Báo cáo Tổng kết Chương trình
Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn Đảo
năm 2014
Lê Thị Thanh Thủy
TỔ CHỨC BẢO TỒN THIÊN NHIÊN QUỐC TẾ
Rùa con trở về biển.Việt Nam©Vũ Hoài Nam,2014
2
MỤC LỤC
TÓM TẮT ........................................................................................................................ 3
NHỮNG CON SỐ THỐNG KÊ ........................................................................................ 5
KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CỦA TÌNH NGUYỆN VIÊN SAU CHƯƠNG
28 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 295 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Tổng kết Chương trình Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn Đảo năm 2014, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRÌNH ..................... 6
1. Những kiến thức và kỹ năng học được từ chương trình ....................................... 6
2. Đánh giá về khâu tổ chức trước chương trình ...................................................... 8
3. Đánh giá về khóa tập huấn nâng cao nhận thức và cứu hộ rùa biển .................... 9
4. Đánh giá về các hoạt động bảo vệ rùa biển taị các trạm bảo vệ rùa biển ........... 10
5. Đánh giá về sắp xếp hậu cần trong suốt chương trình........................................ 12
6. Đánh giá về mức độ tương tác giữa các thành viên trong nhóm Tình nguyện viên
............................................................................................................................ 12
7. Đánh giá về cán bộ điều phối tại thực địa ........................................................... 14
8. Đánh giá về thông tin, tài liệu gửi trước chương trình ......................................... 14
9. Tài chính .............................................................................................................. 15
11. Kết luận về tổng thể chương trình ...................................................................... 17
12. Ảnh hưởng của chương trình ............................................................................. 17
NHẬT KÝ CHƯƠNG TRÌNH ......................................................................................... 19
NHỮNG KỶ NIỆM KHÓ QUÊN ..................................................................................... 21
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 26
3
TÓM TẮT
Trong khuôn khổ Dự án “Bảo tồn bải đẻ của rùa biển có sự tham gia của cộng đồng tại Việt Nam”
do Cơ quan Dịch vụ về Cá và Động vật Hoang dã Hoa Kỳ (US FWS) tài trợ, Tổ chức Bảo tồn
Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đã phối hợp với Ban quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo tổ chức chương
trình tình nguyện viên (TNV) tham gia công tác cứu hộ Rùa biển tại Côn Đảo năm 2014. Chương
trình gồm 4 đợt với 23 TNV tham gia cụ thể như sau:
Đợt 1: Từ ngày 08 - 12/7/2014, có 06 TNV tham gia. Địa điểm thực hiện: Trạm kiểm lâm
Bảy Cạnh (03 ngày).
Đợt 2: Từ ngày 26 - 30/7/2014, có 06 TNV tham gia. Địa điểm thực hiện: Trạm kiểm lâm
Bảy Cạnh (03 ngày).
Đợt 3: Từ ngày 26 – 30/8/2014, có 05 TNV tham gia. Địa điểm thực hiện: Trạm kiểm lâm
Hòn Tài 03 TNV và Trạm kiểm lâm Hòn Tre Lớn 02 TNV (03 ngày)
Đợt 4: từ ngày 26/8 - 04/9/2014, có 06 TNV tham gia, địa điểm thực hiện Trạm kiểm lâm
Bảy Cạnh (08 ngày).
Kết thúc chương trình, các TNV cho rằng đây là một chương trình có ý nghĩa, đã cung cấp cho
TNV nhiều thông tin về công tác cứu hộ bảo vệ rùa biển tại Côn Đảo, góp phần nâng cao nhận
thức và giáo dục ý thức cộng đồng. 87.5% TNV cho rằng chương trình đã đáp ứng được 90-
100% mong đợi của họ. 12.5% cho rằng đã đáp ứng được 70-80%. Các cán bộ tổ chức và điều
phối tại hiện trường đã hỗ trợ chương trình nhiệt tình, kịp thời và chuẩn bị chu đáo. Về tài chính,
minh bạch, rõ ràng. Hầu hết các TNV đều nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm và tâm huyết với
công việc.
Tuy nhiên, do lần đầu tiên tổ chức, chương trình không tránh khỏi những thiếu sót và cần xem
xét, khắc phục những vấn đề sau:
Khi kêu gọi TNV, cần nêu rõ tiêu chí lựa chọn TNV cũng như số lượng TNV sẽ được nhận
mỗi đợt. Nếu các tiêu chí tuyển chọn được thông báo rõ ràng, các ứng viên có thể tự đánh
giá sự đáp ứng của bản thân đối với yêu cầu của chương trình. BTC cũng có thể giảm áp
lực và thời gian chọn lọc các hồ sơ. Hơn nữa, mỗi ứng viên có thời gian tiếp cận với thông
tin về chương trình khác nhau, nên nếu xét hồ sơ theo tiêu chí ưu tiên người đến trước
thì sẽ rất đáng tiếc vì có thể bỏ lỡ những ứng viên phù hợp với chương trình.
Mẫu đăng ký còn đơn giản, không khai thác được hết thông tin và khả năng của TNV.
Mẫu đơn nên bổ sung thêm thông tin về thể trạng (chiều cao, cân nặng, tình trạng sức
khoẻ) để đảm bảo chương trình lựa chọn được những tình nguyện viên đủ sức khỏe đảm
đương công việc. Để đánh giá được sự nhiệt tình và mong muốn tham gia chương trình
nghiêm tục, mẫu đăng ký cần bổ sung thêm một số câu hỏi như “Hãy kể cho chúng tôi về
một hoạt động cộng đồng gần đây của bạn?”, “Bạn sẽ làm gì trong vai trò của một tình
nguyện viên”, “kế hoạch truyền thông của bạn sau khi tham gia chương trình như thế
nào?”
Thời hạn kết thúc đăng ký sớm hơn so với thông báo ban đầu, làm cho nhiều người muốn
đăng ký nhưng không được chấp nhận. Các hạn phản hồi và thời gian gửi hơi ngắn. Nên
4
đặt một kế hoạch làm việc sớm để cả bên tổ chức lẫn TNV có cơ hội sắp xếp công việc
tốt và có thời gian chuẩn bị cho chuyến đi, về cả sức khỏe lẫn tinh thần.
Thời gian: nên kéo dài thời gian tình nguyện tại các trạm bảo tồn rùa biển hoặc tận dụng
triệt để thời gian thực hiện chương trình. Hiện tại, chương trình 5 ngày gồm 2 ngày là
ngày đi lại, chỉ có 3 ngày là thực chất làm việc. Hay chương trình 10 ngày nhưng chỉ có 8
ngày sống và trải nghiệm tại các trạm bảo tồn rùa ở Côn Đảo.
Các tài liệu, thông tin về rùa biển và thông tin về địa điểm tình nguyện (như Hòn Bảy
Cạnh, Hòn Tre Lớn) cần được gửi trước và gửi sớm cho TNV để nghiên cứu tìm hiểu
trước, từ đó chuẩn bị hành lý và vật dụng mang theo phù hợp.
Khâu tổ chức cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa IUCN và VQG Côn Đảo để thông
tin được thông suốt, tránh hiểu lầm cho TNV.
Nên có những chuyên gia về rùa biển cùng tham gia phối hợp để có thể truyền đạt những
kiến thức sâu hơi về rùa, cùng với đó là những kỹ năng chăm sóc và cứu hộ rùa bị thương
để TNV có thể kịp thời ứng phó với nhiều tình huống thực tế.
BTC nên lựa chọn TNV từ các thành phần xã hội khác nhau, đa dạng độ tuổi để công tác
tuyên truyền, nâng cao nhận thức có thể đến được với nhiều tầng lớp nhân dân trong xã
hội hơn.
Các TNV cũng thấy rằng điều kiện sinh hoạt trên trạm còn khá thiếu thốn. Lực lượng kiểm lâm
còn mỏng trong khi các áp lực khai thác rùa biển trái phép vẫn gia tăng. Các tour du lịch trên các
đảo nhỏ chưa được kết hợp với công tác tuyên truyền, bảo vệ rùa biển. Trong các tour du lịch
xem rùa đẻ trứng, nên kết hợp với việc truyền thông bảo vệ rùa biển để công tác bảo vệ rùa biển
tốt hơn, lan rộng hơn.
Khi được hỏi động lực tham gia chương trình, 81.25% TNV cho rằng mong muốn được hiểu biết
về rùa biển là động lực quan trọng nhất để họ đăng ký tham gia. 25% TNV cho rằng những trải
nghiệm trong cuộc sống khó khăn thôi thúc họ đăng ký tham gia chương trình nhất. Và 18.75%
cho rằng địa điểm chương trình ở Côn Đảo là yếu tố hàng đầu khiến họ đăng ký tham gia.
Khi được hỏi, nếu trong các chương trình tiếp theo, không còn sự hỗ trợ tài chính của IUCN và
VQG Côn Đảo, bạn có tiếp tục tham gia không? 75% khẳng định là có, 12.5% trả lời là không và
12.5% cần cân nhắc tổng mức chi phí cho phù hợp với ngân sách của mình.
Tất cả TNV đều đồng ý nên nhân rộng chương trình và tiếp tục cho các năm sau.
“IUCN và VQG Côn Đảo đã cho chúng tôi một cơ hội vô cùng tuyệt vời, đây là một trong những
chương trình vô cùng ý nghĩa và thú vị mà tôi từng được tham gia. Tôi tin đây cũng là một trải
nghiệm tuyệt vời cho tất cả các bạn tình nguyện. Mong rằng những chương trình như thế này
được nhân rộng, nhiều người được tham gia hơn” – TNV Đỗ Thị Thu Hà tham gia chương trình
từ ngày 8 – 12/7/2014 chia sẻ.
5
NHỮNG CON SỐ THỐNG KÊ
Thông báo Tuyển TNV được đăng tải lần đầu trên website của IUCN và VQG Côn Đảo vào ngày
22 tháng 5 năm 2014. Trong vòng 1 tháng, đến ngày 20 tháng 6 năm 2014, Ban tổ chức (BTC)
đã nhận được hơn 500 phiếu đăng ký tham gia
Tổng số TNV tham gia là 23 người. Thành phần TNV gồm: 10 nam, 13 nữ. Trình độ: Có 03
TNV là học sinh PTTH, 03 TNV là sinh viên Đại học và 17 TNV đã tốt nghiệp Đại học và đang làm
việc. Quốc tịch: Việt Nam, có 19 TNV công tác ở Việt Nam, 04 TNV học tập và công tác ở nước
ngoài (Anh, Mỹ, Đức và Thái Lan).
Qua các đợt, TNV tham gia công tác cứu hộ Rùa biển tại các đảo nhỏ đã thực hiện di dời an toàn
96 tổ, tổng số 7.429 trứng; kiểm tra, vệ sinh 106 tổ rùa sau khi nở, thả về biển 8.433
cá thể rùa con
Ngoài ra, các TNV còn tham gia 13 lượt tuần tra bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, đồng thời
hướng dẫn và giới thiệu về bảo vệ các loài Rùa biển cho 12 lượt khách xem rùa đẻ
trứng và 217 lượt khách tham quan du lịch đến khu vực
Rùa con mới nở tại Côn Đảo.Việt Nam©Ngô Bảo Ngọc,2014
6
KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CỦA TÌNH NGUYỆN VIÊN SAU CHƯƠNG
TRÌNH
Sau khi tham gia chương trình, các tình nguyện viên đã được yêu cầu điền vào phiếu đánh giá
và sau đây là kết quả tổng hợp các phiếu đánh giá này:
1. Những kiến thức và kỹ năng học được từ chương trình
“Trước khi tham gia chương trình, tôi chưa bao giờ nghĩ loài rùa đang trong nguy cơ tuyệt chủng.
Tôi vẫn nghĩ loài rùa là một loài lâu năm, và vẫn có một thế giới bình thường ngoài đại dương kia.
Tôi vẫn nghĩ những nơi có loài rùa lên đẻ trứng là ở các quần đảo xa xôi như Indonesia,
Australia, và ở Việt Nam mình chỉ có những loài như ba ba, hay những con rùa cảnh nuôi trong
nhà, và to nhất có lẽ là cụ rùa ở Hồ Gươm. Sau khi tham gia chương trình, tôi mới biết loài rùa
đang đối mặt với những mối nguy hiểm như thế nào. Con người đang săn bắt loài rùa với số
lượng lớn như thế nào” – TNV Nguyễn Anh Vũ tham gia từ ngày 21 – 26/7/2014 chia sẻ.
Sau khi tham gia chương trình, các TNV đều cho rằng hiểu biết về rùa biển của họ đã tăng lên
đáng kể. Khóa tập huấn đầu chương trình giúp họ đã nắm bắt được các thông tin cơ bản về phân
loại ruà, tập tính sinh sản và bản năng sinh tồn của rùa biển và những mối đe dọa tới sự tồn tại
của rùa biển. Qua những ngày trải nghiệm tại các trạm bảo tồn rùa biển, các TNV đã có cơ hội
Đại diện Tình nguyện viên, BQL VQG Côn Đảo và IUCN ©Vũ Hoài Nam,2014
7
thực hành những kỹ năng nhận biết tổ đẻ nào thành công hay không thành công từ việc quan sát
dấu vết rùa để lại trên mặt cát hay lúc rùa dùng các vây bơi, kỹ năng đào ổ trứng, cách dùng đèn
chiếu sáng phù hợp khi thu nhặt rùa nở, di chuyển an toàn ổ trứng rùa về hồ ấp, san lấp ổ đẻ của
rùa mẹ, thả rùa con xuống biển, kỹ năng thống kê tỷ lệ rùa nở thành công. Nhiều người đã nhận
thức được bảo tồn rùa biển là góp phần bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ chính cuộc sống
của mình.
Ngoài ra, những ngày sống tại các Hòn Bảy Cạnh và Hòn Tre lớn, các TNV cũng nắm bắt được
nhiều thông tin thú vị về các loài động thực vật đa dạng tại Vườn Quốc gia Côn Đảo, biết thêm
được những kiến thức hay về thời tiết, khí hậu, đại dương (ví dụ: thời gian thuỷ triều, hệ san hô,
các loài cá, thuỷ sinh). Họ cũng được rèn luyện ý thức tiết kiệm nước sạch trên một hòn đảo,
sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn năng lượng điện, các kỹ năng đi rừng và đi trên biển trong
điều kiện thời tiết khắc nghiệt và nguy hiểm.
TNV Nguyễn Vĩnh Lợi tham gia từ ngày 8 – 12/7/2014 cho rằng “Những kỹ năng đi rừng hay đi
trên biển sẽ giúp tôi đến những vùng có điều kiện tương tự, phải luôn biết trang bị đầy đủ các vật
dụng gọn nhẹ và thật cần thiết khi đi đến những vùng rừng núi biển đảo xa xôi như việc chuẩn bị
võng ngủ, chăn đắp gọn nhẹ, thức ăn dự trữ, nước uống, thuốc chống muỗi, một số loại thuốc
thông thường. [...]. Bên cạnh đó tôi còn có cơ hội được khám phá nhiều cảnh đẹp của thiên nhiên,
được thử sức mình khi sống trong môi trường biển đảo”.
Đặc biệt các TNV rất khâm phục tinh thần làm việc nghiêm túc, nhiệt tình, hết mình vì công việc
của các chiến sỹ kiểm lâm tại các Hòn Bảy Cạnh và Hòn Tre lớn. Dù điều kiện làm việc còn nhiều
thiếu thốn nhưng các anh luôn lạc quan, có trách nhiệm với công việc.
“Chuyến đi mang lại cho bản thân tôi và các bạn đồng hành không chỉ là kiến thức về rùa biển,
mà còn nhiều hiểu biết khác về môi trường sinh thái, về kỹ năng sống, nhìn thấy nhiều đời sống
khác và giúp chúng tôi hiểu thêm nhiều về ý nghĩa cuộc sống. Vượt qua tất cả những điều đó,
các anh vẫn vững vàng với trách nhiệm công việc, nếu như không phải có kỷ luật với bản thân
mình thì không phải ai cũng có thể làm được như vậy. Không những vậy, các anh cũng rất lạc
quan, bữa ăn nào cũng đầy ắp tiếng cười. Tuy vậy, đến lúc làm việc, phân công công việc hay
lúc họp hành thì các anh lại rất nghiêm túc và chỉn chu. Điều đó khiến tôi càng thêm khâm phục
các anh và càng thấy rằng việc được đến đây, cùng làm việc, chia sẻ khó khăn và cùng làm cho
khoảng thời gian ngắn ngủi với các anh vui nhất có thể là một may mắn và là một điều vô cùng ý
nghĩa đối với bản thân mình”_ TNV Nguyễn Hải Vân tham gia từ ngày 26 – 20/8/2014 tâm sự.
Đối với các bạn sinh viên trẻ, chương trình đã tạo cơ hội cho họ trau dồi thêm cả kỹ năng giao
tiếp, làm việc nhóm, phân bổ thời gian, có thêm nhiều người bạn tốt và có động lực phấn đấu
trong cuộc sống.
“Chương chình cho tôi biết được sự khó khăn của người khác nhưng họ vẫn cố gắng, vẫn phấn
đấu, giúp tôi có động lực hơn cho cuộc sống sau này”_TNV Võ Ngọc Lệ Hằng tham gia từ ngày
26/8 – 4/9/2014 chia sẻ.
8
2. Đánh giá về khâu tổ chức trước chương trình
87.5% TNV cho rằng khâu tổ chức rất tốt hoặc tốt. Chương
trình được thông báo rộng rãi trên các phương tiện, tạo cơ
hội công bằng đến cho tất cả mọi người tham gia. BTC đã
gửi đầy đủ các thông tin về chương trình làm việc, những
vật dụng cần mang theo, nội quy xem rùa biển. Tất cả các
bước được thực hiện qua internet, thuận tiện để cho mọi
người đăng ký và liên lạc.
Tuy nhiên các TNV cũng chỉ ra những mặt chưa tốt trong tổ
chức chương trình cùng các góp ý hoàn thiện như sau:
Việc kêu gọi tuyển TNV nên được thông báo trên
nhiều trang cộng đồng hơn nữa.
Khi kêu gọi, cần nêu rõ tiêu chí lựa chọn TNV cũng như số lượng TNV sẽ được nhận mỗi
đợt. Nếu các tiêu chí tuyển chọn được thông báo rõ ràng, các ứng viên có thể tự đánh
giá sự đáp ứng của bản thân đối với yêu cầu của chương trình. BTC cũng có thể giảm áp
lực và thời gian chọn lọc các hồ sơ. Hơn nữa, mỗi ứng viên có thời gian tiếp cận với thông
tin về chương trình khác nhau, nên nếu xét hồ sơ theo tiêu chí ưu tiên người đến trước
thì sẽ rất đáng tiếc vì có thể bỏ lỡ những ứng viên phù hợp với chương trình.
Mẫu đăng ký còn đơn giản, không khai thác được hết thông tin và khả năng của TNV.
Mẫu đơn nên kèm thêm thông tin về thể trạng (chiều cao, cân nặng) tình trạng sức khoẻ
để đảm bảo chương trình lựa chọn được những tình nguyện viên đủ sức khỏe đảm đương
công việc. Để đánh giá được sự nhiệt tình và mong muốn tham gia chương trình nghiêm
tục, mẫu đăng ký cần bổ sung thêm một số câu hỏi như “Hãy kể cho chúng tôi về một
hoạt động cộng đồng gần đây của bạn?”, “Bạn sẽ làm gì trong vai trò của một tình nguyện
viên”, “kế hoạch truyền thông của bạn sau khi tham gia chương trình như thế nào?”
Thời hạn kết thúc đăng ký sớm hơn so với thông báo ban đầu, làm cho nhiều người muốn
đăng ký nhưng không được chấp nhận. Các hạn phản hồi và thời gian gửi hơi ngắn, Nên
đặt một kế hoạch làm việc sớm để cả bên tổ chức lẫn TNV có cơ hội sắp xếp công việc
tốt và có thời gian chuẩn bị cho chuyến đi, về cả sức khỏe lẫn tinh thần
Cần thêm 1 số hình ảnh những nơi sẽ đến, 1 buổi gặp nhau trước đó hoặc sau đó để tổng
kết, chia sẻ các thông tin, hình ảnh
BTC nên lựa chọn TNV từ các thành phần xã hội khác nhau, đa dạng độ tuổi để công tác
tuyên truyền, nâng cao nhận thức có thể đến được với nhiều tầng lớp nhân dân trong xã
hội hơn
25%
62.50%
12.50%
Khâu tổ chức
chương trình
Rất tốt Tốt Bình thường
9
3. Đánh giá về khóa tập huấn nâng cao nhận thức và cứu hộ rùa biển
93.75% TNV cho rằng khóa tập huấn rất tốt
hoặc tốt. Buổi tập huấn đã cung cấp cho các
TNV những thông tin bổ ích về rùa biển từ
cách nhận biết các loại rùa đến tập tính sinh
sản, bản năng sinh tồn Chỉ ra các hiểm họa
từ thiên nhiên và con người, đe dọa sự sống
và duy trì nòi giống của rùa biển. Buổi tập huấn
cũng đã cung cấp cho TNV những thông tin
tổng quát về các hoạt động bảo tồn rùa biển ở
Việt Nam nói chung và ở Vườn Quốc gia Côn
Đảo nói riêng. Qua buổi tập huấn, các TNV đã
được trang bị những quy định cần thiết và những kinh nghiệm thiết yếu để có thể đảm bảo an
toàn cho bản thân và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong thời gian thực địa ở các đảo nhỏ.
Khóa tập huấn bắt đầu đúng giờ, công tác chuẩn bị chu đáo. Hồ sơ tài liệu đẹp, cụ thể và đủ
thông tin cần thiết. Người hướng dẫn nhiệt tình, rõ ràng, dễ hiểu.
Tuy nhiên, các TNV yêu cầu:
Các tài liệu và thông tin về rùa biển nên được gửi cho TNV trước để có thời gian tìm hiểu
và đọc kỹ hơn. Từ đó, TNV sẽ có thể chuẩn bị nhiều câu hỏi hơn. Sau buổi tập huấn là
37.50%
56.25%
0%
6.25%
Tập huấn bảo tồn rùa biển
Rất tốt Tốt Bình thường Kém
Cán bộ VQG Côn Đảo tập huấn kiến thức cứu hộ rùa biển cho TNV ©Đỗ Thị Thu Hà,2014
10
lên tàu ra đảo luôn, nhiều khi Tình nguyện viên không đủ thời gian đọc hết tài liệu nếu chỉ
được phát trong buổi tập huấn.
Buổi tập huấn chưa có chi tiết các kỹ năng chăm sóc và cứu hộ (trị thương) cho rùa biển.
Trong quá trình làm việc tại các đảo, TNV đã gặp nhiều rùa con bị thương nhưng chưa
biết cách trị thương. Buổi tập huấn nên bổ sung những kiến thức và kỹ năng này
Vì đây là khóa tập huấn nên kinh nghiệm là yếu tố hàng đầu, nhưng về mặt khoa học vẫn
còn hạn chế. Một số bài trình bày chưa hấp dẫn, cần được giới thiệu sinh động hơn như
thông qua các câu hỏi đố vui
TNV Ngô Tiến Thịnh tham gia từ ngày 21-25/7/2014 bày tỏ: “Theo tôi thì chuyến đi lần này mang
tính chất tìm hiểu nhiều hơn so với trợ giúp cán bộ kiểm lâm cứu hộ rùa biển, nếu có một lần nữa
vào năm sau thì tôi muốn đóng góp nhiều hơn nữa có thể ở với kiểm lâm lâu hơn nữa như vậy
sẽ làm được nhiều việc hơn”.
4. Đánh giá về các hoạt động bảo vệ rùa biển taị các trạm bảo vệ rùa biển
Tất cả các TNV đều đánh giá các hoạt động bảo
vệ rùa biển tại Hòn Bảy Cạnh và Hòn Tre lớn đều
tốt hoặc rất tốt. Quá trình chờ đợi rùa đẻ để đào
trứng, di dời về tổ ấp được tiến hành hết sức
kiên nhẫn, cẩn thận, không gây xáo động cho
rùa mẹ và đảm bảo an toàn cho ổ trứng rùa.
Công tác đánh dấu ổ trứng và thống kê được
tiến hành tuần tự, khoa học. Công tác di dời tổ
trứng rất có hiệu quả, đa số các trứng sau khi di
dời đều nở, và hầu như không có tổ trứng nào bị
bỏ sót.
Các anh kiểm lâm đã làm việc hết mình, không
quản khó khăn gian khổ, nhiệt tình, trách nhiệm, công tâm, chính trực. Mặc dù làm việc với cường
độ cao nhưng các anh vẫn luôn vui vẻ nhiệt tình chỉ dẫn. Ngoài ra, trong điều kiệu khó khăn trên
đảo, các anh đã có những sáng kiến thú vị (như những chiếc hộp để gọi điện thoại).
Trạm kiểm lâm hòn Bảy Cạnh là địa chỉ quan trọng trong công tác bảo tồn rùa biển. Cơ sở vật
chất ở đây nhìn chung là kiên cố, các anh có các trang thiết bị cho tác nghiệp từ ca nô, bộ đàm,
súng,.. Đây cũng là cơ sở để các hoạt động bảo vệ rùa biển đảm bảo tính an toàn. Trạm có xây
dựng các bể chứa nước mưa, bể này đủ cho việc sinh hoạt trong mùa khô. Trạm cũng có sân
bóng chuyền, để các anh kiểm lâm tham gia hoạt động rèn luyện sức khỏe, giải trí lúc rảnh rổi.
Mặc dù vậy, các TNV cũng thấy rằng điều kiện sinh hoạt trên trạm còn khá thiếu thốn. Ví dụ: điện
thiếu do bình ac quy sử dụng lâu ngày đã giảm chất lượng. Các tour du lịch trên Hòn chưa được
kết hợp với công tác tuyên truyền, bảo vệ rùa biển. Tài liệu cho khách du lịch xem và hiểu rõ
trước khi tham quan rùa còn hạn chế. Nhiều khách không biết gì về các sinh hoạt của rùa, đặc
tính của rùa, dấu vết rùa,Trong các tour du lịch xem rùa đẻ trứng, nên kết hợp với việc truyền
thông bảo vệ rùa biển để công tác bảo vệ rùa biển tốt hơn, lan rộng hơn. Hướng dẫn viên khi
62.50%
37.50%
Hoạt động bảo tồn rùa biển
tại các đảo
Rất tốt Tốt
11
hướng dẫn du khách xem rùa đẻ trứng, nên thêm vào các thông điệp về những vấn nạn rùa biển
đang gặp phải, cùng với những biện pháp, thông điệp chung tay bảo vệ rùa biển. Có thể Phòng
du lịch của VQG nên chuẩn bị tài liệu cho khách.
Lực lượng tham gia công tác bảo vệ rùa biển còn quá mỏng. 7 anh Kiểm lâm ở một trạm (có tới
3 bãi Rùa đẻ) cộng với bảo vệ vùng biển với cả trăm tàu đánh bắt trái phép ngoài biển là quá
sức. Các anh làm việc 20/24h hàng ngày, không đảm bảo sức khỏe
Công việc bảo tồn hoàn toàn dựa vào sức người, thiếu các trang thiết bị hỗ trợ. Thiếu thiết bị đọc
thẻ gắn trên rùa nên không thể thống kê được các cá thể rùa lên đẻ trứng. Các trạm kiểm lâm
nên được trang bị một số dụng cụ hỗ trợ trong công tác hàng ngày, ví dụ đèn pin ánh sáng đỏ để
vẫn đảm bảo tầm nhìn nhưng không làm hại mắt rùa con hay làm rùa mẹ hoảng sợ.
Cần cải thiện lại gian nhà ngay cạnh hồ ấp rùa để cán bộ kiểm lâm có thể trực đêm ngay tại hồ,
đặc biệt trong điều kiện thời tiết xấu.
Một số nhân viên chưa có kiến thức sâu về rùa biển (do chuyên ngành của họ là kiểm lâm), nên
có thêm tài liệu cho các nhân viên tại các trạm. Nên có một đội ngũ chuyên nghiệp tham gia công
tác bảo vệ rùa hàng năm vào mùa sinh sản để san sẻ bớt gánh nặng của các cán bộ kiểm lâm.
Bên cạnh đó tiếp tục duy trì đội ngũ tình nguyện viên ngắn ngày, tạo tác động lan toả về công tác
bảo tồn rùa biển trong cộng đồng.
Rùa con trở về biển ©Ngô Bảo Ngọc,2014
12
5. Đánh giá về sắp xếp hậu cần trong suốt chương trình
Các TNV đều thấy rằng cán bộ VQG đã tổ chức đưa đón, ăn ở rất chu đáo. Phương tiện đưa
đón ra sân bay đến đúng giờ, nhanh gọn.
Tàu thuyền chở ra các đảo Bảy Cạnh và
Hòn Tre Lớn an toàn. Các Trạm kiểm lâm
đón tiếp chu đáo, sắp xếp chỗ ăn ngủ tốt,
các bữa ăn đảm bảo đủ dinh dưỡng.
Tuy nhiên, các TNV đều đồng ý là cần tận
dụng tốt hơn nữa thời gian ở đảo của TNV.
Chương trình diễn ra trong 5 ngày nhưng
TNV chỉ thực sự tham gia được công tác
cứu hộ, bảo tồn rùa biển được 3 ngày. Nên
thiết kế lại chương trình, sáng đầu tiên có thể tập huấn ngay công tác cứu hộ, bảo tồn rùa biển,
và đến chiều thì xuất phát ra Hòn Bảy Cạnh. Như thế TNV có thêm một ngày để thực hiện công
tác cứu hộ rùa biển.
Tại các trạm kiểm lâm, có thể sắp xếp TNV tham gia vào tất cả các công việc liên quan đến cuộc
sống của một nhân viên tại trạm bảo vệ rùa biển: nấu ăn, tự phục vụ, đi tuần ở các trạm xa.
Thông tin giữa VQG Côn Đảo và IUCN cần phải thống nhất và rõ ràng hơn nữa.
6. Đánh giá về mức độ tương tác giữa các thành viên trong nhóm Tình nguyện viên:
Mặc dù không biết nhau trước nhưng sau
một lúc gặp nhau trong chuyến đi các bạn
TNV khá thân thiện và rất vui vẻ với nhau.
Họ đều cởi mở, vui vẻ nhiệt tình trong sinh
hoạt tập thể, có tinh thần trách nhiệm cao
khi làm việc.
“Tuy chưa quen biết nhau từ trước nhưng
rất nhanh chóng thân nhau, phối hợp ăn ý,
làm việc nhóm rất tốt, anh nhóm trưởng rất
có khả năng lãnh đạo,quan tâm các TNV khác. Mọi người vui vẻ, chia sẻ với nhau về mọi thứ từ
công việc đến cuộc sống. Cám ơn chuyến đi này giúp chúng tôi biết nhau và thân thiết như gia
đình, học tập lẫn nhau”_TNV Võ Ngọc Lệ Hằng tham gia từ ngày 26/8 – 4/9/2014 chia sẻ.
“Chúng tôi đã nhanh chóng làm quen với nhau và cùng nhau thực hiện tốt chương trình. Sau khi
chương trình kết thúc, chúng tôi tiếp tục liên lạc, họp mặt, để cùng thực hiện công tác tuyên truyền
sau chương trình. Mọi người vui vẻ, hòa đồng với nhau, tôn trọng nhau, có họp lại sau chuyến đi
để phân phối công việc. Chúng tôi dự định cùng tổng hợp các hình ảnh, báo cáo, kế hoạch truyền
thông của mọi người để cùng làm 1 master plan, sử dụng chung hình ảnh, bài viết theo 1 quy
56.25%
43.75%
Tổ chức hậu cần
Rất tốt Tốt
37.50%
56.25%
0%
6.25%
Mức độ tương tác giữa các
thành viên trong nhóm
Rất tốt Tốt Bình thường Kém
13
trình thống nhất, có biên tập hẳn hòi” _ TNV Nguyễn Thị Lê Phương tham gia từ ngày 21-
25/7/2014 chia sẻ
Tuy vậy vẫn có sự bất đồng, không hòa hợp tính dẫn đến làm việc không hiệu quả. 1 tuần sau
khi họp nhóm sau chuyến đi, mỗi cá nhân đều không chủ động thực hiện phần việc của mình,
tương tác kém do vấn đề địa lý. Tuy đã lập 1 nhóm kín để cùng chia sẻ, post bài, post ảnh, thảo
luận nhưng hầu như không ai chủ động thực hiện.
Các nhóm sau này nên cần cử ra 1 nhóm trưởng để tập trung thông tin về 1 mối, các anh kiểm
lâm và ngoài vườn không cần gọi từng người để thông báo về 1 việc gì đấy. Nhóm trưởng sẽ
chịu trách nhiệm thông tin liên lạc và chia sẻ, tổng hợp lại các thông tin, contact, hình ảnh cho
thành viên. Mỗi một người nên thực hiện đúng kế hoạch truyền thông mình đã cam kết. Hoặc
nếu cùng làm thì nhóm trưởng sẽ là người đôn thúc, chịu trách nhiệm chung. Việc bình chọn
nhóm trưởng có thể do tự thành viên bầu chọn khi nhận được bản danh sách và báo lại cho IUCN
hoặc do IUCN chỉ định (có tham khảo ý kiến của người đó trước và được sự đồng ý)
BTC nên lựa chọn trong 1 nhóm TNV nên đa dạng về độ tuổi, ngành nghề phù hợp để có thể bổ
trợ lẫn nhau.
Việc chia tách các đoàn lên Hòn Tre Lớn và Hòn Tài có mặt chưa hiệu quả do trên 2 hòn này số
lượng rùa lên đẻ không nhiều. Hòn Tre Lớn có 6 rùa lên đẻ, Hòn Tài chỉ có 1 rùa lên đẻ trong 3
đêm, điều này dẫn đến TNV chưa có cơ hội tham gia trực tiếp, mà chỉ ở mức độ tham quan cho
biết vì các anh kiểm lâm vẫn có đủ người để tự làm các công tác cứu hộ rùa biển.
14
7. Đánh giá về cán bộ điều phối tại thực địa
Các TNV đều cho rằng các cán bộ
kiểm lâm hỗ trợ tại thực địa rất nhiệt
tình, thân thiện và quan tâm tới các
TNV. Tuy nhiên, các anh chưa giao
tiếp tiếng Anh với khách nước ngoài
tốt nên còn hạn chế trong việc hướng
dẫn khách lên xem rùa đẻ. Trong thời
gian chương trình diễn ra, rất khó để
tổ chức buổi học tiếng Anh trong 1- 2
giờ liên tiếp. Nhân viên ở đây cần
vốn tiếng Anh liên quan đến rùa biển,
tuần biển và một số câu giao tiếp
thông thường nên nếu năm sau có
chương trình, nên đưa nội dung tiếng Anh cần thiết (dạng chủ đề) vào chương trình. TNV và
nhân viên có thể giao tiếp bằng tiếng Anh trong các lĩnh vực liên quan đến công việc tại đảo.
“Còn tôi, tôi vẫn nhớ mãi khuôn mặt nheo nheo vì khói của anh Cường và nhìn xa xăm về biển.
Ban ngày anh rất vui vẻ nhưng khi làm việc anh như người khác vậy. Nghiêm túc và kinh nghiệm
hẳn. Không chỉ anh Cường mà các anh kiểm lâm khác như anh Thành, anh Hoàn, anh Long, anh
Hân,Thăng và Tuấn, họ còn rất trẻ nhưng cảm nhận cuộc sống thì rất sâu sắc. Phải chăng qua
những thời khắc hiểm nguy ấy, con người ta biết yêu quý cuộc sống này, con người ta biết rõ
những giá trị tinh thần hơn, biết vực dậy chính niềm
tin của mình” _TNV Võ Ngọc Lệ Hằng tham gia
chương trình từ ngày 26/8-4/9/2014
“Trong thời gian nghỉ đêm hôm đó, một anh kiểm
lâm đi cùng tôi đã gọi điện về gia đình hỏi thăm.
Anh có vợ và một cậu con trai nhỏ mới biết nói
nhưng anh chỉ có dịp về thăm họ 4 ngày 1 tháng.
Nghe anh bảo con mình gọi tên bố trên điện thoại
tôi mới hiểu được những hy sinh của những chiến
sĩ kiểm lâm. Công việc khó khăn, vất vả là thế, họ
còn phải xa con cái, người thân, bạn bè, hết mình
bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ biển đảo tổ quốc” _ TNV
Nguyễn Hà Trung Hiếu tham gia chương trình từ 8-
12/7/2014
8. Đánh giá về thông tin, tài liệu gửi trước chương trình
TNV cho rằng tài liệu gửi cho TNV khá đầy đủ, rõ ràng. Thông tin về các loài rùa biển sinh sống
tại biển Việt Nam đầy đủ, rõ ràng, được in ấn cẩn thận, đẹp đẽ.
62.50%
31.25%
6.25%
Các cán bộ hỗ trợ thực địa
Rất tốt Tốt Bình thường
TNV và các chiến sỹ kiểm lâm ©Võ Cường Quốc,2014
15
Tuy nhiên, các thông tin này nên được gửi cho TNV sớm hơn. Trước đó tình nguyện viên phải
tự mày mò internet để tìm đọc các thông tin lien quan đến những loài rùa biển Việt Nam. Vì thông
tin nhiều và lan man, nên việc tìm và chọn lọc thông tin phù hợp trên internet mất nhiều thời gian
Thông tin về trạm kiểm lâm và điều kiện ăn ở trên trạm không có trước khi đi. Tình nguyện viên
mang quá nhiều thứ ra trạm mà không cần thiết hoặc không sử dụng đến (ủng lội nước)
“Tôi cho rằng các tài liệu, thông tin liên quan
nên được gửi cho TNV càng sớm càng tốt để
TNV có thời gian nghiên cứu, tìm hiểu trước
nhằm có sự chuẩn bị tốt nhất cho chuyến đi.
Ngoài ra, trước khi đi tôi không có nhiều thông
tin về nơi mình sẽ đến nên đã chuẩn bị khá
nhiều đồ không cần thiết nên phải mang nhiều.
Lần sau, nếu các TNV đợt này có thể chia sẻ
thông tin cho các TNV đợt sau thì các bạn sẽ
có sự chuẩn bị tốt hơn” _TNV Nguyễn Hải Vân
tham gia chương trình 26-30/8/2014 góp ý.
9. Tài chính
Tất cả các TNV đều được biết và giải thích đầy
đủ về các nghĩa vụ tài chính của tình nguyện
viên trước khi tham gia chương trình. Tuy
nhiên cần có sự thống nhất giữa VQG Côn
Đảo và IUCN về mức đóng góp của TNV để
tránh hiểu lầm.
Dựa trên thông tin của TNV, mức chi phí trung
bình của các TNV đã bỏ ra ki tham gia chương
trình là khoảng 4,470,000VND/người. Với các
TNV ở Hà Nội, mức chi phí cao hơn do chi phí
đi lại lớn, khoảng từ 5 – 7 triệu đồng/người.
Các TNV di chuyển bằng tàu ra Côn Đảo có
thể tiết kiệm chi phí thấp hơn, từ 500,000 –
2,000,000 đồng/người
Khi được hỏi, nếu trong các chương trình tiếp theo, không còn sự hỗ trợ tài chính của IUCN và
VQG Côn Đảo, bạn có tiếp tục tham gia không? 75% khẳng định là có, 12.5% trả lời là không và
12.5% cần cân nhắc tổng mức chi phí cho phù hợp với ngân sách của mình.
37.50%
31.25%
31.25%
Tài liệu gửi các TNV
Rất tốt Tốt Bình thường
75%
12.50%
12.50%
Nếu không còn hỗ trợ tài chính,
bạn có tiếp tục tham gia không?
Có Không Phải cân nhắc
16
10. Động lực tham gia chương trình
Khi được hỏi lý do các TNV tham gia chương trình, các TNV cho rằng, 41% động lực của họ là
mong muốn được tìm hiểu rùa biển; 20% động lực là mong muốn được trải nghiệm cuộc sống
khắc nghiệt; 18.13% động lực là được khám phá Côn Đảo. Ngoài ra, một số TNV đăng ký tham
gia để được giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với các cán bộ kiểm lâm và vì tinh yêu với thiên nhiê
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_tong_ket_chuong_trinh_tinh_nguyen_bao_ton_rua_bien_c.pdf