Báo cáo Thực tập tại Xí nghiệp xây dựng công trình - Tổng Công ty Xây dựng đường thuỷ

Báo cáo thực tập tổng hợp Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân hàng năm chiếm tới 30% vốn đầu tư của Nhà nước. Sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản là những công trình có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài nên có ý nghĩa quan trọng về kinh tế. Bên cạnh đó xây dựng cơ bản còn thể hiện ý thức thẩm mỹ phong cách kiến trúc nên có ý nghĩa quan trọng về văn hoá xã hội. Trong bối cảnh nước ta hiện nay đang chuyển dần từ nền kinh tế tập tr

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Xí nghiệp xây dựng công trình - Tổng Công ty Xây dựng đường thuỷ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng trên thực tế đang diễn ra rất nhanh ở khắp mọi nơi, làm thay đổi bộ mặt đất nước từng ngày. Điều đó không chỉ có ý nghĩa là khối lượng công việc của ngành xây dựng cơ bản tăng lên mà song song với nó là vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng gia tăng. Vấn đề đặt ra là làm sao để quản lý vốn một cách có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát vốn. Trong điều kiện sản xuất kinh doanh xây lắp phải trải qua nhiều khâu ( thiết kế,lập dự toán,thi công,nghiệm thu, thanh toán ... ). Chính vì thế công tác tổ chức hạch toán kế toán tại các đơn vị xây lắp có ý nghĩa rất quan trọng. Với Nhà nước, công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm ở đơn vị xây lắp là cơ sở để Nhà nước kiểm soát vốn đầu tư và thu thuế. Nhận thức được tầm quan trọng trên, tôi đã đến thực tập tại Xí nghiệp xây dựng công trình – Tổng Công ty xây dựng đường thuỷ và tìm hiểu về công tác tổ chức hạch toán kế toán tại đơn vị này. i. Lịch sử phát triển của Xí nghiệp xây dựng công trình – tổng Công ty xây dựng đường thuỷ Xí nghiệp xây dựng công trình được thành lập bằng quyết định số 2538 / QĐ / TCCBLĐ ngày 21 / 9 / 1996 của Bộ GTVT về việc công nhận lại Xí nghiệp xây dựng công trình về trực thuộc Công ty tư vấn đầu tư đường thuỷ. Đến 07 / 0 1 / 2000 tách chuyển về trực thuộc Công ty xây dựng công trình đường thuỷ II theo quyết định số 16 - 2000 QĐ / TCLĐ của Tổng công ty xây dựng đường thuỷ. Tháng 6 năm 2001, thực hiện quyết định số 326 /QĐ/ TCLĐ ngày 26/6/2001 của chủ tịch hội đồng quản trị Tổng công ty Xây dựng đường thuỷ về việc tách chuyển nguyên trạng Xí nghiệp Xây dựng công trình từ công ty công trình Đường thuỷ II về trực thuộc Tổng công ty Xây dựng Đường thuỷ, Xí nghiệp xây dựng công trình đang từng bước ổn định tổ chức, mở rộng sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp xây dựng công trình được nhà nước cho phép kinh doanh những ngành nghề chủ yếu: + Xây dựng các công trình giao thông cầu đường bộ, chuyên ngành đường thuỷ, thuỷ lợi. + Xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp. + San lấp mặt bằng + Xây kè, nạo vét kênh mương + Kinh doanh vật liệu xây dựng, cho thuê máy móc thiết bị thi công Trong thời gian đầu thành lập: Trong bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện từng bước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp được tiến hành song song với nhiệm vụ thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước. Vì vậy, doanh nghiệp gặp không ít những khó khăn trong quản lý và hoạt động kinh doanh như: + Là cơ sở hạch toán phụ thuộc, tư cách pháp nhân không đầy đủ cho nên không chủ động trong việc mở rộng thị trường tìm việc + Chưa có mô hình quản lý tổ chức. + Cơ sở vật chất kỹ thuật của Xí nghiệp còn nghèo nàn không đồng bộ cho SXXD ở quy mô lớn, cụ thể là: máy móc thiết bị phục vụ cho SXKD hầu hết là cũ nát, thiếu những máy móc thiết bị chủ yếu phục vụ cho công tác xây lắp. + Đội ngũ lao động thiếu về số lượng , chưa đủ ngành nghề cần thiết cho việc thực hiện mọi loại công tác. + Vốn sản xuất kinh doanh thiếu so với yêu cầu của thi công xây lắp các công trình có quy mô lớn, đặc biệt là thiếu vốn lưu động, + Chưa có trụ sở làm việc chính thức. + Các công trình của Xí nghiệp thi công có giá trị hợp đồng thấp, tiến độ thi công ngắn ngày cho nên hầu như Xí nghiệp không có các công trình gối đầu. Mặc dù gặp những khó khăn như vậy nhưng được sự quan tâm giúp đỡ của Tổng công ty cùng với sự cố gắng của ban Giám đốc và tập thể công nhân viên toàn Xí nghiệp, Xí nghiệp đã tích cực trong công tác kiện toàn tổ chức bộ máy sản xuất, tìm kiếm các hợp đồng nhận thầu thi công các công trình, tổ chức sắp xếp lại lao động, cải tạo chỗ làm việc cho cán bộ công nhân viên. Nhưng với một Xí nghiệp gặp không ít những khó khăn như Xí nghiệp xây dựng công trình thì đó là một cố gắng lớn của ban Giám đốc và toàn thể CBCNV trong toàn Xí nghiệp. Trong những năm qua Xí nghiệp đã thi công nhiều công trình, hạng mục công trình ở các tỉnh trên cả nước. Sản lượng xây lắp thực hiện năm 1999: 3.900.000.000đ Sản lượng xây lắp thực hiện năm 2000: 4.500.000.000đ Sản lượng xây lắp thực hiện năm 2001 (ước tính): 9.540.000.000đ Dự kiến kế hoạch sản lượng thực hiện năm 2002: 15.000.000.000đ Bước sang năm 2001, hoà cùng với nhịp độ sôi động của công cuộc đổi mới công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Xí nghiệp xây dựng công trình – Tổng công ty xây dựng đường thuỷ đã đưa ra những phương hướng hoạt động cho mình để xây dựng và cải tạo mô hình tổ chức quản lý , SXKD cho phù hợp với tình hình kinh doanh mới trong ngành xây dựng. Chúng ta tin tưởng rằng Xí nghiệp xây dựng công trình – Tổng công ty xây dựng Đường thuỷ sẽ từng bước đẩy lùi khó khăn để đứng vững trong thử thách của cơ chế thị trường. II- Đặc điểm tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp xây dựng công trình. ( có sơ đồ ) 1. Tổ chức bộ máy quản lý Xí nghiệp xây dựng công trình – Tổng Công ty Xây dựng đường thuỷ với ngành nghề chủ yếu là nhận thầu thi công các công trình giao thông cầu đường bộ, chuyên ngành đường thuỷ, các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp, thuỷ lợi . . . Khi mới thành lập Xí nghiệp xây dựng công trình chỉ có 12 người đến nay đã có 60 cán bộ công nhân viên. Trong số này có những cán bộ công nhân hợp đồng dài hạn, có những cán bộ công nhân hợp đồng ngắn hạn. Đội đã bố trí cán bộ công nhân vào các bộ phận phù hợp với trình độ khả năng chuyên môn của từng người và theo nhu cầu công việc trong hoạt động quản lý và SXKD. Mô hình tổ chức quản lý của Xí nghiệp được chia làm 2 bộ phận chính: Bộ máy quản lý và bộ phận sản xuất. - Bộ máy quản lý: Gồm 1 Giám đốc và 2 Phó giám đốc và các phòng nghiệp vụ: phòng Nhân chính, phòng Kinh doanh, phòng Tài chính kế toán thực hiện các chức năng: + Chỉ đạo phối hợp các hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp về thi công xây lắp. + Thiết lập các mối quan hệ đối ngoại, liên kết kinh tế với các cơ quan và các tổ chức kinh doanh khác. + Xây dựng chiến lược phát triển Xí nghiệp, lập kế hoạch sản xuất kỹ thuật tài chính hàng năm. + Xác dịnh và tính toán được kết quả cuối cùng trong hoạt động SXKD của Xí nghiệp. - Bộ phận sản xuất gồm: các đội thi công, ( Đội XD 10, Đội XD 12, Đội thi công cơ giới ) được tổ chức theo phương thức: + Thực hiện hạch toán nội bộ. + Điều phối các hoạt động SXKD của Đội theo sự phân công của Xí nghiệp. + Trong một số mặt hoạt động các Đội sẽ được uỷ quyền thay mặt Xí nghiệp giao dịch trực tiếp với khách hàng. Trong hoạt động SXKD, các đội có nhiệm vụ thực hiện các công tác trọng tâm do Xí nghiệp giao thông qua hợp đồng kinh tế giao khoán nội bộ. Mặc dù các đội là độc lập nhau nhưng các đội đều có nghĩa vụ coi trọng sự liên kết liên minh kinh tế trong hoạt động sản xuất trong nội bộ Xí nghiệp xây dựng công trình, tạo điều kiện thuận lợi cho nhau hoàn thành nhiệm vụ SXKD. Sau khi đã làm đầy đủ các thủ tục, hồ sơ xây dựng, hợp đồng giao thầu thì Xí nghiệp và các Đội phụ thuộc ký hợp đồng giao nhận khoán. Như vậy, một điều nhấn mạnh trong cơ chế quản lý của Xí nghiệp xây dựng công trình là quy chế khoán gọn công trình. Thực chất của hình thức này là : khoán cho Đội phụ thuộc toàn bộ chi phí công trình, hạng mục công trình, Xí nghiệp chỉ giữ lại một phần chi phí quản lý, phần nộp ngân sách. ở đây khoán gọn không có nghĩa là khoán trắng, ở Xí nghiệp xây dựng công trình việc xác định cơ chế khoán phải dựa trên cơ sở phân định rõ trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra và xác định kịp thời những tiêu cực trong quản lý vật tư, thiết bị của Đội nhận khoán và phải có trách nhiệm giám sát tình hình thi công để đảm bảo chất lượng và tiến độ công trình. Sơ đồ tổ chức của Xí nghiệp xây dựng công trình Giám đốc xí nghiệp Phó giám đốc Xí nghiệp Phó Giám đốc xí nghiệp Phòng Nhân chính Phòng tài chính kế toán Phòng kinh doanh Đội thi công cơ giới Đội xây dựng số 10 Đội xây dựng số 12 2. Tổ chức bộ máy kế toán ở Xí nghiệp xây dựng công trình – Tổng Công ty XD đường thuỷ . Do đặc điểm tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản lý mà tổ chức bộ máy kế toán của Xí nghiệp gồm: - Trưởng phòng TCKT ( kế toán trưởng ) là người thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng giám sát tài chính, các hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Chịu trách nhiệm phụ trách chung công tác hạch toán của Xí nghiệp. - Một kế toán chung theo dõi các khoản chi phí phát sinh trong phạm vi Xí nghiệp phụ trách TK 642. - Một kế toán thanh toán: làm nhiệm vụ thanh toán với các đội trực thuộc, phụ trách các TK 111, 112, 141,136, 336, 131 . . . - Một thủ quỹ làm nhiệm vụ thu chi tiền mặt - Kế toán dưới các đội phụ thuộc được hạch toán tương đối hoàn chỉnh, tập hợp các chi phí sản xuất và tính giá thành diễn ra ở các đội. Bộ phận kế toán dưới Đội gồm một nhân viên kế toán vật liệu, một nhân viên phụ trách TSCĐ, một nhân viên kế toán tiền lương và chi phí chung. Kế toán trưởng Kế toán thanh toán Thủ quỹ Kế toán Tổng hợp Kế toán đội 10 Kế toán đội 12 Kế toán đội thi công cơ giới Bộ máy kế toán gọn nhẹ. Hình thức khoán gọn phù hợp với mô hình tổ chức quản lý của Xí nghiệp tạo điều kiện đẩy nhanh tiến dộ thi công công trình, tăng năng suất lao dộng tiết kiệm vật tư, tiền vốn, hạ giá thành sản phẩm. Phương thức khoán sản phẩm trong xây dựng cơ bản tạo điều kiện gắn liền trách nhiệm vật chất của người lao dộng với chất lượng và tiến độ thi công, qiải quyết côngăn việc làm cho người lao động. Mặt khác xác định trách nhiệm vật chất đối với từng tổ đội và từng công nhân trên cơ sở đó phát huy tính sáng tạo và khai thác tiềm năng sẵn có của đơn vị về mọi mặt. Hình thức kế toán áp dụng chung cho toàn Xí nghiệp là chứng từ ghi sổ. Kết cấu và quy trình ghi sổ: Báo cáo Sổ cái Bảng CĐ phát sinh Sổ đăng ký CT - GS Sổ chứng từ chi tiết Hạch toán chi tiết Chứng từ kế toán Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng --------- Đối chiếu kiểm tra Toàn Xí nghiệp thống nhất sử dụng và vận dụng hệ thống TK kế toán theo quyết định số 1141 TC/ QĐ/ CĐKT của Bộ tài chính. Tuỳ theo tính chất SXKD và yêu cầu hạch toán Xí nghiệp XD công trình sẽ quy định cụ thể cho các Đội xây dựng. - Qua tìm hiểu thực tế về công tác quản lý, công tác kế toán nói chung và công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành nói riêng tại Xí nghiệp xây dựng công trình tôi thấy: Bộ máy kế toán tương đối gọn nhẹ, các phòng ban chức năng phục vụ có hiệu quả cho lãnh đạo công ty trong việc giám sát sản xuất thi công, quản lý kinh tế, công tác tổ chức sản xuất được tiến hành hợp lý khoa học, phù hợp với điều kiện hiện nay. * Về sổ sách kế toán: Toàn Xí nghiệp tiến hành mở sổ sách theo hình thức chứng từ ghi sổ, sổ đăng ký chứng từ ghi sổ, sổ chi tiết các tài khoản, sổ cái. Trong quá trình theo dõi, các Đội trực thuộc cần mở thêm sổ sách gì phải báo cáo về Ban TCKT của Xí nghiệp để xem xét. Hệ thống sổ sách ở công ty xây dựng công trình đường thuỷ là tương đối đầy đủ, phù hợp với chế độ. Sổ chi tiết tài khoản được tổ chức tương đối đủ về số lượng. Kết cấu sổ hợp lý phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh donah của xí nghiệp đảm bảo có thể theo dõi một chác chi tiết tất cả các chi phí phát sinh trong sản xuất thi công. * Về hệ thống chứng từ: Hệ thống chứng từ trong công tác xây lắp là tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh. Xí nghiệp có thêm một số chứng từ phục vụ cho sản xuất của đội, phù hợp với tổ chức bộ máy quản lý, phù hợp với bộ máy kế toán như hợp đồng giao khoán nội bộ... Điều này rất hợp lý. * Về luân chuyển chứng từ: Chứng từ luân chuyển theo tuần tự, đúng chế độ vừa thuận tiện cho việc ghi chép của nhân viên kế toán, vừa thuận lợi cho việc kiểm tra của kế toán trưởng tuy nhiên việc luân chuyển chứng từ như vậy sẽ làm cho công việc kế toán không trải đều trong tháng hay dồn vào cuối tháng và việc theo dõi không được thường xuyên. Công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nhìn chung là tốt tuy vậy cũng vẫn còn những hạn chế nhất định. * Về các báo cáo kế toán: + Tại Phòng TCKT của Xí nghiệp có báo cáo kế toán định kỳ theo mẫu biều và thời gian do Nhà nước quy định. + Tại các Đội xây dựng: Để Xí nghiệp nắm chắc được tình hình sản xuất, sử dụng vật tư, tiền vốn của từng đội phụ thuộc, Xí nghiệp yêu cầu các Đội gửi về Xí nghiệp các báo cáo sau: báo cáo về khối lượng xây lắp dở dang, báo cáo về doanh thu nội bộ, báo cáo chi phí sản xuất, báo cáo về việc trích lập và sử dụng các quỹ . . . * Các phần hành kế toán: Tổ chức hạch toán nguyên vật liệu: Kế toán đội tập hợp chi phí Nguyên vật liệu mà các Đội thuộc Xí ngiệp sử dựng trong thi công gồm nhiều chủng loại với yêu cầu và chất lượng khác nhau. VD: cát , đá, xi măng, gạch đất . . . Chi phí vật liệu trong xây dựng chiếm một tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm xây lắp nên việc quản lý và sử dụng vật liệu tiết kiệm hay lãng phí có ảnh hưởng lớn đến sự biến động của giá thành sản phẩm và ảnh hưởng đến kết quả của SXKD của Đội. Do đặc điểm của vật liệu xây dựng mà có những vật tư không thể nhật kho được phải đổ ngoài mặt bằng công trường, có những vật tư phải nhập kho. Đội có các kho ở trụ sở văn phòng Đội và kho ở các công trình Đội đảm nhận thi công. Trước tiên bộ phận kế hoạch căn cứ vào các dự toán, các phương án thi công của các công trình mà Xí nghiệp đã được giao và tiến độ thi công của các công trình đẻ lập nên kế hoạch cung ứng vật tư đồng thời giao nhiệm vụ sản xuất thi công cho các công trình và các Đội sản xuất. Các Đội công trình căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất thi công để tính toán lựng vật tư cần phục vụ cho sản xuất và khi có nhu cầu vật tư như: xi măng, thep, cát . . .thì lập yêu cầu cung ứng vật tư có xác nhận của Đội trưởng hoặc chủ nhiệm công trình để gửi lên bộ phận kế hoạch của Xí nghiệp xem xét, xác nhận rồi làm thủ tục xuất kho vật tư hoặc cử cán bộ cúng ứng vật tư đi mua và vận chuyển thẳng đến công trường. Khi vật liệu về nhật kho kế toán định khoản ngay trên các phiếu nhập. + Phương pháp hạch toán chi tiết: Phương pháp thẻ song song + Loại sổ: . Thẻ kho: Thủ kho ghi . Sổ chi tiết + Quy trình hạch toán chi tiết Thẻ kho Phiếu nhập Phiếu xuất Sổ chi tiết song song Bảng tổng hợp XNT Tổ chức hạch toán tổng hợp: Quy trình hạch toán: Chứng từ bảng kê Lập chứng từ ghi sổ Đăng ký chứng từ ghi sổ hạch toán chi tiết Sổ cái (TK153) Báo cáo Bảng cân đối phát sinh Tổng hợp, chi tiết NVL 2. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp xây dựng công trình: Xuất phát từ đặc điểm sản xuát của ngành xây dựng để đáp ứng nhu cầu của công tác quản lý, công tác kế toán. đối tượng tập hợp chi phí sản xuất của Xí nghiệp được xác định là từng công trình, hạng mục công trình. Mỗi công trình, hạng mục công trình từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành bàn giao đều được mở riêng một sổ chi tiết chi phí để tập hợp chi phí sản xuất thực tế phát sinh cho công trình, hạng mục công trình đó. Các sổ chi tiết này được tập hợp cho từng tháng và được theo dõi chi tiết theo từng yêu tố chi phí: -Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. -Chi phí nhân công trực tiếp - Chi phí sản xuất chung Trong đó chi phí sản xuất chung bao gồm: + Chi phí quản lý Đội SX + Khấu hao máy móc thiết bị dùng cho SX thi công và khấu hao trụ sở làm việc. + Chi phí dịch vụ mua ngoài. + Chi phí bằng tiền khác. Cuối mỗi tháng dựa trên sỏ chi tiết chi phí của tất cả các công trình, kế toán tổng hợp số liệu, lập bảng tổng hợp chi phí sản xuất của từng tháng. Hết 3 tháng từ các bảng tổng hợp chi phí sản xuất làm cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành trong quý và lập báo cáo chi phí sản xuất và giá thành. Quy trình tổ chức hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất: Báo cáo Sổ cái chi phí chúng từ ghi sổ Chứng từ chi phí Đăng ký chứng từ ghi sổ Hạch toán chi tiết chi phí Thẻ tính giá thành Tổng hợp chi tiết chi phí Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân hàng năm chiếm tới 30% vốn đầu tư của Nhà nước. Sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản là những công trình có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài nên có ý nghĩa quan trọng về kinh tế. Bên cạnh đó xây dựng cơ bản còn thể hiện ý thức thẩm mỹ phong cách kiến trúc nên có ý nghĩa quan trọng về văn hoá xã hội. Trong bối cảnh nước ta hiện nay đang chuyển dần từ nền kinh tế tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng trên thực tế đang diễn ra rất nhanh ở khắp mọi nơi, làm thay đổi bộ mặt đất nước từng ngày. Điều đó không chỉ có ý nghĩa là khối lượng công việc của ngành xây dựng cơ bản tăng lên mà song song với nó là vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng gia tăng. Vấn đề đặt ra là làm sao để quản lý vốn một cách có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát vốn. Trong điều kiện sản xuất kinh doanh xây lắp phải trải qua nhiều khâu ( thiết kế,lập dự toán,thi công,nghiệm thu, thanh toán ... ). Chính vì thế hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành vốn đã là một phần cơ bản của công tác hạch toán kế toán lại càng có ý nghĩa quan trọng đối với những đơn vị xây lắp nói riêng và xã hội nói chung. Với các Xí nghiệp việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành là cơ sở giám sát các hoạt động từ đó khắc phục những tồn tại,phát huy tiềm năng mới đảm bảo cho Xí nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế hạch toán kinh daonh của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Với Nhà nước, công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm ở đơn vị xây lắp là cơ sở để Nhà nước kiểm soát vốn đầu tư và thu thuế. Nhận thức được tầm quan trọng trên, tôi đã đến thực tập tại Xí nghiệp xây dựng công trình - Công ty xây dựng công trình đường thuỷ II và mạnh dạn chọn đề tài “ Công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành ở Xí nghiệp xây dựng công trình “. Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân hàng năm chiếm tới 30% vốn đầu tư của Nhà nước. Sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản là những công trình có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài nên có ý nghĩa quan trọng về kinh tế. Bên cạnh đó xây dựng cơ bản còn thể hiện ý thức thẩm mỹ phong cách kiến trúc nên có ý nghĩa quan trọng về văn hoá xã hội. Trong bối cảnh nước ta hiện nay đang chuyển dần từ nền kinh tế tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng trên thực tế đang diễn ra rất nhanh ở khắp mọi nơi, làm thay đổi bộ mặt đất nước từng ngày. Điều đó không chỉ có ý nghĩa là khối lượng công việc của ngành xây dựng cơ bản tăng lên mà song song với nó là vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng gia tăng. Vấn đề đặt ra là làm sao để quản lý vốn một cách có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát vốn. Trong điều kiện sản xuất kinh doanh xây lắp phải trải qua nhiều khâu ( thiết kế,lập dự toán,thi công,nghiệm thu, thanh toán ... ). Chính vì thế hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành vốn đã là một phần cơ bản của công tác hạch toán kế toán lại càng có ý nghĩa quan trọng đối với những đơn vị xây lắp nói riêng và xã hội nói chung. Với các Xí nghiệp việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành là cơ sở giám sát các hoạt động từ đó khắc phục những tồn tại,phát huy tiềm năng mới đảm bảo cho Xí nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế hạch toán kinh daonh của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Với Nhà nước, công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm ở đơn vị xây lắp là cơ sở để Nhà nước kiểm soát vốn đầu tư và thu thuế. Nhận thức được tầm quan trọng trên, tôi đã đến thực tập tại Xí nghiệp xây dựng công trình - Công ty xây dựng công trình đường thuỷ II và mạnh dạn chọn đề tài “ Công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành ở Xí nghiệp xây dựng công trình “. Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân hàng năm chiếm tới 30% vốn đầu tư của Nhà nước. Sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản là những công trình có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài nên có ý nghĩa quan trọng về kinh tế. Bên cạnh đó xây dựng cơ bản còn thể hiện ý thức thẩm mỹ phong cách kiến trúc nên có ý nghĩa quan trọng về văn hoá xã hội. Trong bối cảnh nước ta hiện nay đang chuyển dần từ nền kinh tế tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng trên thực tế đang diễn ra rất nhanh ở khắp mọi nơi, làm thay đổi bộ mặt đất nước từng ngày. Điều đó không chỉ có ý nghĩa là khối lượng công việc của ngành xây dựng cơ bản tăng lên mà song song với nó là vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng gia tăng. Vấn đề đặt ra là làm sao để quản lý vốn một cách có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát vốn. Trong điều kiện sản xuất kinh doanh xây lắp phải trải qua nhiều khâu ( thiết kế,lập dự toán,thi công,nghiệm thu, thanh toán ... ). Chính vì thế hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành vốn đã là một phần cơ bản của công tác hạch toán kế toán lại càng có ý nghĩa quan trọng đối với những đơn vị xây lắp nói riêng và xã hội nói chung. Với các Xí nghiệp việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành là cơ sở giám sát các hoạt động từ đó khắc phục những tồn tại,phát huy tiềm năng mới đảm bảo cho Xí nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế hạch toán kinh daonh của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Với Nhà nước, công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm ở đơn vị xây lắp là cơ sở để Nhà nước kiểm soát vốn đầu tư và thu thuế. Nhận thức được tầm quan trọng trên, tôi đã đến thực tập tại Xí nghiệp xây dựng công trình - Công ty xây dựng công trình đường thuỷ II và mạnh dạn chọn đề tài “ Công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành ở Xí nghiệp xây dựng công trình “. iií Bảng cân đối phát sinh )( Trên đây là hai phần hành kế toán có khối lượng công việc lớn ở Xí nghiệp xây dựng công trình Qua hai tuần đầu tìm hiểu chung tôi thấy phần hành kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành ở Xí nghiệp xây dựng công trình rất quan trọng. Với một khối lượng công việc lớn trong phần hành này đòi hỏi các nhân viên kế toán trong Xí nghiệp phải có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành vốn đã là một phần cơ bản của công tác hạch toán kế toán lại càng có ý nghĩa quan trọng đối với những đơn vị xây lắp nói riêng và xã hội nói chung. Với các Xí nghiệp việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành là cơ sở giám sát các hoạt động từ đó khắc phục những tồn tại,phát huy tiềm năng mới đảm bảo cho Xí nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế hạch toán kinh daonh của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Với Nhà nước, công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm ở đơn vị xây lắp là cơ sở để Nhà nước kiểm soát vốn đầu tư và thu thuế. Chính vì thế tôi dự định chọn đề tài “ Công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành ở Xí nghiệp xây dựng công trình “ làm chuyên đề thực tập cho mình. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC174.doc