Mục lục
Phần I. Đặt vấn đề 1
Phần II. Điều tra tình hình cơ sở nơi thực tập 3
I. Điều kiện tự nhiên xã hội và tình hình sản xuất của xã Bình Khê 3
1. Điều kiện tự nhiên 3
2. Hoàn cảnh xã hội 4
3. Tình hình sản xuất 5
Phần III. Nội dung và kết quả thực tập 14
A. Báo cáo chuyên đề 14
I. Đặt vấn đề (lý do làm thí nghiệm) 14
II. Cơ sở lý luận 14
III. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 15
1. Nuôi dưỡng 15
2. Chăm sóc 16
3. Công tác phòng bệnh 19
4. Các chỉ tiêu theo dõi 20
5. Kết qu
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Tổng hợp về theo dõi một số chỉ tiêu về sự sinh trưởng phát dục của gà ri từ 1-3 tuần tuổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả theo dõi các chỉ tiêu 20
6. Hoạch toán kinh tế 22
Iv. Kết luận 22
V. Tồn tại - đề nghị 23
B. Báo cáo phục vụ sản xuất 23
1. Công tác tiêm phòng 23
2. Công tác chữa trị 24
3. Công tác thiến hoạn 31
4. Thụ tinh nhân tạo 33
5. Công tác kiểm soát giết mổ 34
Phần IV. Kết luận, kết quả thực tập tốt nghiệp 37
Phần V. Tồn tại và đề nghị 39
I. Tồn tại 39
II. Đề nghị 39
1. Đề nghị với cơ sở thực tập 39
2. Đề nghị với nhà trường 39
Phần I : Đặt vấn đề
Nước ta là một nước có nghành nông nghiệp phát triển. 80 dân số là nông nghiệp,những năm gần đây đảng và nhà nước đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo hướng công nghiệp hoá. Trong đó nông nghiệp rất được trú trọng sản phẩm lương thực trên đầu người đã được tăng lên, ta không những cung cấp đủ được cho toàn dân mà còn xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng lên. Nước nước ta đứng thứ 2 thứ 3 trong các nước về xuất khẩu gạo,khoa học công nghệ được chuyển giao đến tay mọi người dân.Năng xuất lương thực được đẩy mạnh các ngành như thương mại , dịch vụ cũng được đẩy mạnh theo nhằm cung cấp nhu cầu của người dân . Khi ngành nông nghiệp phát triển đáp ứng được nhu cầu về lương thực thực phẩm từ đó xã hội đã xoá được đói giảm được nghèo không còn tình trạng thiếu đói trong lúc giáp hạt . Cuộc sống của người dân được cải thiện,và nó góp phần thúc đẩycác ngành khác cũng phát triển theo như chăn nuôi ,chế biến sản phẩm vv.. Hay các nhà máy mía đường, máy ép hoa quả đã được xây dựng rất nhanh và có hiệu quả cao.
Trong khi đó nhành nông ngiệp đã cung cấp đủ cho nhu cầu của xã hội thì ngành chăn nuôi sẽ là ngành mà bà con quan tâm nhiều sản phẩm từ nông nghiệp đã đáp ứng được nhu cầu của ngành chăn nuôi, tất cả các sản phẩm của nông nghiệp qua chế biến tạo thành thức ăn cho gia súc, gia cầm . Trong đó ngành chăn nuôi cũng được quan tâm các hình thức chăn nuôi ngày càng phát triển trong đó có cả quốc doanh lẫn tư nhân nhiều trang trại được mọc lên và chủ yếu là chăn nuôi lợn , gà , vịt ngan . Mô hình VAC được xây dựng, họ kết hợp trồng trọt với chăn nuôi những sản phẩm của trồng trọt được đưa vào chăn nuôi.
Như vậy trồng trọt và chăn nuôi có mối quan hệ mật thiết, những sản phẩm của trồng trọt được phục vụ cho ngành chăn nuôi và những phế thải của chăn nuôi lại được sử dụng cho trồng trọt . Ví dụ như : phân được dùng cho trồng trọt thì lấy từ phân của các loại gia súc, gia cầm mà mình chăn nuôi .Như vậy chăn nuôi và trồng trọt không thể tách rời mà phát triển song song
Hiểu được thực tế trên hàng năm trường trung học nông lâm ngư nghiệp Quảng Ninh đã đào tạo ra nhiều cán bộ thú y để giúp ngưồi dân yên tâm trong công việc đầu tư vào chăn nuôi. Đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của từng địa phương, từng hộ gia đình, ngành chăn nuôi phát triển không những đáp ứng được nhu cầu thực phẩm hàng ngày mà còn cung cấp nguyên liệu cho xuất khẩu, cung cấp phân bón cho trồng trọt. Ngành chăn nuôi đã giải quyết được công ăn việc làm cho người dân lao động, tham gia voà xoá đói giảm nghèo cho nhân dân góp phần xây dựng và phát triển quê hương đất nước ngày càng toàn diện.
Truờng có 3 khoa trồng trọt ,chăn nuôi và kinh tế. Các khoa đều có mục đích của mình. Nhà trường đã đào tạo học sinh trung cấp của trường đã có thể tự mình làm mọi việc theo đúng chuyên môn trong trường. Đối với ngành chăn nuôi thú y thì các học sinh ở đây sau khi ra trường đều có phương châm lý thuyết đi đôi với thực hành lấy lý thuyết vận dung vào thực hành nhất là học song ở trường trước hết là giúp bản thân mình có công ăn việc làm và có thêm kiến thức. Sau đó là vận dụng vào chăn nuôi trong gia đình trong công tác tiêm chữa trị cho gia súc, gia cầm và cuối cùng là giúp ích cho xã hội .Chính vì vậy trong đợt thực tập này ,được sự nhất trí của nhà trường và sự phân công của khoa và được sự tiếp nhận của cơ sở em thực tập tại UBND Xã Bình Khê thời gian thực tập từ (20/3 – 20/6 – 2003 ).
Qua 3tháng xâm nhập vào thực tế em sẽ học hỏi được nhiều điều hơn , để khi gặp những trường hợp khó trong công việc mình sẽ không còn bỡ ngỡ. Đợt thực tập cũng là bước đầu em làm quen dần với công việc chuyên môn của mình áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất , những kinh ngiệm thực tiễn vào sản xuất.Từ đó đuâ ngành chăn nuôi thú y phát triển mạnh mẽ hơn.
Phần II : điều tra tình hình cơ sở nơi thực tập
I. điều kiên tự nhiên xã hội và tình hình sản xuất của xã bình khê
1 . Điều kiện tự nhiên:
Bình Khê là một xã nông nghiệp miền núi gồm 14 thôn .Trước đây xã này còn nghèo nàn lạc hậu dân trí thấp ,nền kinh tế còn kém .Những năm 90 trở lại đây do công cuộc cải cách ruộng đất dồn ô đổi thửa ,xây dựng trang trại nhà ở chăn nuôi trồng trọt phát triển do đó đời sống nhân dân ngày được nâng cao .
a. Vị trí địa lý
Xã Bình Khê nằm ở phía bắc của huyện Đông Triều tỉnh Quảng Ninh .Phía đông giáp xã Tràng Lương ,phía tây giáp xã Tràng An , An Sinh ,phía nam giáp thị trấn Mạo Khê , xã Kim Sơn ,xã Xuân Sơn ,phía bắc giáp xã Lục Sơn huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.
b. Về địa hình :
Đối với xã Bình Khê địa hình tương đối phức tạp đa số diện tích là đồi núi cho nên địa hình không bằng phẳng,đi lại khó khăn nhất là có những con suối ngăn cách giữa thôn này với thôn khác thành thử cứ mỗi lần lũ lụt lại làm cản trở giao thông làm cho công việc đi lại hết sức khó khăn ,do đó cũng ảnh hưởng tới tình hình sản xuất .
Lợi dụng được 2/3 là diện tích đồi núi người dân đã phát lương làm dẫy ,mô hình nông lâm kết hợp để đảm bảo cuộc sống ấm no môi trường tự nhiên trong xanh sạch đẹp .
Khí hậu của xã Bình Khê là khí hậu ôn hoà ,hàng năm vẫn phân biệt bốn mùa xuân hạ thu đông .Mùa hè nhiệt độ cao nhất ở khoảng 38°C .Song đó chỉ là một vài ngày còn nhìn chung nhiệt độ ở khoảng 32°C đến 33°C Lượng mưa ít ,vào mùa mưa lượng mưa cao nhất vào khoảng 360 đến 400mm.
Ruộng đất đa phần là bạc màu do lượng mưa ít thành thử sẽ khó khăn trong việc tưới tiêu .Tất cả lượng nước đa phần là nước nhân tạo để giúp cây trồng phát triển, còn lượng nước tự nhiên là rất ít.
2. Hoàn cảnh xã hội
Là một xã có bảy dân tộc anh em cùng trung sống ,trong đó dân tộc kinh chiếm 70% còn lại là các dân tộc Hoa ,Mường ,Tày ,Nùng ,Sán Dìu ,Dao .
Xã được chia làm 14 thôn ngoài ra còn có các đơn vị kinh tế của trung ương đóng trên địa bàn như Nông trường quốc doanh ,hàng năm vẫn cung cấp con giống lợn Móng Cái thuần cho xã và các vùng lân cận ,Cùng với lâm trường Đông Triều ,xí nghiệp cấp nước Mạo Khê ,kho KV4 cục quân khí ,trung đoàn 405 quân khu 3 .
Tuy vậy sự phát triển kinh tế ,trình độ dân trí của xã Bình Khê cũng được cải thiện ở mức khá cao so với các xã trong huyện .Đến nay xã Bình Khê đã hoàn thành chương trình xoá mù chữ và phổ cập tiểu học .Phấn đấu đến tháng tám năm 2003 hoàn thành phổ cập trung học cơ sở cho học sinh trong độ tuổi .
Năm 2002 đến 2003 học sinh trung học là 683 em ,học sinh tiẻu học là 842 em ,học sinh mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi là 282 em .Tỉ lệ học sinh mẫu giáo và phổ thông chiếm 21,1% dân số .Song chất lượng lao động lại quá thấp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển ,số lao động trong xã đã đào tạo là 525 người trong đó 85 người có trình độ đại học và cao đẳng 99 người trung học ,68 công nhân kỹ thuật 273 người có tay nghề .
Đây là một trở ngại rất lớn đối với Bình Khê trong quá trình phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế ,thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn .Chính vì vậy xã đã và đang chú ý đào tạo những người có tay nghề tổ chức tốt lớp học IPM cho nhân dân ,đồng thời đầu tư về chăn nuôi ,trồng trọt để giải quyết công ăn việc làm cho những người lao động và những người chưa có việc làm.
3. Tình hình sản xuất
a. Tình hình chung
Xã Bình Khê có tổng diện tích đất tự nhiên là 58,6km2 ,trong đó :
Đất nông nghiệp là 1015,74ha
Đất lâm nghiệp có rừng là 2671,4ha
Đất chuyên dùng 809,07ha
Đất ở 67,37ha
Đất chưa sử dụng cộng sông núi đá là 1302,92ha
Với một lợi thế sẵn có là nguồn tài nguyên thiên nhiên ,song những năm đầu của thập kỉ 90 đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn ,tình trạng thiếu lương thực ,thiếu việc làm dẫn đến nhứng tháng nông nhàn người dân thường đi chặt phá rừng ,dẫn đến nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt .
Toàn xã có 8542 khẩu có trên 4320 nam và 4308 nữ trong đó có 5086 lao động nằm trong độ tuổi .Trong đó có 2440 lao động nam và 2646 lao động nữ .
Cơ cấu dân số phân chia như sau :
Từ 0 đến 14 tuổi là 2053 khẩu bằng 24% trong đó 1445 nữ
Từ 15 đến 59 tuổi là 5085 khẩu bằng 59% trong đó 2660 nữ
Từ 60 đến 80 tuổi là 1425 khẩu bằng 67% trong đó 783 nữ
Cơ cấu phân bố nghề nghiệp :
Dân số trong độ tuổi lao động của xã là 5086 lao động chiếm 59% so với dân số toàn xã ,tổng số lao động đang làm trong các lĩnh vực ,các ngành kinh tế tại thời điểm tháng 12 năm 2002 là 5086 .Các lao động được phân chia như sau:
Ngành nông nghiệp có 3789 lao động
Ngành vận tải có 148 lao động
Ngành xây dựng có 230 lao động
Ngành y tế có 18 lao động
Ngành giáo dục có 82 lao động
Đảng ,đoàn thể có 42 lao động
Dịch vụ có 480 lao động
Ngành thuỷ sản có 296 lao động
Do số người lao động trong xã còn chiếm nhiều cho nên hiện nay trên địa bàn xã đã có nhiều phương hướng áp dụng vào sản xuất như .
Phát huy tối đa các lơị thế trong xã tranh thủ sự quan tâm của tỉnh ,huyện .Khai thác tốt các tiềm năng của địa phương đẩy nhanh phát triển kinh tế tạo sự thay đổi cơ bản về cơ cấu kinh tế ,tăng nhanh tích luỹ và cải thiện đời sống duy trì sự ổn định quỹ hiện có .Phát triển toàn diện nông nghiệp ,lâm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thương mại và dịch vụ kết hợp với phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm ,phát triển cây ăn trái thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Phát huy các lợi thế và các nguồn lực trong xã đồng thời tranh thủ gọi các nguồn vốn ưu đãi từ các kênh ,các dự án vốn xoá đói giảm nghèo giúp cho dân có điều kiện phát triển kinh tế .
Tích cực đưa con giống mới có giá trị kinh tế cao vào sản xuất ,tiếp tục mở rộng từ 250 đén 300 ha cây trung vụ thực hiện thâm canh tăng vụ phấn đấu mỗi ha canh tác đạt từ 23,5 đến 24,5 triệu đồng .Không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp phục vụ cho nhân dân .
Về chăn nuôi gia súc gia cầm duy trì và ổn định đàn trâu bò là 1360 con phát triển đàn lợn 5500 đến 7000 con tăng từ 8 đến 9% hàng năm .Đàn gia súc phấn đấu chăn thả từ 58000 đến 72000 con tăng từ 9 đến 10% hàng năm,sản lương thực phẩm khác như trứng ,cá đạt từ 20 đến 28 tấn trên năm tăng từ 6 đến 7%
b. Tình hình sản xuất trồng trọt:
Với điều kiện đất đai rộng, hệ thống tưới tiêu thuận lợi sau 3 năm chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phải đưa khoa học kỹ thuật phát triển, dịch vụ thuỷ nông, cung ứng phân bón thuốc trừ sâu tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ phát triển kinh tế gia đình.
Về cơ bản đã loại bỏ được hết những giống cây trồng cũ thay vào đó là những giống mới cho năng suất cao như lúa lai khang dân. Chính vì vậy cây lạc tính đến năm 97 năng suất đạt 45 đến 45 kg/sào đến nay đạt 100 kg/sào. Đặc biịet là người dân đã ý thức việc trồng cây gì và chăm sóc ra sao vì thế trong xã bà con đã thâm canh 2 vụ rồi đến 3 vụ đưa những giống lúa ngắn ngày vào cấy như khang dân 18, riêng lúa lai đưa vào vụ chiêm năm 2002 đạt 6,3 tấn/ha với 2105 ha. Do thực hiện tăng vụ góp phần đưa tổng lương thực cả năm 2002 đạt 3248 tấn, bình quân đạt 380 kg/khẩu/năm. Bên cạnh đưa giống ngắn ngày phát triển mùa sớm và chung vụ tạo điều kiện cây vụ đông như trồng ngô và các loại hoa mầu khác nhằm tăng thêm thu nhập cho người dân đồng thời cung cấp lương thực cho ngành chăn nuôi phát triển tốt.
Mặc dù trồng cây ngắn ngày đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, song người dân vẫn không thể quên được mô hình cây ăn quả chất lượng cao như cây vải thiều, nhãn, na, hồng, dứa. Với sự chỉ đạo sát sao của Đảng bộ và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân từ diện tích bỏ trống và diịen tích lúa chỉ cấy được 1 – 2 vụ phụ thuộc vào nước nay chuyển sang trồng cây ăn quả đặc trưng là cây vải thiều và các loại cây xen canh khác. Tính đến năm 2002 xã đã trồng được 535 ha cây vải thiều và hơn 100 ha cây ăn trái khác, hiện nay đã có hơn 400 ha cây ăn quả cho thu hoạch. Ngoài diện tích chuyển đổi nhân dân còn quy hoạch vườn tạp thành vườn sản xuất, kết quả cho thấy hiệu quả kinh tế tăng rõ rệt trong vòng 5 năm trở lại đây tử 1998 – 2002 số tiền thu được từ cây ăn quả đặc biệt là cây vải thiều trong xã là:
Năm 1998 là: 2,7 tỷ đồng.
Năm 1999 là 5,6 tỷ đồng.
Năm 2000 là 6,8 tỷ đồng.
Năm 2001 là 7,6 tỷ đồng.
Năm 2002 là trên 8 tỷ đồng.
Hiện nay, giá cả thị trường có sự thay đổi đặc biệt là vải thiều đang có chiều hướng giảm cho nên bà con đang áp dụng biện pháp lai tạo ghép cành đó là ghép những giống vải lai ra sớm.
Về phát triển cây nông nghiệp:
Thực hiện chương trình dự án PAM 4304 của Chính phủ về giao quyền sử dụng đất trồng đồi núi trọc cho nhân dân, năm 1995 toàn xã đã giao cho nhân dân 274 ha đồi để trồng bạch đàn, keo và trồng xen cây ăn quả. Thực hiện tốt việc khai thác tiềm năng đất đai trên địa bàn góp phần phủ xanh đất trống đồi núi trọc tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.
Tóm lại ngành trồng trọt trên địa bàn xã đang có nhiều lợi thế như trồng rừng, cây ăn quả do đó mô hình kinh tế hộ đã góp phần phát triển kinh tế một cách mạnh mẽ. Khi ngành trồng trọt phát triển thì sẽ làm tiền đề để giúp ngành chăn nuôi phát triển.
c. Tình hinh chăn nuôi gia súc , gia cầm.
Do việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng mùa vụ đạt hiệu quả kinh tế cao, nhìn chung đến năm 2002 đời sống nhân dân không ngừng cải thiện và nâng lên,cho nên nhu cầu sinh hoạt tăng việc tiêu thụ hàng hoá nông sản thực phẩm là một phần nhu cầu không thể thiếu được, tạo điều kiện cho phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Trước những thuận lợi và khó khăn . Đảng bộ chính quyền các ban ngành đoàn thể đã vận động nhân dân mạnh dạn đưa giống lợn hướng nạc vào sản xuất ,phát triển đàn bò cao sản đồng thời phát triển đàn gia cầm , đưa các giống gà có sản lượng thịt trứng cao phẩm chất tốt, thực hiện phòng trừ dịch bệnh để chăn nuôi phát triển.
Chăn nuôi phát triển không chỉ góp phần giải quyết việc làm cho người lao động mà còn góp phầntạo việc làm cho người chưa đến tuổi lao động , người hết tuổi lao động và những người có nhu cầu lao động thêm .Chính vì vậycần quan tâm phát triển đưa ngành chăn nuôi thú y thực sự là ngành chính trong sản xuất nông nghiệp.
c1. Tình hình chăn nuôi lợn :
Riêng đốivới xã tình hình chăn nuôi lợn ở đây rất phát triển số đầu lợn nái qua các năm tăng nên , tại xã có trại giống lợn Móng Cái thuần chủng hàng năm đưa ra thị trường rấy nhiều lợn nái giống. Do đó đàn lợn nái rất phát triển , do có số lượng lợn nái lớn thì tỷ lệ lợn con cũng tăng theo, số lượng lợn sữa và lợn thịt rất lớn . Đứng trước thực trạng đó người dân đã biết học hỏi các mô hìnhchăn nuôi lợn theo hướng công nghiệp, toàn bộ lợn con đẻ ra đều đưa vào nuôi công nghiệp mỗi hộ nuôi từ 10 đến 30 con, với thời gian nuôi là 2 tháng rỗi xuất chuồng. Chỉ số ít hộ nuôi theo lối nuôi dài ngày để tận dụng nguồn thức ăn rơi vãi do đó việc chăn nuôi không đạt hiệu quả cao.
Vừa qua chương trình khuyến nông có đề ra một số hộ nuôi thí nghiệm giống lợn ngoại có năng suất cao đưa vào để lai tạo qua các công việc thụ tinh nhân tạo , công tác này phát triển rất mạnh ở các trại giống Tràng Bạch Hiện nay ở xã này đã có 2 cơ sở tư nhân chuyên khai thác tinh từ giống lợn ngoại, và đang nuôi thí điểm lợn đực ngoại lai lợn cái ngoại.
Nếu giống lợn đómà nuôi thành công phù hợp với điều kiện khí hậu của xã thì trong những năm gần đây giống lợn đó sẽ được tung ra thị trường thay dần lợn F1 bằng lợn ngoại . Khi đó số con giống không những cung cấp đủ cho thị trướng trong xã mà còn cung cấp cho các xã lân cận của tỉnh bạn, đap ứng được nguồn thực phẩm có giá trị cho người tiêu dùng.
c2. Tình hình chăn nuôi trâu bò:
Tình hình chăn nuôi trâu cuả xã ngày càng giảm riêng chỉ có bò là tăng. Tuy trước đây đất đai thì nhiều mái móc chưa ra đời thì con người chỉ nhờ vào những con trâu trong việc cày kéo nên số lượng trâu ra tăng . Nhưng trong vài năm trở lại đây người dân lại có xu hướng thả trâu vào rừng một năm chỉ đến mùa vụ hay có đợt tiêm phòng thì mới đưa về còn lại để mặc trâu trong rừng ,do đó dịch bệnh sảy ra không thể kiểm soát nổi .Còn bây giờ thì ruộng đất ngày càng được thu hẹp ,cây trồng thì ngày một lớn vì vậy chăn nuôi trâu không được người dân quan tâm nhiều .Đó cũng là nguyên nhân dẫn tới số lượng trâu giảm .Ngày nay với nền kinh tế hiện đại các máy móc dùng cho nông nghiệp đã về đến tay người dân thay vì giải quyết sức kéo của trâu là các máy móc hiện đại .Mặt khác do đời sống xã hội phát triển mạnh con người cần ăn đầy đủ chất ,thịt của gia súc gia cầm từ lâu là món ăn ngon được con người ưa chuộng vì vậy mà để đáp ứng yêu cầu đó hiện nay người dân ở xã Bình Khê đã chuyển dần nuôi trâu sang nuôi bò thịt ,chỉ có số ít hộ nuôi bò sinh sản bởi bò thịt ở đây là những giống bò cao sản có năng suất cao như bò Lai Sin ,bò sinh sản được giữ để cung cấp con giống cho nông dân .tính đến năm 2003 số bò thịt và bò sinh sản trong toàn xã có đến trên 60 con ,với tỉ lệ 10 bò thịt có 3 bò sinh sản .
c3. Tình hình chăn nuôi gia cầm
Những năm gần đây tình hình chăn nuôi gia cầm ngày càng tăng nhanh bởi họ nhận thức được lợi ích thu được từ chăn nuôi gia cầm , thịt và trứng là nguyên liệu chính giàu protein vừa có giá trị kinh tế cao,lại vừa dễ nuôi vốn thấp ,phân là nguồn phân tốt để cung cấp cho cây trồng và làm thức ăn cho cá . Do vậy phong trào chăn nuôi gia cầm trong những năm gần đây ngày càng tăng nhanh .Một số hộ đã mạnh dạn đưa khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi theo kiểu công nghiệp ,các hộ đã chú trọng việc tiêm phòng như Niucatson, tụ huyết trùng để phòng bệnh ngay từ nhỏ , cho nên bước đầu đã thu lại1kết quả tương đối cao.
Đặc biệt là nhiều hộ chăn gà theo phương thức chăn thả lợi dụng được nguồn đất rộng ,cho nên những thức ăn tự nhiên đã cung cấp 1/2 số thức ăn mà gà cần.
Do vậy những hộ này chủ yếu là bỏ ra một nửa thức ăn cho gà,nên gà nuôi lấy thịt và nuôi lấy trứng đều đạt kết quả tốt. Song bên cạnh đó một số hộ họ lại chưa ý thức được tiêm phòng cho nên những hộ này vẫn có hiện tượng gà chết làm thiệt hại đến kinh tế.
Ưu điểm của phương thức chăn nuôi gia cầm này là chăn nuôi theo lối chăn thả tận dụng nguồn thức ăn sẵn có trong tự nhiên .Ngoài ra chăn nuôi gia cầm không đòi hỏi kĩ thuật cao vốn thấp dễ nuôi ,người dân chỉ cần nắm một vài điều cơ bản như đến bao nhiêu tuổi thì tiêm phòng được ,ngoài ra còn làm được các công việc khác
Nhược điểm : Bên cạnh đó còn những hộ chăn nuôi ít lại không đầu tư thức ăn phải chăm sóc và vườn chật trội không chú ý tới việc phòng bệnh cho gia cầm cho nên dịch bệnh vẫn sảy ra hiệu qủa chăn nuôi thấp .
Bảng 1: Bảng thống kê đàn gia súc gia cầm trong 3 năm
STT
Loài động vật
Đơn vị
Năm
2001
2002
2003
1
Trâu
Con
840
779
760
2
Lợn
Con
3296
3450
4066
3
Chó
Con
1147
1160
2006
4
Mèo
Con
389
602
1536
5
Bò
Con
35
8
60
Nhận xét : Qua bảng thống kê ta thấy nhịp tăng giảm của gia súc gia cầm như sau :
Đàn trâu từ năm 2001 so với năm 2003 thì đàn trâu bị giảm
Đàn lợn từ năm 2001 so với năm 2003 tăng lên
Đàn Chó từ năm 2001so với năm 2003 tăng lên
Đàn Mèo từ năm 2001 so với năm 2003 tăng lên
Đàn Bò từ năm 2002so với năm2001giảm và 2003 so với năm 2002 tăng lên
d. Công tác thú y
Những năm gần đây nền kinh tế phất triển mạnh ,nền kinh tế thị trường sôi động hàng hoá lưu thông đời sống nhân dân được lâng cao nhu càu rau quả thực phẩm ngày càng nhiều do vậy những năm gần đây xã Bình Khê đã phát triển mạnh về chăn nuôi .Các trang trại tư nhân ra đời , hiện nay tỉnh và huyện đã quan tâm chú trọng về phòng và trị bệnh cho gia súc, gia cầm.
Được sự chỉ đạo của cấp trên mà từ nhữnh năm 80 xã đã cử mấy đồng chí đi học về chăn nuôi thú y để làm công việc phòng chống dịch bệnh cho xã nhà .
Vì vậy hàng năm cứ đến tháng 3-4 và tháng 9-10 lại có đợt tiêm phòng cho gia súc , gia cầm do ban thú y huyện chỉ đạo ,do đó ban thú y xã thường xuyên kiểm tra giám sát tình hình dịch bệnh cho đàn gia súc , gia cầm vào thời gian chuyển mùa ,ở đây khí hậu cũng ảnh hưởngđến sức đề kháng của gia súc ,gia cầm ,các loại vi rút vi khuẩn sẵn có trong cơ thể con vạt chỉ chờ cơ hội là chúng hoành hành gây bệnh nên việc phòng bệnh được tiến hành đầu tiên tiếp đó là theo dõi tình hình dịch bệnh nguy cơ có thể xẩy ra ,nếu là bệnh dịch nguy hiểm phải báo ngay cho cơ quan thú y cấp trên để có biện pháp xử lý khoanh vùng dịch bệnh để chúng không có điều kiện lây lan sang các vùng khác và có biện pháp cụ thể để dập tắt dịch ,đảm bảo an toàn trong chăn nuôi.
Tình hình dịch bệnh trong 3 năm qua.
Mặc dù mạng lưới thú y đã phủ kín từng thôn xóm công tác tiêm phòng đã được thực hiện hàng năm.Nhưng chúng ta cũng không sao tránh khỏi được bệnh,chỉ có điều bệnh xẩy ra ở đây chỉ cóở vài nhà trong thôn như bệnh tụ huyết trùng , phù đầu , đóng dấu vv.. song vấn đề đó là đương nhiên bởi hầu hết những con mắc bệnh đều là những con rơi vào trường hợp những gia đình không tiêm phòng, còn đối gia cầm hiện nay trên địa bàn xãmới phát hiện được 2 loại bệnh là tụ huyết trùng và Niucatsơn về bệnh Niucatsơn là một số hộ họ không nuôi gà nhưng họ lại mua gà bị bệnh về thịt ăn , với một khu vườn rộng lớn chưa được xây dựng kín , gia cầm lại không được tiêm phòng thành thử bệnh dịch lây lan từ nhà này sang nhà khác đẫn đến sốgà bị chết đã gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi.
Dịch bệnh xẩy ra chủ yếa vào thời gian chuyển mùa khí hậu nóng ẩm đột ngột dễ làm bệnh phát sinh.Khi dịch bệnh xẩy ra cán bộ thú y đã dùng hết khả năng của mình để chữa trị song những con quá nặng thì không thể khỏi còn những con khỏi chiếm tỷ lệ ít.
Nhận Xét :
Nhìn chung tình hình phát triển chăn nuôi ở đây cho năng suất không cao , vì đa số bà con đều chăn nuôi theo kiểu tận dụnh nguồn thúc ăn tự nhiên . Việc đầu tư vào chăn nuôi chưa nhiều ,hiểu biết về khoa học kỹ thuật chưa sâu nên vẫn để dich bệnh xẩy ra.Tuy là ít song đây cũng là vấn đề trở ngại cho người chăn nuôi. Theo số liệu thống kê tỷ lệ khỏi bệnh đạt từ 90-95%với tỷ lệ này đã tăng lên hàng năm nhưng vẫn thiệt hại nhiều về kinh tế là do dân hiểu biết chưa sâu về công tác tiêm phòng và chữa trị nên đã gây thiệt hại không đáng có.
Bảng2: Bảng thống kê dịch bệnh gia súc gia cầm trong 3 năm từ
Năm 2001 đến tháng 6-2003
Loài gia súc
2001
2002
2003
Số con mắc
Số con khỏi
Tỷ lệ %
Số con mắc
Số con khỏi
Tỷ lệ %
Số con mắc
Số con khỏi
Tỷ lệ %
Tụ huyết trùnglợn
90
85
94
120
100
83
135
120
89
Tụ huyết trùng gà
200
40
20
100
50
50
80
40
50
Phù đầu ở lợn con
80
50
63
100
60
60
105
60
57
Đóng dấu lợn
35
31
88
31
30
96
42
35
85
Tiêu chảy lợn
300
288
96
200
120
60
100
80
80
Niucatsơn gà
199
109
54
190
160
84
192
140
73
Phần III :
Nội dung và kết quả thực tập
A. Báo cáo chuyên đề
Thực hiện đề tài:
“Theo dõi một số chỉ tiêu về sự sinh trưởng phát dục của gà ri
từ 1-3 tuần tuổi”
I. Đặt vấn đề (Lý do làm thí nghiệm)
Ngành chăn nuôi ở nước ta hiện nay đang phát triển rất nhanh và mạnh. Trong đó phát triển mạnh hơn cả là chăn nuôi lợn và gia cầm. Qua thời gian tìm hiểu tại địa phương mình em nhận thấy rằng nhu cầu về thịt trứng là rất nhiều , nhất là những sản phẩm đựoc lấy từ gia cầm.
Vì lẽ đó em đã ngiên cứu đề tài “Theo dõi một số chỉ tiêu về sự sinh trưởng phát dục của gà ri từ 1-3 tuần tuổi “.Để cung cấp để cung cấp cho người tiêu dùng những con gà có phẩm chất tốt và đồng thời tạo ra những giống gà ri có dá trị dinh dưỡng cao được nhiều người ưa chuộng , dễ nuôi ở mọi gia đình .Giống gà ri sống ở mọi nơi của nước ta , mào đơn lá tai đỏ màu lông vàng nâu thường là màu pha tạp ,da gà có màu vàng hoạc màu trắng ,tầm vóc thanh ,nhanh nhẹn thân tương đối ngắn ,chân cao vừa phải đầu nhỏ mào bé ,xương nhỏ lông xếp xít vào thân,ở tuổi trưởng thành gà trống nặng từ 1,5-2,0 kg con mái từ 1,1-1,6kg sản lượng trứng từ 70-90quả trọng lượng trứng 45-50g.
Khả năng đề kháng củ với bệnh tốt dễ nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên vả nuôi gà ri phù hợp với mọi phương thức nuôi chăn thả hay nuôi công nghiệp.
II. Cơ sở lý luận :
Gà ri là gà rễ nuôi và cho thịt ngon nhưng nó lại có nhược điểm là năng suất thịt và trứng thấp hơn với các giống gà khác. Mặc dù nuôi gà ri rất phù hợp với điều kiện địa phương mình nhưng người chăn nuôi thì rất muốn có lãi vì vậy việc đầu tiên là phải chọn những cá thể tốt trong cùng một giống gà, qua cách nuôi công nghiệp từ 1-3 tuần với sự theo dõi tỷ mỉ sát sao ,em đã theo dõi được tốc độ sinh trưởng của gà,có nhiều con lớn rất nhanh từ đó em cung cấp con giống tốt ,như vậy người chăn nuôi sẽ có con giống tốt , khi có con giống tốt quá trình quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng mới đạt hiệu quả kinh tế cao .ngoài ra khi gà con còn nhỏ thì khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh rất khó ,vì vậy ta cần phải chăm sóc nuôi dưỡng tốt ,cơ sở nuôi phải đảm bảo đúng qui trình kỹ thuật .Có như vậy thì đàn gà mới sinh chưởng và phát triển tốt và người chăn nuôi mới có lãi .
III. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
1.Nuôi dưỡng
Trong chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng muốn có gia súc gia cầm nhanh lớn thì chúng ta phải quan tâm đến vấn đề thức ăn rồi mới đến chăm sóc vệ sinh thú y …Bởi thức ăn có tốt con vật mới nhanh lớn ,trong cùng một đàn gà cùng giống song có hai loại thức ăn ,một loại giúp gà lớn một cách rõ rệt loại kia thì làm cho gà phát triển và tăng trọng chậm .Vì vậy trên thị trường hiện nay đã bán nhiều loại thức ăn hỗn hợp như : Hibro,Proconco …Loại thức ăn Proconco thì nhiều người sử dụng vì nó giúp gà tăng trọng nhanh lại phù hợp với gà nuôi công nghiệp từ 1 đến 3 tuần tuổi loại thức ăn này có đầy đủ các chất như đạm Lipit Vitamin ,NaCl,Ca,P,Xơ thô ….Loại gà vịt ngan ngỗng đều sử dụng rất tốt ,tốc độ sinh trưởng nhanh ,mặt khác loại thức ăn này dễ sử dụng do đó em chọn loại thức ăn Proconco liên doanh Việt Pháp để dùng làm thức ăn cho gà trong quá trình thực hiện đề tài .
Bảng 3: Lượng thức ăn cho gà qua các tuần tuổi (g/con/ngày)
Tuần tuổi
Gà ri(g)
1
7
2
13
3
20
Là thức ăn hỗn hợp cho gia cầm phải đảm bảo đủ chất và số lượng tuỳ theo độ tuổi của gà,giống gà ,hướng sản xuất để đảm bảo cho thức ăn thích hợp trong các cơ sở chăn nuôi cũng như chăn nuôi gà gia đình có thể phối hợp các khoáng chất sau :
Bảng 4: Chất lượng thức ăn cho gà
Chất lượng thức ăn
Tuần 1
Tuần 2
Tuần 3
Đạm(min%)
22
22
22
Kcal/kg thức ăn
2900
2900
2900
Ca(min-max%)
0,7-1,4
0,7-1,4
0,7-1,4
P(min%)
0,5
0,5
0,5
NaCl(min-max%)
0,2-0,7
0,2-0,7
0,2-0,7
Xơ thô(max%xơ)
5
5
5
Độ ẩm (max%)
13
13
13
Salinonycine(mg/kg)
60
60
60
2. Chăm sóc :
Gà con khi còn nhỏ thì phải cần có sự chăm sóc tốt bởi vì nếu không chăm sóc tốt thì sẽ làm cho gà chết cho nên trong quá trình nuôi dưỡng ta cần chú ý và phải có đủ các điều kiện như sau:
a. Thiết bị và dụng cụ chăn nuôi:
* Đệm lót :
Đảm bảo khô sạch chuẩn bị một lượng chấu đủ để phủ dày 8-10 cm. Trên toàn bộ diện tích chuồng trước khi đưa gà về phải tẩy uế khử trùng bằng fooc mol 2%và sau 24 giờ tẩy bằng fibrdan 20g/100 lít nước.
* Rèm che:
Dùng vải bạt che kín toàn bộ hai bên chuồng (chừa 30-40 cm) ở phía trên để không khí lưu thông.
Tuần 1:
Che kín toàn bộ hai bên.
Tuần 2:
Ban ngày che kín bên gió thổi ,ban đêm che kín hoàn toàn.
Tuần 3:
Cả ngày chỉ che kín bên gió thổi.
* Chụp sưởi:
Chọn loại chụp sưởi thích hợp , trước khi đưa gà về chuồng phải bật toàn bộ hệ thống chụp sưởi từ 18-24 giờ.
* Máng ăn , máng uống:
Phải chuẩn bị đày đủ khay ăn và máng uống đặt xen kẽ nhau theo hình rẻ quạt.
b. Chuồng trại:
Gà con một ngày tuổi được nuôi trong quây, quây làm bằng cót ép có chiều cao 45-46 cm đường kính 2,5-3m, mật độ nuôi mỗi quây là 200-300 con, nuôi 4-5 ngày ta lới rộng quây ra.
Bảng 5: Mật độ nuôi thích hợpcho gà.
Tuần tuổi
Số con/m2
1
50
2
20
3
18
c. Nhiệt độ chuồng nuôi:
Tuần đầu phải đảm bảo vì gà còn nhỏ cơ thể còn yếu, lông thưa, điều hoà thân nhiệt kém. Vì vậy khi nuôi gà phải cónguồn nhiệt để sưởi ấm cho gà tuỳ theo tuần tuổi mà điều chỉnh nhiệt cho phù hợp. Nếu nhiệt độ quá cao thì ức chế sự chao đổi chất làm giảm sự sinh trưởng của gà, nếu nhiệt độ thấp quá sẽ làm cho gà con nhết hàng loạt , nếu nhiệt độ thấp gà sẽ tụ lại chen chúc nhau dưới nguồn nhiệt, nếu nhiệt độ cao quá gà tản xa nguồn nhiệt thở nhiều, uống nước nhiều , ăn ít. Nhiệt độ thích hợp gà tản đều nhanh nhẹn , ăn uống tốt đảm bảo cho gà ở tuần tuổi thứ nhất em dùng quây dể quây lại và treo nguồn nhiệt ở chính giữa (ngang tầm sống lưng gà) nhiệt độ ở chụp suởi ban đầu lạ 32-35°c sau mỗi tuần hạ xuống 30°c cho đến khi đạt 20°c.
Bảng 6: Nhiệt độ thích hợp chogà từ 1-3 tuần tuổi.
Tuần tuổi
Nhiệt độ chuồng nuôi
Nhiệt độ chụp sưởi
1
25-27
32-35
2
23-25
30-32
3
20-23
27-29
Hàng ngày sử dụng nhiệt kế kiểm tra nhiệt độ trong chuồng và trong quây vào thời gian như sau:
Buổi sáng từ 7 giờ 30phút – 8giờ
Buổi trưa từ 12 giờ 30 phút – 13 giờ
Buổi chiều từ 15 giờ 30phút – 16 giờ
d. Máng ăn – máng uống:
* Máng ăn:
Gà con trong đầu tuần dùng khay vuông có kích thước 70 x 70 , một quây em dùng 1khay mật độ 100coc/khay .Từ tuần thứ hai em dùng máng tròn p50 loại máng lày hạn chế được sự rơi vãi , đảm bảo vệ sinh , định mức một máng p50cho 50 gà cả hai loại máng này phân bố đều trong quây và luôn chỉnh độ cao ngang tầm sống lưng gà ,thức ăn đổ đầy 1/2 dung tích máng tròn để tránh sự rơi vãi ,cho thức ăn 2-3 lần trên ngày.
* Máng uống:
ở tuần đầu khi gà còn nhỏ em dùng máng uống galon bằng nhựa định mức 50 con /máng ,máng uống phải đảm bảo sạch sẽ , ngày thay nước 2-3 lần .Em cho gà uống nước đường glucô sau 20-30 phút mới cho gà ăn cám . Sang tuần tuổi thứ hai , thứ ba em dùng máng uống dài , máng ăn máng uống bố trí xen kẽ nhau sao cho gà không đi quá 3m để ăn và uống. Hàng ngày em vệ sinh máng ăn , máng uống sạch sẽ.
3. Công tác phòng bệnh:
Trước khi đưa gà về chuồng trại phải được vệ sinh sạch sẽ ,trang thiết bị dụng cụ quét sạch ,cọ rửa nền kể cả tường lưới.Sau 24 g._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC721.doc