Lời nói đầu
Cùng với đổi mới các cơ chế chính sách kinh tế- xã hội, Đảng ta đã sớm có chủ trương chuyển đổi một số doanh nghiệp Nhà nước thành sở hữu tập thể. Chủ trương này đã nêu ra tại các Nghị quyết của Đảng từ Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành Trung ương Khoá 7 tháng 12/1991 “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”.
Xuấ
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Tổng hợp về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và làm gì để đẩy mạnh cơ phần ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t phát từ chủ trương đó, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là để huy động thêm vốn, tạo điều kiện người lao động trong doanh nghiệp làm chủ thực sự, tạo động lực bên trong, thay đổi phương pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và cách cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời tiến hành phân loại doanh nghiệp để cổ phần hoá. Loại doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, loại doanh nghiệp nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, doanh nghiệp còn lại thuộc loại cổ phần hoá.
Từ các lập luận trên em đã quyết định viết về đề tài “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và làm gì để đẩy mạnh cơ phần ở Việt Nam hiện nay”
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Lê Việt đã hướng dẫn em để hoàn thiện đề tài này.Do thời gian có hạn nên bài viết này có gì sai sót xin thầy cô góp ý và chỉ bảo thêm cho em để những bài viết sau em sẽ thành công hơn.
Chương I Những lý luận về cổ phần hoá
I.Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện hình thức công ty cổ phần và xí nghiệp cổ phần
Như bất kỳ một hiện tượng kinh tế nào khác CTCP ra đời và phát triển trong những điều kiện lịch sử và xã hội nhất định. Sự ra đời của các CTCP có những nguyên nhân thực tiễn phát sinh từ nhu cầu tất yếu khách quan của đời sống xã hội cụ thể:
_ Sản xuất phát triển, xuất hiện nhu cầu mở mang kinh doanh, nhu cầu vốn và buộc các nhà kinh doanh phải liên kết nhau theo hình thức nhất định- các công ty cổ phần.
_ Nền sản xuất hàng hoá phát triển, sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường cũng là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của các công ty do các nhà kinh doanh phải liên kết với nhau lại thông qua hình thức góp vốn để thành lập công ty nhằm tạo ra thế vững chắc trên thị trường.
_Trong kinh doanh thường găp phải những rủi ro( đây là một trong những quy luật tất yếu của nền Kinh tế thị trường bên cạnh khả năng kiếm tìm lợi nhuận). Do vậy để cổ phần hoá rủi ro thì nhà kinh doanh thường liên kết với nhau để nếu có rủi ro thì nhiều người cùng chịu.
II. Lịch sử ra đời của các CTCP trong CNTB
Như bất kỳ một hiện tượng kinh tế nào khác, công ty CTCP ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử và xã hội nhất định. Sự ra đời của các công ty có những nguyên nhân thực tiễn phát sinh từ nhu cầu tất yếu khách quan của đời sống xã hội cụ thể:
Thứ nhất, sản xuất hàng hoá phát triển, xuất hiện nhu cầu mở mang kinh doanh, nhu cầu vốn và buộc các nhà kinh doanh phải liên kết với nhau theo hình thức nhất định - các công ty.
Thứ hai, nền sản xuất hàng hoá phát triển, sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường cũng là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời công ty do các nhà kinh doanh phải liên kết nhau lại thông qua hình thức góp vốn để thành lập công ty nhằm taọ ra thế đứng vững chắc trên thị trường.
Thứ ba, trong kinh doanh thường gặp phải những rủi ro (đây là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, bên cạnh khả năng tìm kiếm lợi nhuận). Do vậy, để cổ phần hoá rủi ro nhà kinh doanh thường liên kết với nhau để nếu rủi ro thì nhiều người cùng gánh chịu.
CTCP ra đời hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan, nó là kết quả tất yếu của quá trình giảI quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu tập trung vốn lớn trong một khoảng thời gian ngắn với sự hạn chế của mỗi nguồn vốn riêng lẻ, có nguyên nhân sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, được tác động trực tiếp bởi cạnh tranh và sự phát triển của các quan hệ tín dụng và ngân hàng.
III. Sự cần thiêt hình thành các xí nghiệp, công ty cổ phần ở Việt Nam
1. Vai trò của công ty cổ phần
Từ khi ra đời đến nay, các CTCP đã đóng vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội được thực tế lịch sử ghi nhận.
Một là, Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước làm cho quy mô sản xuất được mở rộng một cách nhanh chóng, sớm ra đời các doanh nghiệp lớn cần một lượng vốn lớn mà không một chủ thể riêng lẻ nào có thể thực hiện được.
Hai là, CTCP thu hút rộng rãi vốn xã hội vào mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong các CTCP, một cổ phần góp vốn được ghi trên mặt cổ phiếu (mệnh giá cổ phiếu) thường được quy định từ mức rất thấp. VD: Pháp: 3 Frăng; Mĩ: 1-5 USD, Đức: 1-7 DM... Vì thế, cách huy động vốn của CTCP không chỉ thu hút được vốn từ các nhà đầu tư lớn mà còn tạo ra cơ hội để người lao động kể cả người nghèo có thể mua được cổ phiếu. CTCP là một hình thức để thu hút vốn tiền tệ trong xã hội.
Ba là, từ chỗ được hình thành trên cơ sở xã hội hoá. CTCP lại đẩy nhanh xã hội hoá sản xuất, thu hút đông đảo lực lượng xã hội vào quản lý, đồng thời vẫn đề cao vai trò quản lý chyên nghiệp.
Bốn là cổ phiếu là một công cụ tài chính quan trọng định hương đầu tư của xã hội và ngành, các lĩnh vực kinh tế có tương lai. Điều này càng trở nên có ý nghĩa đối với các nước muốn đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại trong sự kết hợp vai trò của cơ chế thị trường với sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Năm là, CTCP tạo ra cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù, đồng thời tạo ra khả năng tồn tại lâu bền cho doanh nghiệp, đây là một đặc thù mà các loại hình doanh nghiệp khác không thể có được.
2. Cổ phần hoá-xu hướng tất yếu của kinh tế thị trường phát triển
Đầu những năm 90 quy mô cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước diễn ra chưa từng thấy, trở thành hiện tượng phổ biến, là xu hướng tất yếu của nền sản xuất xã hội và nền kinh tế thị trường phát triển. Cơ sở của xu hướng này là:
2.1. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước phát triển tràn lan, lại không được tổ chức và quản lý tốt. Quản lý kinh tế theo kiểu hành chính, qua nhiều cấp trung gian; hệ thống kế hoạch, tài chính cứng nhắc, thiếu khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường. Tính chủ động trong sản xuất kinh doanh bị gò bó bởi nhiều quy chế xuất phát từ quyền sở hữu của Nhà nước. Sự độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước được pháp luật bảo vệ.
2.2. Do hoạt động kém hiệu quả nên các doanh nghiệp Nhà nước đã trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Nhà nước phải thường xuyên sử dụng ngân sách trợ cấp trực tiếp và gián tiếp cho chúng, điều đó dẫn đến ngân sách bị thiếu hụt.
2.3. Về nhận thức lý luận, có sự thay đổi quan điểm về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Từ “chủ nghĩa tư bản điều tiết” của Keynes đến “chủ nghĩa tự do mới”, rồi “nền kinh tế hỗn hợp” của Samuenson; sự thay đổi nhận thức từ chỗ nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước đến coi trọng khu vực kinh tế tư nhân và vai trò tự điều tiết của cơ chế thị trường, và hiện nay là sự phổ biến của mô hình “nền kinh tế hỗn hợp giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân”. Quan điểm này đã làm thay đổi tư duy kinh tế của các chính phủ, dẫn đến xu hướng đánh giá lại vai trò và hiệu quả kinh tế xã hội của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một giải pháp mà hầu hết các nước đều coi trọng, bắt nguồn từ sự thay đổi quan điểm nói trên.
2.4. Sức hấp dẫn từ những ưu điểm công ty cổ phần. so với các doanh nghiệp bình thường khác, công ty cổ phần có sức sống mạnh hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn rõ rệt và vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội, đáp ứng yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế thị trường. Hình thức thựchiện chế độ sở hữu rất đa dạng, phong phú.thước đo sự đúng đắn của các hình thức đó là tác dụng thu hút, tập hợp và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong xã hội, tạo động lực cho phát triển. Thực tế phát triển của kinh tế thị trường cho thấy, loại hình công ty cổ phần hội tụ đủ các yếu tố trên, ngược lại, loại hình doanh nghiệp đơn sở hữu (dù là tư nhân hay sở hữu Nhà nước) sẽ bị hạn chế trong đầu tư và cạnh tranh.
Suy cho cùng, cổ phần hoá là xu hướng tất yếu của nền sản xuất xã hội hoá và nền kinh tế thị trường phát triển. Việc chuyển các doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần là do tính xã hội hóa của sản xuất, do quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường quyết định và thúc đẩy, đó là qúa trình khách quan, không phải do ý muốn chủ quan của bất kỳ thể chế chính trị hay cá nhân nào.
Chương II Thực trạng cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam
I. Quy trình chuyển doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần
Phân loại doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá:
_ Loại doanh nghiệp chưa tiến hành cổ phần hoá.
_ Loại doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá nhưng nhà nước cần nắm cổ phiếu chi phối, cổ phần đặc biệt.
_ Loại doanh nghiệp hiện có không thuộc hai loại trên đều có thể thực hiện cổ phần hoá mà nhà nước không cần giữ cổ phiếu chi phối.
Các hình thức cổ phần hoá
_ Giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
_ Bán một phần thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
_ Tách một bộ phận của doanh nghiệp để cổ phần hoá.
_ Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
II. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Từ khi có chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của Đảng và Chính phủ đến nay, quá trình cổ phần hoá có thể phân chia làm 3 giai đoạn. Cụ thể:
1. Giai đoạn thí điểm cổ phần hoá (từ 5/1990 đến 4/1996).
Ngay từ những năm đầu thập kỷ 80, Đảng và Nhà nước đã chú trọng cải tiến quản lý doanh nghiệp Nhà nước, coi đây là nhiệm vụ có tính quyết định để thúc đẩy kinh tế Nhà nước phát triển. Đặc biệt, sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), thực hiện sự nghiệp đổi mới, Chính phủ đã ban hành một loạt pháp lệnh, Nghị định nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước.
Đến đầu năm 1990, trên cơ sở đánh giá kết quả sau 5 năm đổi mới, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/5/ 1990 về chủ trương thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện mô hình khoán, cho thuê xí nghiệp quốc doanh.
Đến năm 1992, cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước có phần chững lại, lúng túng. Nếu không có “ông chủ” thực sự của doanh nghiệp Nhà nước thì không thể giải quyết triệt để những vấn đề hiện tại. Tuy vậy, sau 5 năm kể từ khi chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được khởi xướng (năm 1987 đến năm 1992) vẫn không triển khai được đơn vị nào.
Nhằm tiếp tục cải cách doanh nghiệp Nhà nước và giải quyết các vấn đề nêu trên, ngày 8/6/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 202/ CT, chỉ đạo tiếp tục triển khai việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước bằng việc thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Như vậy, thời gian này có thể được coi là cái mốc để nước ta bước vào giai đoạn thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Đến ngày 31 - 12 - 1993, cả nước đã có hơn 30 doanh nghiệp Nhà nước đăng ký thực hiện thí điểm cổ phần hoá. Bộ tài chính đã quy định danh sách 19 doanh nghiệp là đại diện cho các loại hình sản xuất kinh doanh trong số này để thực hiện thí điểm cổ phần hoá. Cuối cùng Chính phủ chỉ chọn 7 doanh nghiệp làm thí điểm .
Đây là giai đoạn đầy khó khăn nhiều cơ chế vận hành của cổ phần hoá và cổ phần hoá là vấn đề rất mới ở Việt Nam.
2. Giai đoạn mở rộng cổ phần hoá (từ 5/1996 đến 6/1998).
Qua 4 năm thực hiện thí điểm cổ phần hoá, tuy kết quả còn ít, nhưng đã có những kinh nghiệm bước đầu cho việc mở rộng cổ phần hoá trong thời gian tiếp theo. Để đáp ứng nhu cầu bức xúc về vốn của các doanh nghiệp Nhà nước và đẩy mạnh cổ phần hoá, ngày 7 - 5 - 1996 Chính phủ ban hành Nghị định 28/CP với những quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ hơn về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần thay thế quy định 202/CP.
Nghị quyết số 28/CP ra đời đã giải toả được một số vướng mắc gặp phải trong giai đoạn cổ phần hoá thí điểm, lần đầu tiên các vấn đề như mục đích, yêu cầu, đối tượng, phương thức tiến hành cổ phần hoá, thủ tục chuyển đổi thành công ty cổ phần, chế độ đối với doanh nghiệp cổ phần hoá và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá được thể hiện một cách có hệ thống, cụ thể. Vì vậy, cổ phần hoá đã được các cấp, các ngành quan tâm hơn trong việc triển khai.
3. Giai đoạn thúc đẩy cổ phần hoá (từ 7 - 1998 đến nay).
Từ kinh nghiệm cổ phần hoá trong các giai đoạn trước, để hoàn thiện một bước về cơ chế, chính sách và đẩy mạnh hơn nữa cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ngày 29/6/1998 Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CPvề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước thay thế cho các Nghị định và Quyết định trước đó.
Cùng với Chỉ thị 20/1998/CT - TTg ngày 21/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Nghị định này đã khắc phục một số điểm còn hạn chế trong Nghị định trước, thay đổi một cách căn bản cơ chế, chính sách. Cổ phần hoá hiện nay theo hướng mở rộng ưu đãi, đơn giản hoá thủ tục, bảo đảm thoả đáng chính sách xã hội đối với người lao động... nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Cùng với việc ban hành Nghị định này của Chính phủ các cơ quan hữu trách đã ban hành kịp thời các Văn bản và Thông tư hướng dẫn quy trình cổ phần hoá một cách rõ ràng, đầy đủ hơn.
Nhằm huy động vốn, công nghệ, phương pháp quản lí doanh nghiệp của nước ngoài ngày 28/6/1999 Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định 145/1999/QĐ-TTg về quy chế bán cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài với tổng trị giá người nước ngoài mua không vượt quá 30% vốn điều lệ; trường hợp nhiều nhà đầu tư đăng ký mua vượt quá 30% thì thực hiện bán đầu giá. Kèm theo quyết định trên, Chính phủ ban hành phụ lục các doanh nghiệp Nhà nước được bán cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm: dệt may, sản xuất giày, dép; chế biến dự án; sản xuất, chế biến nông, lâm, thuỷ sản; sản xuất hàng tiêu dùng khác; sản xuất vật liệu xây dựng; vận tải đường bộ, đường thủy nội địa bằng container; sản xuất đồ chơi trẻ em; thương mại, dịch vụ , khách sạn; sản xuất vũ khí. Cùng với những đổi mới nêu trên, công tác tuyên truyền vận động và tổ chức thực hiện cổ phần hoá cũng được tăng cường. Chính phủ có biện pháp chỉ đạo sát sao như giao chỉ tiêu cổ phần hoá cho các Bộ, địa phương, Tổng công ty 91 và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện, tích cực giải quyết khó khăn, vướng mắc, phát hiện vấn đề mới phát sinh. Chỉ trong 6 tháng cuối năm 1998 đã có 90 Doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá gấp 3 lần so với kết quả của cả thời gian trước đó. Năm 1999 được xem là một năm “bội thu” của công cuộc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước-250 doanh nghiệp. Như vậy, sau hai năm kể từ khi nghị định 44/1998/NĐCP ra đời đã có gần 400 doanh nghiệp cổ phần hoá, trong khi đó 8 năm trước chỉ cổ phần hoá được 30 doanh nghiệp. Tuy nhiên, sang năm 2000 quá trình CPH bị chậm lại, chỉ có CPH được 212 DN và bộ phận DN. Nếu tính cả giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê thì đến hết năm 2001 đã có 808 đơn vị được chuyển sang hoạt động theo luật DN chiếm khoảng 13% tổng số DNNN hiện có trong đó CPH chiếm 727 DN.
Bảng 1: Số DNNN CPH qua các năm
Năm
90-92
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Thực hiện
0
2
1
2
5
7
100
250
212
204
148
537
(Nguồn Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương)
III Những thành tựu đạt được trong cổ phần hoá
1. Tiến độ cổ phần hoá bước đầu được cải thiện
Kể từ khi có chủ trương chuyển một số DNNN sang CTCP đến nay, việc tiến hành CPH DNNN ở nước ta đã trải qua hơn 10 năm. Tính đến hết tháng 11 năm 2001, cả nước đã chuyển được hơn 700 DNNN sang CTCP.
Số lượng DNNN chuyển sang CTCP (5/1990 - 11/2001)
Giai đoạn CPH
Thời gian
CTCP
1. Thí điểm (từ 5/1990 đến 4/1996)
6 năm
5
2. Mở rộng (từ 5/1996 đến 6/1998)
2 năm
25
3. Thúc đẩy (từ 7/1998 đến 11/2001)
3 năm
670
Tổng cộng:
11 năm
700
Giai đoạn từ 5/1990 tức là mất 6 năm, cả nước mới CPH được 5 DNNN. Nhưng gần đây, từ 7/1998 đến 11/2001 đã CPH được 700 doanh nghiệp. Đây là một sự tiến bộ ban đầu cần tiếp tục phát huy.
Trước đây, việc triển khai CPH 1 doanh nghiệp thường kéo dài trung bình 2 năm. Có doanh nghiệp phải 3 năm (Nhà máy giày Hiệp An), có doanh nghiệp phải kéo dài 5 năm (Công ty xe khách Hải Phòng). Nhưng gần đây, thời gian CPH 1 DNNN đã có chiều hướng rút ngắn lại do đã khắc phục được một số vướng mắc trong quy tình CPH. Có doanh nghiệp chỉ 3 tháng đã tiến hành CPH xong. Có thể nói, đây là một sự tiến bộ bước đầu về tốc độ tiến hành CPH DNNN ở nước ta.
2. Đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá
- Huy động được lượng vốn lớn, thay đổi phương thức quản lý, điều hành doanh nghiệp Nhà nước; tạo sự đồng tình ủng hộ cao của người lao động và các nhà đầu tư trong, ngoài nước.
- Nâng cao tính tự chủ, đổi mới quản trị trong doanh nghiệp.
Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần là chuyển hoạt động của doanh nghiệp từ chỗ chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước sang Nhà nước quản lý thông qua công cụ pháp luật, chính sách…Hoạt động của doanh nghiệp chịu sự tác động trực tiếp của cơ chế thị trường. Điều này buộc doanh nghiệp phải đổi mới hoạt động quản trị từ tư tưởng dựa dẫm vào sự bao cấp của Nhà nước sang tư tưởng tự lực, lời ăn, lỗ chịu.
Bộ máy quản lý công ty cũng được bố trí tinh giảm, gọn nhẹ, giám đốc điều hành do hội đồng quản trị thuê. Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần do đại hội cổ đông bầu ra, thực sự là đại diện cho cổ đông, khác với bộ máy quản lý trong doanh nghiệp Nhà nước – do Nhà nước bổ nhiệm.
- Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tăng lên rõ rệt.
Hình thành cơ chế phân phối mới ở các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá theo hướng phát huy các nguồn lực trong điều kiện kinh tế thị trường.
3. Đối với Nhà nước
- Sở hữu Nhà nước bước đầu được cấu trúc lại theo yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
- Vốn và tài sản Nhà nước không chỉ được bảo toàn mà còn tăng lên đáng kể.
- Nhà nước không phải mất một khoản ngân sách để hỗ trợ vốn hoặc bù lỗ hàng năm cho các doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá như các thời kỳ trước đây.
- Đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước.
Việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã thúc đẩy quá trình quản lý Nhà nước từ trực tiếp sang gián tiếp; thúc đẩy củng cố, nâng cao hiệu lực của hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ. Các cơ quan quản lý Nhà nước không còn vướng nhiều vào quản lý những nội dung như vốn, lao động, những tác nghiệp của công ty cổ phần mà tập trung vào nghiên cứu, xây dựng môi trường pháp lý phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
4. Đối với người lao động:
- Phát huy được vai trò làm chủ của người lao động trong quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước.
- Thu nhập của người lao động tăng lên.
5. Thu hút thêm lực lượng lao động xã hội.
6. Góp phần thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán.
7. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới; thúc đẩy quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Không thể có nền kinh tế thị trường thực sự khi trong nền kinh tế không có các công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển đổi chung của nền kinh tế, đồng thời còn trực tiếp góp phần làm “năng động hoá”, nâng cao sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế.
IV. Những khó khăn và vướng mắc trở ngại cần tháo gỡ.
- Một bộ phận công nhân viên choc cán bộ lãnh đạo doanh
nghiệp nhà nước, một số cơ quan liên quan chưa thông suốt chủ trương cổ phần hoá làm chậm chễ ở từng khâu, từng doanh nghiệp trong việc triển khai.
- Công tác chỉ đạo, hướng dẫn và triển khai cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thuộc bộ đôI khi còn lúng túng, thiếu cương quyết trong việc quản lý công nợ, lao động dôi dư còn trông chờ vào sự chỉ đạo của chính phủ.
-Còn có sự phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước với công ty cổ phần trong một số lĩnh vực, vay vốn ngân hàng, dự án đầu tư…
- Một số chính sách, trình tự thủ tục cổ phần hoá DNNN vẫn còn rườm rà, phiền nhiễu.
- Do những khó khăn nội tại của công ty.
1. Những hạn chế trong tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam.
_ Tốc độ cổ phần hoá còn chậm cao nhất mới đạt 62,5%.
_ Việc tiến hành cổ phần hoá không đồng đều giữa các ngành và địa phương.
_ Nhiều mục tiêu cổ phần hoá chưa đạt được( mục tiêu huy động vốn, mục tiêu để người lao động có cổ phần, mua cổ phiếu với giá ưu đãi).
_ Tài sản của nhà nước bị thất thoát nhiều trong quá trình cổ phần hoá.
_ Một số DNNN sau khi cổ phần hoá bị biến thành doanh nghiệp tư nhân.
2. Những nguyên nhân của hạn chế.
Nguyên nhân chủ quan:
_ Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thâp.
_ Cơ sở vật chất kỹ thuật được cổ phần hoá còn nghèo nàn lạc hậu, quy mô bé…
Nguyên nhân khách quan.
_ Hệ thống về văn bản pháp luật còn một số vướng mắc, chưa đồng bộ.
_ Quan điểm mớí của nhà nước về DNNN được đưa ra: DNNN là doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn và CTCP là doanh nghiệp mà nhà nước giữ cổ phần chi phối.
_ Chế độ và chính sách đối với DNNN đã cổ phần hoá
Chương III Những giảI pháp đẩy nhanh quá trình
cổ phần hoá
I. Mục tiêu và kế hoạch cổ phần hoá trong thời gian tới.
1. Định hướng cổ phần hoá DNNN từ nay đến năm 2010.
1.1 Tính bức xúc phải đẩy mạnh hơn nữa CPH DNNN
Trong thời gian vừa qua, thành phần kinh tế Nhà nước đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước. Song hiện nay, khu vực này bộc lộ rất nhiều bất cập, những dấu hiệu chưa tốt. Nhìn chung, trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, kết quả sn kinh doanh chưa tương xứng với nguồn lực đã có và sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, nợ không có khả năng thanh toán tăng lên, lao động thiếu việc làm và dôi dư còn lớn. Do đó để vượt qua thách thức, sớm đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” cần phải đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, thể chế xã hội tức là phải đẩy mạnh đổi mới phương thức tạo ra nội dung vật chất của nền sản xuất theo hướng hiện đại. Yêu cầu này đòi hỏi trước hết là phải nâng cao mức huy động đầu tư trong nước và nước ngoài. Muốn vậy, phải đa dạng hoá các hình thức DN cần thiết và cơ bản của nền kinh tế thị trường, trong đó phát triển CTCP, đẩy mạnh CPH DNNN là giải pháp chính và cơ bản mà Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh.
1.2 Quan điểm
Căn cứ vào lý luận CPH, CPH DNNN, qua kinh nghiệm CPH DNNN của các nước và thực tiễn CPH ở Việt Nam và mục tiêu định hướng XHCN mà nước ta lựa chọn, trong quá trình tiến hành CPH DNNN cần quán triệt các quan điểm cơ bản có tính nguyên tắc sau:
Một là, Xuất phát từ đường lối chung là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN và xuất phát từ thực trạng của các DNNN. Đảng và Chính phủ ta coi CPH là một trong những giải pháp cơ bản, là khâu đột phá để tiếp tục cải cách khu vực kinh tế Nhà nước đồng thời đảm bảo tăng cường vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Hai là, cùng với tự do hoá, thương mại và luật pháp hoá; CPH các DNNN phải nâng cao cho được hiệu quả sản xuất kinh doanh làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của các DNNN và nền tài chính quốc gia.
Ba là, phải có chính sách thoả đáng với DN và người lao động, tạo điều kiện cho họ thích nghi với mội trường mới, nâng cao vai trò của họ để phát triển DN. Nhà nước bảo vệ người lao động chủ yếu thông qua luật pháp và chế độ về ba mặt chủ yếu:
Bốn là, CPH DNNN ở nước ta là khó khăn, phức tạp, lâu dài nên để thúc đẩy hơn nữa tiến trình CPH cần phải có sự thống nhất về quan điểm, cách làm từ trên xuống dưới, chỉ đạo chặt chẽ, kiên trì vận động thuyết phục và phải đề cao tính sáng tạo mới có thể thành công được.
2. Định hướng và mục tiêu thúc đẩy CPH DNNN đến 2010.
2.1 Định hướng CPH DNNN đến 2010
Như đã trình bày ở chương I, trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN, kinh tế Nhà nước luôn phải dữ vai trò chủ đạo. Khu vực DNNN ở nước ta, với tư cách là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của kinh tế Nhà nước, có vai trò rất quan trọng và luôn được Nhà nước quan tâm, dành cho nhiều ưu đãi. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Trong 5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả của các DNNN hiện có, đồng thời phải thêm các DN mà Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Đổi mới có chế quản lý, phân biệt quyền sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, chuyển các DNNN kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty TNHH hoặc CTCP. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật; xoá bỏ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện tốt chủ trương CPH những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ưu tiên cho người lao động được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài”. Qua đây một lần nữa, khẳng định đướng lối đúng đắn nhạy bén của Đảng và Nhà nước trong vấn đề giữ vững vai trò đầu tàu lãnh đạo của khu vực kinh tế Nhà nước đảm bảo định hướng XHCN.
2.2. Mục tiêu thúc đẩy CPH DNNN đến năm 2010.
Thực tiễn cho thấy gần 15 năm thực hiện CPH DNNN kết quả đạt được còn rất hạn chế, tiến trình CPH còn rất chậm chạp. Do vậy, đến năm 2010 chúng ta phải đẩy mạnh CPH nhằm mục tiêu: “tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều hình thức sở hữu để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và huy động thêm vốn của xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả của DN trong cơ chế thị trường; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với DN; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, DN và người lao động.
II. Các giải pháp thúc đẩy CPH DNNN.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, thuận lợi, khó khăn, nguyên nhân trong quá trình CPH DNNN thời gian qua, những kinh nghiệm và quan niệm mang tính chủ đạo. Một số giải pháp cơ bản đưa ra nhằm thúc đẩy tiến trình CPH DNNN bao gồm:
1. Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, cốt tạo ra vật chất cho sự tăng cường xã hội hoá sản xuất.
Đẩy mạnh CNH, HĐH là đẩy mạnh tính chất xã hội của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cho loại hình DN mang tính xã hội hoá cao như CTCP ra đời và phát triển. Mặt khác chỉ có CNH, HĐH thì mới đảm bảo nâng cao đời sống dân cư, tăng thu nhập tạo đầu mối của tăng tích luỹ xã hội. Đó là điều kiện tiến quyết để việc thu hút vốn xã hội tăng lên thông qua bán cổ phiếu và cũng chính CNH, HĐH mới trang bị thiết bị, kỹ thuật công nghệ hiện đại cho các DN giúp thu hút các cá nhân đầu tư, tạo thuận lợi cho việc bán cổ phiếu của các DNNN. Chính hiệu quả hoạt động của các CTCP trở lại thúc đẩy quá trình CNH, HĐH. Tóm lại CNH, CPH có mối quan hệ nhân quả cái này là điều kiện cho sự phát triển của cái kia và ngược lại.
2. Phát triển, hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về vai trò của DNNN và kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam cần tiến hành các bước sau:
Một là, phát triển các thành phần kinh tế. Cùng với việc đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu qủa hoạt động của DNNN, xây dựng hợp tác xã kiểu mới, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể phát triển; khuyến khích các hình thức liên kết, liên doan với Nhà nước; Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ; tạo điều kiện hỗ trợ, cung cấp tri thức, kinh nghiệm, kỹ thuật, giải quyết thị trường… để các thành phần kinh tế khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước và thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài cùng tham gia vào các CTCP đước CPH từ DNNN.
Hai là, tạo lập đồng bộ các loại thị trường. Cùng với việc phát triển mạnh thị trường tư liệu sản xuất, thị trường hàng tiêu dùng cần coi trong việc phát triển mạnh thị trường các loại dịch vụ cho sản xuất; thị trường công nghệ, tư vấn pháp lý, tư vấn tiếp thị, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm… đặc biệt là phát triển thị trường chứng khoán.
Ba là, hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô.
Bốn là, điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường đồng thời phải hướng dẫn, kiểm tra nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm túc các luật đã ban hành.
3. Khẩn trương sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho CPH DNNN.
Một là, cần nới rộng tỷ lệ mua cổ phần đối với người nước ngoài và tổ chức nước ngoài đã đăng ký thường trú ở Việt Nam và có thể bãi bỏ hoặc mở rộng các quy định về hạn chế mua cổ phiếu của giám đốc và cán bộ quản lý DN để họ tích cực tham gia vận động, thực hiện CPH.
Hai là, không khống chế pháp nhân, cá nhân mua cổ phiếu ở loại DN mà Nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt. Trong trường hợp người lao động trong DN không có khả năng mua hết tổng số phiếu bán ra; không nên khống chế mức mua cổ phiếu lần đầu của các cá nhân, pháp nhân ngoài DN để huy động vốn thêm ngoài xã hội, góp phần rút ngắn thời gian CPH.
Ba là, quy định mức khởi điểm tối thiểu được mua cổ phiếu ưu đãi để khuyến khích, thu hút và tạo điều kiện cho người lao động trẻ đặc biệt người đã qua đào tạo nhất là người đã qua đào tạo được hưởng chế độ ưu đãi.
Bốn là, mở rộng hình thức CPH.
Năm là, cụ thể hoá một bước các luật pháp, chính sách về CPH bằng các văn bản mang tính đồng bộ, thống nhất; tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh trong quá trình CPH, nhằm góp phần đẩy nhanh CPH DNNN.
Sáu là, để có căn cứ pháp lý cho việc CPH DNNN trên diện rộng, Chính phủ cần xúc tiến nghiên cứu trình Quốc hội ban hành một đạo luật về CPH DNNN.
4. Đổi mới các biện pháp mang tính kỹ thuật và kinh tế
Để rút ngắn thời gian CPH cần đổi mới hai vấn đề liên quan trực tiếp, đó là quy trình CPH và phương pháp xác định giá trị DN.
- Đối với quy trình CPH:
Như đã biết, quy trình CPH gồm 4 bước: chuẩn bị CPH, xây dựng phương án CPH, phê duyệt và triển khai thực hiện phương án CPH, ra mắt CTCP và đăng ký kinh doanh. Thì trong quá trình thực hiện chúng ta không nhất thiết phải áp dụng đầy đủ lần lượt các bước đi nêu trên đối với tất cả các DNNN CPH. Chỉ những DN mà._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC469.doc