm lí học sáng tạo, giúp bạn đọc hiểu thế nào là sáng
13
tạo, vì sao con người vốn có bản tính đổi mới, sáng tạo và làm gì để phát hiện và tăng
cường năng lực sáng tạo của cá nhân và cộng đồng. Trong cuốn “Tâm lí học sáng tạo”,
tác giả Nguyễn Huy Tú cho rằng sáng tạo thể hiện khi con người đứng trước hoàn
cảnh có vấn đề. Quá trình này là tổ hợp các phẩm chất và năng lực mà nhờ đó con
người trên cơ sở kinh nghiệm của mình và bằng tư duy độc lập tạo ra được ý tưởng
mới, độc đáo, hợp lí trên bình diện cá nhân hay xã hội. Ở đó người sáng tạo gạt bỏ
được các giải pháp truyền thống để đưa ra những giải pháp mới độc đáo và thích hợp
cho vấn đề đặt ra. Cuốn sách cũng tập trung vào các vấn đề chung của sáng tạo như:
thế nào là sáng tạo, quá trình sáng tạo, sản phẩm sáng tạo.
- Theo Chu Quang Tiềm cho rằng sáng tạo, căn cứ vào những ý tưởng đã có sẵn
làm tài liệu rồi cắt xén, chọn lọc, tổng hợp lại để thành một hình tượng mới. Quan
niệm này nhấn mạnh đến những cái đã biết làm cơ sở cho sự sáng tạo.
- Guilford J.P. (Mỹ) cho rằng: TDST là tìm kiếm và thể hiện những phương pháp
lôgíc trong tình huống có vấn đề, tìm kiếm những phương pháp khác nhau và mới của
việc giải quyết vấn đề, giải quyết nhiệm vụ. Do đó sáng tạo là một thuộc tính của TD,
là một phẩm chất của quá trình TD. Người ta còn gọi đó là TDST.
- Nguyễn Đức Uy cho rằng sáng tạo là sự đột khởi thành hành động của một sản
phẩm liên hệ mới mẻ, nảy sinh từ sự độc đáo của một cá nhân và những tư liệu, biến
cố, nhân sự, hay những hoàn cảnh của đời người ấy. Quan điểm này cho rằng không
có sự phân biệt về sáng tạo, nghĩa là sáng tạo dù ít, dù nhiều đều là sáng tạo.
- Trong cuốn “Sổ tay Tâm lí học”, tác giả Trần Hiệp và Đỗ Long cho rằng sáng tạo
là hoạt động tạo lập phát hiện những giá trị vật chất và tinh thần. Sáng tạo đòi hỏi cá
nhân phải phát huy năng lực, phải có động cơ, tri thức, kĩ năng và với điều kiện như
vậy mới tạo nên sản phẩm mới, độc đáo, sâu sắc.
- Nguyễn Huy Tú (1996), trong “Đề cương bài giảng Tâm lí học sáng tạo” đã định
nghĩa sáng tạo thể hiện khi con người đứng trước hoàn cảnh có vấn đề. Quá trình này
là tổ hợp các phẩm chất và năng lực mà nhờ đó con người trên cơ sở kinh nghiệm của
mình và bằng tư duy độc lập tạo ra được ý tưởng mới, độc đáo, hợp lí trên bình diện cá
nhân hay xã hội. Ở đó người sáng tạo gạt bỏ được các giải pháp truyền thống để đưa ra
những giải pháp mới độc đáo và thích hợp cho vấn đề đặt ra.
- Theo từ điển triết học nói rằng sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo
ra những giá trị vật chất, tinh thần, mới về chất. Các loại hình sáng tạo được xác định
14
bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học, kĩ thuật, văn học, nghệ thuật, tổ chức, quân
sự,... Có thể nói sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần.
Từ các khái niệm về TDST, chúng tôi nhận thấy mặc dù sáng tạo được giải thích ở
các góc độ khác nhau nhưng các tác giả đều thống nhất cho rằng: TDST là một thuộc
tính, một phẩm chất trí tuệ đặc biệt của con người; hoạt động sáng tạo diễn ra ở mọi
nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực; bản chất của sáng tạo là con người tìm ra cái mới, cái độc
đáo và có giá trị xã hội. Đây là một điểm chung mà các tác giả đều nhấn mạnh nhưng
được nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau, có tác giả quan tâm đến cái mới của sản phẩm
hoạt động, có tác giả lại quan tâm đến cách thức, đến quá trình tạo ra cái mới đó. Song
cái mới cũng có nhiều mức độ, có cái mới đối với toàn xã hội, có cái mới chỉ đối với
bản thân người tạo ra nó. Điểm chung nữa ở các tác giả là đều nhấn mạnh đến ý nghĩa
xã hội của sản phẩm sáng tạo.
15
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VIỆC ...
xuyên lớn, đi được vài mét trong bê tông, xuyên qua cả chì dày cỡ cm.
Nội dung 3: Định luật phóng xạ: Trong quá trình phân rã, số hạt nhân phân rã
giảm theo thời gian theo định luật hàm số mũ.
−t
Biểu thức: N(t) = N0e
−t
m(t) = m0e
Độ phóng xạ đặc trưng cho tính phóng xạ mạnh hay yếu của một lượng chất
phóng xạ.
Độ phóng xạ của một lượng chất phóng xạ tại thời điểm t bằng tích của hằng số
phóng xạ và số lượng hạt nhân phóng xạ chứa trong lượng chất đó ở thời điểm t:
H = N
Độ phóng xạ của một lượng chất phóng xạ giảm theo quy luật hàm số mũ: H
−t
= H0e
30
Nội dung 4. Đồng vị phóng xạ và các ứng dụng:
Đồng vị phóng xạ gồm động vị phóng xạ tự nhiên và đồng vị phóng xạ nhân
tạo.
Ứng dụng: Trong y học, phương pháp nguyên tử đánh dấu giúp phát hiện tình
trạng bệnh lí của cơ thể. Trong khảo cổ, phương pháp xác định tuổi theo lượng các bon
14 giúp xác định niên đại của các cổ vật.
3.2 Thiết kế tiến trình dạy học chương “Phân rã phóng xạ”
3.2.1 Mục tiêu dạy học
a) Kiến thức
- Nêu được hiện tượng phóng xạ là gì.
- Nêu được thành phần và bản chất các tia phóng xạ.
- Phát biểu được định luật phóng xạ và viết được hệ thức của định luật này.
- Nêu được độ phóng xạ là gì và viết được công thức tính độ phóng xạ.
- Nêu được ứng dụng của đồng vị phóng xạ và các tác hại của tia phóng xạ đối với con
người và môi trường xung quanh.
- Vận dụng được định luật phóng xạ để giải được các bài tập.
b) Kĩ năng
- Phát hiện và đề xuất cách giải quyết các tình huống có vấn đề.
- Thiết kế các phương án thí nghiệm kiểm chứng các tính chất của tia phóng xạ như
xuyên thấu lớp vật chất mỏng, phá huỷ tế bào...
- Hoạt động theo nhóm để giải quyết nhiệm vụ được giao.
- Trình bày trước lớp về vấn đề đã thảo luận và các ý kiến phản hồi từ các nhóm khác
c) Phát triển tư duy
- Tư duy phân tích, tổng hợp (lựa chọn, tổng hợp các dữ liệu để giải quyết nhiệm vụ,
vấn đề), đánh giá (tranh luận giữa các nhóm).
- Tư duy kinh nghiệm: đưa ra giả thuyết, cách giải quyết dựa trên kinh nghiệm sẵn có.
- Tư duy logic: liên kết các dữ liệu để giải quyết vấn đề.
- Tư duy biện chứng: chấp nhận, phân tích các phương án giải quyết các vấn đề của
các nhóm khác...
- Tư duy phê phán: bổ sung, phản biện ý kiến của nhóm bạn trên tinh thần xây dựng..
d) Phát triển thái độ tình cảm:
- Yêu thích môn Vật lí.
31
- Hợp tác, tích cực trong hoạt động nhóm.
- Tỏ ra biết thông cảm với những nạn nhân của chất phóng xạ, bức xúc trước sự rò rỉ
phóng xạ và các vụ thử vũ khí hạt nhân trên thế giới.
3.2.2 Xây dựng tình huống có vấn đề
Sau khi trở về từ Nhật, mẹ Nam cảm thấy hay mệt mỏi, ăn không thấy ngon và
hay có cảm giác nghẹn ở cổ. Bà đi khám và bác sĩ nói rằng bà bị K giáp trạng. Bác sĩ
cho rằng nguyên nhân là do bà bị nhiễm phóng xạ vì trước đó bà đã có mặt tại khu vực
Fukushima - Nhật Bản sau trận động đất và sóng thần ngày 11/03/2011. Thấy mẹ suy
sụp, không khí gia đình ảm đạm, Nam gặng hỏi bố và biết được bệnh tình của mẹ cùng
với nguyên nhân của căn bệnh. Thương mẹ, Nam muốn nhanh chóng tìm ra giải pháp
cho căn bệnh. Cậu băn khoăn: “ Phóng xạ là gì nhỉ? Tại sao phóng xạ lại có thể làm
mẹ bị mắc chứng bệnh quái ác đó?”.
Diễn biến giả định quá trình học tập từ tình huống có vấn đề
Phần I. Truy tìm thủ phạm
Sau khi trở về từ Nhật, mẹ Nam cảm thấy hay mệt mỏi, ăn không thấy ngon và
hay có cảm giác nghẹn ở cổ. Bà đi khám và bác sĩ nói rằng bà bị K giáp trạng. Bác sĩ
cho rằng nguyên nhân là do bà bị nhiễm phóng xạ vì trước đó bà đã có mặt tại khu vực
Fukushima - Nhật Bản sau trận động đất và sóng thần ngày 11/03/2011. Thấy mẹ suy
sụp, không khí gia đình ảm đạm, Nam gặng hỏi bố và biết được bệnh tình của mẹ cùng
với nguyên nhân của căn bệnh. Thương mẹ, Nam muốn nhanh chóng tìm ra giải pháp
cho căn bệnh. Cậu băn khoăn: “Phóng xạ là gì nhỉ? Tại sao phóng xạ lại có thể làm mẹ
bị mắc chứng bệnh quái ác đó?”.
Sau nhiều giờ suy nghĩ, Nam quyết định chia sẻ băn khoăn với nhóm bạn của
mình và nhờ các bạn cùng tìm hiểu.
Câu hỏi 1: Hãy giúp Nam tìm hiểu xem phóng xạ là gì mà lại gây bệnh ung thư
cho con người?
Nam và nhóm bạn của mình nghĩ ngay đến việc tìm kiếm thông tin trên mạng
và qua sách báo. Sau giờ học, họ tập chung tại nhà Khải - một bạn trong nhóm và thực
hiện việc làm của mình. Tại nhà Khải, các bạn chia làm hai nhóm: một nhóm tìm
thông tin về phóng xạ qua mạng internet, một nhóm nghiên cứu SGK và các tài liệu
khác.
32
Sau một hồi tìm kiếm, nhóm bạn biết rằng năm 1896, khi nghiên cứu các hợp
chất phát lân quang, một nhà Vật lí học người Pháp tên là Béc-Cơ-ren đã tình cờ phát
hiện thấy rằng: miếng Urani sunfat đã phát ra một loại bức xạ không nhìn thấy nhưng
tác dụng mạnh lên tấm kính ảnh bọc kĩ trong giấy đen dày đặt dưới miếng đó. Ông gọi
hiện tượng này là sự phóng xạ và bức phát ra là tia phóng xạ.
Hình 1. Nhà bác học Henri Becqueren và hình ảnh vết đen trên tấm kính ảnh do tác
động của tia phóng xạ.
Hình 2. Một mẫu Uranium
Năm 1898, Pi-e Quy-ri và Ma-ri Quy –ri, hai vợ chồng nhà Vật lí người Pháp
đã tìm ra hai chất phóng xạ mới là Pôlôni và Radi. Ngày 26-12-1898, Ông bà Quy-ri
cũng đã thông báo trước viện hàn lâm khoa học Pa-ri về việc tồn tại một nguyên tố
mới trong chất phóng xạ mà họ vừa tìm được.
33
Ma-ri Quy-ri Pi-e Quy-ri
(1867- 1934) (1859-1906)
Hình 3. Hai nhà bác học Ma-ri Quy-ri và Pie Quy-ri
Đến đây, Nam thắc mắc: Thế thì có sự biến đổi hạt nhân ở đây. Vậy phải chăng
phóng xạ là một quá trình biến đổi hạt nhân?
- Đúng rồi. Lan reo lên. Các cậu xem này, SGK cũng viết: Hiện tượng một hạt
nhân không bền vững tự phát phân rã, phát ra các tia phóng xạ và biến đổi thành các
hạt nhân khác gọi là hiện tượng phóng xạ. Mà các cậu có biết phóng xạ xuất hiện ở
đâu không?
- Thì mẹ tớ đã từng ở khu vực Fukushima, nơi có rò rỉ phóng xạ từ các nhà máy
điện hạt nhân đấy thôi. Nam nói.
- Các cậu có nhớ vụ rò rỉ ở phóng xạ ở Trecnôbưn – Nga hồi những năm 80
không? Bố tớ kể hồi đó các bạn nhỏ bị nhiễm phóng xạ ở đó đã sang Việt Nam để
dưỡng bệnh đấy- Thuý thêm vào - Hồi đó người ta còn đồn có những con chuột bị
nhiễm phóng xạ trở lên to như con lợn con còn gì. Khiếp thật!
- Đúng thế, phóng xạ còn xuất hiện ở các vụ nổ hạt nhân. Trong thế chiến thế
giới lần thứ hai, hai quả bom hạt nhân của Mỹ không những đã phá tan hai thành phố
Hyrôshima và Nagasaki của Nhật bản mà còn để lại hậu quả cho nhiều thế hệ do
phóng xạ đấy thôi.
- Thế mà bây giờ một số nước vẫn còn có vũ khí hạt nhân và còn mang đi thử
nữa chứ. Tớ chẳng hiểu người ta nghĩ gì nữa. Lan tỏ ra bức xúc.
34
Hình 4. Một vụ nổ bom hạt nhân Hình 5. Hình ảnh sau vụ nổ lò phản ứng ở
một nhà máy điện hạt nhân
Trong khi các bạn nói chuyện, Nam vẫn nghĩ về thủ phạm gây bệnh cho mẹ.
- Vậy nguyên nhân gây bệnh ung thư cho mẹ mình là gì? Hạt nhân mới hay tia
phóng xạ? Nam trầm ngâm.
- Tớ nghĩ rằng thủ phạm gây bệnh ung thư là tia phóng xạ. Khải nói.
- Cậu dựa trên căn cứ nào thế? Cả nhóm đồng thanh.
Khải bình tĩnh: - Thì các tài liệu đều nói tia phóng xạ gây ra bệnh ung thư còn
gì. Tuy nhiên tớ không hiểu tia phóng xạ có tính chất gì mà có thể làm người ta bị ung
thư?
Trong đầu của Nam nghĩ: Bec-cơ-ren thấy tia phóng xạ xuyên qua cả lớp giấy
dày và làm đen tấm kính ảnh. Liệu nó có thể xuyên qua cơ thể con người và làm các tế
bào đó bị diệt không? Cậu bày tỏ ý nghĩ của mình cho các bạn và nhận được sự đồng
tình của mọi người. Song, tất cả mọi người đều cho rằng phải có bằng chứng xác nhận
điều này.
Câu hỏi 2. Tia phóng xạ có thể huỷ diệt tế bào thì có thể diệt dược tế bào ung
thư không?
Trong lịch sử phát hiện và tìm kiếm các nguyên tố phóng xạ, Béc-cơ-ren là nhà
bác học phát hiện ra phóng xạ và cũng hy sinh về phóng xạ. Trong một buổi lên lớp ở
Đại học Khoa học Paris, ông bỏ vào trong túi áo khoác của mình một lọ chứa radi có
đóng gói cẩn thận trong một hộp giấy nhỏ, nhằm minh họa cho bài giảng. Ai ngờ, 10
ngày sau trên ngực, nơi túi áo đựng lọ radi, xuất hiện một vết đỏ nho nhỏ và nó tiếp tục
ran rộng và chỉ dừng lại khi đạt kích thước vừa đúng bằng cái lọ đựng radi. Chuyện
xảy ra vào tháng 4/1901. Không để ý đến vết đỏ, ông tiếp tục nghiên cứu nhưng dần
35
dần ông cảm thấy mệt mỏi, suy nhược, đau đớn ngày càng tăng, da tay bị nứt nẻ tạo
những vết loét rộng. Và đến năm 1908, ở tuổi 56, ông đã từ giã cõi đời sau những
tháng năm mòn mỏi, suy kiệt, đau đớn.
Người tiếp theo là Pierre Curie (Pháp), người góp sức vào việc tìm hiểu bản
chất của phóng xạ. Thấy Becquerel bị radi gây bỏng, ông muốn thử nghiệm trên mình
xem có chính xác không? Ông đã từng buộc vào cánh tay mình trong 10 giờ một chế
phẩm phóng xạ và bỏ một mảnh radi trong vòng nửa giờ vào túi quần và như
Becquerel, ở tay và ở đùi, ít ngày sau đều có một vết bỏng. Không may ông mất sớm
vì một tai nạn ô tô nhưng cũng may là chưa phải chịu đựng những tác hại toàn thân do
chất phóng xạ.
Người thứ ba là Marie Curie (Pháp gốc Ba Lan) người đã bảo vệ thành công
luận án tiến sĩ về bản chất và đặc tính của tia xạ. Do công tác nghiên cứu, bà thường
xuyên phải tiếp xúc với các chất phóng xạ mà lúc đó chưa có các biện pháp phòng
ngừa vì hiểu biết về phóng xạ còn hạn chế. Bà thường bỏ trong túi xách một lọ chứa
radi và đêm ngủ thường để ở đầu giường để ngắm ánh dạ quang phát ra từ chiếc túi.
Vào tuổi 65, sức khỏe của bà suy giảm rõ rệt và bước sang tuổi 66 bà phải nằm liệt
giường để rồi đến gần cuối năm bà qua đời vì bệnh bạch cầu.
Quay trở lại câu chuyện của Nam và nhóm bạn, sau khi biết các tính chất của
tia phóng xạ, Nam nghĩ “ Tia phóng xạ có khả năng đâm xuyên và huỷ diệt tế bào.
Vậy nó có thể diệt được tế bào ung thư không? Nếu được thì đây chẳng phải là cách
điều trị tốt nhất cho mẹ ư?”. Trở về nhà, Nam nói ngay chuyện này với bố và được bố
xác nhận rằng y học đã sử dụng tia phóng xạ trong điều trị ung thư và một số bệnh
khác. Các bác sĩ cũng đã trao đổi với bố Nam về vấn đề này. Nam vui mừng vì bệnh
của mẹ có thể chữa khỏi.
Phần II. Giải pháp mang tên
Để điều trị bệnh của mẹ Nam, các bác sĩ sẽ dùng phương pháp xạ trị tức là
chiếu tia phóng xạ vào tế bào ung thư để tiêu diệt tế bào này. Tia phóng xạ được dùng
nhiều nhất có tên là tia . Nam kể lại việc này cho các bạn của mình.
Khi nghe đến tia phóng xạ có tên là , các bạn đều thấy lạ. Khải suy đoán: Có
tia tức là còn có các tia khác, vậy có mấy loại tia phóng xạ? Chúng có bản chất là gì
và khác nhau như thế nào?
36
Câu hỏi 1. Hãy giúp Khải và các bạn tìm hiểu xem có mấy loại phóng xạ?
Khải, Nam, Thúy và Lan phân công nhau tìm câu trả lời bằng cách tìm thông tin qua
mạng và qua tài liệu SGK. Sau một hồi tìm kiếm, Nam tìm được mẩu chuyện sau về
việc tìm ra ba loại tia phóng xạ:
“Becquerel chỉ ra rằng phóng xạ có thể đâm xuyên qua vải vóc và giấy, nên
việc hiển nhiên trước tiên phải thực hiện là nghiên cứu chi tiết hơn chiều dày của chất
mà phóng xạ có thể xuyên qua. Họ sớm nhận ra rằng một phần nhất định của cường độ
phóng xạ sẽ bị loại trừ ngay cả bởi một vài inch không khí, nhưng phần còn lại không
bị loại mất khi truyền đi quãng không khí dài hơn. Như vậy, rõ ràng phóng xạ là hỗn
hợp của hơn một loại, trong đó một loại bị chặn lại bởi không khí. Sau đó, họ nhận
thấy trong số phần có thể đi xuyên qua không khí, một lượng nữa có thể bị loại mất
bằng một mảnh giấy hay một lá kim loại rất mỏng. Tuy nhiên, cái còn lại sau đó, là
loại thứ ba, loại đâm xuyên cực mạnh, một số trong đó sẽ vẫn còn sau khi xuyên qua
một bức tường gạch. Họ kết luận điều này cho thấy có ba loại phóng xạ, và không hề
có chút ý tưởng mờ nhạt nào xem thật ra chúng là thứ gì, họ đã đặt tên cho chúng. Loại
đâm xuyên ít nhất được gọi tùy tiện là (alpha), kí tự thứ nhất của bảng chữ cái Hi
Lạp, và cứ thế đến (beta), cuối cùng là (gamma) cho loại đâm xuyên mạnh nhất”
Sau nghe Nam khẳng định có tồn tại ba loại tia phóng xạ, các bạn đều tò mò về
bản chất và sự khác biệt của ba loại tia phóng xạ này.
Hình 6. Khả năng xuyên thấu của các tia phóng xạ qua vật chất và sự lệch của các tia
phóng xạ trong từ trường
37
Sau một hồi tìm kiếm, các bạn phát hiện ra có 3 loại tia phóng xạ là tia , tia
và tia . Các bạn cũng biết bản chất và tính chất của các tia này. Tuy nhiên, Nam thắc
mắc: - Không biết làm thế nào để tách tia ra khỏi đám phóng xạ đó được nhỉ?
Câu hỏi 2. Hãy giúp Nam tìm hiểu bản chất của các tia phóng xạ đó là gì?
Khải phân tích: Tia là hạt nhân của nguyên tử He, vậy nó mang điện tích
dương. Tia thì lại có hai loại: − là các electron nên mang điện âm, + là các
poziton nên mang điện dương. Tia lại là sóng điện từ không mang điện. Vậy nếu ta
cho chúng đi qua điện trường thì sao nhỉ?
Lan reo lên: Cậu nghĩ đúng rồi đấy! Chắc chắn điện trường sẽ tách được các tia
phóng xạ vì tia là sóng điện từ không bị lệch trong từ trường mà.
Thuý tỏ ra chưa hiểu: - Thế hai tia còn lại thì sao?
- Này nhé, khi cho các tia phóng xạ đi qua một điện trường (giữa hai bản tụ
điện chẳng hạn), tia và tia + mang điện dương nên bị lệch về phía cực âm của bản
tụ điện, tia − mang điện âm nên sẽ lệch về phía cực dương, còn tia không mang
điện nên se truyền thẳng. Cậu không nhớ bản chất của sóng điện từ à? Khải giải thích.
Nghe đến đây, các bạn đều gật gù tán thưởng: Thì ra tia có thể được tách ra
nhờ cách này.
Nam vẫn băn khoăn: - Thế tại sao người ta lại dùng tia để chữa bệnh cho mẹ
tớ mà không phải các tia khác?
Câu hỏi 3. Hãy giúp Nam hiểu các tia phóng xạ khác nhau như thế nào?
Lúc này, các bạn đều ngớ ra trước câu hỏi của Nam: Ừ nhỉ! Tại sao lại là tia ?
- Theo tớ, chắc chắn tia phải có một tính chất gì nổi trội hoặc khác hẳn so
với tia và tia thì các bác sĩ mới lựa chọn nó để chữa bệnh chứ. Khải nói.
Khải lần lại thông tin mà cậu đã lấy được từ trên mạng về việc Becơren phát
hiện ra ba loại phóng xạ ,, . Cậu thấy rằng trong ba tia này, tia có thể xuyên qua
cả gạch. Khải nghĩ: Phải chăng đây là lí do ?
Khi cậu nêu ra ý kiến này, cả nhóm có vẻ đồng ý nhưng chưa thực sự thấy
thuyết phục. Chần chừ một lúc, Nam nói:
38
- Đồng ý là tia có khả năng đâm xuyên lớn nhất, nó có thể xuyên qua gạch
tức là xuyên qua được lớp mô mềm để đi vào cơ thể người nhưng tia cũng có thể
làm được điều này chứ vì tia có thể xuyên qua được cả lá nhôm mỏng cơ mà?
- Nhưng cậu không thấy rằng tia có khả năng xuyên thấu lớn hơn tia nhiều
hay sao? Điều này cho thấy tia còn có năng lượng rất lớn nên sẽ diệt được các tế bào
ung thư. Khải suy luận.
Hình 7. Khả năng xuyên thấu của tia phóng xạ qua vật chất
Tạm bằng lòng với lí giải của Khải nhưng trên đường về, Nam lại thấy bất an
và lo lắng. Cậu sợ rằng tia phóng xạ khi chiếu vào cơ thể mẹ sẽ làm mẹ đau đớn bởi
nếu nó diệt được tế bào ung thư như vậy thì nó sẽ ảnh hưởng đến các tế bào lành lặn
khác. Cậu không về nhà ngay mà đến thẳng nhà bác Tân - bạn của bố Nam - một bác
sĩ khoa đầu cổ của bệnh viện K. Sau khi trần tình lo lắng, Nam được bác Tân giải
thích: “Không phải các bác sĩ chỉ dùng tia đễ chữa bệnh ung thư mà còn dùng cả tia
nữa. Tuy nhiên, các cháu đã nghĩ đúng về việc lựa chọn tia nhiều là do tia này có
khả năng đâm xuyên lớn và có tác dụng mạnh trong việc tiêu diệt tế bào ung thư. Còn
về việc các tia phóng xạ có là ảnh hưởng đến các tế bào lành lặn không thì chắc chắn
là có. Sau điều trị phóng xạ, các bệnh nhân đều bị giảm hồng cầu, buồn nôn và rụng
tóc. Tuy nhiên, các tế bào này sẽ phục hồi sau một thời gian. Còn về bệnh của mẹ
cháu, cháu đừng lo lắng quá. Mẹ cháu còn phải đi kiểm tra lại vài lần để chắc chắn về
tình trạng bệnh đã”.
39
Hình 8. Bệnh nhân ung thư sau điều trị bằng tia phóng xạ
Phần III. Hành trình
Vẫn còn băn khoăn về việc chẩn đoán bệnh của mẹ Nam, bố Nam quyết định
đưa mẹ Nam đi kiểm tra lại. Trước khi đi, bố Nam hỏi bác Tân và được biết các bác sĩ
sẽ cho mẹ uống một viên Iốt phóng xạ. Sau 2 ngày, các bác sĩ sẽ đo hoạt độ phóng xạ
tại vùng cổ của mẹ Nam để xác định chính xác tình trạng bệnh.
Nghe bố nói lại, Nam hy vọng việc chẩn đoán sẽ mang lại kết quả tốt về bệnh
của mẹ. Biết đâu, lần trước mẹ Nam bị chẩn đoán nhầm. Hoặc giả sử mẹ Nam có bị
ung thư thì chỉ là chớm bị thôi. Lan man trong các ý nghĩ ấy, Nam phấp phỏng lo âu.
Nam sợ nếu mẹ không sao thì uống thuốc phóng xạ vào chẳng hoá ra mẹ lại bị nhiễm
phóng xạ ư? Vậy chẳng hoá từ lành lặn lại bị bệnh ư?
Thấy Nam đăm chiêu, Bố trấn an:- Bố biết con nghĩ gì rồi nhưng con yên tâm.
Bố cũng từng nghĩ như con nên đã hỏi bác Tân. Bác ấy nói hoạt độ phóng xạ ấy là an
toàn cho người bệnh. Và sau một thời gian lượng phóng xạ đó sẽ “biến mất” khỏi cơ
thể người bệnh.
Nghe thế, Nam yên tâm về phương pháp chẩn đoán mà các bác sĩ dùng cho mẹ.
Song trong đầu Nam lại nảy ra thắc mắc: Không biết hoạt độ phóng xạ là gì nhỉ và sau
bao lâu thì lượng chất phóng xạ được đưa vào người mẹ sẽ “biến mất”.
Không muốn làm bố bận tâm thêm, Nam đến nhà Khải và chia sẻ với bạn về
vấn đề này. Khải lập tức triệu tập một cuộc hóp nhóm để cùng trao đổi về vấn đề mà
Nam vừa chia sẻ. Sau khi nghe Khải nói lí do, Lan nói:
40
- Tớ nghĩ chắc hiện tượng phóng xạ phải có một quy luật gì đó chứ. Nếu không
các bác sĩ lấy căn cứ gì để đo đạc hay chẩn đoán bệnh?
Câu hỏi 1. Hoạt độ phóng xạ là gì? Hoạt độ phóng xạ có phụ thuộc vào thời
gian không?
Khải tán thưởng: - Tớ cũng nghĩ vậy. Chắc chắn lượng phóng xạ đưa vào cơ thể
người bệnh phải giảm dần vì chúng bị phân rã. Nhưng sự giảm dần này tuân theo quy
luật nào?
- Làm thế nào để tìm được quy luật này nhỉ? Chúng ta có gì trong tay đâu. Thuý
tỏ ra chán nản.
Lan nhanh nhảu: -Tớ đọc sách phần này rồi. Tớ thấy SGK chỉ ra rằng, cứ sau
một khoảng thời gian xác định T thì một nửa số hạt nhân hiện có bị phân rã, biến đổi
thành hạt nhân khác. T được gọi là chu kì bán rã tức là thời gian để một nửa số hạt
nhân bị phân rã. Đố các cậu biểu diễn quy luật này bằng biểu thức toán học đấy?
Nghe Lan thách đố, Khải và Nam lấy giấy bút ra để tìm cách biểu diễn quy luật
phóng xạ bằng biểu thức toán học. Khải nghĩ: Giả sử lúc đầu, số hạt nhân là N0, thì sau
N
một chu kì T số hạt nhân còn lại là 0 . Vậy sau 2T, 3T. 4T,..kT số hạt nhân còn lại
2
N N N N
là: 0 , 0 , 0 ,... 0
4 8 16 2 k
Nếu gọi N(t) là số hạt nhân còn lại sau k chu kì bán rã thì ta có:
N 0 −k
N(t) = = N0. 2
2 k
Nếu xét trong thời gian t thì số chu kì bán rã là: k= t/T. Khi đó:
−t /T
N(t) = N0. 2
- Ra rồi! Như vậy số hạt nhân phóng xạ sẽ giảm theo quy luật của hàm số mũ.
Nam reo lên. Cậu quay sang hỏi Lan: Cậu thấy thế nào? Tâm phục khẩu phục chưa?
Lan gật gù: Các cậu khá đấy. Tuy nhiên, trong SGK còn biểu diễn biểu thức
này như sau:
- t
N(t) = N0.e
Cậu giải thích đi nào?
41
Khải cười: Dễ ợt! Cậu xem đây nhé! Cậu còn nhớ không?
2x = e xln2
t ln 2
- t ln 2 - t
Vậy N(t) = N0.e Đặt = . Vậy ta có: N(t) = N0.e
T T
- Đúng rồi đấy. Tớ thấy trong SGK, được gọi là hằng số phóng xạ. Mỗi loại
chất phóng xạ có một hằng số khác nhau đấy.
Nam vẫn băn khoăn: - Thế nếu tính theo khối lượng thì sao nhỉ?
Lần này, Khải nói: - Cậu thử nghĩ xem. Giữa khối lượng và số hạt nhân có liên
quan đến nhau như thế nào? Cái này mình học rồi mà.
m
Nam “À” lên một tiếng rồi nói: N = N với NA là số Avôgađrô. Tức là số
A A
hạt nhân và khối lượng chất tỉ lệ thuận với nhau. Thế thì ta có thể viết:
- t
m(t) = m0.e
Cả nhóm đều gật gù trước kết quả mà Nam tìm ra. Thuý nói: Vậy là Nam yên
tâm rồi nhé. Lượng chất phóng xạ mà các bác sĩ sẽ đưa vào cơ thể mẹ cậu sẽ giảm theo
quy luật hàm số mũ, thế thì chẳng mấy mà nó tự biến mất ra khỏi cơ thể của mẹ đâu.
Cậu đừng lo.
Muốn Nam yên tâm hơn, Thuý đề nghị mọi người cùng vẽ đồ thị biểu diễn sự
phụ thuộc của số hạt nhân phóng xạ theo thời gian để nhìn thấy rõ hơn sự giảm của số
hạt nhân ban đầu.
Sau một hồi phân tích và vẽ, các bạn có đồ thị sau:
N
N0
0
N0/2
N0/4
N0/8
N0/16 42
0 T 2T 3T 4T t
Hình 9. Đồ thị sự phụ thuộc của số hạt nhân chất phóng xạ theo thời gian
Đến lúc này thì Nam mỉm cười, cậu đã thực sự yên tâm về phương pháp mà các
bác sĩ sẽ dùng để kiểm tra bệnh tình của mẹ mình.
Cả nhóm vui vẻ rủ nhau đi ăn chè. Trong khi ăn chè, Khải bỗng nhớ đến một
khái niệm mà Nam đã nói đến lúc ở nhà Khải. Đó là độ phóng xạ. Cậu nói điều này
với mọi người và đề nghị cùng tìm hiểu xem độ phóng xạ là gì. Lúc này đã muộn, sợ
bố mẹ lo nên Lan đề nghị các bạn về nhà tìm hiểu sau đó sẽ trao đổi lại và giờ ra chơi
của buổi học sáng ngày mai.
Câu hỏi 2. Độ phóng xạ là gì và độ phóng xạ có ý nghĩa như thế nào?
Giờ ra chơi ngày hôm sau, cả nhóm tụ tập tại bàn của Khải. Mọi người trình
bày về vấn đề Khải đã đưa ra. Lan mở đầu:
- Các cậu có thấy hằng số phóng xạ của các chất phóng xạ khác nhau là khác
nhau không?
- Có chứ. Tức là trong cùng một khoảng thời gian, số hạt nhân phóng xạ của
các chất khác nhau là khác nhau chứ gì? Khải hỏi lại.
- Đúng đấy. Nói cách khác thì tốc độ phóng xạ của các chất phóng xạ khác nhau
là khác nhau và độ phóng xạ chính là đại lượng cho biết tốc độ phóng xạ của một chất
phóng xạ là nhanh hay chậm đấy.
- Cậu nhầm rồi. Thế cậu không thấy rằng nếu số hạt nhân ban đầu càng lớn thì
số hạt nhân bị phân rã càng lớn hay sao? Hôm trước, chúng ta đã tìm được quy luật
phóng xạ còn gì? Nam phản bác.
Im lặng từ nãy, giờ Lan mới thủng thẳng lên tiếng:
- Cả hai cậu đều có ý đúng rồi đấy, rõ ràng tốc độ phân rã phụ thuộc hạt nhân
đó là hạt nhân gì nhưng cũng phụ thuộc vào số hạt nhân ban đầu. Cho nên, theo tớ biết
thì độ phóng xạ cho biết tốc độ phóng xạ nhanh hay chậm của một lượng chất phóng
xạ.
Khải tiếp lời: - Đúng rồi đấy. Cho nên nó còn cho biết tính phóng xạ mạnh hay
yếu của một lượng chất của một lượng chất nữa cơ.
Thuý thắc mắc : - Thế cậu có biết độ phóng xạ tính bằng công thức nào không?
43
Đã chuẩn bị trước nên Khải tự tin:
- Có chứ. H = .N.
- Cậu chứng minh đi! Cả nhóm đồng thanh.
Khải mang giấy bút ra, cậu nói: - Độ phóng xạ cho biết tốc độ phóng xạ của
một lượng chất phóng xạ. Vậy nó sẽ được xác định bằng số phân rã trong 1 giây. Thức
là ta có thể viết:
N
H = - với N là số hạt nhân phân rã trong thời gian t.
t
dN (t)
Nếu xét t rất nhỏ: H = − = .N e −t = N
dt 0
- t
Còn có thể viết: H = H0.e với H0 = .N0
Đến đây, cả nhóm bị Khải thuyết phục hoàn toàn. Nam dự định khi trở về nhà
sẽ nói lại với bố mẹ những điều này để bố mẹ yên tâm về phương pháp chẩn đoán
bệnh của các bác sĩ. Cậu hy vọng lần kiểm tra này sẽ mang lại một kết quả khả quan,
mẹ cậu chỉ bị mệt mỏi sơ sơ thôi rồi khoẻ mạnh trở lại. Cả nhà cậu lại vui vẻ quây
quần bên những bữa cơm ngon mẹ nấu.
Phần 4. Kết quả
Ba ngày sau, bố Nam đưa mẹ đến bệnh viện để kiểm tra lại tình trạng bệnh của
mẹ. Muốn động viên mẹ, Nam xin phép bố mẹ cho đi cùng đến bệnh viện. Tại đây, cậu
gặp rất nhiều bệnh nhân ung thư, nhiều người trong số họ nghi do nhiễm phóng xạ.
Thương nhất là các em nhỏ với những đôi mắt trong veo và cơ thể gầy guộc. Ngớt cơn
đau, các em vẫn vô tư cười đùa mà không biết trong mình mang bệnh nan y.
Trở về nhà, sau khi đưa mẹ vào phòng nghỉ, Nam lập tức gọi điện cho Khải.
Nam thắc mắc không biết các đồng vị phóng xạ nhân tạo có tính chất giống với các
đồng vị bền của nó không và nó có những ứng dụng gì. Thấy hứng thú với thắc mắc
của Nam, Khải lập tức hẹn các bạn đến để bàn bạc.
Trong khi chờ các bạn đến, Khải đã tìm ra câu trả lời về tính chất của đồng vị
phóng xạ nhân tạo. Cậu suy luận: “Đồng vị là những nguyên tử có cùng số prôtôn,
khác số nơtrôn, ở cùng vị trí trong bảng tuần hoàn. Thế thì chắc chắn chúng có tính
chất giống nhau rồi. Chỉ khác là đồng vị phóng xạ nhân tạo là do con người tạo ra thôi.
Ở nước ta chả có lò phản ứng hạt nhân ở Đà lạt để cung cấp nguyên liệu phóng xạ
trong y học đấy là gì?”
44
- Vấn đề là ngoài ứng dụng trong y học, các đồng vị phóng xạ nhân tạo còn
được dùng vào việc gì? Khải nghĩ. Nôn nóng quá, Khải không chờ các bạn đến mà tự
mình lên mạng để tìm kiếm thông tin. Sau một hồi tìm kiếm, cậu khá bất ngờ về tác
dụng to lớn của tia phóng xạ. Cậu tập hợp các thông tin lại và dự định sẽ trình bày về
nó khi các bạn tới nhà.
Câu hỏi 1. Hãy thay Khải trình bày các ứng dụng của đồng vị phóng xạ nhân
tạo trong cuộc sống?
- Dùng chẩn đoán bệnh trong y học.
Hình 10. Sử dụng các thiết bị ghi hình bức xạ để chẩn đoán bệnh trong y học
Hình 11. Hình ảnh được ghi bằng máy xạ hình
- Dùng điều trị bệnh ung thư:
45
Hình 12. Điều trị ung thư bằng tia phóng Hình 132. Chẩn đoán bệnh bằng thiết
xạ bị ghi hình bức xạ
- Dùng xác định tuổi của các cổ vật gốc sinh vật.
Trở lại câu chuyện của mẹ Nam, sau khi kiểm tra lại, các bác sĩ xác định mẹ
Nam có khối u ác tính ở thuỳ trái tuyến giáp và đang ở giai đoạn đầu. Các bác sĩ đã
dùng phương pháp xạ trị để chữa bệnh cho mẹ Nam. Phương pháp này mang lại hiệu
quả rất tốt. Mẹ Nam khoẻ mạnh trở lại và cuộc sống của gia đình Nam trở lại bình
thường. Nam và các bạn có một vốn kiến thức về hiện tượng phân rã phóng xạ và có
thể tự tin tuyên truyền với bạn bè, người thân về tác hại và cách bảo vệ mình khỏi các
tia phóng xạ.
46
3.2.3 Tiến trình xây dựng kiến thức “Hiện tượng phóng xạ”
1. Làm nảy sinh vấn đề cần giải quyết từ tình huống: Bệnh nhân ung thư do nhiễm
phóng xạ.
2.Phát biểu vấn đề cần giải quyết: Phóng xạ là gì mà lại gây bệnh ung thư cho con
người?
3. Giải quyết vấn đề
Đề xuất giải pháp: Nghiên cứu tài liệu qua SGK và tìm thông tin qua mạng internet để
tìm hiểu về phóng xạ.
Sử dụng mạng internet để tìm thông tin về lịch sử phát hiện tia phóng xạ, các vụ rò rỉ
phóng xạ trong lịch sử thế giới.
Dự đoán: Tia phóng xạ có khả năng đâm xuyên, phá hủy tế bào, làm đen kính ảnh
Sử dụng mạng internet tìm dữ liệu trong lịch sử chứng tỏ tia phóng xạ có tính chất trên
và trình bày phần nội dung tìm được.
Từ các dữ liệu bổ sung các tính chất còn chưa dự đoán.
Xử lí thông tin, tổng hợp và báo cáo kết quả.
Khi một hạt nhân không bền tự phát ra phân rã, nó phát ra các tia phóng xạ và biến đổi
thành các hạt nhân phóng xạ và biến đổi thành các hạt nhân khác. Chính các tia phóng
xạ này gây căn bệnh ung thư cho con người.
Tia phóng xạ được phát ra khi một hạt nhân không bền phân rã, không nhìn thấy được
và có các tính chất như: kích thích một số phản ứng hóa học, ion hóa buồng không khí,
làm đen kính ảnh, xuyên thấu lớp vật chất mỏng, phá hủy tế bào
4. Rút ra kết luận
Hiện tượng một hạt nhân không bền vững tự phát phân rã, phát ra các tia phóng xạ và
biến đổi thành các hạt nhân khác gọi là hiện tượng phóng xạ.
Tia phóng xạ có thể tiêu diệt được tế bào ung thư và được sử dụng để chữa bệnh ung
thư.
47
3.2.4 Tiến trình xây dựng kiến thức “Các loại tia phóng xạ và bản chất của
các tia phóng xạ”
1. Làm nảy sinh vấn đề cần giải quyết từ tình huống: Để điều trị bệnh ung thư, các
bác sĩ dùng phương pháp xạ trị, tức là chiếu tia phóng xạ thích hợp vào tế bào ung thư
để tiêu diệt tế bào này.
2.Phát biểu vấn đề cần giải quyết: Có mấy loại tia phóng xạ? Bản chất của các tia
phóng xạ đó là gì và chúng khác nhau như thế nào?
3. Giải quyết vấn đề
Đề xuất giải pháp: Nghiên cứu tài liệu trong SGK, tìm thông tin để đưa ra ba loại
phóng xạ và bản chất của chúng.
Phân tích thông tin tìm được để tìm thấy sự khác nhau về khả năng đâm xuyên của các
tia phóng xạ.
Đưa ra phương án về cách tách tia gamma ra khỏi các tia phóng xạ khác và lập luận để
bảo vệ phương án đã chọn.
Trình bày, thảo luận các kết quả tìm được
4. Rút ra kết luận
4
Phóng xạ alpha : là hạt nhân của nguyên tử He ( 2 He), có vận tốc khoảng
2.107m/s, có tác dụng ion hóa không khí, đi được tối đa khoảng 8cm trong không khí.
- - 0 + 0
Phóng xạ beta : tia là các electron ( −1 e ). Tia là các pôziton ( +1 e ). Tia beta
cũng làm ion hóa môi trường nhưng yếu hơn tia alpha, có vận tốc xấp xỉ vận tốc ánh
sáng, đi được vài mét trong không khí, có thể xuyên qua lá nhôm dày cỡ mm.
Phóng xạ gamma γ: tia γ là sóng điện từ có bước sóng rất ngắn, có khả năng đâm
xuyên lớn, đi được vài mét trong bê tông, xuyên qua cả chì dày cỡ cm.
48
3.2.5 Tiến trình xây dựng kiến thức “Định luật phóng xạ. Độ phóng xạ”
1. Làm nảy sinh vấn đề cần giải quyết từ tình huống:
Để biết chính xác tình trạng của bệnh nhân ung thư, các bác sĩ cho bệnh nhân uống
một viên iốt phóng xạ. Họ giải thích là để đo hoạt độ phóng xạ ở vùng ung thư của
bệnh nhân, từ đó biết chính xác tình trạng của bệnh nhân.
2.Phát biểu vấn đề cần giải quyết: Hoạt độ phóng xạ là gì? Hoạt độ phóng xạ có phụ
thuộc vào thời gian không?
3. Giải quyết vấn đề
Đề xuất giả thuyết: Số hạt nhân phóng xạ sẽ bị giảm dần theo thời gian và có quy luật
nhất định.
Nghiên cứu tài liệu để tìm hiểu khái niệm chu kỳ bán rã.
Tìm cách chứng minh định luật phóng xạ dựa trên khái niệm chu kỳ bán rã.
Nghiên cứu tài liệu để tìm hiểu khái niệm độ phóng xạ và công thức độ phóng xạ.
Trình bày, thảo luận, đánh giá
4. Rút ra kết luận
Định luật phóng xạ: Trong quá trình phân rã, số hạt nhân phân rã giảm theo thời
gian theo định luật hàm số mũ.
−t −t
Biểu thức: N(t) = N0e ; m(t) = m0e
Độ phóng xạ đặc trưng cho tính phóng xạ mạnh hay yếu của một lượng chất
phóng xạ.
Độ phóng xạ của một lượng chất phóng xạ tại thời điểm t bằng tích của hằng số
phóng xạ và số lượng hạt nhân phóng xạ chứa trong lượng chất đó ở thời điểm t:
H = N
Độ phóng xạ của một lượng chất phóng xạ giảm theo quy luật hàm số mũ: H
−t
= H0e
49
3.2.6 Tiến trình xây dựng kiến thức “Đồng vị phóng xạ và các ứng dụng”
1. Làm nảy sinh vấn đề cần giải quyết từ tình huống: Bệnh nhân được đưa đồng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_tong_ket_de_tai_xay_dung_tien_trinh_day_hoc_theo_mo.pdf